Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch hiện nay được biết đến không chỉ trên khía cạnh văn hóa –xã hội mà trên quan điểm về kinh tế, du lịch đã và đang giữ vai trò kết sức quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế của mỗi quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới hiện nay, du lịch được xem là “ ngành công nghiệp không khói” hay “ngành công nghiệp xanh”. Với lượng đầu tư không nhiều nhưng hiệu quả mang lại đến rất cao, du lịch đang dần chứng tỏ được vị thế của mình khi đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần vào việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Tốc độ tăng trưởng hàng năm cao và liên tục là nguyên nhân chính khiến nhiều nước xem việc phát triển du lịch là một bước đi đúng đắn, là quốc sách trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế đi lên
Trong thời kỳ đất nước đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc phát triển du lịch ở nước ta được xem là “lực đẩy mới” giúp các ngành kinh tế khác phát triển. Hơn nữa, nước ta lại được thiên nhiên ưu đãi cả về mặt tự nhiên và xã hội nên nhu cầu tìm ra hướng đi đúng đắn cho du lịch để phù hợp với tình hình hiện nay là rất quan trọng và cấp bách. Tuy nhiên, bên cạnh việc mở ra những khu du lịch mới thì vấn đề quan tâm hiện nay là làm sao để có thể tận dụng tối đa và hiệu quả những tiềm năng có của các khu du lịch nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân địa phương. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Khu di tích và danh thắng Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh là một địa danh nổi tiếng đã được rất nhiều du khách biết đến. Với các nguồn tài nguyên có giá trị về mặt tự nhiên (nguồn động, thực vật phong phú) và đặc biệt về mặt nhân văn (Yên Tử là nơi phát tích và cứ địa của Thiền Phái Trúc Lâm, là nơi hội tụ của một số nhân tài kiệt xuất, và là nơi lưu giữ những di tích kiến trúc lâu đời), khu di tích và danh thắng Yên Tử đã và đang được xem như một “ bảo tàng văn hoá ”, “ bảo tàng thực vật, động vật”, một “báu vật vô giá” của quốc gia. Tuy nhiên trong thời gian qua du lịch Yên Tử vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng vốn có của khu di tích. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vốn có. Từ tình hình đó, qua chuyến đi khảo sát, tìm hiểu về khu di tích và danh thắng Yên Tử, em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch ở khu di tích Đông Yên Tử”để thực hiện.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu tham khảo còn ít, trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm chưa có nhiều nên khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của thầy cô và bạn bè.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Dựa vào cơ sở nghiên cứu đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch của khu vực Đông Yên Tử, xác lập cơ sở khoa học cho việc phát triển du lịch
- Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài cần tiến hành:
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch (tự nhiên và nhân văn) ở khu vực Đông Yên Tử.
- Đánh giá hiện trạng hoạt động du lịch ở khu vực Đông Yên Tử và nhận xét tình hình phát triển du lịch tại Đông Yên Tử
- Đề xuất các định hướng và xây dựng các giải pháp cho việc phát triển bền vững tại khu du lịch Đông Yên Tử.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu về tài nguyên, tiềm năng du lịch, thực trạng bảo tồn và phát triển du lịch khu vực Đông Yên Tử
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu trong khu di tích và danh thắng Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
4, Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm tạo điều kiện để khoá luận đạt hiệu quả một cách khách quan và có cơ sở khoa học. Đó là: Phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp thu thập, phân tích và xử lý số liệu, phương pháp tổng hợp và so sánh
5, Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khoá luận được cấu trúc thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn phát triển du lịch
- Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch tại khu du lịch Đông Yên Tử
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển khu du lịch Đông Yên Tử
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1 Cơ sở lý luận về du lịch
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Ngày nay du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức về du lịch vẫn chưa được thống nhất. Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc đỗ nghiên cứu khác nhau, mỗi người cũng sẽ có cách hiểu khác nhau về du lịch. Đúng như một chuyên gia du lịch nhận định: “Đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”
Theo quan điểm của học giả Guer Freuler thì “ Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được cảm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời ” Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Học giả Azar thì nhận thấy “Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ vùng đất này sang vùng đất khác, từ một nước này sang một nước khác nếu không gắn với sự thay đổi nơi cú trú hay nơi làm việc”
Cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó Kaspar đưa ra định nghĩa “Du lịch là toàn bộ những quan hệ và hiện tượng xảy ra trong quá trình di chuyển và lưu trú của con người tại nơi không phải là nơi ở thường xuyên hoặc nơi làm việc của họ”
Tuy nhiên, dưới con mắt của các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó còn phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Học giả Kalfiotis cho rằng “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh tế”. Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về mọi mặt, góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước thông qua thức hiện “xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ” thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện tái phân chia nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng trong nước về kinh tế xã hội. Mặt khác hoạt động du lịch có tính liên ngành, liên vùng cao bởi lẽ nó liên quan tới nhiều ngành, nhiều cấp địa phương như Ngoại giao, Văn hóa, Công an, Hàng không, các địa phương… Nó tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Không chỉ các nhà kinh tế, các chuyên gia nghiên cứu về du lịch thuộc các lĩnh vực khác như địa lí cũng thấy yếu tố kinh tế là yếu tố không thể thiếu được trong khái niệm du lịch. Theo nhà địa lý học Michaud: “Du lịch là tập hợp những hoạt động sản suất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khỏe, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Với mục đích quốc tế hóa, tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp ở Rome năm 1963, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa như sau về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt đầu từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải nơi làm việc thường xuyên của họ”.
Khái niệm của tổ chức du lịch thế giới (WTO – 1990): “Du lịch là một tập hợp các hoạt động và các dịch vụ đa dạng liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, dưỡng sức…và nhìn chung những lý do đó không phải nhằm mục đích kiếm sống”.
Theo luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy, có khá nhiều khái niệm nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm chứa những nội dung tiêu biểu sau:
Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội;
Du lịch là sự di chuyển và tạm thời rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của các cá nhân hoặc tập thể nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của họ;
Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú đa dạng nhằm phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ;
Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều đồng thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hòa bình.
1.1.2. Khái niệm về khách du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Khách du lịch là những người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, đi làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập nơi đến.(theo pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành 1999)
1.1.3. Khái niệm khu du lịch
Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Đặc điểm khu DL:
Khu du lịch cấp địa phương:
- Có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch.
- Có diện tích tối thiểu 200 ha, trong đó có diện tích cần thiết để xây dựng các công trình, cơ sở dịch vụ du lịch.
- Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch cần thiết phù hợp với đặc điểm của địa phương, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.
Khu du lịch cấp quốc gia:
- Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, có khả năng thu hút lượng khách du lịch cao.
- Có diện tích tối thiểu một 1000 ha, trong đó có diện tích cần thiết để xây dựng các công trình, cơ sở dịch vụ du lịch phù hợp với cảnh quan, môi trường của khu du lịch; trường hợp đặc biệt mà diện tích nhỏ hơn thì cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
- Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu lượt khách du lịch một năm, trong đó có cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch cần thiết phù hợp với đặc điểm của khu du lịch.
1.1.4. Khái niệm về tài nguyên du lịch
1.1.4.1. Định nghĩa
Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch càng phong phú, đặc sắc thì càng có sức hút với du khách. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Theo luật du lịch Việt Nam: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
1.1.4.2. Phân loại tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có thể phân thành 2 nhóm:
Tài nguyên du lịch tự nhiên: là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự nhiên xung quanh chúng ta được đưa vào việc phục vụ cho mục đích du lịch. Các thành phần tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch có tác động mạnh nhất đến hoạt động này là địa hình, khí hậu, nước, động – thực vật.
Địa hình:
Địa hình là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, các dấu hiệu bên ngoài của địa hình càng đa dạng và đặc biệt thì càng có sức thu hút du khách.
Các đơn vị hình thái chính của địa hình là núi, đồi, đồng bằng, chúng được phân biệt bởi sự chênh cao của địa hình
Khí hậu:
Khí hậu cũng được coi là một dạng tài nguyên du lịch. Trong các chỉ tiêu về khí hậu, đáng lưu ý nhất là 2 chỉ tiêu: nhiệt độ và độ ẩm không khí. Nhưng cũng phải tính đến các yếu tố khác như: áp suất khí quyển, gió, ánh nắng mặt trời, các hiện tượng thời tiết đặc biệt. Mỗi loại hình du lịch thường đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Như vậy, ở mức độ nhất định cần phải chú ý đến hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở kế hoạch du lịch. Tính mùa của khí hậu ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính mùa của du lịch. Sự phụ thuộc chặt chẽ vào khí hậu du lịch có thể diễn ra quanh năm hoặc một vài tháng.
Mùa du lịch cả năm thích hợp với loại hình du lịch suối khoáng, du lịch trên núi…
Mùa đông là du lịch trên núi, du lịch thể thao, nghỉ đông. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Mùa hè là mùa du lịch quan trọng vì nó có thể phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch biển, các loại hình du lịch trên núi, đồng bằng, khả năng du lịch ngoài trời rất phong phú và đa dạng.
Nguồn nước:
Bao gồm nước chảy trên mặt và nước ngầm. Đối với du lịch có ý nghĩa rất quan trọng. Nó bao gồm đại dương, sông ngòi, suối phun và thác nước…
Tài nguyên nước trên mặt không chỉ có chức năng phục hồi trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến nhiều thành phần khác của môi trường sống, đặc biệt là nó làm dịu đi khí hậu ven bờ.
Nước ngầm nhìn chung ít có giá trị với du lịch hơn. Tuy nhiên, cần phải nói đến tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị an dưỡng và chữa bệnh.
Sinh vật:
Việc du lịch đến những nơi có phong cảnh đẹp, thiên nhiên trong lành là cách nghỉ ngơi tốt nhất. Giờ đây sống trong môi trường phát triển có những điều kiện thuận lợi do con người tạo ra, đồng thời môi trường ngày càng bị ô nhiễm, biến đổi bất lợi cho cuộc sống của con người. Về tài nguyên sinh vật, rừng không chỉ có ý nghĩa lớn về mặt sinh thái, kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt du lịch. Tất nhiên, không phải mọi đối tượng tài nguyên động thực vật đều là đối tượng tham gia phục vụ du lịch.
Về phương diện tài nguyên du lịch cần chú ý đến các khu bảo tồn thiên nhiên. Nước ta đã thành lập được 105 khu bảo vệ tự nhiên, 27 vườn quốc gia, 44 khu bảo tồn tự nhiên, 34 khu rừng văn hóa lịch sử… Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Tài nguyên du lịch nhân văn: là đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình lịch sử tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. Nhóm tài nguyên này có giá trị nhận thức hơn giá trị giải trí, ít phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, thường tập trung ở các khu vực quần cư và thu hút khách có trình độ văn hóa, nhận thức cao hơn.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch nhân văn có những đặc tính cơ bản như:
- Mang tính phổ biến
- Mang tính tập trung dễ tiếp cận
- Có tính truyền đạt nhận thức nhiều hơn là hưởng thụ, giải trí Các loại tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm:
Các di sản văn hóa thế giới và các di tích lịch sử – văn hóa:
Các di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử – văn hóa được xem là những tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng nhất. Đây là nguồn lực để phát triển và mở rộng các hoạt động du lịch. Qua các thời đại, di sản văn hóa thế giới và các di tích lịch sử – văn hóa đã chứng minh cho những sáng tạo to lớn về văn hóa, tôn giáo và xã hội loài người.
- Lễ hội:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể sau thời gian lao động vất vả. Lễ hội đã tạo nên một môi trường mới, huyền diệu giúp cho người tham dự có điều kiện tiếp xúc với những bí ẩn vừa mơ, vừa thực. Lễ hội có sự lôi cuốn đông đảo người tham gia và trở thành nhu cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân và là tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách.
Các lễ hội thường bao gồm 2 phần là nghi lễ và phần hội: Phần nghi lễ là phần mở đầu cho các lễ hội với những nghi thức nghiêm trang, trọng thể. Phần hội diễn ra những hoạt động tiêu biểu, điển hình cho tâm lí và văn hóa cộng đồng, chứa đựng những quan niệm của một dân tộc về thực tế lịch sử, xã hội và thiên nhiên.
- Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học: Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Mỗi một dân tộc có điều kiện sinh sống, đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang sắc thái riêng của các dân tộc trên địa bàn cư trú của mình.
Mỗi dân tộc trên thế giới có tập tục riêng về cư trú, về tổ chức xã hội, về sinh hoạt, trang phục và ẩm thực, về ca múa nhạc… Tất cả những điều kiện đó đã làm nên nét văn hóa độc đáo, có sức hấp dẫn khách du lịch rất lớn.
- Làng nghề thủ công truyền thống:
Nghề thủ công truyền thống cũng là loại tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng và có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Thông thường, nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm độc đáo không chỉ thể hiện tài khéo léo của nhân dân lao động mà còn thể hiện những tư duy triết học, những tâm tư tình cảm của con người. Đây chính là những đặc tính riêng của nền văn hóa và là sức hấp dẫn của các làng nghề truyền thống đối với khách du lịch.
- Các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác:
Những đối tượng văn hóa như các trung tâm khoa học, các trường đại học, các thư viện, các bảo tàng, … đều có sức thu hút khách du lịch đến tham quan vàng nghiên cứu.
- Ngoài ra, những hoạt động mang tính sự kiện như các giải thể thao lớn, các cuộc triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, các liên hoan phim quốc tế, các lễ hội điển hình, … cũng là những đối tượng thu hút khách DL.
1.1.5. Một số loại hình du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
- Du lịch tâm linh
Quan niệm về du lịch tâm linh: du lịch tâm linh trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng có những quan niệm khác nhau và đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung nhất. Tuy nhiên, xét về nội dung và tính chất hoạt động, du lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa làm cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh thần. Theo cách nhìn nhận đó, du lịch tâm linh khai thác những yếu tố văn hóa tâm linh trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch, dựa vào những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với lịch sử hình thành nhận thức của con người về thế giới, những giá trị về đức tin, tôn giáo, tín ngưỡng và những giá trị tinh thần đặc biệt khác. Theo đó, du lịch tâm linh mang lại những cảm xúc và trải nghiệm thiêng liêng về tinh thần của con người trong khi đi DL.
Đặc điểm du lịch tâm linh ở Việt Nam:
- Du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin, trong đó Phật giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hòa Hảo..
- Du lịch tâm linh gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri ân những vị anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có công với nước, dân tộc trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lí uống nước nhớ nguồn.
- Du lịch tâm linh gắn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân báo hiếu đối với bậc sinh thành.
- Du lịch tâm linh gắn với những hoạt động thể thao tinh thần như thiền, Yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát trong đời sống tinh thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà không nơi nào có đó là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
- Ngoài ra, du lịch tâm linh ở Việt Nam còn có những hoạt động gắn với yếu tố linh thiêng và những điều huyền bí.
Du lịch sinh thái Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
- Định nghĩa về du lịch sinh thái ở Việt Nam: “DL sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nổ lực bảo tồn và phát triến bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”
Bản chất của du lịch sinh thái:
- Là một hình thức du lịch tự nhiên mang tính khai sáng, góp phần bảo tồn hệ sinh thái mà vẫn tôn trọng sự hoà nhập của các cộng đồng địa phương.
- Là một lĩnh vực đặc biệt của du lịch nói chung có đặc trưng là qua những chuyến đi, du khách được tiếp xúc với thiên nhiên bằng phương tiện quan sát đơn giản hay những nghiên cứu có tính hệ thống.
Du lịch văn hóa
- Là loại hình du lịch mà du khách muốn được cảm nhận bề dày văn hóa của một nước, một vùng thông qua các di tích lịch sử, văn hóa, những phong tục tập quán, lễ hội còn hiện diện.
Du lịch văn hóa còn được hiểu:
- Là tổng của cải vật chất và của cải tinh thần có liên quan đến du lịch.
- Là kết quả tác động lẫn nhau giữa chủ thể du lịch (du khách), khách thể du lịch (tài nguyên du lịch) với môi giới du lịch (ngành du lịch).
- Một loại hình thái văn hóa của đời sống du lịch.
- Một loại hình thái văn hóa đặc thù, lấy văn hóa giá trị nội tại của văn hóa chung làm chỗ dựa, lấy các yếu tố du lịch làm công tác du lịch tích lũy và sáng tạo ra trong hoạt động du lịch.
Du lịch nghiên cứu – học tập Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
- Du lịch nghiên cứu – học tập là loại hình du lịch kết hợp với học tập, nghiên cứu nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết thực tế về địa lí, địa chất, lịch sử, khảo cổ, môi trường, sinh học, khoa học, du lịch… cho khách du lịch.
Đặc điểm cơ bản:
- Khách du lịch: chủ yếu là các nhà khoa học, học sinh, sinh viên có nhu cầu tìm hiểu thực tế, phục vụ nghiên cứu khoa học.
- Cơ sở hạ tầng: các nhà cung ứng dịch vụ thường xây dựng những phòng học ngoài trời được thiết kế phù hợp với từng nội dung học tập. Các điểm đến du lịch có đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc tìm hiểu, quan sát, phân tích, nghiên cứu….
- Thời gian lưu trú: tùy vào đối tượng, mục đích nghiên cứu, học tập mà thời gian lưu trú có thể là ngắn ngày hay dài ngày. Đa số học sinh, sinh viên tham gia du lịch thường lưu trú trong thời gian ngắn để tìm hiểu thực tế, làm báo cáo môn học… Còn các nhà khoa học thường có thời gian lưu trú dài ngày để làm các công trình nghiên cứu khoa học.
- Hướng dẫn viên du lịch: đa số hướng dẫn viên du lịch là các thầy cô giáo phụ trách chuyên môn, các chuyên gia hoặc người dân địa phương, hướng dẫn viên có kiến thức sâu rộng về điểm đến DL.
- Điểm đến du lịch: thường là các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, viện hải dương học, các khu di tích lịch sử, các bảo tàng, công trình kiến trúc, các khu giải trí….
Du lịch MICE Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
MICE là cụm từ viết tắt theo các chữ cái đầu tiếng Anh của các từ: Meeting (gặp gỡ, hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention/ Conference (hội nghị/ hội thảo) và Exhibition/ Event (triển lãm, sự kiện). Như vậy, MICE tour là sự kết hợp của Meeting tour, Incentive tour, Convention tour và Exhibiton tour, hay nói cách khác, MICE tour là một loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội họp, khen thưởng, triển lãm, sự kiện được kinh doanh bởi các công ty, các doanh nghiệp du lịch có tiếng tăm, uy tín và năng lực chuyên môn cao cũng như bởi các tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị có chức năng và thẩm quyền.
Đặc trưng của du lịch MICE là loại hình du lịch có sự kết hợp với một hoặc nhiều hoạt động hội nghị, hội thảo, gặp gỡ, khen thưởng, triển lãm, sự kiện nổi bật ở một vùng, một quốc gia nhất định. Cũng như các loại hình du lịch khác, du lịch MICE có những đặc trưng riêng của mình.
Du lịch trọn gói
Du lịch trọn gói là loại hình du lịch mà du khách muốn tham gia vào một tuyến du lịch với một số tiền nhất định, trong đó bao gồm tất cả các loại dịch vụ mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau nhằm cung cấp cho du khách như lưu trú, vận chuyển, ăn uống, hướng dẫn, bảo hiểm, tham quan… trong toàn bộ chuyến đi.
Đặc điểm cơ bản:
- Bao gồm hầu hết các thành phần dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, hướng dẫn và các dịch vụ khác đã được sắp đặt trước ở mức độ tối đa.
- Giá trọn gói của tất cả các dịch vụ, chi phí thường thấp hơn so với dịch vụ cùng loại của các chương trình du lịch khác. Giá tính theo đầu khách ở buồng đôi, giá theo thời vụ du lịch.
- Khách mua chương trình được tổ chức thành đoàn và hướng dẫn viên chuyên nghiệp được doanh nghiệp lữ hành tuyển chọn đi cùng khách và phục vụ suốt từ khi đón khách cho đến khi tiễn khách.
1.1.6. Sản phẩm du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
1.1.6.1 Khái niệm về sản phẩm du lịch(SPDL)
Việc nghiên cứu vấn đề đa dạng hóa sản phẩm du lịch trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm. sản phẩm du lịch là tổng thể những yếu tố có thể trông thấy hoặc không trông thấy được, làm thỏa mãn nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch. Những tài nguyên thiên nhiên (bãi biển, núi rừng, sông suối, khí hậu, không gian thiên nhiên…) cũng như các cơ sở vật chất (khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí…) bản thân chúng không phải là sản phẩm du lịch, nhưng chúng lại trở thành sản phẩm du lịch khi mà các sản phẩm đó được sử dụng phục vụ cho nhu cầu của du khách. Thông thường người ta phân biệt ba mức độ trong khái niệm của một sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch chính: sản phẩm du lịch chính trả lời cho câu hỏi du khách thực sự muốn gì, sản phẩm chính không phải là xác định theo thành phần chính của sản phẩm mà là dựa vào nhu cầu cần thỏa mãn chính của du khách hoặc là phần lợi ích của sản phẩm này khác với các sản phẩm cạnh tranh khác.
Sản phẩm du lịch hình thức: sản phẩm du lịch hình thức tương ứng với sản phẩm mà nó có mặt lúc mua hoặc chọn lựa. Nó là sản phẩm cốt yếu được cụ thể hóa bằng những yếu tố hoặc những dịch vụ rõ ràng như khách sạn, nhà hàng, trang thiết bị. Nó không còn là một sản phẩm ở trong khái niệm mà là một thành phẩm được thương mại hóa và được du khách tiêu thụ. Chẳng hạn, nếu sản phẩm cốt yếu là một sân golf thì sản phẩm hình thức là toàn bộ khách sạn và dịch vụ thương mại phục vụ cho chơi golf cũng như những đặc tính kỹ thuật liên quan đến chơi golf.
Sản phẩm du lịch mở rộng: sản phẩm du lịch mở rộng là toàn bộ những yếu tố liên quan đến du khách, là tổng thể các yếu tố nhìn thấy cũng như không nhìn thấy được cung cấp cho du khách. sản phẩm du lịch mở rộng đó là hình ảnh hay đặc tính của sản phẩm mà du khách cảm nhận được. Hình ảnh đó bao gồm những yếu tố vật lý như kiến trúc, cảnh quan, màu sắc… và những yếu tố tâm lý như bầu không khí, lối sống, sự sang trọng, đẳng cấp xã hội…
1.1.6.2 Những đặc tính của sản phẩm du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Tính nhìn thấy được và không nhìn thấy được
- Sản phẩm du lịch bao gồm một tập hợp các yếu tố nhìn thấy được chủ yếu là:
- Tài nguyên thiên nhiên như: khí hậu, cảnh quan, núi rừng, sông suối, hồ, thác… Mỗi một địa phương đều có những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, điều này góp phần tạo nên nét đặc thù độc đáo cho các sản phẩm du lịch.
- Cơ sở vật chất cơ bản như: khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí. Đây là những cơ sở vật chất mà du khách sử dụng trong thời gian đi du lịch của mình.
- Những sản phẩm liên quan: phương tiện vận chuyển, các đặc sản, hàng lưu niệm…
Các yếu tố không nhìn thấy được chia làm hai loại:
- Các dịch vụ du lịch: dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ mua sắm… Các dịch vụ này rất quan trọng trong quá trình đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Để có được dịch vụ du lịch tốt trước hết phải có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp.
- Những yếu tố tâm lý như: sự sang trọng, đẳng cấp xã hội, bầu không khí, tiện nghi, nếp sống thanh lịch… Khi đời sống xã hội ngày càng cao, du khách rất chú trọng đến những nhu cầu này.
Tính đa dạng của các thành phần
Thông thường các sản phẩm du lịch có nhiều yếu tố cấu thành như: hạ tầng cơ sở vật chất, các loại dịch vụ… Chính sự đa dạng này đôi khi là một trở ngại cho việc phối hợp và hoàn chỉnh giữa các bộ phận khác nhau, thậm chí gây tổn thất cho sản phẩm du lịch. Phần nhiều, sản phẩm du lịch không thâu tóm hết cả chiều dọc lẫn chiều ngang vào một tổ chức duy nhất mà phần lớn là kết quả của sự chấp thuận giữa những thành viên liên quan mà quyền lợi đôi khi khác nhau, thậm chí còn có tính tranh chấp. Một trong những điều kiện tiên quyết để đưa ra một sản phẩm du lịch tốt là sự kết hợp hài hòa giữa các thành viên: cơ quan quản lý, cộng đồng địa phương, chủ khách sạn, chủ nhà hàng, các thương gia và tất cả những người cung cấp các loại dịch vụ liên quan. Vì thế, phải làm sao cho các mục tiêu của các thành viên gần gũi lại và bổ sung lẫn nhau, xác định và đánh giá đúng phần tham gia của mỗi thành viên trong tổng thể của sản phẩm du lịch, phải xác định vị trí của sản phẩm du lịch và các thị trường mục tiêu để mọi người cùng chấp thuận, phát huy mọi hoạt động tiếp thị của các thành viên.
Những tính đặc thù của sản phẩm du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Sản phẩm du lịch là một dịch vụ đặc biệt, là những sản phẩm dịch vụ mà bản thân chúng không hề bị tiêu hủy sau khi du khách sử dụng. Tính đặc biệt của sản phẩm du lịch được thể hiện ở một số đặc điểm sau:
- Sự tham gia của du khách là cần thiết để thực hiện dịch vụ. du lịch đòi hỏi phải có du khách để tồn tại.
- Sản phẩm du lịch không thể để tồn kho. Bởi vì, một phòng của khách sạn, một chỗ ngồi trên máy bay không bán được thì không thể cất giữ vào kho.
- Tính không co giãn của cung so với cầu làm cho người ta không thể tăng cung của sản phẩm du lịch trong ngắn hạn.
- Sản phẩm du lịch không phải là một loại sản phẩm có thể di chuyển về các thị trường tiêu thụ, mà trái lại các thị trường phải di chuyển về hướng sản phẩm du lịch. Chính vì vậy công tác tuyên truyền và quảng bá các sản phẩm du lịch vô cùng quan trọng.
1.1.6.3. Những yếu tố cơ bản của sản phẩm du lịch
Những yếu tố cấu thành cơ bản
Cũng như tất cả những sản phẩm khác, sản phẩm du lịch gồm nhiều yếu tố kết hợp với nhau để đáp ứng cho thị trường mục tiêu, thỏa mãn tối đa nhu cầu của du khách. sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố cơ bản như sau:
- Tài nguyên thiên nhiên: khí hậu, cảnh đẹp thiên nhiên, núi rừng, bãi biển, sông suối…
- Tài nguyên nhân văn: các di sản văn hóa, di tích lịch sử, phong tục tập quán, các lễ hội, công trình kiến trúc lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo…
- Các cơ sở vật chất phục vụ ngành du lịch: khách sạn, nhà hàng, công viên, khu vui chơi giải trí…
- Hệ thống phương tiện giao thông phục vụ du lịch: máy bay, tàu lửa, ô tô, xe bus, taxi, tàu thủy,thuyền…
- Các cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch: hệ thống giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, ytế…
- Môi trường kinh tế và xã hội: giá cả liên quan đến hoạt động du lịch, an toàn xã hội, trình độ dân trí, văn minh đô thị…
Môi trường kế cận Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Những yếu tố thiên nhiên là nguồn để tạo nên sản phẩm du lịch, đòi hỏi chúng phải được bao bọc bởi những vùng đệm chung quanh thật lôi cuốn, có như vậy mới tạo nên những sản phẩm du lịch đa dạng, giá trị và bền vững. Đây sẽ là nơi mở rộng thêm các loại hình du lịch khác phục vụ nhu cầu tiềm ẩn của du khách.
Dân cư địa phương
Du lịch tạo điều kiện cho du khách tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông thường du khách và dân địa phương có những lối sống và văn hóa khác nhau.Mối quan hệ giữa họ có thể làm phát sinh mâu thuẫn. Cho nên, thái độ của dân địa phương ảnh hưởng lớn đến sự cảm nhận của du khách đối với sản phẩm du lịch. Phần lớn, du lịch gồm những yếu tố kích thích tâm hồn và cảm xúc. Những khía cạnh như bầu không khí, cách cư xử, sự thân thiện là những yếu tố quyết định trong việc đánh giá một sản phẩm du lịch. Đây là vấn đề không nên coi nhẹ trong quá trình đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Các dịch vụ công cộng phục vụ du lịch
Những yếu tố cơ bản của sản phẩm du lịch thường khó thay đổi, trong khi đó dịch vụ công cộng lại có thể dễ dàng thay đổi và chính các yếu tố đó đã góp phần to lớn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, gia tăng độ thỏa dụng cho du khách. Việc xây dựng một trung tâm hội nghị trong thành phố, một khu vui chơi giải trí, một khu thể thao, một công viên, trồng nhiều cây xanh trong thành phố… là những nhân tố làm thay đổi sản phẩm du lịch của một thành phố hoặc một điểm du lịch.
Cơ sở lưu trú, nhà hàng và các dịch vụ thương mại Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Du khách là những người ra khỏi nhà ở của mình trong một thời gian nhất định, tạm thời rời bỏ công việc bận rộn của mình tìm đến một nơi để nghỉ ngơi, thư giản. Du khách có thể ở trong khách sạn, quán trọ hoặc ở trong các lều trại. Cơ sở lưu trú, nhà hàng sẽ là những yếu tố quan trọng làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm du lịch. Có những cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời, có khí hậu trong lành, mát mẻ bên cạnh là các khách sạn, nhà hàng sang trọng, ấm cúng, chắc chắn sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch có giá trị cho du khách.
Kết cấu hạ tầng giao thông
DL hàm ý một sự di chuyển của du khách ra khỏi nhà để đến chỗ lưu trú. Cho nên, các phương tiện giao thông, đường sá, sân bay, bến cảng… là những yếu tố vô cùng quan trọng để việc di chuyển đó có thể diễn ra trong những điều kiện tốt nhất (ít mệt, ít tốn thời gian) và chi phí thấp nhất. Những phương tiện đi lại trong trung tâm thành phố như xe bus, taxi, xích lô… và các điều kiện đi lại khác, là những vấn đề không thể coi thường bên trong sản phẩm du lịch.
1.1.7. Phát triển bền vững
Cụm từ “phát triển bền vững” có nguồn gốc từ thực tiễn quản lý rừng ở Đức vào thế kỷ XIX, nhưng mãi đến thập niên 80 của thế kỷ XX mới được phổ biến rộng rãi. Năm 1980, IUCN cho rằng: “Phát triển bền vững phải cân nhắc đến việc khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau” Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Năm 1987, WCED (Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới) do bà Groharlem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong báo cáo “tương lai của chúng ta” như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của những thế hệ mai sau”.
Theo hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất năm 1992, được tổ chức Rio Dejaneiro thì: “Phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.
Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình hoạch định chính sách và quản lý phát triển kinh tế với ý muốn nhấn mạnh phương thức và việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.
Đối với Việt Nam, “phát triển bền vững” đựơc thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25 – 6 – 1998: Mục tiêu và các quan điểm cơ bản của phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững.
1.1.8. Phát triển du lịch bền vững
Khái niệm du lịch bền vững (DLBV)
Du lịch bền vững (DLBV) được xuất hiện vào năm 1996 trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm về du lịch mềm của những năm 90 và thật sự gây được sự chú ý rộng rãi. Mặc dù chưa đạt đến giai đoạn chín muồi, nhưng nó cũng thể hiện được điểm đặc trưng cơ bản củaDLBV.
DLBV là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên, các đặc điểm văn hoá kèm theo (có thể là cả trong quá khứ và hiện tại) theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế – xã hội của cộng đồng địa phương” (World Conservation Union,1996). Cũng trong thời gian này, Hội đồng du lịch và lữ hành quốc tế khái niệm: “DLBV là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai”.
Phát triển du lịch bền vững Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Theo quan điểm của Tổng cục du lịch Việt Nam, phát triển du lịch phải được định hướng và quản lí theo phương châm: kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch; khai thác, sử dụng hợp lí và phát triển tài nguyên du lịch tự nhiên; chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; tránh hiện đại hoá hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích; xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh; đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm tham quan du lịch.
Như vậy, du lịch bền vững không phải là trào lưu du lịch mà đó là cương lĩnh phát triển DL của thời đại.
1.2 Cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch
1.2.1.1. Các nhân tố bên trong
Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là điều kiện cần thiết phải có để phát triển một hoặc một số loại hình du lịch nào đó. Tài nguyên du lịch mang tính khách quan và có vai trò rất lớn để phát triển du lịch của một quốc gia hay một địa phương. Việc tổ chức lãnh thổ là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong việc nghiên cứu du lịch, bởi vì không thể tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động này nếu không xem xét khía cạnh vai trò của tài nguyên du lịch đối với phát triển du lịch. Du lịch là ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, tài nguyên ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch. Quy mô hoạt động du lịch của một khu, một vùng được xác định trên cơ sở khối lượng tài nguyên du lịch. Sức hấp dẫn của một một khu, một vùng du lịch phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch, số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển du lịch của một khu hay một vùng đó. Một lãnh thổ có nhiều tài nguyên du lịch, với các loại có chất lượng cao, có sức hấp dẫn và mức độ kết hợp các loại tài nguyên phong phú thì sức thu hút khách du lịch càng mạnh. Tài nguyên du lịch được chia làm 2 loại: tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Dân cư và lao động
Dân cư là nhân tố quan trọng đối với hoạt động du lịch: vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu thụ gắn với nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch. Dân số càng đông, lực lượng lao động tham gia càng nhiều thì du lịch càng có điều kiện phát triển.
Các nhân tố chính trị, chính sách Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Để phát triển du lịch, ngoài tài nguyên là cơ sở quan trọng, thì yếu tố con người và cơ chế có ý nghĩa quyết định:
Yếu tố chính trị có vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch ở một địa phương hay một quốc gia nào đó. Chính trị ổn định, an ninh trật tự đảm bảo an toàn cho du khách thì du lịch mới phát triển, mang lại hiệu quả cao. Và ngược lại, một địa phương hay quốc gia mà chính trị bất ổn định thì chẳng ai dám đến tham quan và ngành du lịch sẽ không phát triển được.
Chính sách phát triển du lịch nói riêng và chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung của mỗi địa phương, mỗi quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành du lịch. Đặc biệt trong lĩnh vực kêu gọi đầu tư, nếu chính sách mở cửa thông thoáng, hướng tới hội nhập cùng phát triển thì sẽ có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm cung cấp nguồn vốn giúp ngành du lịch phát triển mạnh. Từ đó, dịch vụ du lịch sẽ phát triển phong phú với nhiều loại hình và sản phẩm du lịch, lượng du khách tăng làm tăng doanh thu du lịch mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu địa phương hoặc quốc gia không có những chính sách mở cửa, ưu đãi, giảm thuế cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư thì du lịch của địa phương, quốc gia đó sẽ gặp khó khăn trong việc phát triển để cạnh tranh với những nơi khác.
Ngành du lịch là ngành mang tính chất quốc tế hoá cao, cần có sự liên kết các nước, hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc. Không thể phát triển du lịch trong một nước, một khu vực mà cần mở rộng trên tất cả các quốc gia.
Cơ quan điều khiển và lực lượng lao động du lịch
Tổ chức quản lý nhà nước và nguồn lao động du lịch là nguồn tài nguyên giữ vai trò quan trọng và mang tính quyết định của sự phát triển du lịch mỗi quốc gia, mỗi địa phương.
Ở các địa phương có bộ máy quản lý nhà nước du lịch hoàn hảo, chuyên môn nghiệp vụ cao, phẩm chất tốt làm việc hiệu quả thì ngành du lịch phát triển tốt. Số lượng, chất lượng, phẩm chất của người lao động trong ngành du lịch cũng rất quan trọng, họ quyết định đẳng cấp của sản phẩm du lịch và thu hút được khách du lịch. Chính vì điều đó, mỗi quốc gia và mỗi địa phương cần có chiến lược phát triển, bồi dưỡng, sử dụng nhân lực phù hợp, đúng đắn để phát triển du lịch.
Cơ sở hạ tầng Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Bao gồm giao thông, điện, nước, phương tiện thông tin… là tiền đề cho mọi hoạt động kinh tế, trong đó có du lịch. Đây là nguồn lực quan trọng, tạo sức hấp dẫn đối với du khách và thuận lợi cho phát triển du lịch.
Trong các điều kiện, cơ sở hạ tầng giao thông là quan trọng nhất trong hoạt động du lịch vì:
- Đảm bảo sự di chuyển của con người trong quá trình du lịch
- Tạo điều kiện khai thác sớm và có hiệu quả các tài nguyên du lịch
Du Lịch có điều kiện trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội các nước phát triển, các nước mới phát triển hệ thống giao thông đồng bộ, hệ thống thông tin hiện đại đã tạo ra các tiện ích, rút ngắn khoảng cách về không gian, giảm giá thành sản phẩm cho du khách. Đây là những điều kiện thuận lợi, hấp dẫn du khách và hoạt động kinh doanh du lịch. Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, hệ thống giao thông chưa tốt làm hạn chế việc khai thác tài nguyên du lịch và triển khai hoạt động du lịch.
Điều kiện vật chất kỹ thuật du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cung cấp các sản phẩm du lịch, đáp ứng các nhu cầu về ăn uống, lưu trú, mua bán, thể thao, y tế, các công trình phục vụ thông tin văn hoá….
Cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò đảm bảo cho du lịch hoạt động bình thường, tạo ra tiện nghi hấp dẫn du khách. Hoạt động du lịch tại một địa phương, một quốc gia có phát triển hay không, mức độ hấp dẫn du khách phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Ở nước ta, những năm gần đây đã quan tâm đầu tư để phát triển du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được cải thiện đáng kể. Tuy vậy, so với các nước phát triển thì cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của ta còn quá nghèo nàn, chất lượng thấp, thiếu các khu du lịch, khách sạn, nhà hàng, nhất là khu vui chơi giải trí, khu mua sắm có chất lượng cao. Ngoài ra việc xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch thiếu quy hoạch, hoặc quy hoạch chưa tốt, đã tác động không tốt đến tài nguyên môi trường và làm giảm hiệu quả kinh doanh. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
Các hoạt động marketing du lịch
Do đặc điểm sản phẩm du lịch thường không thể trưng bày, vận chuyển đến nơi người tiêu dùng, mà công tác marketing du lịch đóng một vai trò quan trọng để giới thiệu cho khách du lịch biết được thông tin để chọn lựa nơi đến và các nhà kinh doanh biết để họ quyết định địa điểm đầu tư. Hoạt động marketing có thể nói là cầu nối giữa khách, nhà đầu tư và địa bàn du lịch, cung cấp cho khách và nhà đầu tư du lịch những thông tin về tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, các dịch vụ du lịch, giá cả, môi trường du lịch… Những nước có nền du lịch phát triển tốt thường trích khoảng 6-8% doanh thu du lịch để xúc tiến, quảng bá phát triển du lịch.
1.2.1.2. Các nhân tố bên ngoài
Thị trường khách du lịch
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động du lịch. Ngành du lịch có duy trì hoạt động và phát triển hay không là phụ thuộc vào lượng khách và thị trường khách du lịch. Tùy vào các loại hình và sản phẩm du lịch ở từng điểm, từng khu du lịch, từng địa phương hay từng quốc gia mà có thị trường khách du lịch khác nhau. Thị trường khách du lịch bao gồm thị trường khách du lịch nội địa và thị trường khách du lịch quốc tế.
Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch
Vấn đề đô thị hóa, công nghiệp hóa, kéo dài tuổi thọ… là những nguyên nhân của nhu cầu nghỉ ngơi du lịch.
Đô thị hoá tạo nên lối sống đặc biệt, lối sống “thành thị”. Quá trình đô thị hoá tạo điều kiện thay đổi đời sống vật chất và văn hoá cho con người theo hướng tích cực. Tuy nhiên, quá trình này còn dẫn tới sự thay đổi điều kiện tự nhiên, tách con người ra khỏi thiên nhiên bao quanh, làm thay đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và cuộc sống của con người. Mật độ dân số cao, lượng thông tin quá nhiều, tần số tiếp xúc lớn, giao thông ách tắc… là những nguyên nhân gây căng thẳng thần kinh, bệnh trầm cảm. Các nghiên cứu cho thấy cư dân tại các đô thị và các khu có mật độ tập trung, nhu cầu du lịch cao hơn nhiều so với nông thôn. Họ muốn đến những nơi có môi trường trong lành, yên tỉnh để nghỉ dưỡng, thư giản nhằm phục hồi sức khoẻ thể chất và tinh thần. Cần nghiên cứu nhu cầu nghỉ ngơi để có kế hoạch phát triển ngành du lịch hiệu quả.
Thời gian nhàn rỗi
Được sự trợ giúp của máy móc, năng suất lao động tăng cao, con người có thể hoàn thành khối lượng các công việc sản xuất, phục vụ một cách nhanh chóng và phần thời gian còn lại dành cho du lịch, nghỉ ngơi. Hiện nay thời gian làm việc giảm, ở nhiều nước trong đó có Việt Nam quy định mỗi tuần chỉ làm việc 5 ngày, mỗi năm có số ngày nghỉ tổng cộng có thể đạt 120-130 ngày. Mặt khác, xã hội đang phát triển các ngành dịch vụ, sản xuất nhiều máy móc phục vụ trong đời sống và công việc gia đình, nội trợ như máy giặt, thức ăn chế biến sẵn, máy móc hỗ trợ khác… cho nên con người càng ngày càng có nhiều thời gian hơn cho du lịch.
Sự bùng nổ khoa học kỹ thuật và phát triển của các ngành kinh tế
Sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghiệp phát triển và tự động hóa quá trình sản xuất là những nguyên nhân vừa trực tiếp vừa gián tiếp cho việc phát triển du lịch. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ phát triển tạo điều kiện nhiều mặt cho du lịch phát triển. Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng hoạt động du lịch tại khu du lịch Yên Tử
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Phát triển du lịch tại khu di tích Đông Yên Tử […]