Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: phương hướng và Giải pháp nâng cao chất lượng lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ở Việt Nam trong thời gian tới dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Xuất phát từ vai trò của việc lập Chương trình đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền và phát triển bền vững mà Việt Nam đã đề ra, trên cơ sở làm rõ những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc lập Chương trình thời gian qua, để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong thời gian tới, cùng với việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước trong việc lập Chương trình, một số phương hướng, giải pháp cụ thể được xác định là:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.1. Về phương hướng:

3.1.1. Tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật; hoàn thiện thể chế về lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Thứ nhất, thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành: Qua hơn 03 năm thực hiện Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cho thấy, nhiều quy định của Luật đã khá cụ thể, rõ ràng, song việc thực hiện ở một số khâu trong hoạt động lập Chương trình vẫn chưa được thực hiện nghiêm do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.

Để bảo đảm hoạt động lập Chương trình bảo đảm chất lượng, đúng tiến độ, khả thi, đỏi hỏi các chủ thể có liên quan, từ các bộ, cơ quan, đến Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, UBTVQH và Quốc hội cần thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng như những quy định sửa đổi, bổ sung của Luật này sẽ được Quốc hội ban hành trong thời gian tới đây.

Trước mắt, cần tiếp tục, thường xuyên tuyên truyền, phố biến các quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đến đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp chế nói riêng, qua đó nâng cáo trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện quy định về lập Chương trình đã được Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng như Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định. Việc thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng như Nghị định số 34/2016/NĐ-CP là cơ sở quan trọng, có tính chất quyết định đối với chất lượng Chương trình.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế về lập Chương trình: Cùng với việc tiếp tục thực hiện quy định của Luật, việc thường xuyên rà soát, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của Luật cũng cần được chú trọng thực hiện. Từ sự phân tích về những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của lập Chương trình, một số đề xuất về giải pháp hoàn thiện thể chế cụ thể là:

Cần sửa đổi quy định về Chương trình từ “hằng năm” theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 như hiện nay sang quy định có tính mở, linh hoạt hơn. Theo đó, đối với một số lĩnh vực phức tạp, mới phát sinh… cần có sự nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng thì có thể xây dựng Chương trình theo hướng “dài hơi” hơn để có sự đầu tư thích đáng về nguồn lực, thời gian chuẩn bị các dự án có liên quan, qua đó nâng cao hơn tính khả thi của Chương trình, hạn chế việc thường xuyên điều chỉnh Chương trình từ dự kiến thông qua tại kỳ họp này sang dự kiến thông qua tại kỳ họp sau… Về nội dung này, tác giả Luận văn xin đề xuất cùng với Chương trình hằng năm, đối với một số dự án luật phức tạp thì xây dựng Chương trình 02 năm là phù hợp (thêm thời gian là 01 năm). Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Cần có sự điều chỉnh về thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh Chương trình; bổ sung chế tài đối với các chủ thể xin rút, xin điều chỉnh dự án sau khi Chương trình đã được Quốc hội thông qua; và chế tài đối với chủ thể chuẩn bị hồ sơ đề nghị nhưng không bảo đảm chất lượng. Theo đó:

Sửa đổi quy định về thẩm quyền điều chỉnh Chương trình quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 theo hướng: Chỉ Quốc hội mới có quyền điều chỉnh dự án luật được đề xuất xây dựng lần đầu và những dự án luật (thay thế và sửa đổi các luật đã được ban hành) trong Chương trình; UBTVQH có thẩm quyền điều chỉnh dự án pháp lệnh và những điều chỉnh dự án luật sửa đổi, bổ sung, qua đó bảo đảm những quyết nghị của Quốc hội về Chương trình có hiệu lực tối cao, phải được tôn trọng và bảo đảm thực thi.

Đồng thời, cần bổ sung, làm rõ những tiêu chí về “có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội hoặc điều chỉnh thời điểm trình trong trường hợp cần thiết” để đưa ra khỏi Chương trình (điểm a, khoản 1 Điều 51 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015); và tiêu chí về “đáp ứng yêu cầu cấp thiết phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tính mạng, tài sản của Nhân dân” để bổ sung vào Chương trình (điểm b, khoản 1 Điều 51 Luật năm 2019, bởi: khi xuất hiện những quan hệ kinh tế – xã hội mới, để có thể ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung luật, pháp lệnh điều chỉnh thì trước khi đề nghị xây dựng, cơ quan có thẩm quyền, đại biểu Quốc hội phải thực hiện việc đánh giá thực trạng, rà soát hệ thống pháp luật hiện hành để đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh với những chính sách cần điều chỉnh đối với các quan hệ kinh tế – xã hội cụ thể. Thực tế hoạt động lập pháp cũng đã chứng minh, không có một quan hệ kinh tế – xã hội nào vừa mới ra đời, phát sinh sẽ ngay lập tức được điều chỉnh bởi pháp luật; cùng với đó, sự không rõ ràng, cụ thể của tiêu chí về “điều chỉnh thời điểm trình trong trường hợp cần thiết” sẽ tạo “cớ” để chủ thể có thẩm quyền đề nghị điều chỉnh Chương trình.

Để bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, Luật cần bổ sung quy định về chế tài đối với các chủ thể xin rút, xin điều chỉnh dự án sau khi Chương trình đã được Quốc hội thông qua; đồng thời bổ sung chế tài đối với chủ thể chuẩn bị hồ sơ đề nghị nhưng không bảo đảm chất lượng, nhất là đối với các chủ thể là bộ, cơ quan mà hồ sơ đề nghị không đầy đủ theo yêu cầu của Luật. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Qua theo dõi thời gian qua, chưa có cơ quan, đơn vị, cá nhân nào bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật về trách nhiệm trong việc thực hiện chậm, không bảo đảm chất lượng, xin lùi, xin rút dự án. Các hình thức kỷ luật ở cấp Chính phủ mới chỉ dừng lại ở sự nhắc nhở tại các cuộc họp Chính phủ. Do đó, Chính phủ cần quy định cụ thể, rõ hơn về những chế tài áp dụng đối với các cơ quan, cá nhân có liên quan; tạo cơ sở để các bộ, cơ quan truy trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức tại cơ quan, đơn vị mình.

Hiện nay, thực hiện Nghị quyết số 57/2018/QH14 ngày 08/6/2018 của Quốc hội về Chương trình năm 2019, điều chỉnh Chương trình năm 2018, Chính phủ đã xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 tới đây. Qua nghiên cứu hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung của Chính phủ trình UBTVQH, cùng với kết quả rà soát dự thảo 3 của dự thảo Luật (ở thời điểm tháng 3/2019, trước khi được thẩm định) cũng cho thấy: trong số 21 điều (từ Điều 31 đến Điều 51) quy định về lập Chương trình của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 dự kiến sẽ sửa đổi, bổ sung đối với các quy định tại điểm a khoản 1 Điều 36; khoản 1 Điều 47. Cụ thể:

Sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 36 như sau: “1. Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh có trách nhiệm sau đây:

Đăng tải tờ trình, đề cương dự thảo luật, pháp lệnh, báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Cổng thông tin điện tử của Chính phủ đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ; cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức có đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Thời gian đăng tải ít nhất là 30 ngày”.

Sửa đổi khoản 1 Điều 47 như sau: “1. Ủy ban Pháp luật tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị về Chương trình của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội và kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.

Nội dung thẩm tra tập trung vào sự cần thiết ban hành, phạm vi, đối tượng điều chỉnh; sự phù hợp của nội dung chính sách trong đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; chính sách cơ bản của văn bản, tính thống nhất, tính khả thi, thứ tự ưu tiên, thời điểm trình, điều kiện bảo đảm để xây dựng và thi hành văn bản”.

Có thể nhận thấy, những nội dung sửa đổi bổ sung của dự thảo Luật mang tính kỹ thuật hơn là sửa đổi, bổ sung những quy định mới về lập Chương trình; đồng thời những sửa đổi, bổ sung đó cũng không không đồng nhất với với những nội dung đề xuất sửa đổi của tác giả Luận văn – được nghiên cứu, đánh giá trên cơ sở rà soát từ thực trạng và những quy định từ trước Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và trong cả quá trình tổ chức thực hiện Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Cùng với việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các nội dung cụ thể trong hoạt động lập Chương trình, cần nghiên cứu để bổ sung quy định về kinh phí bảo đảm cho hoạt động đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội theo hướng cụ thể hơn, chi tiết và đơn giản hơn, qua đó tạo cơ sở các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền của đại biểu trong việc triển khai những sáng kiến lập pháp của mình, góp phần đa dạng hóa hoạt động lập pháp trong thời gian tới.

Để tạo cơ sở xem xét trách nhiệm của các chủ thể có liên quan cũng như đánh giá hiệu quả của việc lập Chương trình trong thực tiễn, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng Chương trình. Với việc đạt ra các tiêu chí, tiêu chí thành phần sẽ chi tiết hóa các yêu cầu, quy trình, thủ tục mà chủ thể có thẩm quyền cần đạt được trong quá trình lập Chương trình, qua đó tạo căn cứ để cấp có thẩm quyền đánh giá về chất lượng, hiệu quả trong từng khâu của quy trình lập Chương trình.

3.1.2. Đổi mới cách thức tổ chức thực hiện lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan; tăng cường kiểm soát chất lượng của công tác này

Một là, đổi mới cách thức tổ chức thực hiện, theo đó:

Tiếp tục phát huy vai trò của Bộ Tư pháp trong việc làm đầu mối, gắn kết, theo dõi, hướng dẫn các bộ, cơ quan trong việc thực hiện nhiệm vụ về lập Chương trình.

Bộ Tư pháp cần tăng cường tập huấn chuyên sâu, tổ chức các hội nghị nhằm tiếp tục quán triệt, hướng dẫn cụ thể các quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 tới các bộ, cơ quan, gắn với trách nhiệm chủ trì của đơn vị có nhiệm vụ tham mưu, giúp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật nói chung, công tác lập Chương trình nói riêng. Kịp thời nắm bắt, trao đổi và đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Xây dựng, công bố các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Quán triệt, thực hiện nghiêm Quyết định số 2410/QĐ-BTP ngày 28/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về thẩm định đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật và dự án, dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đến các đơn vị thực hiện chức năng xây dựng pháp luật thuộc Bộ cũng như đến các bộ, cơ quan để nâng cao chất lượng công tác này.

Tiếp tục phát huy hiệu quả của hình thức thẩm định bằng Hội đồng thẩm định và các cuộc họp tư vấn thẩm định; tăng cường huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các đại biểu Quốc hội; sự phản biện từ các tổ chức xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng vào hoạt động lập đề nghị về Chương trình xây dựng luật pháp lệnh. Tăng cường tổ chức các hội thảo, tọa đàm, các hoạt động nghiên cứu để làm rõ thêm các vấn đề phức tạp, còn có ý kiến khác nhau trong suốt hoạt động lập đề nghị về Chương trình.

Hằng quý hoặc 6 tháng một lần, Bộ Tư pháp tổ chức giao ban về công tác thẩm định với các bộ, cơ quan và giữa các đơn vị có chức năng xây dựng, thẩm định Văn bản quy phạm pháp luật của Bộ để trao đổi nghiệp vụ thẩm định, trong đó có nội dung về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, cơ quan trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Các bộ, cơ quan cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật; các chỉ đạo của Chính, phủ, Thủ tướng Chính phủ về lập Chương trình, theo đó: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chất lượng, tiến độ trình các dự án, dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, cần chủ động phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ để báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, có ý kiến khác nhau cần phải được xử lý kịp thời, thống nhất ngay từ đầu để bảo đảm chất lượng và tiến độ của đề nghị.

Cần tiến hành tổng kết việc thi hành pháp luật để làm căn cứ cho việc lập đề nghị; định danh, xác định rõ nội dung của từng chính sách và tổ chức đánh giá tác động của chính sách đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; thực hiện lấy ý kiến và nghiên cứu tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với đề nghị, trong đó, bắt buộc lấy ý kiến Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Trường hợp có sự bổ sung chính sách mới hoặc thay đổi, mở rộng phạm nội dung chính sách so với nội dung chính sách đã được Chính phủ thông qua thì phải thực hiện đánh giá tác động của chính sách này theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cần chủ động phối hợp sớm với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan; phối hợp chặt chẽ với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc lập, điều chỉnh bổ sung Chương trình [44].

Bảo đảm nội dung, hình thức thời hạn gửi hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh theo đúng quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và

Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08/02/2010). Cụ thể:

Hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh gửi Bộ Tư pháp thẩm định, trong đó: (i) Tờ trình, Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành luật, pháp lệnh, Báo cáo đánh giá tác động của chính sách phải được đánh số, ký, đóng dấu của bộ, cơ quan ngang bộ; (ii) Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý; Đề cương dự thảo luật, pháp lệnh phải được đóng dấu treo của bộ, cơ quan ngang bộ;

Các tài liệu khác (nếu có) phải được ký, đóng dấu hoặc đóng dấu treo theo quy định.

Hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh sau khi được Chính phủ thông qua, gửi về Bộ Tư pháp để tổng hợp, lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình phải thể hiện rõ nội dung tiếp thu ý kiến của Chính phủ. Hồ sơ sau khi được chỉnh lý cần thực hiện cụ thể như sau: (i) Tờ trình, Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành luật, pháp lệnh, Báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định phải được đánh số, ký, đóng dấu của bộ, cơ quan ngang bộ.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục đổi mới cách thức xem xét thông qua các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Theo đó, thay vì việc cho kiến đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh tại các phiên họp Chính phủ thường kỳ như hiện nay, Chính phủ cần xem xét, đổi mới cách thức xem xét đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh theo hướng tổ chức các phiên họp Chính phủ chuyên đề để cho ý kiến đối với các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan.

Bộ Tư pháp cần thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật; kiểm soát chặt chẽ việc lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Căn cứ chương trình công tác hằng năm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cần chủ động phối hợp, theo dõi, nắm bắt, đôn đốc các bộ, ngành trong việc đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh để gửi về Bộ Tư pháp thẩm định và tổng hợp, lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình bảo đảm đúng thời hạn theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Phải kiên quyết trả lại hồ sơ đề nghị thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh nếu hồ sơ không đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ hồ sơ đủ hay không đủ điều kiện trình Chính phủ; kiên quyết đề xuất không đưa vào Chương trình những đề nghị xây dựng không tuân thủ quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 về trình tự, thủ tục, hồ sơ và chất lượng hồ sơ không bảo đảm, đặc biệt là các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh mà chính sách chưa rõ ràng. Bộ Tư pháp phải chịu trách nhiệm về những nội dung của hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh được trình Chính phủ, nhưng có sai sót mà quá trình thẩm định không phát hiện ra hoặc được phát hiện nhưng báo cáo thiếu rõ ràng, cụ thể. Có ý kiến nêu rõ quan điểm của Bộ đối với hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan tại cuộc họp của Chính phủ để cho ý kiến, xem xét thông qua đề nghị.

Thường xuyên tổ chức, thành lập Đoàn liên ngành để làm việc trực tiếp với từng bộ, cơ quan nhằm kiểm tra, đôn đốc công tác lập đề nghị xây dựng các dự án luật, pháp lệnh để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào Chương trình hằng năm; đồng thời, kịp thời có ý kiến về công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của bộ, cơ quan.

Các bộ, cơ quan cần tăng cường hơn vai trò của tổ chức pháp chế trong quá trình các bộ, cơ quan lập đề nghị xây dựng luât, pháp lệnh theo hướng, trước khi gửi hồ sơ đề nghị thẩm định, đơn vị của bộ, cơ quan được giao chủ trì lập đề nghị phải lấy ý kiến bằng văn bản của tổ chức pháp chế bộ, cơ quan mình đối với toàn bộ hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và gửi Báo cáo tiếp thu, giải trình theo đúng quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Trong suốt quá trình đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao để làm rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau hoặc những vẫn đề mới phát sinh để có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp; trường hợp không có sự thống nhất thì cần phối hợp để xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, qua đó bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng như sự thống nhất giữa các bộ, ngành về những nội dung của đề nghị.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quan tâm, dành thời gian nhiều hơn nữa cho công tác lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình, nhất là cần dành nhiều thời gian hơn nữa để thảo luận tại các Phiên họp của Chính phủ để cho ý kiến đối với các đề nghị theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 41 của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

Cùng với các Phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng, việc tổ chức phiên họp chuyên đề để cho ý kiến về các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh sẽ bảo đảm cho các thành viên Chinh phủ phân tích đánh giá một cách tổng quát hơn về các nội dung chính sách của các đề nghị, cũng như quy trình, thủ tục thực hiện, chất lượng hồ sơ đề nghị của các bộ, cơ quan; kịp thời chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế của các bộ, cơ quan trong việc đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh để từ đó quán triệt thực hiện, rút kinh nghiệm đối với các bộ, cơ quan khác.

3.2. Về giải pháp: Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

3.2.1. Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Đề cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đề nghị nghị Chương trình, bảo đảm theo đúng yêu cầu của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Các bộ, cơ quan cần thường xuyên, kịp thời kiểm điểm để xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, qua đó góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, đơn vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có liên quan [45].

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, không “dễ dãi”, “nể nang” trong việc thẩm định. Là cơ quan có vai trò “gác cổng” cho Chính phủ trong quá trình lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình, Bộ Tư pháp phải thường xuyên quán triệt đến tất cả các đơn vị và công chức thuộc Bộ về tầm quan trọng của hoạt động thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; bảo đảm hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải đầy đủ các nội dung; kiên quyết từ chối việc thẩm định đối với các hồ sơ còn thiếu, không bảo đảm chất lượng theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nghiên cứu để đưa tiêu chí về chất lượng thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh vào trong các văn bản, quy chế nội bộ của Bộ để thực hiện khen thưởng, kỷ luật đối với các đơn vị và cán bộ, công chức làm công tác thẩm định, đặc biệt là Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ. Qua đó hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng hồ sơ đề nghị gửi thẩm định không bảo đảm thành phần, nội dung theo yêu cầu, nhưng cơ quan thẩm định vẫn thực hiện thẩm định, sau đó cơ quan đề nghị mới bổ sung hồ sơ sau; đồng thời cũng sẽ hạn chế thấp nhất tình trạng thẩm định nhưng vì nể nang mà thiếu kiên quyết trong việc trả lại hồ sơ khi không đạt yêu cầu hoặc không thể hiện rõ ý kiến của cơ quan thẩm định trong báo cáo thẩm định.

Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần quan tâm, chỉ đạo các bộ, cơ quan thực hiện kỷ luật, kỷ cương trong việc đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Chỉ đạo việc rà soát, xây dựng các tiêu chí để đánh giá vai trò, trách nhiệm của cơ quan đề nghị, cơ quan thẩm định, cơ quan phối hợp trong quá trình lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình. Trên cơ sở kết quả thực hiện Chương trình hằng năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiến hành kiểm điểm, nhắc nhở các bộ, cơ quan ngang bộ trong quá trình lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình, tạo cơ sở, tiêu chí để Quốc hội xem xét, đánh giá mức tín nhiệm khi Quốc hội tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên Chính phủ. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thẩm tra đối với các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cần phối hợp với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ ngay từ quá trình lập đề nghị của Chính phủ để thống nhất về chủ trương, định hướng chung trước khi Chính phủ trình UBTVQH; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, các bộ, cơ quan, nhất là Bộ Tư pháp trong việc thẩm tra đề nghị của Chính phủ để được các bộ, cơ quan có liên quan giải trình, làm rõ các vấn đề có liên quan trong đề nghị của Chính phủ.

Quá trình thẩm tra đề nghị, Ủy ban Pháp luật cần kịp thời kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét trách nhiệm của người đứng đầu bộ, cơ quan đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh không bảo đảm hồ sơ, chất lượng, tiến độ theo đúng yêu cầu của Luật [50].

3.2.2. Thống nhất về bộ máy, tổ chức; nâng cao năng lực của đội ngũ công chức; tăng cường sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia trong việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Nâng cao chất lượng công tác và vai trò của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ lập đề nghị của Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh.

Bộ Tư pháp cần kịp thời tăng cường công tác cán bộ về xây dựng pháp luật, thu hút nhân tài phục vụ cho công tác xây dựng pháp luật nói chung, công tác lập đề nghị Chương trình nói riêng; có chính sách thu hút cán bộ lâu năm có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng pháp luật và cán bộ nghiên cứu pháp luật có uy tín từ các trường, viện nghiên cứu; ưu tiên tuyển dụng và bố trí các cán bộ đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng pháp luật để thực hiện ngay các nhiệm vụ theo yêu cầu công tác.

Các đơn vị xây dựng pháp luật nói riêng (04 đơn vị) cần xác định cơ cấu cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, nhất là cán bộ làm công tác thẩm định một cách hợp lý (về trình độ, thâm niên, lĩnh vực hoạt động…), bố trí hợp lý và bảo đảm đủ cán bộ làm công tác thẩm định để thực hiện công tác thẩm định Văn bản quy phạm pháp luật nói chung và thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh nói riêng (có đủ người tham gia đầy đủ các hoạt động điều tra, khảo sát thực tiễn theo yêu cầu của đơn vị chủ trì lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh…). Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác xây dựng, thẩm định Văn bản quy phạm pháp luật nói chung và công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh nói riêng cho cán bộ của Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế của các bộ, cơ quan, trong đó, thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung bồi dưỡng, gắn việc bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ pháp lý với các vấn đề kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế để bảo đảm công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh vừa có tính hợp lý, tính khả thi, đồng thời cũng xác định rõ các điều kiện bảo đảm thực thi chính sách trong các đề nghị.

Đẩy mạnh việc thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học trong các lĩnh vực có liên quan để tham gia sâu hơn vào hoạt động lập Chương trình, nhất là trong việc thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Nghiên cứu thành lập nhóm chuyên gia chuyên trách về thẩm định để tham gia thẩm định các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; đồng thời cũng tạo “cơ sở dữ liệu chuyên gia” để các bộ, cơ quan ngang bộ có thể tham vấn, mời tham gia hoạt động lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh ở các bộ, cơ quan, qua đó góp phần nâng cao chất lượng công tác này.

Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan để giúp lãnh đạo bộ, cơ quan thực hiện nhiệm vụ về công tác pháp luật nói chung và công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh nói riêng. Chính phủ cần chỉ đạo thống nhất việc kiện toàn tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan theo hướng:

Đối với các bộ, cơ quan đã hình thành tổ chức pháp chế, lãnh đạo các bộ, cơ quan cần phát huy vai trò tham mưu, thực hiện của tổ chức pháp chế trong công tác xây dựng pháp luật của bộ, cơ quan; thường xuyên rà soát kiện toàn đội ngũ cán bộ của tổ chức pháp chế, bảo đảm 100% cán bộ làm công tác pháp chế phải có trình độ từ cử nhân luật trở lên; đồng thời, bảo đảm 100% cán bộ pháp chế thực hiện nhiệm vụ chuyên trách. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Đối với các bộ, cơ quan chưa thành lập được tổ chức pháp chế, nhiệm vụ pháp chế được giao cho các đơn vị Văn phòng/Cục Kế hoạch – Tài chính, khẩn trương thành lập và kiện toàn tổ chức pháp chế của cơ quan để tham mưu, giúp lãnh đạo cơ quan thực hiện nhiệm vụ về công tác pháp luật nói chung, trong đó có công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ cần đề cao vai trò của tổ chức pháp chế của bộ, cơ quan; phân công nhiệm vụ bảo đảm đúng chức năng, nhiệm vụ của tổ chức pháp chế. Đưa hoạt động của tổ chức pháp chế vào cuộc sâu hơn với các hoạt động của bộ, cơ quan để bảo đảm tổ chức pháp chế vừa có kỹ năng về pháp luật, nhưng cũng vừa am hiểu công tác chuyên môn của bộ, cơ quan, từ đó để có những đề xuất, tham mưu hoàn thiện thể chế sát với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ, cơ quan. Trong công tác kiện toàn bộ máy lãnh đạo của bộ, cơ quan, nhất là trong việc bổ nhiệm người đứng đầu tổ chức pháp chế, cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp để có ý kiến về cán bộ dự kiến bổ nhiệm, bảo đảm việc bổ nhiệm đúng người, đúng chuyên môn, theo đúng quy định [56].

Khẩn trương đổi mới cơ cấu, tổ chức, đưa hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên sâu để thực hiện đúng vai trò là “cơ quan làm luật”. Quốc hội cần nghiên cứu, đánh giá để có giải pháp “tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; nghiên cứu việc giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp” mà Nghị quyết số 18-NQ/TW đã đề ra, theo đó, cần xác định cụ thể tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, cơ cấu của đại biểu Quốc hội, tránh trường hợp có quá nhiều đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở cơ quan hành pháp, hành chính trong từng nhiệm kỳ để bảo đảm hoạt động của Quốc hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội; qua đó tạo điều kiện để đại biểu tham gia sâu hơn vào quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó có hoạt động đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh [64].

3.2.3. Xây dựng và thực hiện tốt công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các bộ, cơ quan trong lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Nhằm tăng cường công tác phối hợp giữa Chính phủ với UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội; giữa Bộ Tư pháp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao và các cơ quan, tổ chức có liên quan; giữa các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ Tư pháp với tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan, qua đó bảo đảm sự gắn kết giữa công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh với công tác thẩm định, thẩm tra đề nghị, một số giải pháp được xác định cụ thể:

Tăng cường phối hợp giữa UBTVQH, các Ủy ban của Quốc hội với Chính phủ và các Bộ, ngành trong việc đề nghị xây dựng, thẩm định, thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh; yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, các bộ, ngành báo cáo xin chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước khi lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Để bảo đảm chủ trương xây dựng luật, pháp lệnh được thống nhất, hạn chế việc đề nghị của Chính phủ trình nhưng UBTVQH lại bác, thì Chính phủ, bộ, cơ quan chủ trì cần thực hiện việc xin chủ trương của UBTVQH ngay từ khâu này, sau khi có sự thống nhất hoặc cơ bản thống nhất về chủ trương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ giao bộ, cơ quan thực hiện lập đề nghị theo quy định.

Mặc dù Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 không quy định cụ thể về việc cơ quan, đơn vị phải cho ý kiến đối với các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, song các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là cơ quan được phân công thực hiện thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh cần nghiên cứu để cho ý kiến ngay từ đầu đối với các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan để các bộ, cơ quan đề nghị, cơ quan thẩm định và Chính phủ có thêm cơ sở chỉnh lý, hoàn chỉnh đề nghị của Chính phủ.

Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 không quy định về việc mời cơ quan có trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh tham gia cuộc họp thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định, song Bộ Tư pháp – cơ quan chủ trì thực hiện việc thẩm định căn cứ nội dung, tính chất của đề nghị cần mời thành viên của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội – cơ quan chủ trì thẩm tra tham gia cuộc họp, Hội đồng tư vấn thẩm định để có ý kiến đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.

Quá trình thẩm tra, cơ quan chủ trì thẩm tra cần phối hợp chặt chẽ với bộ, cơ quan đề nghị, cơ quan thẩm định trong việc cùng tham dự cuộc họp thẩm tra để có phát biểu, giải trình làm rõ thêm những vấn đề mà cơ quan thẩm tra, cơ quan phối hợp thẩm tra yêu cầu, qua đó tạo sự thống nhất về nhận thức cũng như nội dung của đề nghị giữa các cơ quan.

Tăng cường công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các bộ, cơ quan trong việc đề nghị, thẩm định, thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Nhằm nâng cao chất lượng đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan, Chính phủ cần có quy định để tăng cường sự tham gia ngay từ đầu của Bộ Tư pháp với các bộ, cơ quan trong quá trình nghiên cứu, lập đề nghị xây dựng luật, lệnh; công chức của Bộ Tư pháp được giao theo dõi, phối hợp lập đề nghị phải bám sát ngay từ đầu quy trình thực hiện để nắm bắt được nội dung cơ bản của đề nghị, các vấn đề phát sinh còn có ý kiến khác nhau và quan điểm của đơn vị chủ trì về các vấn đề đó, nhất là xem xét đánh giá chất lượng của các hoạt động như: tổng kết thi hành pháp luật, đánh giá tác động của chính sách… báo cáo lãnh đạo bộ để có ý kiến phối hợp ngay từ đầu, hạn chế việc đến giai đoạn thẩm định mới bắt đầu nghiên cứu hồ sơ đề nghị sẽ khó có thể yêu cầu cơ quan, đơn vị đề nghị hoàn thành đồng thời nhiều nội dung trong hồ sơ đề nghị.

Trong thời gian qua, thực hiện Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm của Chính phủ, trong đó có quy định về quan hệ công tác của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với các Bộ, cơ quan, mối quan hệ công tác nói chung giữa Bộ Tư pháp với các bộ, cơ quan ngày càng chặt chẽ và được bảo đảm thông qua việc ký kết các Quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, cơ quan, như: Quy chế phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, với Bộ Công an… trong các Quy chế phối hợp đều có nội dung phối hợp về công tác xây dựng pháp luật (gồm cả công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh). Do đó, Bộ cần tiếp tục rà soát để làm việc với các bộ, cơ quan, nhất là những bộ, cơ quan mà chất lượng xây dựng luật, pháp lệnh còn nhiều tồn tại, hạn chế để ký kết, tăng cường công tác phối hợp, nâng cao chất lượng công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan.

Trong phối hợp thẩm định, Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan cần tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP về việc phối hợp thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, theo đó: Các bộ, cơ quan phối hợp thẩm định cần cử đúng người có đủ năng lực, trình độ để tham gia cuộc họp thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định bảo đảm theo đúng đề nghị của Bộ Tư pháp, qua đó bảo đảm việc thảo luận, phân tích, cho ý kiến, đánh giá về hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh được thực hiện đạt chất lượng, hạn chế đến mức tối đa việc các thành viên cuộc họp thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định không có được ý kiến thẩm định tại cuộc họp mà phải chờ ý kiến chính thức bằng văn bản sau cuộc họp thẩm định; đồng thời các bộ, cơ quan cử thành viên phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của thành viên đã được bộ, cơ quan cử tham gia cuộc họp thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định.

Để bảo đảm các nội dung của đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh cũng như các ý kiến thẩm định được được giải trình một cách cụ thể, rõ ràng trước cơ quan thẩm tra, các bộ, cơ quan đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh cũng như Bộ Tư pháp cần tham dự đầy đủ các phiên họp thẩm tra của Ủy ban Pháp luật để kịp thời có ý kiến, bảo vệ quan điểm, ý kiến của bộ, cơ quan mình về các nội dung có liên quan; đồng thời để tiếp thu, giải trình một cách đầy đủ các ý kiến mà cơ quan thẩm tra nêu ra [50].

3.2.4. Bảo đảm một số điều kiện cần thiết khác cho hoạt động lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Phân công đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh một cách hợp lý cho mỗi bộ, cơ quan: Hoạt động lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan bao gồm một chuỗi các hoạt động có tính liên tục, nối tiếp nhau, trong đó có nhiều nội dung có tính chất chuyên sâu, phức tạp, như: tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội; xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách… Để bảo đảm hoạt động này được thực hiện có chất lượng, bảo đảm tiến độ theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan cần có sự quan tâm chỉ đạo, bố trí nguồn lực phù hợp để triển khai thực hiện. Do đó, khi phân công, giao các bộ, cơ quan lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần căn cứ yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với ngành, lĩnh vực cụ thể, mức độ ưu tiên của yêu cầu quản lý nhà nước và khả năng thực hiện của các bộ, cơ quan; hạn chế giao một bộ, cơ quan cùng một thời điểm lập đề nghị xây dựng nhiều dự án luật, pháp lệnh, nhất là những dự án xây dựng mới hoặc dự án thay thế.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách của nhà nước về các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội: Pháp luật là sự cụ thể hóa chính sách của nhà nước.

Một trong những điểm mới của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đó là quy định về việc xây dựng chính sách và đánh giá tác động của chính sách trong quá trình đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Để bảo đảm việc hoạch định chính sách cũng như việc đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh không bị chồng chéo, trùng dẫm về chính sách thì cần thiết phải xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách nhằm:

Thứ nhất, bảo đảm mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều được cụ thể hóa thành chính sách của nhà nước, qua đó để cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách của nhà nước là cơ sở để bảo đảm các chủ trương, đường lối của Đảng đều được nhà nước tổ chức thực hiện và bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách để bảo đảm các chính sách đều được cụ thể hóa và đi vào cuộc sống. Thông qua việc cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật và được tổ chức thực hiện trong thực tế sẽ giúp kiểm nghiệm, đánh giá về sự đúng đắn, hợp lý của chính sách, qua đó kịp thời có sự điều chỉnh nếu chính sách đưa ra không phù hợp.

Thứ ba, pháp luật ra đời trên cơ sở những chính sách; mỗi nội dung của chính sách được điều chỉnh bởi các quy phạm hoặc một văn bản pháp luật cụ thể. Do đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về chính sách là cơ sở để bảo đảm, hạn chế sự thiếu thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật do được xây dựng, ban hành dựa trên cơ sở, nội dung của cùng một chính sách.

Ứng dụng hiệu quả công nghệ của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) cho việc thu thập thông tin, dữ liệu phục vụ công tác lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh: Để hoạt động lập Chương trình bảo đảm chất lượng đòi hỏi rất nhiều quy trình, thủ tục khác nhau, một trong những quy trình đó là việc thu thập số liệu liên quan đến kết quả thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh; thu thập ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân… để hình thành dữ liệu chính xác phục vụ cho công tác xây dựng chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Hiện nay, thông tin, dữ liệu thu thập được trong quá trình lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh còn được thu thập thông qua các cách thức, hình thức khá thủ công; thiếu chính xác, mang tính chủ quan của bộ, cơ quan chủ trì lập đề nghị mà thiếu sự kiểm chứng khách quan.

Với bản chất dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức làm việc… cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tạo cơ hội cho việc thu thập thông tin, số liệu một cách nhanh chóng, chính xác, qua đó hình thành nên những hệ thống dữ liệu tổng hợp làm cơ sở để các bộ, cơ quan sử dụng để đề xuất những chính sách, quy định một cách hợp lý nhất. Do đó, thời gian tới Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan có liên quan cần sớm tham mưu vận dụng những thành quả của cuộc cách mạng 4.0 để hình thành nên những công cụ, phương tiện, cách thức… cụ thể, phục vụ hoạt động lập Chương trình nói riêng cũng như hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung.

Bảo đảm kinh phí cho hoạt động lập Chương trình: Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các quy định liên quan đến kinh phí để bảo đảm cho hoạt động lập Chương trình; tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi dự án khác nhau mà mức kinh phí được giao để thực hiện cần có sự điều chỉnh, phân bổ khác nhau, theo đó: cần tăng định mức phân bổ đối với các dự án luật mới và luật thay thế do tính chất phức tạp, cần đánh giá, phân tích mới đối với toàn bộ các yếu tố có liên quan (trong khi đó, định mức phân bổ hiện tại không có sự chênh lệch nhiều so với dự án sửa đổi, bổ sung).

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên đây là một số giải pháp vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài; vừa mang tính chỉ đạo, hành chính, vừa mang tính pháp lý nhằm khắc phục triệt để, toàn diện những hạn chế trong việc lập Chương trình. Trong thời gian tới, cần chú trọng kiểm soát chất lượng Chương trình nhằm góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, các quy định và tinh thần của Hiến pháp 2013; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp của hệ thống pháp luật với thực tiễn cuộc sống; qua đó bảo đảm tính thượng tôn và hiệu quả của pháp luật trong đời sống xã hội, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch trong quản lý nhà nước cũng như trong bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Việc áp dụng đồng bộ những giải pháp nêu trên chính là một trong những hướng để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc lập Chương trình trong tình hình mới, đưa việc lập Chương trình thực sự trở thành quy trình có tính then chốt trong toàn bộ quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật của đất nước, phù hợp với những yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội nhập kinh tế, quốc tế.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

Lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là hoạt động đầu tiên của quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, có vai trò, quyết định đối với toàn bộ quá trình xây dựng, hình thành nên những quy định cụ thể của luật, pháp lệnh. Một hệ thống pháp luật có được vận hành thông suất ổn định, kịp thời được điều chỉnh, bổ sung để bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, những chính sách của nhà nước và những cam kết, thông lệ quốc tế hay không phụ thuộc vào hoạt động tham mưu, đề xuất chính sách, ban hành luật, pháp lệnh của các chủ thể có thẩm quyền, đặc biệt là Chính phủ, các Bộ, cơ quan.

Trong thời gian qua, việc lập Chương trình đã có nhiều đổi mới và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, là cơ sở để chuyển hướng từ xây dựng thể chế sang hoàn thiện và tổ chức thực thi thể chế. Thực tế cho thấy, lập Chương trình đã được các cấp, các ngành quan tâm và ngày càng đẩy mạnh; công tác chỉ đạo, đôn đốc, theo dõi việc lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, ngành được tăng cường. Hoạt động đề nghị xây dựng luật của đại biểu Quốc hội lần đầu tiên được thực hiện trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế chưa được khắc phục như: việc điều chỉnh Chương trình còn nhiều, chất lượng một số hồ sơ còn chưa bảo đảm theo yêu cầu, kỷ cương, kỷ luật trong quá trình thực hiện còn chưa nghiêm… Vì vậy, yêu cầu đặt ra là các bộ, cơ quan cần chú trọng hơn nữa tới công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh thuộc trách nhiệm của mình; tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp đảm bảo thường xuyên, chặt chẽ với các bộ, cơ quan hữu quan để thực hiện tốt chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội cần tiếp tục được đổi mới hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp, bảo đảm các quyết nghị đưa ra là cơ sở, căn cứ để hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./. Luận văn: Giải pháp lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993