Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: một số phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
3.1.1. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập
Sự phát triển kinh tế là nguyên nhân trước hết dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật; đồng thời sự phát triển kinh tế cũng sẽ là nhân tố quyết định nội dung, bản chất, hình thức, xu hướng vận động của pháp luật. Đúng như C. Mác đã nhận xét: “Trong thời đại nào cũng thế, chính vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự chỉ là việc nói lên, ghi chép lại những quyền lực về kinh tế” [31, tr. 93].
Mặc dù pháp luật phù thuộc vào kinh tế, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối, tác động ngược lại kinh tế. Sự tác động này có thể thúc đẩy một cách tích cực cho sự phát triển của kinh tế và có thể tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Vì thế, yêu cầu cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật hình sự, trong đó có hình phạt trục xuất nói riêng, trước hết xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi của các quan hệ kinh tế hiện nay.
Trong quá trình đổi mới hơn 20 năm qua, Việt Nam đã đặt được những thành tựu kinh tế-xã hội to lớn và có ý nghĩa lịch sử, “kinh tế tăng trưởng khá mạnh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường” [15, tr. 67]. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Hiện nay, hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước trên thế giới, trong đó có tất cả các nước lớn, kể cả 5 quốc gia – là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và trung tâm chính trị – kinh tế quan trọng. Chúng ta cũng có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và lãnh thổ, quan hệ đầu tư phát triển với trên 40 nước; thị trường ngày càng mở rộng; đối tác ngày càng nhiều, quan hệ tài chính tiền tệ với các tổ chức quốc tế và các nước được khai thông; tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển đáng kể. Đồng thời, chúng ta còn phải tiếp tục giải quyết những vấn đề khác phức tạp như vấn đề lãnh thổ, vấn đề nhân quyền, vấn đề tôn giáo… Hơn nữa, tình hình của thế giới ngày nay cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới mà Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đầy đủ và xử lý tích cực, kịp thời. Một thành tựu nổi bật trong mấy năm gần đây là những hoạt động của Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO. Chúng ta đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, và các cam kết đa phương….
Hội nhập quốc tế gắn với mở cửa thị trường và tự do hóa kinh tế là một xu hướng tất yếu diễn ra hết sức mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Trong xu thế đó Việt Nam đã chủ động tham gia tích cực vào quá trình hội nhập, đem cho nền kinh tế quốc gia nhiều lợi ích và cũng đặt nước ta trước những thách thức lớn trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội.
Tình hình này đã kéo theo một thực trạng là người nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh, buôn bán, hoạt động ngoại giao, du lịch hoặc sinh sống ngày càng nhiều, kéo theo hiện tượng vi phạm pháp luật Việt Nam một cách cố ý hoặc vô ý gia tăng, gây ảnh hưởng đến an ninh và trật tự trong nước, cũng như tác động xấu đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước có người nước ngoài mang quốc tịch. Các tổ chức tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia cũng bắt đầu xuất hiện và gây nên tình trạng hỗn loạn. Do những quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến hình phạt trục xuất hiện nay còn lỏng lẻo, không rõ ràng nên chưa mang được nội dung răn đe đối với tội phạm nước ngoài. Số vụ án liên quan đến người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước ta ngày càng diễn ra phức tạp và vô cùng khó khăn để xử lý, xét cả trên mặt ngoại giao và công tác xét xử của các cơ quan có thẩm quyền. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, nhưng vẫn giữ được trật tự pháp luật trong nước và quan hệ ngoại giao, hoàn thiện pháp luật, trong đó có hoàn thiện pháp luật liên quan đến trục xuất, để tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hình phạt trục xuất cần phải được hoàn thiện để có thể theo kịp và phản ánh phù hợp với những biến đổi của tình hình kinh tế – xã hội khách quan quy định những đặc điểm cơ bản của tình hình tội phạm trong giai đoạn phát triển cụ thể của đời sống xã hội.
Những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra cho Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn, trong đó có cả sự tác động đối với hệ thống pháp luật phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm nước ngoài nói riêng.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, góp phần đảm bảo sự hợp lý giữa các quy định của pháp luật hình sự về trục xuất với các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên hoặc đã ký và phê chuẩn, chế định hình phạt và hình phạt trục xuất phải có tính thống nhất, đồng bộ, ổn định, công khai, minh bạch, phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế. Điều này chỉ có được khi Nhà nước ta thực hiện những công việc cần thiết để tiếp tục hoàn thiện chế định hình phạt, trong đó có hình phạt trục xuất.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đầy khó khăn và do đó, không tránh khỏi sự thăng trầm. Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây, cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi đến những năm đổi mới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới trở thành một khái niệm chính trị – pháp lý chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hóa trong sự nghiệp đổi mới và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị – pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nghị quyết 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đánh giá:
Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế đảm bảo thi hành pháp luật còn thiếu và yếu [14]. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã viết:
Một xã hội có kỷ cương, kỷ luật phải được xây dựng trên ý thức tuân thủ pháp luật ngày càng cao của mọi người, giáo dục mọi thành viên và các cộng đồng trong xã hội thói quen và nếp sống tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Đó là một nội dung không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền [35, tr. 89].
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, giải quyết đúng đắn các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Căn cứ vào những đặc trưng của nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm chỉnh, trong đó có pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất. Những yêu cầu hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất nhằm đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền và công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay là:
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất phải được đặt trong tổng thể chiến lược kinh tế-xã hội, công cuộc cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất phải được xây dựng trên nền tảng của các nguyên tắc pháp lý tiến bộ của nhân loại, như bình đẳng, công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế;
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất phải đề cao vai trò của pháp luật, tuân thủ pháp luật trong đời sống xã hội;
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất phải bảo đảm chủ quyền của nhân dân; phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do và dân chủ của con người.
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tình hình tội phạm trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp và có xu hướng phát triển.
- Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất phải đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nhưng vẫn phải chú trọng đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước có người nước ngoài bị áp dụng hình phạt trục xuất.
3.1.3. Nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm nước ngoài; góp phần làm cho tội phạm ổn định và loại trừ tội phạm Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Do chính sách mở cửa của Nhà nước ta trong những năm gần đây, số lượng người nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, với nhiều mục đích khác nhau và không ít người trong số họ, do cả cố ý lẫn vô ý đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Một trong những hình phạt đối với họ là trục xuất. Tuy nhiên, không phải trong bất kỳ trường hợp nào người nước ngoài cũng bị áp dụng hình phạt trục xuất, mà chỉ trong những trường hợp cần thiết. Vì vậy, khi áp dụng hình phạt trục xuất, thì nhất thiết hình phạt đấy phải thể hiện được tính răn đe, giáo dục của nó, phát huy được tác dụng một cách tối đa.
Hình phạt trục xuất buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, do đó, tính nghiêm khắc của nó là khá lớn, đặc biệt là khi nó được áp dụng với tư cách là hình phạt bổ sung, vì nó không những buộc người nước ngoài phải dừng những hoạt động đang dang dở ở Việt Nam mà còn buộc người phạm tội phải chịu án tích, cho nên trong nhiều trường hợp, việc áp dụng hình phạt trục xuất có tác dụng ngăn chặn và giảm bớt tội phạm, buộc người nước ngoài khi có những hành vi trái pháp luật phải ý thức được hậu quả pháp lý có thể xảy đến với mình và tự điều chỉnh hành vi của mình không vượt qua đường biên của việc phạm tội.
3.1.4. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất trong thời gian qua
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 được thi hành đã gần một thập kỷ đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ các quyền và tự do của công dân cũng như các lợi ích của nhà nước và xã hội. Hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 là một hình phạt mới được quy định cho đến nay được hơn 10 năm, nhưng thực tế áp dụng hình phạt này thì rất hạn chế. Các quy phạm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hình phạt này cho đến thời điểm hiện nay là rất ít, thiếu cụ thể và đồng bộ. Luật không quy định cụ thể cách thức áp dụng, cũng như không quy định các điều luật cụ thể áp dụng hình phạt trục xuất trong phần riêng của Bộ luật hình sự, mà do Tòa án căn cứ vào các tình tiết cụ thể để xử lý nên dẫn đến sự tùy tiện. Không có giới hạn xử lý nên các nhà làm luật cũng không tìm ra được tiêu chí để thực thi hình phạt. Những hạn chế này đã được tác giả nêu trong chương 2 của luận án. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật trục xuất là nhằm khắc phục các khuyết điểm đó, và đồng thời cũng là để nhằm mục đích hiện đại hóa bản thân cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và vì hiệu quả của cuộc đấu tranh đó.
Trục xuất là một trong những hình phạt nghiêm khắc đối với người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, tuy nhiên trong công tác áp dụng thì vẫn còn nhiều bất cập. Việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến trục xuất là một đòi hỏi khách quan. Đây không chỉ là phương pháp trấn áp tội phạm mà còn là sự thể hiện quan điểm đối ngoại của Việt Nam. Tuy mềm mỏng nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống tội phạm. Trong hơn 10 năm đi vào thực tiễn, hình phạt trục xuất vẫn chưa phát huy được tác dụng của nó trong công tác phòng chống tội phạm. Số vụ án của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam vẫn diễn ra liên tục và ngày càng có xu hướng gia tăng theo chiều hướng phức tạp hơn. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trừng trị người nước ngoài phạm tội nói chung, hoàn thiện pháp luật trục xuất nói riêng là việc không thể chậm trễ trong thời kỳ hộp nhập như hiện nay của nước ta.
Tóm lại, trên cơ sở những luận điểm đã được phân tích ở trên, tác giả cho rằng hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, để việc hoàn thiện hình phạt trục xuất đáp ứng được các yêu cầu khách quan nói trên, cần phải dựa trên những định hướng nhất định.
3.2 . NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
Bằng việc pháp điển hóa lần thứ hai luật hình sự Việt Nam, các nhà làm luật nước ta trong Bộ luật hình sự 1999 đã ghi nhận hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung, và định nghĩa trục xuất là “buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy phạm của hình phạt này trong pháp luật hình sự hiện hành chúng ta thấy các quy định về hình phạt này còn nhiều hạn chế và chưa thể hiện được mục đích của hình phạt này. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tôi xin phép được đề ra một số kiến giải lập pháp và mô hình lý luận của hình phạt trục xuất dưới góc độ nhận thức – khoa học về sự cần thiết phải hoàn thiện hình phạt này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Thứ nhất, Về khái niệm “người nước ngoài” theo quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự 1999. Cần phân biệt rõ thành hai loại đối tượng, đó là “người có quốc tịch nước khác không phải Việt Nam” và ” người không có quốc tịch”. Theo đó:
Người có quốc tịch nước khác không phải Việt Nam: là người mang một hoặc nhiều quốc tịch của nước hoặc vùng lãnh thổ khác Việt Nam, được hưởng các quyền công dân theo pháp luật nước người đó có quốc tịch quy định.
Người không có quốc tịch: là tình trạng một người do thôi quốc tịch cũ hoặc do bị tước quốc tịch cũ nhưng chưa xin được vào quốc tịch của nước khác, hoặc do có sự khác nhau giữa luật về quốc tịch của các nước nên không có quốc tịch của nước nào cả.
Thứ hai, hình phạt trục xuất được quy định là vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung, nhưng lại chưa quy định cụ thể trong những trường hợp nào thì áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính, trường hợp nào áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách hình phạt bổ sung, và mức độ cụ thể của từng loại hình phạt cũng chưa được giới hạn.
Nếu chỉ quy định hình phạt trục xuất là hình phạt chính thì không vấn đề gì, nhưng nếu quy định hình phạt trục xuất là hình phạt bổ sung thì vấn đề là nó được áp dụng kèm theo những loại hình phạt chính nào, mức độ của hành vi phạm tội đến mức độ nào thì áp dụng hình phạt trục xuất… Trên thực tế, khi áp dụng hình phạt trục xuất với tính chất là hình phạt bổ sung thì có nghĩa là mức độ nghiêm trọng của tội phạm lớn hơn khi được áp dụng là hình phạt chính. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là hình phạt trục xuất mục đích chính của nó là buộc người nước ngoài rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, nên nếu hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc cải tạo không giam giữ thì ý nghĩa của hình phạt trục xuất không còn nữa, vì các hình phạt chính đã nhằm mục đích giáo dục cải tạo người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, vậy nên nếu áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt bổ sung thì phải mang được tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Theo ý kiến chủ quan của chúng tôi thì trong Bộ luật hình sự nên quy định rõ ràng từng trường hợp cụ thể áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính, hình phạt bổ sung. Cụ thể: Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Đối với tính chất là hình phạt chính: chỉ nên quy định hình phạt trục xuất đối với những tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng do vô ý. Bởi vì tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã xảy ra chưa đến mức đặc biệt nghiêm trọng, có thể do thiếu hiểu biết về luật pháp của Việt Nam, cũng có thể do cố ý gây ra nhưng hậu quả không đáng kể. Việc quyết định trục xuất người phạm tội trong trường hợp này nhằm mục đích ngăn ngừa tội phạm, đồng thời cũng được xem như một biện pháp nhân đạo đối với người phạm tội. Một thực tế là, trục xuất bên cạnh được áp dụng với tư cách là hình phạt được quy định trong luật hình sự thì còn được áp dụng với tư cách là biện pháp hành chính trong luật hành chính. Nhưng vì tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong luật hình sự khác hẳn với tính chất vi phạm trong luật hành chính, chỉ là những vi phạm những quy định mà pháp luật hành chính đã quy định, thì hình phạt trục xuất là sự vi phạm những chế tài cụ thể được quy định trong các điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật hình sự, chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự mà thôi. Do đó, khi áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính, mức độ nghiêm khắc của nó đối với người phạm tội là lớn hơn hẳn.
Đối với tính chất là hình phạt bổ sung: theo tác giả nên quy định trục xuất với tính chất là hình phạt bổ sung chỉ áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng và bị xử phạt tiền, tù có thời hạn hoặc tù chung thân (được giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo Điều 58 Bộ luật hình sự). Đối với những loại tội phạm này, khi thực hiện hành vi phạm tội là đã tác động đến những quan hệ xã hội rất nghiêm trọng, bởi vậy, họ cũng phải chịu những chế tài như một người phạm tội bình thường phải chịu, và phải chấp hành đầy đủ những hình phạt mà luật đã quy định họ phải chịu. Tuy nhiên, vì họ là người nước ngoài, trong nhiều trường hợp, áp dụng hình phạt trục xuất đối với họ sau khi đã thụ hình là một biện pháp đúng đắn. Hiện nay, tình trạng người nước ngoài vào Việt Nam phạm tội một cách có chủ đích ngày càng gia tăng, diễn biến một cách phức tạp, không những ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an ninh kinh tế, tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân ta mà còn nhằm mục đích gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền của dân tộc ta. Đối với những loại tội phạm này, cách xử lý tốt nhất là buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, nhằm phòng ngừa những hành vi phạm tội có thể xảy ra sau khi họ chấp hành xong hình phạt.
Thứ ba, về thời hạn trục xuất Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Đồng thời Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng cần phải quy định rõ mức thấp nhất và mức cao nhất về mặt thời hạn người bị trục xuất được phép quay trở lại Việt Nam, tùy vào từng loại tội phạm mà nhà làm luật quy định thời hạn từ 5 năm đến 15 năm hoặc vĩnh viễn. Trên cơ sở các quy định tại Điều 32, nhà làm luật cần cân nhắc quy định cụ thể hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính hoặc là hình phạt bổ sung với các tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Có thể áp dụng thời hạn trục xuất như cách thức áp dụng đối với từng loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, trong đó mức thời hạn áp dụng thời hạn trục xuất là buộc người nước ngoài phạm tội vĩnh viễn không được quay trở lại Việt Nam, đặc biệt là đối với tội danh chống phá Nhà nước (mức độ nghiêm trọng và bị áp dụng với tính chất là hình phạt bổ sung), chống loài người…
Thứ tư, ngoài việc quy định rõ nội dung, điều kiện, phạm vi và thời hạn của hình phạt trục xuất, Bộ luật hình sự nước ta cũng cần phải quy định rõ thời hiệu thi hành án, xóa án tích, miễn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án trục xuất. Đây là những chế định nhân đạo thể hiện không chỉ trong luật hình sự Việt Nam mà còn trong luật hình sự đa số các nước trên thế giới có quy định loại hình phạt này.
Trên cơ sở những nhận xét và kiến nghị này, dưới góc độ nhận thức – khoa học, chúng tôi xin đưa ra mô hình lý luận của hình phạt trục xuất như sau:
Điều…: Hình phạt trục xuất (mới)
Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt Nam trong thời gian nhất định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia; bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.
Điều…: Điều kiện áp dụng hình phạt trục xuất (mới)
- Với tính chất là hình phạt chính: hình phạt trục xuất được áp dụng đối với những tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng do vô ý.
- Với tính chất là hình phạt bổ sung: hình phạt trục xuất được áp dụng với những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Điều…: Quyền và nghĩa vụ của người bị trục xuất (mới)
- Người bị trục xuất có quyền:
- Được kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong các trường hợp: (Khoản 1 Điều 4 Nghị định 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất).
- Khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, người bị trục xuất được mang theo tài sản hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp người phạm tội thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự được giải quyết bằng con đường ngoại giao giữa hai nước.
- Người bị trục xuất có nghĩa vụ: (Điều 3 Nghị định 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất)
3.3. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
3.3.1. Các giải pháp về mặt lập pháp
3.3.1.1. Đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất
Phải quy định cụ thể, chính xác nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng cũng như giới hạn tối thiểu và tối đa của nó.
Như đã trình bày ở phần trên về nội dung sửa đổi, bổ sung hình phạt trục xuất, thì đây là loại hình phạt không quy định rõ ràng phạm vi, điều kiện áp dụng nó. Đây là yêu cầu của nguyên tắc pháp chế về quy định hình phạt. Việc này rất quan trọng nhằm đảm bảo sự công bằng trong quyết định hình phạt, tránh sự tùy tiện, áp dụng hình phạt không thống nhất.
Bộ luật hình sự nước ta đã quy định rõ các mức cụ thể (giới hạn) của các hình phạt. Việc quy định mức tối thiểu và tối đa của từng loại hình phạt dựa trên các quan niệm về công bằng cần thiết, về sự nghiêm khắc cần thiết đảm bảo cho các chế tài của luật hình sự có hiệu quả cao. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung, vì vậy, cần phải xác định được mức độ nguy hiểm của hành vi tương xứng với giới hạn của hình phạt để quyết định hình phạt một cách công bằng và hợp lý. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Phải quy định hình phạt trục xuất đối với từng loại tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đảm bảo nguyên tắc tương xứng giữa mức độ nghiêm trọng của tội phạm và mức độ nghiêm khắc của chế tài, đồng thời đảm bảo sự tương ứng và hợp lý giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung giữa các tội với nhau trong phần các tội phạm, đảm bảo tính thống nhất với các quy định tương ứng trong phần chung của Bộ luật hình sự, tránh sự mâu thuẫn không đáng có giữa hai phần.
Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất phải phù hợp với Hiến pháp 1992, đồng thời đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các đạo luật có liên quan trong hệ thống pháp luật nước ta. Hiến pháp 1992 có vị trí và vai trò là đạo luật tối cao của Nhà nước, nên mọi sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất nói riêng bắt buộc phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
3.3.1.2. Đảm bảo quán triệt đường lối, chính sách hình sự đi đôi với chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta
Mặt khác, pháp luật hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật trong hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm. Cho nên việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt nói chung và hình phạt trục xuất nói riêng cần phải tiến hành đồng thời với việc cải cách hệ thống tư pháp hình sự và đổi mới một cách đồng bộ, thống nhất các chế định thuộc pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự nước ta. Nếu không tiến hành đồng thời các biện pháp này sẽ dẫn đến tình trạng để lại hoặc tạo ra những khoảng trống, không được pháp luật điều chỉnh, hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến các yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì thế, bất cứ sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nào liên quan đến hình phạt trục xuất cũng phải đi liền với việc nghiên cứu, rà soát, đối chiếu với các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan.
Hoàn thiện hình phạt trục xuất phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự, kế thừa và phát triển những bài học đấu tranh phòng chống tội phạm nước ngoài ở nước ta trong thời gian qua và dự kiến tình hình, diễn biến của tội phạm trong thời gian tới.
Hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất phải phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội và quan điểm phòng, chống tội phạm của nước ta. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Trong quá trình đổi mới, hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và hình phạt trục xuất nói riêng cần phải nghiên cứu, nhận thức, quán triệt sâu sắc hệ thống các quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng chống tội phạm, để quá trình này đi đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam. Các hệ thống quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) và nhất là trong các Nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bên cạnh đó, việc xử lý người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam lại ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại và đường lối ngoại giao giữa Việt Nam và nước có người nước ngoài phạm tội. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất không thể không chú trọng đến các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, công nhận cũng như các thỏa thuận giữa Việt Nam và nước có người nước ngoài phạm tội.
Làm tốt việc kết hợp giữa chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm với đường lối ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta sẽ làm tăng hiệu quả của hình phạt trục xuất lên, hạn chế tội phạm và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.
3.3.1.3. Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình sự nước ngoài
Hiện nay, trong một thế giới phát triển rất nhanh với các mối quan hệ giao lưu đan xen thì rất nhiều các vấn đề pháp lý phát sinh cần được nghiên cứu giải quyết. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này tác động không chỉ về các vấn đề kinh tế, thương mại mà nó có tác động lên cả hệ thống pháp luật và tư pháp trong nước. “Trong thế giới toàn cầu hóa, khi mà các hệ thống chính trị, kinh tế và kể cả văn hóa luôn có xu hướng xích lại gần nhau thì mỗi hệ thống pháp luật không thể tồn tại một cách xa lạ nhau, khác biệt nhau, thậm chí đối lập nhau”.
Như vậy, hội nhập kinh tế luôn luôn đi kèm theo là sự hội nhập về pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự, là hệ quả tất nhiên của nó. Quá trình hội nhập quốc tế không chỉ góp phần làm cho nền kinh tế- xã hội của đất nước phát triển, mà còn cho chúng ta có những điều kiện và cơ hội trong việc học hỏi, nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt của các nước trên thế giới để tìm kiếm những mô hình, những giải pháp pháp luật có thể tiếp thu, vận dụng vào Việt Nam, đáp ứng được xu hướng chung của thế giới đương đại. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Là một nước đi sau trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta có một lợi thế là có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm của nước khác về lập pháp hình sự để xây dựng cho Việt Nam. Tuy nhiên, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài không có nghĩa là sao chép, bê nguyên xi mô hình của nước ngoài vào áp dụng tại Việt Nam, mà tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài phải có chọn lọc, phải chắt lọc được những hạt nhân hợp lý phù hợp với trình độ phát triển chính trị, kinh tế – văn hóa – xã hội, các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc và các yêu cầu khác của quá trình phát triển đất nước. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam cũng rất ủng hộ việc nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, nhưng lưu ý là phải “tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội trong tương lai”
3.3.2. Giải pháp về mặt thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất
3.3.2.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp
- Về giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật
Trong thời gian vừa qua, mặc dù quy định của Bộ luật hình sự còn có những cách hiểu khác nhau dẫn đến có những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở Tòa án các cấp nhưng lại không có sự giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không có hướng dẫn hoặc nếu có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì lại chậm, phần nào ảnh hưởng tới chất lượng giải quyết, xét xử các loại án của các Tòa án các cấp [53, tr. 11].
Hiện nay, ngoài Nghị định 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất thì chưa có bất kỳ một văn bản nào khác hướng dẫn thi hành hình phạt này. Còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ trong Nghị định 54/2001/NĐ-CP, dẫn đến việc khó khăn trong việc áp dụng hình phạt trục xuất của các cơ quan chức năng. Việc này đòi hỏi các nhà nghiên cứu lập pháp phải tổng hợp những vấn đề cần thiết khi tiến hành áp dụng hình phạt này đưa ra để làm sáng tỏ thêm các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt này trong thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
- Tăng cường công tác giám đốc xét xử, thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt bổ sung của các Tòa án các cấp
Theo Điều 134 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hóa tại Điều 21 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới; Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án trong cả nước để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Giám đốc xét xử thực chất là việc kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, thông qua đó mà uốn nắn, sửa chữa những sai sót, lệch lạc của Tòa án cấp dưới. Công tác giám đốc của Tòa án cấp trên thường được thực hiện thông qua các hoạt động xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. “Đồng thời việc kiểm tra, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử cũng là những biện pháp thực hiện việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới” [28, tr. 42].
Nghiên cứu cho thấy, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung một phần là do công tác giám đốc, kiểm tra, thanh tra hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tối cao cũng như các Tòa án cấp trên làm chưa tốt.
Trong phạm vi thực hiện chức năng giám đốc xét xử, Tòa án nhân dân tối cao cần thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra công tác xét xử của các Tòa án địa phương; các Tòa án cấp tỉnh duy trì chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất các bản án đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp huyện. Trong kiểm tra, các Tòa án cấp trên cần chú ý, quan tâm đến việc áp dụng hình phạt trục xuất của các Tòa án các cấp để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh rút kinh nghiệm.
Mặt khác, cần tăng cường công tác quản lý cán bộ, quản lý nghiệp vụ, giáo dục, nâng cao ý thức chính trị và trách nhiệm công vụ trong các Tòa án các cấp; thường xuyên, kịp thời kiểm tra, uốn nắn những sai phạm trong nghiệp vụ hoặc những biểu hiện không khách quan, vô tư trong công tác của Thẩm phán và cán bộ Tòa án; xử lý nghiêm minh và kịp thời các sai sót, tiêu cực của các cá nhân cán bộ, công chức của Tòa án trong hoạt động xét xử để từng bước xây dựng nền tư pháp nước ta trong sạch và vững mạnh. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
3.3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án trục xuất
Hệ thống cơ quản lý nhà nước về thi hành án phạt tù có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội – một vấn đề có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xuất phát từ điều kiện chính trị, xã hội và mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của các nước có sự khác nhau nên hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án nói chung và thi hành án trục xuất nói riêng cũng có sự khác nhau nhất định. Nhìn chung, hiện nay các nước đều tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án trục xuất thuộc hệ thống tổ chức bộ máy công, do nhà nước đảm nhiệm. Hệ thống các cơ quan Thi hành án phạt tù ở các nước thuộc nhiều bộ khác nhau của chính phủ như Bộ Tư pháp (Nhật Bản, Thụy Điển, Bỉ, Italia, Pháp, Nhật Bản, Canada…), Bộ Nội vụ (Anh).
Ở nước ta hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án trục xuất do Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an thực hiện trên cơ sở phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc trục xuất người phạm tội. Trường hợp người bị trục xuất chưa có khả năng tự chịu chi phí về phương tiện xuất cảnh thì cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh có thể yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người đó là công dân giải quyết kinh phí đưa người bị trục xuất về nước; trường hợp vẫn chưa giải quyết được kinh phí hoặc vì lý do cấp bách bảo vệ an ninh quốc gia thì cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh được sử dụng ngân sách nhà nước để trả chi phí về phương tiện xuất cảnh với mức thấp nhất để buộc người bị trục xuất nhanh chóng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một quỹ ngân sách riêng để sử dụng trong việc trục xuất người nước ngoài khỏi Việt Nam. Vì vậy, vấn đề quan trọng trong công tác thi hành hình phạt trục xuất đó là phải xây dựng một quỹ riêng để sử dụng trong trường hợp cần thiết, nhất là khi người phạm tội là người không có quốc tịch, không thể yêu cầu cơ quan đại diện nào chi trả chi phí xuất cảnh cho người phạm tội được.
3.3.2.3. Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật
Khi đánh giá về công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng đã nhấn mạnh những hạn chế, yếu kém của công tác này về số lượng, về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức.
Do đó, xây dựng được đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch và vững mạnh là nhiệm vụ chủ yếu và vô cùng quan trọng trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch và vững mạnh phải là đội ngũ cán bộ có năng lực nghề nghiệp vững vàng. Năng lực này được cấu thành bởi nhiều yếu tố như trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp, kỹ năng, trình độ nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, ý thức pháp luật; phẩm chất đạo đức nghề nghiệp… Để thực hiện yêu cầu trên, chúng tôi cho rằng vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay là cần tăng cường về số lượng, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ chính trị, đạo đức nghề nghiệp và ý thức pháp luật của các cán bộ tư pháp nói chung. Các cơ quan tư pháp cần tổng điều tra, thống kê, nhận xét, đánh giá toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật của ngành mình, như: số lượng cán bộ, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ của cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh. Cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về các mặt chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ chính trị để nâng cao năng lực của các cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối với mỗi loại chức danh cán bộ làm công tác pháp luật ở các cơ quan tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Chấp hành viên) đòi hỏi về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng khác nhau, nên cần phải quan tâm đến tính đặc thù của từng chức danh cán bộ thực thi pháp luật để có chương trình và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
Trong các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử chiếm vị trí trung tâm, giữ vai trò quan trọng nhất. Hoạt động này chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tư duy của Thẩm phán- “là người có trách nhiệm cầm cân công lý, làm tôn trọng nguyên tắc hợp pháp trong xã hội”, là người “phục công thủ pháp, chí công vô tư”. Trong thời gian tới, như Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh, cần phải:
Nâng cao trình độ ngoại ngữ, kiến thức, kinh nghiệm trong đối ngoại, hiểu biết về pháp luật quốc tế, kỹ năng sử dụng các loại phương tiện máy móc cùng với việc trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ việc giải quyết các vấn đề về tội phạm mới của cán bộ thực thi pháp luật. Bởi vì thực tế là trình độ cũng như kinh nghiệm của cán bộ thực thi pháp luật nói chung và cán bộ tòa án nói riêng còn rất hạn chế, đặc biệt là đội ngũ cán bộ điều tra ở cơ sở. Vấn đề này đã và đang ảnh hưởng đến chất lượng xử lý những vụ án do các đối tượng là người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam, khiến loại tội phạm này có thêm điều kiện để trở nên phức tạp. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp, phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường trách nhiệm cá nhân… [13] đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ xét xử và các kiến thức bổ trợ khác như kinh tế, xã hội, ngoại ngữ, tin học; đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về tư pháp quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực.
Về công tác xây dựng đội ngũ công chức, ngành Tòa án cần phải có lộ trình từng bước đảm bảo có đủ về số lượng, bảo đảm về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là đội ngũ Thẩm phán. Phải xây dựng được “đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành” [14].
3.3.2.4. Tăng cường sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự với nước ngoài
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra: kế thừa pháp luật không có nghĩa là sự sao chép, ghi lại máy móc những quy định cũ mà theo nghĩa tích cực, nâng cao, phát triển, đưa lại cho các quy định tưởng như cũ đó một cách thể hiện mới, trong sáng, chính xác, hoàn chỉnh hơn.
Như trên đã trình bày, trong hoạt động lập pháp, nghiên cứu, sử dụng trực tiếp các kết quả của nghiên cứu so sánh pháp luật, trong đó có lĩnh vực hình sự là rất quan trọng và cần thiết. Nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài để nắm vững được những kinh nghiệm phong phú của các nước ngoài về điều chỉnh pháp luật đối với những vấn đề tương tự thuộc lĩnh vực hình sự nước ta, đồng thời trên cơ sở đó mà hoàn thiện những quy phạm, những chế định cần thiết, trong đó có chế định hình phạt bổ sung phù hợp với trình độ và điều kiện của nước ta. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Trong quá trình pháp điển hóa pháp luật hình sự, với việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây và hiện nay và học tập những điểm tích cực của pháp luật của các nước tư bản, trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự. Tuy nhiên, có một thực tế là: hiện nay ở nước ta ngành luật so sánh (ngành luật đối chiếu) chưa mạnh; sự hạn chế về ngoại ngữ với phương pháp làm luật còn ít nhiều mang nặng tính “nghiệp dư” và nguồn tài liệu tham khảo của nước ngoài khá nghèo nàn, nên trong thực tế, nhà làm luật và các cơ quan có thẩm quyền của ta ít quan tâm tham khảo hoặc tham khảo chưa sâu pháp luật quốc tế và pháp luật có liên quan của nước ngoài trong quá trình xây dựng pháp luật quốc gia.
Việc lựa chọn hệ thống pháp luật nước ngoài để nghiên cứu chưa có tính toàn diện. Các mô hình luật hình sự của những quốc gia tiêu biểu cho các họ pháp luật lớn trên thế giới chưa được xem xét và vận dụng đầy đủ. Việc nghiên cứu còn chưa toàn diện, chủ yếu chỉ nghiên cứu các mô hình trong luật thực định còn pháp luật sống như thế nào thì lại thiếu vắng sự nghiên cứu, vì thế các mô hình đó, các giải pháp đó khó có thể khẳng định có phù hợp với tình hình kinh tế-văn hóa, chính trị xã hội ở Việt Nam không. Vì thế, tiếp tục tăng cường việc nghiên cứu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm nước ngoài về pháp luật hình sự là một đòi hỏi khách quan để hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất nói riêng của Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, có nhiều vấn đề liên quan đến hình phạt và hình phạt trục xuất mà Việt Nam cần phải nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, như: Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Hiện nay trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ, hội nhập quốc tế xuất hiện những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội cần tội phạm hóa và hình sự hóa, như: Tội phạm liên quan đến công nghệ cao, Tội phạm về kinh tế, chứng khoán, tội phạm về môi trường, tội phạm về ma túy và đến cả các tội phạm về an ninh quốc gia, tội phạm quốc tế…
Cần nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 “Ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống tham nhũng, các hiệp định tương trợ tư pháp. Chú trọng việc nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” [14].
Các hình phạt trong pháp luật hình sự nước ta, trong đó có hình phạt trục xuất cũng chưa hoàn thiện nên chưa phát huy được tốt vai trò của nó trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới hiện nay.
Chúng tôi cho rằng, các cấp các ngành, trước hết là cơ quan lập pháp, các cơ quan thực thi pháp luật cần phải tổ chức nghiên cứu, tham khảo, học tập, trao đổi kinh nghiệm của một số nước về hệ thống pháp luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt và hình phạt trục xuất, về tổ chức và hoạt động của ngành mình, về kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm, về các giải pháp pháp lý được áp dụng trong thực tiễn xét xử, thông qua việc chuẩn bị kế hoạch, nội dung, chương trình cho các đoàn ra, đoàn vào và thực hiện các dự án, tổ chức hội thảo có mục đích, có hiệu quả.
Tổ chức phổ biến các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã ký kết có liên quan đến công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là ngành Tòa án.
Biên dịch các Bộ luật hình sự cũng như những văn bản pháp luật liên quan đến trục xuất của các nước nhất là các nước có nền tư pháp hình sự tiên tiến và gần gũi với chúng ta, trong đó có các nước ASEAN.
Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, đào tạo luật, đào tạo cán bộ tư pháp.
Nghiên cứu chế định hình phạt bổ sung trong luật hình sự của các nước có những điểm tương đồng với nước ta để tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về nó trong Bộ luật hình sự Việt Nam, bảo đảm yêu cầu về mặt lập pháp, lý luận và thực tiễn. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
3.3.3. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trục xuất
Bên cạnh những biện pháp cụ thể liên quan đến việc hoàn thiện những quy định liên quan đến hình phạt trục xuất, cũng như các biện pháp về việc củng cố năng lực của cán bộ tòa án, công tác thi hành án hình phạt trục xuất, chúng ta không thể không quan tâm đến việc hoàn thiện các quy định liên quan đến những vấn đề có tính định hướng như công tác điều tra tội phạm nước ngoài, công tác quản lý xuất, nhập cảnh và các vấn đề khác liên quan đến người nước ngoài ở Việt Nam. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ giúp kiểm soát được tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, hiện nay sự hiểu biết về tội phạm có yếu tố nước ngoài và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống loại tội phạm này của các cơ quan chức năng còn nhiều hạn chế. Một số văn bản pháp lý liên quan đến phòng chống tội phạm này có nhiều điểm không phù hợp thực tế. Bên cạnh đó việc giải quyết theo con đường ngoại giao thường kéo dài và gặp nhiều khó khăn đối với các vụ án tội phạm có yếu tố nước ngoài liên quan đến các nước mà Việt Nam chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự. đòi hỏi các cơ quan thi hành pháp luật cần nhanh chóng tham mưu cho Nhà nước, Chính phủ hoàn thiện hệ thống luật pháp về lĩnh vực phòng chống tội phạm có yếu tố nước ngoài trong đó có việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp song phương và đa phương với các nước, khẩn trương chấn chỉnh những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm có yếu tố nước ngoài để có thể đảm bảo tốt an ninh trật tự trong nước và thực hiện hiệu quả công tác hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm.
Thứ hai, tổ chức tốt công tác nắm tình hình, trao đổi và phối kiểm thông tin nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế như INTERPOL, EUROPOL, ASEANAPOL và UNODC của Liên hợp quốc trong cuộc chiến chống khủng bố, chống tội phạm ma túy, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm có tổ chức. Tiến hành các hoạt động trao đổi kinh nghiệm của các tổ chức này trong việc trấn áp các loại tội phạm có liên quan đến người nước ngoài.
Thứ ba, tập trung xây dựng và củng cố lực lượng trinh sát, lực lượng chuyên trách về đối ngoại và hợp tác quốc tế, lực lượng pháp chế đủ về số lượng, đảm bảo về trình độ nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, tin học nhằm đáp ứng nhu cầu và trình độ của khu vực và thế giới trong đấu tranh phòng chống tội phạm của cộng đồng An ninh và Cảnh sát quốc tế.
Thứ tư, tập trung xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó chú trọng đến việc xây dựng các Điều luật cụ thể về các biện pháp điều tra như biện pháp ngoại giao, vấn đề vật chứng, nhân chứng, nạn nhân…Đồng thời khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện triển khai các Bộ luật, nghị định liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mới như rửa tiền, lừa đảo xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, buôn người, tội phạm có tổ chức…
- Tăng cường ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự, trục xuất, dẫn độ tội phạm với các nước trong và ngoài khu vực.
- Xây dựng lực lượng chuyên trách phòng chống tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý tạm trú, tạm vắng đối với người nước ngoài, tránh tình trạng người nước ngoài nhập cư ồ ạt vào Việt Nam hình thành nên các “trại tị nạn”, đặc biệt là người gốc Phi vào Việt Nam lang thang, không có chỗ ở rõ ràng, không đăng ký lại tạm trú tạm vắng, gây khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng; đồng thời nâng cao vai trò của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo lãnh hoặc làm thủ tục cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam.
KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo Luật hình sự Việt Nam“, có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
Hình phạt trục xuất là hình phạt mới được quy định trong Bộ luậ hình sự năm 1999, áp dụng đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam và buộc phải rời khỏi lãnh thổ nước ta theo các căn cứ quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt trục xuất được áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để nhà làm luật căn cứ quyết định hình phạt, các điều kiện và phạm vi áp dụng hình phạt không được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Hình phạt trục xuất ngoài các đặc điểm chung của hình phạt thì mang những đặc điểm riêng như: (1) trục xuất là hình phạt mới, chỉ được quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999; (2) hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung; (3) hình phạt trục xuất chỉ áp dụng đối với một loại đối tượng, đó là người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam; (4) hình phạt trục xuất chỉ quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự mà không được quy định cụ thể tại các điều luật cụ thể trong Phần riêng các tội phạm Bộ luật hình sự.
Nghiên cứu tình hình áp dụng hình phạt trục xuất trên địa bàn cả nước trong thời gian hơn 10 năm ra đời hình phạt, tính từ lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1999 cho đến nay, có thể thấy là hiệu quả của hình phạt chưa cao, chưa phát huy được đúng giá trị của hình phạt. Qua phân tích số liệu của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến năm 2009, chúng ta thấy sự thất thường trong việc áp dụng hình phạt này bên cạnh xu hướng gia tăng ngày càng nhiều loại tội phạm là người nước ngoài với mức độ nguy hiểm và có tổ chức cao.
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất, luận văn đã chỉ ra những bất cập, hạn chế nhất định trong thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất. Sự tồn tại, hạn chế đó là do những nguyên nhân từ sự chưa hoàn thiện của pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất và nguyên nhân từ công tác thực thi pháp luật của cán bộ thực định.
Từ việc phân tích những nguyên nhân của việc chưa hoàn thiện của các quy định pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất, tác giả đã đề ra một số nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất; đồng thời đưa ra mô hình lý luận của hình phạt trục xuất.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất là yêu cầu khách quan xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ về mặt pháp luật hình sự mà còn về mặt xã hội.. Xây dựng và áp dụng đúng đắn hình phạt này là một đảm bảo quan trọng giải quyết những tồn tại, hạn chế, bất cập trong lĩnh vực nêu trên, nhằm thực hiện tốt chính sách hình sự của Nhà nước ta và công bằng xã hội. Luận văn: Giải pháp hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN.
Với nhận thức trên, luận văn đã xác định rõ nhu cầu và những định hướng hoàn thiện luật thực định và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt trục xuất trên các bình diện lý luận, luật thực định và áp dụng pháp luật.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Thanh Hóa
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com