Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự được chia thành hai trường hợp. Cụ thể đó là:

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Quy định này vẫn kế thừa Điều 129 BLDS cũ năm 2005 nhưng bổ sung thêm cụm từ “hoặc luật khác có liên quan” để nhằm làm rõ yêu cầu tham chiếu các đạo luật khác khi đánh giá hiệu lực của giao dịch được che giấu bởi giao dịch dân sự khác đã được xác lập một cách giả tạo.

Theo quy định này, có hai giao dịch dân sự được luật định xác lập do giả tạo:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.1. Giao dịch được xác lập nhằm che giấu một giao dịch khác Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Che giấu” hiểu theo nghĩa Tiếng Việt thông thường nghĩa là “Giấu đi, không để lộ cho người khác biết”, trong khoa pháp pháp lý không có khái niệm cụ thể về che giấu, tuy nhiên có thể giểu che giấu là “giấu đi tội lỗi của mình”. Bản thân thuật ngữ che giấu đã cho thấy tính không minh bạch của trường hợp này.

Trong trường hợp này, có sự tồn tại của hai giao dịch song song nhau, trong đó có giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (che giấu, biểu hiện ra bên ngoài bằng hợp đồng).

Ví dụ: Ông A muốn tặng cho con gái út của mình một ngôi nhà nhưng vì lý do tế nhị sợ các con khác biết được có thể gây mẫu thuẫn trong gia đình nên ông A và con gái đã ký kết hợp đồng mua bán nhà với nhau. đây có hai giao dịch song song tôn tài là giao dịch mua bán giữa ông A và con gái, tuy nhiên đó chỉ là giao dịch giả tạo, còn giao dịch thứ hai chính là hợp đồng tặng cho giữa ông A và con gái, đây mới chính là giao dịch thể hiện ý chí đích thực của hai bên.

Khi xác lập giao dịch nhằm che giấu một giao dịch khác, các bên chủ thể đều tự nguyện bày tỏ và thống nhất với nhau về ý chí, nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí bên trong và bên ngoài, các bên xác lập giao dịch nhưng trên thực tế không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên (có thể chỉ vì mục đích riêng hoặc vi phạm pháp luật). Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Theo quy định này, giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch đích thực sẽ luôn luôn vô hiệu, còn giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực (trừ trường hợp cũng vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật). Hơn nữa, không phải bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng đều cho là giao dịch giả tạo mà chỉ những giao dịch mà ý chí giả tạo tồn tại ở các chủ thể (tức là có sự thông đồng trước) khi xác lập giao dịch, thì mới coi là giả tạo. Còn nếu không có sự thông đồng này thì giao dịch đó cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu nhưng không phải là giao dịch giả tạo. Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình và bảo vệ trật tự pháp luật, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định khi tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu thì giao dịch che giấu vẫn có hiệu lực.

Như vậy, để áp dụng được khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 phải đảm bảo các điều kiện sau: Một là, các bên có sự thống nhất về ý chí cũng như hậu quả của hành vi khi xác lập giao dịch; Hai là, sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài khác với mong muốn đích thực bên trong (che giấu). Việc che giấu có thể xuất phát từ nguyên do các bên không hiểu đúng quy định của pháp luật hoặc biết sai nhưng vẫn cố ý thực hiện giao dịch vì những động cơ, lợi ích bất hợp pháp. Dựa trên các điều kiện này chúng ta có thể kết luận giao dịch các bên xác lập bị vô hiệu do giả tạo. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Có thể hiểu, giao dịch giả tạo là giao dịch mà ý chí được biểu đạt ra ngoài khác với ý chí đích thực và có tồn tại sự khác biệt giữa kết quả thực tế đã thực hiện giao dịch so với mục đích của giao dịch dân sự được xác lập. Thực tiễn công tác đã cho thấy, các giao dịch dân sự về vay tài sản phát triển nhưng ngoài việc phải chịu lãi suất cao thì người đi vay thường phải ký kết với người cho vay giao dịch mua bán tài sản (giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc mua bán nhà) với giá chuyển nhượng (mua, bán) thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế. Mục đích của việc ký kết hợp đồng mua bán tài sản là đảm bảo bên vay thực hiện hợp đồng vay. Đây là giao dịch giả tạo mà bên cho vay thường sử dụng khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thanh toán tiền vay gốc và lãi không đúng hạn, thì bên cho vay yêu cầu bên vay phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng tài sản. Thậm chí, bên cho vay còn thực hiện thủ tục sang tên và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản vốn đang thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bên vay.

Như vậy, trong trường hợp này, tồn tại 02 giao dịch, đó là hợp đồng vay tài sản và hợp đồng mua bán tài sản. Thực trạng diễn ra khá phổ biến là, trước khi kiện ra Tòa án, biết bên vay khó có khả năng thanh toán nợ gốc và lãi, nên bên cho vay không kiện vay tài sản. Dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán tài sản, giấy chứng nhận nhà đất đã được sang tên, bên cho vay kiện bên vay yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán tài sản hoặc đòi tài sản là nhà đất. Các Thẩm phán thường gặp khó khăn khi giải quyết các vụ án này bởi không dễ dàng nhận biết giao dịch nào là thật, giao dịch nào là giả, đòi hỏi sự thận trọng, kĩ năng kinh nghiệm chuyên sâu và việc thu thập, đánh giá chứng cứ toàn diện, đầy đủ.

Một số vụ án cụ thể Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Vụ án thứ nhất: Tranh chấp đòi nhà giữa Nguyên đơn là ông C với bị đơn là ông S, bà T. Ông C kiện ông S, bà T yêu cầu trả nhà đất số 10, KM, HN với lý do: Năm 2019, ông C mua nhà đất của vợ chồng ông S, bà T với giá thực tế là 02 tỷ đồng nhưng giá ghi tại hợp đồng có công chứng là 300 triệu đồng. Ông C trình bày ông giao đủ tiền cho vợ chồng bà T tại Ngân hàng nông nghiệp và camera của Ngân hàng có ghi lại việc ông giao tiền. Ông đồng ý cho vợ chồng bà T ở lại nhà đất nêu trên cho đến khi ông hoàn tất thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Ngày 25/9/2019, ông C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà nên ông yêu cầu vợ chồng bà T bàn giao nhà nhưng vợ chồng bà T không thực hiện. Bà T không chấp nhận yêu cầu đòi nhà của ông C mà cho rằng việc vợ chồng bà ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất là để làm tin cho việc vay tiền. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, bà có nhận tiền của ông C tại Ngân hàng Nông nghiệp (bà không đếm nhưng cho rằng chỉ nhận 300 triệu đồng) và bà có giao giấy chứng nhận nhà đất cho ông C.

Vụ án thứ hai: Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa nguyên đơn là chị H với bị đơn là anh Đ. Năm 2019, hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng công chứng số 3 tỉnh HY với nội dung: Vợ chồng anh Đ chuyển nhượng 391m2 đất, tại, thị trấn N, huyện V, H Y với giá thống nhất ghi tại hợp đồng là 600 triệu đồng. Cùng ngày ký hợp đồng, chị H giao cho anh Đ 200 triệu đồng (không lập giấy biên nhận) tại Văn phòng công chứng. Ngày 06/12/2019, chị H thanh toán tiếp cho anh Đ400 triệu đồng. Ngoài ra, các tài sản trên đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nên hai bên thỏa thuận giá các tài sản gồm nhà ngói 05 gian, một dãy phòng trọ và các công trình phụ là 600 triệu đồng. Ngày 15/12/2019, chị H giao đủ 600 triệu đồng nhưng sau đó anh Đ không giao nhà đất cho chị H. Chị H khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Đ phải trả nhà đất cho chị, vì chị đã thanh toán đủ cho anh Đ 1,2 tỷ đồng. Anh Đ không chấp nhận yêu cầu của chị H mà cho rằng anh Đ vay 600 triệu đồng với lãi suất 3.500 đồng/triệu/ngày của chị H. Chị H yêu cầu anh phải thế chấp quyền sử dụng đất của gia đình anh Đ cho chị dưới hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Sau khi hợp đồng, ngày 06/12/2019 chị H cho anh Đ vay 400 triệu đồng. Ngày 15/12/2019, đưa tiếp 200 triệu đồng nhưng chị H cắt lãi luôn. Chị H bảo anh gộp hai lần giao tiền thành giấy biên nhận ngày 15/12/2019 ghi thành 600 triệu và sẽ xé giấy biên nhận của ngày 06/12/2019 cho anh. Thực tế anh Đ nhận tổng số tiền của chị H là 536 triệu đồng, anh không bán nhà đất. Anh đã trả lãi cho chị H là 252 triệu đồng (không có giấy biên nhận) nhưng có người làm chứng là anh P và anh N và khi trả lãi chị H đưa cho anh tờ lịch chị H tính lãi để anh đối chiếu. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Vụ án thứ ba: Tranh chấp kiện đòi tài sản giữa nguyên đơn là anh T và anh B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông L (bố của anh B). Vợ chồng ông L là chủ sở hữu hợp pháp nhà số 03B phường 1, quận G, HN. Anh B cần tiền kinh doanh nên ngày 21/4/2020, vợ chồng ông L ký hợp đồng Ủy quyền tại Văn phòng công chứng số 02 HN với nội dung: Anh B được quyền thay mặt vợ chồng ông L thực hiện việc quản lý, khai thác, sử dụng và chuyển nhượng, định đoạt đối với toàn bộ căn hộ số 03B. Ngày 09/4/2021, anh B ký hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất ở nêu trên cho anh T tại Văn phòng công chứng số 2 với giá 600 triệu đồng. Ngày 22/7/2021, anh T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác đối với nhà số 03B. Anh T khởi kiện yêu cầu anh B và gia đình ông L phải trả nhà đất và bồi thường thiệt hại từ việc không bàn giao nhà cho anh với lý do anh đã trả tiền mua nhà số 03B với giá thực tế là 5,9 tỷ đồng. Ông L và anh B không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T mà cho rằng: Vợ chồng ông L ký hợp đồng Ủy quyền với mục đích anh B vay tiền Ngân hàng để kinh doanh nhưng anh B vay tín dụng đen, lãi suất cao nên đã lừa vợ chồng ông L ký giấy Ủy quyền vay tiền Ngân hàng để trả nợ cho anh T và một số người bạn của anh T là anh P, anh K, chị M. Trước đó, anh B vay anh P, anh K 500 triệu đồng với lãi suất cao. Khi được anh giới thiệu đến Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương vay 1,5 tỷ đồng (có thế chấp căn hộ 03B) thì anh B chỉ thực nhận 600 triệu đồng còn trừ vào tiền vay gốc và lãi của anh P, anh K. Do áp lực phải trả tiền vay cho Ngân hàng, anh B tiếp tục thông qua anh P, anh K, chị M và anh T để vay 2 tỷ đồng, lãi suất 5.000 đồng/triệu/ngày, có thời điểm lên 7.000 đồng/triệu/ngày và 10.000 đồng/triệu/ngày. Sau 06 tháng chịu lãi cao, anh P, anh K, chị M và anh T ép anh phải bán nhà số 03B và gây áp lực cho anh B. Anh B phải ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất (do anh T đứng tên nhận chuyển nhượng) để trừ nợ 5,9 tỷ đồng (đây là số tiền mà anh B bị ép chốt nợ vay cả gốc và lãi), trong khi thực tế giá căn hộ thời điểm tháng 4 năm 2011 là khoảng 10 tỷ đồng. Ông L và anh B không đồng ý giao nhà, anh T cùng 10 người khác kéo đến gây áp lực, phá đồ đạc dẫn đến vợ ông L phải thắt cổ tự tử. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử 03 vụ án nêu trên đều nhận định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa các bên là hợp pháp và quyết định chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả toàn bộ nhà đất cho nguyên đơn.

Chánh án TANDCC đã kháng nghị cả ba vụ án, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy bản án dân sự sơ thẩm và hủy bản án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục sơ thẩm, theo quy định của pháp luật. Ủy ban Thẩm phán TANDCC chấp nhận kháng nghị của Chánh án TANDCC đối với cả ba vụ án nêu trên.

2.1.2. Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba

Trường hợp này giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác, thông thường được chia ra hai trường hợp.

Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này chủ thể đã xác lập một giao dịch giả tạo.

Ví dụ: Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, ông S đã ký hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là chị X nhằm tránh trường hợp ngồi nhà có thể bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông S.

Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định với nhà nước, nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả tạo. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Ví dụ: Ông H chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con gái mình là chị K nhưng để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sự dụng đất theo quy định của nhà nước thì hai người đã ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

Trên thực tế tình trạng xác lập giao dịch giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế là vô cùng phổ biến, các chủ thể hoặc ký tặng hợp đồng tặng cho thay cho hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng mua bán nhưng giá cả thể hiện trong hợp đồng lại thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế.

Mục đích cuối cùng của giao dịch giả tạo này là để một bên không phải thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba hoặc với nhà nước mặc dù thực tế họ ý thức được phải thực hiện nghĩa vụ đó. Do đó đã vi phạm quy định của pháp luật về nghĩa vụ dân sự.

Bộ luật Dân sự 2015 chỉ đề cập đến giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo (ít nhất cũng có một giao dịch đích thực tồn tại đằng sau giao dịch giả tạo). Song trên thực tế cũng có những trường hợp một giao dịch được thể hiện ra bên ngoài nhưng hoàn toàn không có thực và cũng không nhằm che giấu một giao dịch nào cả. Đó chính là giao dịch được xác lập bởi sự tưởng tượng. Tuy nhiên, trường hợp này còn ít diễn ra trên thực tế.

Về giao dịch dân sự do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba hiện nay đang có những quan điểm khác nhau về việc nên hiểu như thế nào là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trong trường hợp này, cần phải hiểu rằng yếu tố giả tạo và yếu tố trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba là hai vế của giao dịch. Có quan điểm cho rằng, hai yếu tố này nhất thiết phải luôn đi cùng nhau. Nghĩa là nếu muốn xác định giao dịch là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì yếu tố giả tạo và yếu tố trốn tránh nghĩa vụ phải xảy ra trên thực tế. Nói cách khác, nếu yếu tố trốn tránh nghĩa vụ mới chỉ dừng lại ở sự suy đoán thì không thể xác định là giao dịch vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Tuy nhiên cũng có quan điểm ngược lại cho rằng chỉ cần có yếu tố giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba mà không cần yếu tố trốn tránh nghĩa vụ phải xảy ra trên thực tiễn là có thể quy kết giao dịch vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Chính những quan điểm khác nhau về cách xác định giao dịch vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba đã tạo ra những bản án khác nhau trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự về giao dịch do giả tạo. Nhà làm luật đôi khi không dự liệu hết những tình huống có thể xảy ra trên thực tê, nên đã có những quy định để ngỏ, không rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng và thực thi pháp luật trên thực tiễn. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Hơn nữa, hiện nay các chủ thể tham gia xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước, cụ thể ở đây là nghĩa vụ nộp thuế, dường như thường xuyên hơn, tinh vi hơn. Thực tế cho thấy cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ xã hội mở rộng hơn, nhu cầu của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật cao hơn và các giao dịch về bất động sản và các tài sản có giá trị lớn cũng nhiều hơn. Tuy nhiên các chủ thể thường xác lập các giao dịch không đúng với ý chí, nguyện vọng của mình nhằm tránh việc phải nộp thuế nhiều cho Nhà nước. Do vậy giao dịch giả tạo là lựa chọn hàng đầu của các chủ thể. Thông thường với những giao dịch mua bán hay chuyển nhượng, các bên thống nhất về giá cả và nó là một điều khoản trong hợp đồng, tuy nhiên, để tránh việc phải nộp thuế cao, các bên đã ghi giá thấp hơn nhiều so với giá thực tế trong hợp đồng. Hay cũng có những trường hợp các bên không muốn nộp thuế với Nhà nước nên đã xác lập hợp đồng tặng cho thay vì xác lập hợp đồng mua bán, hợp đồng chuyển nhượng. Thực tế này đang diễn ra rất phổ biến và gây ra những khó khăn với cơ quan pháp luật. Bởi lẽ những giao dịch như thế này thường rất khó phát hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền. Các bên chủ thể thường ít khi xảy ra tranh chấp, chỉ một số trường hợp do không đạt được thoả thuận thực tế sau khi đã giao kết giao dịch giả tạo mới phát sinh tranh chấp yêu cầu giải quyết tại Toà án. Pháp luật hiện hành cũng chưa có những quy định cụ thể về việc giải quyết những trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước. Các giao dịch giả tạo này thường bị tuyên vô hiệu và giải quyết theo hướng giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu. Tuy nhiên cách giải quyết này dường như không đạt được hiệu quả vì các chế tài áp dụng chưa thật sự nghiêm khắc, chưa thực sự mang tính răn đe triệt để, và các giao dịch như thế này vẫn diễn ra thường xuyên và có chiều hướng gia tăng trên thực tế. Việc này một mặt làm cho chế định pháp luật không đạt được hiệu quả phòng ngừa, mặt khác.

2.2. Hậu quả pháp lý và thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do giả tạo vô hiệu. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

2.2.1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do giả tạo

Hậu quả theo nghĩa thông thường là “kết quả không hay về sau”. Như vậy hậu quả trước hết phải là một kết quả và kết quả đó phải xảy ra từ một sự kiện hay hành vi nào đó. Nói cách khác hành vi, sự kiện và kết quả phải có mối quan hệ nhân quả với nhau, trong đó hành vi hay sự kiện phải là nguyên nhân dẫn tới kết quả. Tuy nhiên, không phải tất cả kết quả đều là hậu quả, chỉ những kết quả không hay về sau mới là hậu quả, kết quả là hậu quả gây bất lợi cho cá nhân, tổ chức…Trong khoa học pháp lý, chỉ những hành vi, sự kiện (do con người gây ra) gây ra hậu quả bất lợi cho cá nhân, tổ chức… và chủ thể của những hành vi này phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định (hành vi, sự kiện phải được nhà làm luật dự liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp lý). Hậu quả pháp lý của từng loại hành vi, sự kiện phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử và chế độ chính trị xã hội nhất định. Pháp luật mọi thời đại về bản chất là một hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật xét đến cùng là hình thức pháp lý của chuyên chính giai cấp, là công cụ duy trì xã hội trong sự phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. Cho nên có những sự kiện hay hành vi, xảy ra ở thời điểm này thì hậu quả xảy ra là hậu quả pháp lý, nhưng ở thời điểm khác lại không phải là hậu quả pháp lý. Hoặc cùng một sự kiện pháp lý như nhau, nhưng hậu quả ở nơi này là hậu quả pháp lý, còn ở nơi khác lại không phải là hậu quả pháp lý. Ví dụ: pháp luật Việt Nam quy định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập năm 1988, thì bị vô hiệu, hậu quả pháp lý xảy ra là các bên phải quay lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, do vi phạm Điều 5 Luật Đất đai năm 1987 “Nhà nước nghiêm cấm mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất…”. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 1987 cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng, cho nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nếu tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì không vô hiệu. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, thì sự kiện khác nhau, mức độ khác nhau, được các nhà làm luật dự liệu trong nhiều ngành luật khác nhau và đặt ra các loại hậu quả pháp lý khác nhau. Khi các chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định mà hành vi của các chủ thể là trái pháp luật và trong từng quan hệ cụ thể, các chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định được điều chỉnh bởi những ngành luật khác nhau. Ví dụ như trong ngành Luật Hình sự, khi một người có hành vi trái pháp luật dẫn tới việc xâm phạm lợi ích cá nhân, tổ chức hay Nhà nước thì bị coi là hành vi phạm tội. Và để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức hay Nhà nước trước những hành vi pham tội của các chủ thể này, Nhà nước ban hành Bộ luật Hình sự trong đó quy định những hành vi bị coi là hành vi phạm tội cùng những chế tài nhất định (hình phạt) là hậu quả pháp lí để Toà án căn cứ và đưa ra phán quyết nhằm trừng trị và buộc người phạm tội phải khắc phục những hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Trong trường hợp hành vi trái pháp luật gây ra hậu quả nhưng chưa đến mức truy tố trách nhiệm hình sự, thì chủ thể gây ra hành vi trái pháp luật sẽ bị xử phạt bằng một quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền. Trong lĩnh vực dân sự thì hậu quả pháp lý xuất phát từ hành vi của các chủ thể, khi một tham gia giao dịch dân sự nhất định dẫn tới vi phạm quyền và nghĩa vụ của chủ thể khác hoặc khi giao dịch vô hiệu. Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu các chủ thể nhất thiết phải gánh chịu những hậu quả nhất định do pháp luật quy định. Hậu quả pháp lý trong giao dịch dân sự thường dẫn tới sự bất lợi về tài sản hoặc lợi ích vật chất, nằm ngoài ý chí và sự mong muốn của chủ thể… Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Trên thực tế, có thể một hành vi trái pháp luật phải gánh chịu hậu quả pháp lý của một ngành luật, nhưng cũng có thể phải gánh chịu hậu quả của nhiều ngành luật liên quan. Sự phân biệt của các ngành luật nhiều khi không rành mạch, nên chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do ngành luật nào điều chỉnh còn nhiều quan điểm khác nhau. Ví dụ như một hành vi lừa dối trong giao kết giao dịch dân sự có thể xảy ra hậu quả pháp lí theo ngành luật Dân sự là giao dịch bị tuyên bố vô hiệu, nhưng có thể chủ thể của hành vi lừa dối còn phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của ngành luật Hình sự. Mặc dù khái niệm hậu quả pháp lý được sử dụng khá rộng rãi trong khoa học pháp lý, nhưng trên thực tế vẫn chưa có một tài liệu hay công trình khoa học nào đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về hậu quả pháp lí. Các nhà lập pháp chủ yếu đi sâu vào quy định nội dung của nó. Về nguyên tắc, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nói riêng là không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự với các bên kể từ thời điểm xác lập. Như vậy, các nhà làm luật đã khẳng định tính nhất quán trong việc xử lý một giao dịch dân sự là vô hiệu và cũng để phòng ngừa trường hợp các bên chuẩn bị xác lập giao dịch. Cách thức xử lý này thực chất là cơ sở để cảnh báo các bên chủ thể khi tiến hành đề nghị hay chấp nhận việc xác lập giao dịch dân sự. Ở đây, xin nhấn mạnh rằng, khi xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nói chung, không nói đến quyền và nghĩa vụ của các bên, bởi đã là giao dịch vô hiệu thì không thể phát sinh quyền và nghĩa vụ được. Những cam kết trong giao dịch dân sự chỉ có thể trở thành quyền và nghĩa vụ dân sự khi giao dịch dân sự có hiệu lực.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu, không phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu trước thời điểm trước khi giao dịch. Việc quy định giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự thực chất chỉ là cách thức quy định của nhà làm luật. Còn trên thực tế, khi Toà án giải quyết các vụ kiện xin tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thường là trường hợp các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ những cam kết đã thoả thuận. Do vậy, rất ít các trường hợp có thể khắc phục hoàn toàn hậu quả như nhà làm luật đã dự liệu và quy định. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Về mặt lý thuyết, các bên khi tham gia thiết lập một giao dịch đều mong muốn đạt được mục đích, thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của mình. Từ đó sẵn sang gánh chịu những trách nhiệm để được hưởng những quyền lợi nhất định, nhưng vì giao dịch vô hiệu nên các bên nếu chưa thực hiện giao dịch thì không được thực hiện nữa, nếu đã thực hiện một phần hay toàn bộ thì không được thực hiện tiếp. Hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu là buộc các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, trong trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, bên có lỗi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Do vậy trên thực tế, giao dich vô hiệu chỉ có thể phát sính hậu quả về trách nhiệm dân sự hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên không phải lúc nào hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu cũng được giải quyết như vậy. Đôi khi vì pháp luật quy định không rõ ràng hoặc không dự liệu hết các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế, và do trình độ bật cập của các thẩm phán, nên có những trường hợp Thẩm phán giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo hướng có lợi cho một phía, hay thậm chí có những trường hợp, mặc dù đã tuyên giao dịch vô hiệu, nhưng lại buộc các bên thực hiện các thoả thuận giống như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một giao dịch dân sự có hiệu lực. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Tóm lại, hậu quả pháp lý của một giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và của một giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nói riêng có thể được hiểu là những hệ quả pháp lý phát sinh theo quy định của pháp luật khi một giao dịch dân sự bị vô hiệu. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoặc trên cơ sở một bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Cơ sở để xác định hậu quả pháp lý có thể do các bên thoả thuận trước hoặc do pháp luật quy định. Khi xảy ra vi phạm, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp chế tài, mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch, nếu các bên không thoả thuận được.

Riêng đối với giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, hậu quả pháp lý còn có một trường hợp đặc biệt. Đó là trường hợp các bên xác lập giao dịch giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác. Trong trường hợp này, giao dịch giả tạo đương nhiên vô hiệu và hậu quả pháp lý xảy ra tương tự như giao dịch vô hiệu. Nhưng bên trong giao dịch giả tạo là một giao dịch khác, giao dịch này mới là giao dịch đích thực giữa các bên, và nếu giao dịch này đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì giao dịch này vẫn có hiệu lực pháp luật. Do vậy, mặc dù chỉ có một giao dịch thể hiện ra bên ngoài, nhưng trên thực tế giao dịch do giả tạo có tới hai giao dịch, và chỉ một giao dịch vô hiệu, còn một giao dịch có thể vẫn có hiệu lực pháp luật.

2.2.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do giả tạo vô hiệu

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được hiểu là một khoảng thời gia do pháp luật quy định và khi kết thúc thời hạn của thời hiệu này thì quyền yêu cầu của chủ thể bị triệt tiêu.

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm được áp dụng đối với những giao dịch sau đây:

  • Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
  • Giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.
  • Giao dịch sân sự do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép mà xác lập;
  • Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình;
  • Giao dịch dân sự do không tuân thủ hình thức.

Giao dịch dân sự vi phạm một trong năm trường hợp trên đây có thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 02 năm kể từ ngày biết hoặc phải biết được về những hành vi vi phạm trong việc xác lập giao dịch. Hết thời hạn năm kể từ ngày biết hoặc buộc phải biết có hành vi vi phạm trong việc xác lập giao dịch sự mà bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của bên có quyền bị xâm phạm, mà không yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì mất quyền khởi kiện.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Bằng việc phân tích quy định hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, tại chương này, tác giả đã triển khai được các nội dung sau đây:

Một là, tác giả tập trung vào phân tích cụ thể trường hợp khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu. Từ việc phân tích, tác giả đã chỉ ra các điều kiện để áp dụng trường hợp này khi tuyên giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Hai là, tác giả phân tích trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu. Bên cạnh việc bình luận quy định của luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, tác giả đều phân tích được các thuật ngữ, nêu rõ nội dung và các ví dụ cụ thể đối với từng trường hợp.

Bên cạnh đó, ở chương này tác giả cũng nên lên được hậu quả pháp lý nói chung và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng. Để từ đó làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản nhất của đề tài. Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Kiến nghị pháp luật về giao dịch vô hiệu do giả tạo

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993