Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Vấn đề lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam Đương Đại dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. Sự cần thiết của việc lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống trong hoạt động lập pháp hình sự đương đại
3.1.1. Đối với hoạt động lập pháp nói chung
Vấn đề kế thừa, phát triển những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc đã, đang và sẽ là một vấn đề được Đảng, Nhà nước ta và các nhà nghiên cứu quan tâm, triển khai thực hiện, đặc biệt trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay và thực hiện công cuộc cải cách tư pháp bởi lẽ:
Một là, bất kỳ một dân tộc nào cũng đều có những giá trị tinh thần truyền thống, trong đó bao gồm cả những giá trị pháp luật cần được bảo tồn và phát triển. Ở Việt Nam, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập thì vấn đề bảo tồn, kế thừa, phát triển những giá trị pháp luật truyền thống ngày càng được Đảng, Nhà nước ta chú trọng và áp dụng trong thực tiễn của đời sống xã hội. Hiện nay, vấn đề nghiên cứu, phân tích trên cơ sở đó đưa ra những kết luận để tiếp thu, kế thừa, vận dụng những giá trị tư tưởng pháp luật truyền thống của dân tộc nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đương đại là một vấn đề được Đảng, Nhà nước ta quán triệt và đang trong quá trình triển khai thực hiện trong thực tiễn. Điều này được thể hiện rõ qua các Nghị quyết như Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Hai là, các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc Việt Nam có trong suốt một thời kỳ lịch sử phong kiến kéo dài gần 10 thế kỷ đóng vai trò tích cực trong việc hình thành hệ tư tưởng pháp luật tiên tiến của dân tộc, phù hợp với pháp luật quốc tế, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các thế hệ công dân Việt Nam, từ đó góp phần tích cực vào quá trình thực hiện tốt chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Chúng ta biết rằng, một hệ tư tưởng pháp luật ăn sâu vào đời sống dân tộc trong suốt một chiều dài lịch sử nếu như chúng ta biết chọn lọc, vận dụng những giá trị pháp luật truyền thống đó trong thực tiễn hiện nay sẽ là điều kiện để áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đây là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự thành công của việc hoàn thiện pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Đối với pháp luật hình sự
Trong công cuộc cải cách tư pháp, thì vấn đề hoàn thiện pháp luật hình sự là một trong những vấn đề trọng tâm đã được Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề cập đến trong các nhiệm vụ cải cách tư pháp là “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự” và trong thời gian vừa qua chúng ta đã có những nghiên cứu, đánh giá về mặt khoa học luật hình sự để đưa ra những sửa đổi, bổ sung cho pháp luật thực định, đó là việc Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Trong thời gian tới, việc tiếp tục có những nghiên cứu về mặt lý luận những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa khoa học, nhận thức và thực tiễn rất quan trọng, bởi lẽ:
Một là, là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự không thể tách rời trong quá trình lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự. Việc lĩnh hội các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới là một trong những nhiệm vụ hàng đầu bởi lẽ:
Hai là, như chúng ta đã nghiên cứu tại các phần trước của luận văn này có thể thấy, hầu hết các văn bản pháp luật thời kỳ phong kiến về bản chất đều mang tính hình sự, dù nội dung của các văn bản pháp luật có liên quan đến các vấn đề về dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính nhưng nó hầu như chứa đựng cả các quy định về hình sự (đặc biệt là trong các Bộ luật tổng hợp). Việc nghiên cứu các đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam trong các phần trước của luận văn đã cho thấy pháp luật hình sự trong giai đoạn đang nghiên cứu thể hiện các giá trị pháp luật truyền thống chung của dân tộc, hình thành nên hệ tư tưởng pháp lý truyền thống của dân tộc Việt Nam mà đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó. Như vậy, đây chính là điều kiện để chúng ta vận dụng những tư tưởng pháp lý truyền thống vào quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam đương đại. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Ba là, mặc dù những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc có ý nghĩa tích cực trong quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng nhưng cho đến nay vấn đề lĩnh hội và vận dụng có chọn lọc các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc trong quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta mặc dù đã có những chính sách, chủ trương liên quan đến vẫn đề nghiên cứu, đánh giá và lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc như : 1.Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất năm 1998, lần thứ hai năm 2004 và lần thứ ba năm 2008; 2. Hội thảo quốc gia về Quốc triều hình luật tại Thanh Hóa năm 2007; và đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu, các bài tham luận liên quan đến vấn đề này nhưng cho đến nay việc triển khai vận dụng và lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống nhằm hoàn thiện pháp luật nói chung vẫn chưa được thực hiện nhiều. Riêng trong khoa học pháp luật hình sự thì đây cũng đã và đang là một trong những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và cần có những vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới. Do vậy, việc nghiên cứu tổng thể các đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam và qua đó rút ra những giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam đương đại là một vấn đề cấp bách.
3.2. Một số giá trị pháp luật truyền thống cần được lĩnh hội để hoàn thiện pháp luật hình sự Việt nam đương đại
3.2.1. Tinh thần nhân đạo Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Việc phân tích các đặc điểm của pháp luật hình sự Việt Nam phong kiến trong các phần trước của luận văn, đặc biệt là trong giai đoạn từ thế kỷ XV -XVIII dưới triều Hậu Lê – khi mà pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng đã phát triển và hoàn thiện nhất trong suốt thời kỳ phong kiến ở nước ta với những công trình lập pháp như : Bộ luật Hồng Đức, Hồng Đức Thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ đã thể hiện tư tưởng lập pháp được kế thừa từ các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó đã cho thấy tinh thần nhân đạo là một trong những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc đã tồn tại trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ và nó vẫn được tiếp tục bảo tồn, duy trì, phát triển trong pháp luật hình sự Việt Nam đương đại. Chúng ta có thể thấy rõ được điều này qua những điểm sau:
Thứ nhất, tinh thần nhân đạo trong pháp luật hình sự phong kiến trước hết được thể hiện trong chính sách hình sự của Nhà nước phong kiến bằng việc ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ những người nghèo khổ, cô đơn, bệnh tật, goá bụa, tàn tật hoặc không có khả năng lao động ( Theo TSKH.PGS. Lê Văn Cảm trong bài Các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền). Các quy phạm pháp luật hình sự này là việc quy định bắt buộc đối với các quan chức địa phương mà nếu như họ không thực hiện thì sẽ bị xử phạt. Chẳng hạn trong QTHL ghi nhận:
Trong kinh thành hay phường ngõ và làng xóm, có kẻ đau ốm mà không ai nuôi nấng, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa, quán thì xã quan phải dựng lều lên mà giữ gìn săn sóc và cấp cho họ cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ quằn quại; nếu không may kẻ ấy chết thì phải trình quan trên liệu bề chôn cất, không được để hài cốt phơi bày ra đó; nếu trái điều này thì phải tội biếm hay bãi chức (Điều 294).
Những người goá bụa, cô độc, phế tật, bần cùng không ai thân thích để nương tựa, không tự nuôi sống được mình, thì quan sở tại phải thu nuôi họ mà không thu nuôi thì phải phạt 50 roi và biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại còn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, quan điểm nhân đạo mang tính truyền thống này của dân tộc không còn được ghi nhận. Nghiên cứu giá trị pháp luật này chúng ta nhận thấy, mặc dù trong xã hội hiện đại, trách nhiệm của nhà nước đối với các trường hợp bệnh tật, nghèo khổ quá là việc thực hiện các chính sách xã hội như thực hiện các hoạt động nhân đạo (trợ giúp) về mặt kinh tế nhưng việc ghi nhận trách nhiệm của những cá nhân là lãnh đạo những vùng có trường hợp trên là như thế nào, nếu không thực hiện tốt sẽ phải chịu trách nhiệm ra sao (mà ở đây là trách nhiệm hình sự) hiện chưa được ghi nhận trong Bộ luật hình sự Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang rất chú trọng công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công tác bảo hiểm y tế miễn phí cho người già và trẻ em thì sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề trong công tác này như thực hiện có đúng không? giải ngân có sai phạm gì?… và điều này thường được ghi nhận bằng việc chịu trách nhiệm về mặt hành chính chứ không được ghi nhận về mặt hình sự. Trong pháp luật hình sự phong kiến, khi nền kinh tế xã hội chưa có mức phát triển như ngày nay nhưng Nhà nước phong kiến Việt Nam, mà ở đây là những nhà cầm quyền phong kiến đã có những nhận thức tiến bộ về một “Nhà nước trách nhiệm” đối với nhân dân, đây là một trong những mục đích mà hiện nay Nhà nước ta mong muốn đạt được và điều này chỉ được thực hiện khi những cán bộ Nhà nước nhận thấy rõ trách nhiệm của mình đối với nhân dân. Vậy thì nên chăng trong thời gian tới, chúng ta nên đưa quan điểm này trong Bộ luật Hồng Đức vào trong nội dung của pháp luật hình sự Việt Nam, bởi vì chỉ khi đưa nội dung này vào trong Bộ luật hình sự thì mới thấy được tầm quan trọng của nó, và phần nào nâng cao được ý thức trách nhiệm của các cán bộ Nhà nước trong việc thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với các trường hợp cần được ưu đãi trong xã hội (người già cô đơn, bệnh hiểm nghèo, người nghèo…). Vấn đề này khi nghiên cứu tác giả cho rằng nên chăng trong BLHS chúng ta có thể đưa trường hợp này vào trong Chương các tội phạm về chức vụ.
Thứ hai, tinh thần nhân đạo trong pháp luật hình sự phong kiến thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với một số đối tượng phạm tội. Trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam, ngay từ đầu đã có rất nhiều quy phạm pháp luật quy định về việc xử lý nhẹ hơn đối với trẻ em, người già, người tàn tật và phụ nữ hoặc đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác đã tự thú. Điều này đã được tác giả đề cập đến trong hai chương trước của luận văn khi nghiên cứu về các đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến, chẳng hạn:
Dưới triều nhà Lý, đời vua Lý Thái Tông quy đinh : cho phép người già 70 đến 80 tuổi, trẻ em từ 10 đến 15 tuổi, những người ốm yếu cho đến các thân thuộc nhà vua từ hành đại công trở lên nếu phạm tội thì cho chuộc tội bằng tiền, trừ khi phạm tội thập ác (Chiếu 11/1042). Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Trong Bộ Quốc triều Hình luật cũng kế thừa và phát triển quan điểm nhân đạo này trong chính sách hình sự, cụ thể:
QTHL không những quy định mức độ khoan dung cho người già, trẻ em, người tàn tật mà còn quy định mức độ khoan hồng khác nhau theo độ tuổi và mức độ tàn tật của họ(Điều 16).
Ngoài ra trong QTHL còn có một quy định rất khác đối với pháp luật hình sự hiện đại, đó là: trong việc xử lý tội phạm, QTHL còn lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật “ khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật mới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật, khi còn bé nhỏ phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật lúc còn nhỏ” (Điều 17).
Trong QTHL đặt ra mức hình phạt dành cho người phạm tội là phụ nữ và hình phạt đối với phụ nữ có thai cũng phản ánh tính chất nhân đạo. Điều 1 quy định trượng hình chỉ áp dụng đối với đàn ông phạm tội, quy định này được đánh giá rất cao về sự tiến bộ của nó, nếu đặt nó trong mối liên hệ với quan niệm phong kiến về địa vị thấp kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia đình. Tính nhân đạo còn còn được thể hiện ở chỗ hoãn hình phạt đối với phụ nữ đang có thai và 100 ngày sau khi sinh con, Điều 680 quy định “ đàn bà phải tội tử hình trở xuống đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình, nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư. Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi mà đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội lỡ tay giết người, làm người bị thương”.
Quan điểm nhân đạo này hiện nay vẫn được nhà nước ta ghi nhận trong Bộ luật hình sự 1999 cũng như Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 35 – Bộ luật hình sự 1999 quy định “ không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử” và Điều 61- BLHS 1999 quy định “phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ ba mươi sáu tháng tuổi”. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác nhưng tự thú trừ khi phạm tội thập ác hoặc giết người. Điều 18, 19 -QTHL quy đinh: phàm ăn trộm tài vặt của người sau lại tự thú với người mất của thì cũng coi như là thú ở cửa quan.
Thứ ba, tinh thần nhân đạo trong pháp luật hình sự phong kiến còn được thể hiện trong việc thừa nhận nguyên tắc người thân thuộc gần được che giấu tội cho nhau, phù hợp với nguyên tắc này, pháp luật hình sự phong kiến có những quy định cấm những người thân thích trong gia đình được tố cáo nhau, gia nô không được tố cáo chủ nếu không sẽ bị trừng phạt, thậm chí nếu con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ còn bị xử vào tội Bất hiếu (một trong 10 trọng tội). Quy định này được thừa nhận và kế thừa qua các triều đại phong kiến Việt Nam, một mặt nhằm bảo vệ trật tự gia đình trong xã hội phong kiến, một mặt nó thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự khi thấu hiểu được tình cảm gia đình sâu sắc trong việc bảo vệ cho nhau.
So sánh với pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, chúng ta cũng nhận thấy, trong chính sách hình sự hiện nay chúng ta cũng phần nào kế thừa được nguyên tắc nhân đạo này, đây là một giá trị pháp luật nhân văn truyền thống được lưu truyền qua các thế hệ người Việt, phù hợp với đời sống tình cảm của dân tộc. Đó là, trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, Điều 314 về “Tội không tố giác tội phạm” đã quy định nếu ai biết rõ một trong các tội (đã được liệt kê tại Điều 313) đang được chuẩn bị thực hiện, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm. Trừ trường hợp người không tố giác là ông bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không phải tố giác trừ khi không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 314 – BLHS). Tuy nhiên pháp luật hình sự hiện hành chỉ quy định trường hợp không tố giác tội phạm còn trường hợp “những người thân thích được che giấu tội cho nhau” lại không quy định. Có thể nói, pháp luật hình sự Việt Nam đương đại loại trừ trường hợp những người thân thích che giấu tội cho nhau để đảm bảo cho quá trình phát hiện và xử lý tội phạm một cách nhanh chóng và không gặp khó khăn, nhưng thực tế và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã cho thấy rằng,việc những người thân thích gần trong gia đình người phạm tội là vấn đề rất hay xảy ra trong đời sống xã hội. Do vậy, mặc dù không quy định trường hợp này nhưng thực tế vẫn xảy ra và nếu đưa việc này vào xử lý như quy định tại Điều 314 – BLHS 1999 thì rất nhiều và phức tạp. Do vậy, nên chăng chúng ta cũng kế thừa quan điểm truyền thống mà trong pháp luật hình sự phong kiến nước ta đã từng quy định về trường hợp này. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thứ tư, tinh thần nhân đạo được thể hiện trong việc ghi nhận nguyên tắc chuộc tội bằng tiền đối với một số đối tượng và một số tội. Theo QTHL, người già từ 70 tuổi trở lên, trẻ từ 15 tuổi trở xuống, người tàn phế có thể chuộc tội bằng tiền. Người già từ 80 tuổi trở lên, trẻ từ 10 tuổi trở xuống, người bị ác tật mà ăn trộm đánh người bị thương thì được chuộc tội bằng tiền. Nhóm tội này mà phạm tội phản nghịch, giết người thì nhà vua sẽ quyết định hình phạt. Riêng nhóm tuổi từ 90 tuổi trở lên và từ 7 tuổi trở xuống dẫu có phạm tội bị tội chết cũng được miễn án tử hình. Quan lại khi phạm tội lưu trở xuống cũng được chuộc tội bằng tiền, mức độ tiền chuộc được xác định tùy thuộc vào phẩm chất của người phạm tội, chẳng hạn, để tránh bị thích chữ vào mặt hoặc cổ, các quan có thể chuộc tiền mỗi chữ như sau: tam phẩm chuộc 2 quan, tứ phẩm chuộc 1 quan 2 tiền, ngũ phẩm chuộc 1 quan…
Pháp luật hình sự hiện hành không quy định việc chuộc tội bằng tiền, tuy nhiên người phạm tội dùng tiền để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả chính là một tình tiết để góp phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Điều 93, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cho phép bị can, bị cáo được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để thay thế cho biện pháp tạm giam. Tùy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị nhằm đảm bảo cho sự có mặt theo giấy triệu tập. Số tiền hoặc tài sản này sẽ được hoàn trả nếu họ chấp hành các nghĩa vụ đã cam đoan. Quy định này thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, kế thừa truyền thống nhân đạo trong chính sách hình sự của dân tộc ta từ nghìn năm trước.
Nhìn lại nguyên tắc này trong pháp luật hình sự phong kiến chúng ta nhận thấy một điểm rất tiến bộ mà trong pháp luật hiện đại chưa kế thừa lĩnh hội được, đó là việc quy đinh mức tiền chuộc tội sẽ tăng dần theo địa vị xã hội. đây là quy định mà pháp luật nói chung và pháp luật hình sự đương đại nói riêng cần phải ghi nhận, đặc biệt là trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lợi dụng chức quyền hiện nay. Nên chăng chúng ta cần quy định đối với những cán bộ, viên chức nhà nước phạm tội cần quy định xử lý nặng hơn, kể cả không rơi vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”, bởi họ chính là những người nắm rõ về pháp luật nhất, cần phải là những người đi đầu trong việc thực thi pháp luật nên khi phạm tội cần phải xử lý nặng hơn những người dân bình thường. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thứ năm, tinh thần nhân đạo còn được thể hiện trong việc ghi nhận những quy định về việc bảo vệ thường dân tránh khỏi sự tuỳ tiện và bạo lực của những người có quyền lực, địa vị, tiền của trong xã hội (TheoTSKH.PGS.Lê Văn Cảm trong bài Các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền). Chẳng hạn, QTHL quy định “những đầy tớ nhà giầu cậy quyền thế chiếm đất ruộng hoặc cưỡng ép lấy con gái nhà thường dân đều phải tội đồ, chủ nhà dung túng thì phải tội biếm (Điều 336), nếu con nhà quyền thế mà ăn hiếp lấy con gái nhà thường dân phạm thì phải tội sẽ phải tội phạt biếm hay đồ (Điều 338).
Nguyên tắc này cũng được pháp luật hình sự hiện đại kế thừa như việc ghi nhận tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội”, hoặc ghi nhận một số tội như “tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi( Điều 291 – Bộ luật hình sự 1999).
Ngoài ra, tinh thần nhân đạo của pháp luật phong kiến còn được thể hiện qua những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chính những người phạm tội, người làm chứng khỏi sự tùy tiện và lạm dụng của quan lại, như:
Nghiêm cấm hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, Điều 665 – QTHL quy định “Những người đáng được nghị xét giảm như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ vào lời khai của người làm chứng mà định tội. Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người”.
Nghiêm cấm việc đối xử với tù nhân, Điều 669 – QTHL quy định “Nếu tù nhân có bệnh ung nhọt không chờ lệnh mà tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm”.
Có thể nói đây là một trong những quy định mang tính nhân văn sâu sắc của pháp luật hình sự phong kiến Đại Việt. Chúng ta biết rằng, một đặc điểm nổi bật của pháp luật hình sự phong kiến là rất hà khắc, nhưng với quy định này thì có thể thấy pháp luật hình sự Đại Việt luôn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc ngay cả đối với những người phạm tội. Và điều này vẫn cần phải được tiếp tục kế thừa trong pháp luật hiện đại. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Như vây, việc phân tích tinh thần nhân đạo thể hiện trong pháp luật hình sự phong kiến cho phép chúng ta khẳng định rằng nhân đạo không chỉ là một nguyên tắc trong pháp luật quốc tế mà đó còn là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nói chung trong đó có pháp luật hình sự, bởi đây là giá trị pháp luật truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam được ghi nhận trong suốt một chiều dài lịch sử phong kiến kéo dài gần 10 thế kỷ. Và giá trị truyền thống này của dân tộc cần được tiếp tục bảo tồn, xây dung và phát triển trong tiến trình xây dung nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết 49/NQ-TW đề ra năm 2005, trong đó hoàn thiện pháp luật hình sự là một vấn đề cơ bản và trọng tâm. Thời gian qua chúng ta đã tiến hành sửa đổi Bộ luật hình sự 1999 theo hướng nhân đạo với việc bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội (hiếp dâm; buôn lậu; lừa đảo; tàng trữ, lưu hành, vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; đưa hối lộ; hủy hoại vũ khí quân dụng). Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự trên cơ sở tiến bộ và tiếp thu giá trị nhân đạo của pháp luật truyền thống dân tộc.
3.2.2. Sự công minh
Việc phân tích những đặc điểm pháp luật truyền thống của hệ thống pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam cho thấy, công minh là một trong những giá trị pháp luật truyền thống cơ bản của dân tộc. Một lần nữa chúng ta có thể thấy những biểu hiện của giá trị này trong pháp luật hình sự phong kiến nước ta như sau:
Thứ nhất, biểu hiện thông qua nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự nếu xâm hại đến những giá trị pháp luật được nhà nước phong kiến bảo vệ, và nguyên tắc chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm vào tội được quy định trong pháp luật (nguyên tắc vô luật bất hình). Nguyên tắc này được ghi nhận ngay từ những triều đại phong kiến Đại Việt đầu tiên khi Nhà nước phong kiến bắt đầu xây dựng Bộ luật đầu tiên (nhà Lý với Bộ Hình Thư năm 1042) và nó được kế thừa, phát triển rực rỡ trong các triều đại phong kiến sau này, đặc biệt dưới triều nhà Lê, khi đây là được coi là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của pháp luật phong kiến Đại Việt, thì nguyên tắc này càng được chú trọng và thực hiện nghiêm minh. Biểu hiện của nó là việc pháp luật ghi nhận những hành vi nào bị coi là tội phạm và tương ứng với nó là hình phạt nào áp dụng, và điều này được quy định chi tiết trong luật.
Đây là một nguyên tắc tiến bộ mà cho đến ngày nay trong pháp luật hình sự hiện đại vẫn được thừa nhận không chỉ ở Việt Nam mà ngay trong pháp luật quốc tế. Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, tại Điều 2 đã ghi nhận “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thứ hai, sự công minh biểu hiện ở việc những nhà cầm quyền (nhà làm luật) luôn luôn ghi nhận một cách rõ ràng và chi tiết những hành vi nào được coi là vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, cũng như ghi nhận chi tiết cụ thể hình phạt áp dụng đối với hành vi vi phạm tương ứng. đây là một biện pháp tránh cho các quan lại phong kiến lạm dụng chức quyền khi xét xử cũng như tránh được tình trạng tham ô trong công việc xét xử. Trong khi đó, pháp luật hiện đại chúng ta ghi nhận hình phạt theo khung, được coi như một biện pháp nâng cao tính chủ động của thẩm phán khi xét xử, nhưng đây cũng chính là điều kiện dễ gây ra sự bất công bằng nếu như trình độ của thẩm phán kém hoặc hiện tượng nhận hối lộ. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng, pháp luật hiện đại đề cao tính chủ động và sáng tạo của người thực hiện pháp luật, nhưng điều này sẽ phù hợp hơn nếu như trình độ, đạo đức nghề nghiệp của những nhà thực hiện pháp luật được nâng cao, nếu không sẽ dễ để xảy ra tình trạng oan sai như trong thời gian vừa qua. Và về mặt nào đó chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, việc ghi nhận hình phạt chi tiết cụ thể trong pháp luật phong kiến cũng phần nào góp phần giảm thiểu án oan và tránh tình trạng oan sai, tham nhũng, đặc biệt được đề ra dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Thứ ba, sự công minh trong pháp luật hình sự phong kiến cũng chính là biểu hiện của việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý khác nhau khi phạm cùng một tội nhưng với lỗi khác nhau (sự phân biệt lỗi cố ý hay vô ý khi xét xử và quyết định hình phạt). Một trong những tiến bộ của QTHL đó là việc xác định mức độ chịu trách nhiệm hình sự có tính đến trường hợp phạm tội do cố ý và trường hợp phạm tội do lầm lỡ, Điều 47 – QTHL quy định: những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau nhưng phải phân biệt sự phạm tội do lầm lỡ hay cố ý, tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt người cố ý không kể tội nhẹ. Từ nguyên tắc này, hình phạt quyết định đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể cũng có sự phân biệt, chẳng hạn, Điều 497 – QTHL “Trong khi đánh nhau lỡ đánh lầm phải người xung quanh bị thương hay đến chết thì xử nhẹ hơn tội đánh chết người một bậc”.
Ngoài ra, pháp luật hình sự phong kiến, như đã trình bày tại phần trước cũng đã dự liệu các trường hợp mà pháp luật hiện đại gọi là bất khả kháng, Điều 182 – QTHL quy định: nếu đường đê vững chắc lại cố giữ gìn song vì nước lụt quá to, sức người không chống nổi mà đê vỡ thì không bị xử tội. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Có thể nói, những nguyên tắc trên trong pháp luật hình sự phong kiến thể hiện sự tiến bộ trong tư tưởng lập pháp của nhà cầm quyền phong kiến. Nó thể hiện sự công bằng, công minh trong quá trình áp dụng pháp luật, và đây là một truyền thống của dân tộc Việt Nam ta, được kế thừa từ ngàn đời, và cho đến ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục gìn giữ và phát triển vì sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công bằng – dân chủ – văn minh. Chẳng hạn, trong Bộ luật hình sự 1999, chúng ta cũng ghi nhận định nghĩa pháp lý của “cố ý phạm tội”(Điều 9) và “Vô ý phạm tội”(điều 10), trên cơ sở đó trong phần các tội phạm ghi nhận các trường hợp cố ý phạm tội và vô ý phạm tội có những hình phạt tương ứng khác nhau.
Thứ tư, sự công minh còn biểu hiện ở quy định trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc hơn của những người có chức quyền so với những người bình thường. Đặc điểm quan trọng này của pháp luật hình sự phong kiến biểu hiện ở các quy định như : Đối với việc phạt tiền, thì quan có phẩm hàm cao hơn sẽ bị phạt nặng hơn những người thường dân phạm tội; hay việc quy định: các quan xử án mà dùng dằng để việc quá kỳ hạn không xét xử thì phạt theo luật định, nếu để quá một tháng phải tội biếm, quá ba tháng phải bị bãi chức, quá 5 tháng phải tội đồ…(Điều 671 – QTHL).
Hoặc biểu hiện của sự công minh trong pháp luật phong kiến Việt Nam chính là quan điểm của những nhà cầm quyền phong kiến đó là “công minh đối với cả người thân thuộc”. Chẳng hạn, Vua Minh Mạng dưới triều Nguyễn, để mọi người tin vào sự công minh của pháp luật, nhà vua đã ra dụ xác định tài sản là công sức đóng góp của dân nên ai làm sai đều phải bắt bồi hoàn, ai vi phạm quy chế đều bị trừng trị. Trong sách Đại Nam thực lục có ghi: “Trẫm (vua Minh Mạng) làm việc chỉ giữ công bằng, quyết không có nghị thân, nghị quý, phàm các em và con cháu nên chớ coi khinh lấy thân để thử pháp luật, gương sáng chẳng xa, ai nấy phải kính cẩn đó”. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Đây là một quan điểm rất tiến bộ mà ngày nay chúng ta phải kế thừa và phát triển, biểu hiện này của tính công minh như trên đã trình bày trong giá trị nhân đạo của pháp luật phong kiến, thì quan điểm này là một cách thức góp phần phòng chống nạn tham nhũng, hối lộ cũng như nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng trong cán bộ viên chức nhà nước. Vì vậy nên chăng, pháp luật hình sự hiện đại cũng cần đưa quy định này vào trong luật thực định, chẳng hạn, coi tình tiết nếu là cán bộ viên chức phạm tội(nhân thân) là một tình tiết tăng nặng, đây cũng là một vấn đề mà theo tác giả cần được cân nhắc xem xét trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới.
Mặc dù, pháp luật phong kiến không có sự phân biệt rõ ràng về thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình… như pháp luật hiện đại, nhưng nhìn chung, nó vẫn mang những nét đặc thù của tố tụng hình sự, bởi đối với pháp luật phong kiến thì hình luật được coi là đặc trưng cơ bản của hệ thống pháp luật.
Tính công minh, công bằng trong pháp luật nói chung và đặc biệt là pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc mà chúng ta luôn hướng tới và mong muốn đạt được. Có thể nhận thấy, pháp luật hình sự Việt Nam, ngay từ thời đại phong kiến đã luôn cố gắng xây dựng một hệ thống pháp luật hình sự (kể cả luật nội dung và luật tố tung) nhằm đạt tới sự công bằng cho tất cả mọi đối tượng trong xã hội khi đứng trước pháp luật, bởi chỉ có sự công minh, công bằng trong pháp luật mới đưa đến sự ổn định xã hội và đó chính là điều kiện để một triều đại phong kiến có thể tồn tại lâu dài. Đây là một nhận thức mà hầu hết các nhà cầm quyền phong kiến Đại Việt đều nắm rõ và thực thi ở các mức độ khác nhau và nó được biểu hiện rõ nét trong pháp luật hình sự, bởi pháp luật hình sự ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của con người nhất. Kế thừa quan điểm xây dựng pháp luật này, trong pháp luật hình sự hiện đại ngày nay chúng ta cũng đã xây dựng hệ thống pháp luật hình sự trên nguyên tắc đảm bảo tính công bằng, công minh của pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đã và đang tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì việc lĩnh hội những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc vào điều kiện mới của đất nước xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng là một trong những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, và công minh chính là một trong những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc mà chúng ta cần phải nghiên cứu, kế thừa và phát triển trong luật hình sự hiện đại.
3.2.3. Bảo vệ các chuẩn mực đạo đức được thừa nhận chung của Phương Đông. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến chúng ta nhận thấy việc bảo vệ các chuẩn mực đạo đức của dân tộc và Á Đông là một giá trị pháp luật truyền thống cơ bản, có thể thấy những biểu hiện của giá trị này trong pháp luật hình sự cổ Việt Nam qua những điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật hình sự phong kiến ghi nhận và bảo vệ những nền tảng đạo đức chung trong xã hội Phương Đông phong kiến, đó là tình cảm trong gia đình giữa ông bà, cha mẹ, con cái, vợ chồng, tình cảm thầy trò… Chúng ta biết rằng, trong xã hội Phương Đông phong kiến thì những giá trị đạo đức trong gia đình và xã hội luôn được đề cao và được ghi nhận trong pháp luật hình sự, chẳng hạn trong pháp luật phong kiến Trung Quốc (Bộ luật Nhà Đường với việc ghi nhận về Thập ác trong đó có tội bất hiếu), Nhật Bản ( ghi nhận tám tội nghiêm trọng trong Bộ luật Taikho của Nhật Bản phong kiến thế kỷ VIII). Pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng lập pháp chung trên, với việc tiếp thu chọn lọc phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng rất lớn của Nho giáo, đạo Khổng, nên những quan niệm về nhân, lễ, nghĩa trong gia đình là một trong những giá trị đạo đức truyền thống luôn được các nhà lập pháp phong kiến ghi nhận và bảo vệ bằng những chế định hình sự quan trọng. Trong hệ thống các loại tội danh, Bộ QTHL và Bộ luật Gia Long đều ghi nhận về Thập ác trong đó có tội ác nghịch (đánh hoặc mưu giết ông bà, cha mẹ), bất hiếu (trái lời hoặc không để tang ông bà, cha mẹ), bất nghĩa (học trò giết thầy). Để đề cao lòng hiếu thảo, các Bộ luật phong kiến đều quy định và khuyến khích con cháu có thể chịu tội và những hình phạt nhẹ thay cho ông bà, cha mẹ (Điều 38-BQTHL). Đề cao lòng chung thủy, những hành vi quan hệ hôn nhân bất chính được tất cả các Bộ luật nghiêm cấm và quy định hình thức xử phạt rất nặng, Theo Điều 401- QTHL, những người đàn ông gian dâm với vợ người khác sẽ bị xử tội lưu đày hay xử tử, phụ nữ phạm tội sẽ bị lưu đày, điền sản trả lại cho chồng, có trường hợp để cho chồng đem bán hoặc bắt làm nô lệ trong nhà. Tình cảm thầy trò cũng là một tiêu chuẩn đạo đức được đánh giá và coi trọng, vì thế trong pháp luật hình sự phong kiến đều quy định xử phạt những hành vi bất nghĩa như trò đánh thầy sẽ bị xử tăng hình phạt từ một đến hai bậc (Điều 489- QTHL, Điều 10 – quyển 15 – Bộ luật Gia Long). Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, mặc dù không ghi nhận trực tiếp như trong pháp luật phong kiến bằng một loại tội danh nào trong Bộ luật hình sự nhưng pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận bằng việc ghi nhận tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư “Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”(điểm h, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự 1999).
Thứ hai, bảo vệ những giá trị đạo đức của dân tộc ở một chừng mực nhất định còn biểu hiện qua việc bằng việc ghi nhận chính sách ưu đãi người hiền tài, bằng chế độ “bát nghị” trong pháp luật hình sự. Chính sách khuyến khích người đức hành tài năng trong xã hội là một trong những chính sách truyền thống của nước ta mà đến ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục kế thừa phát huy. Trong QTHL ghi nhận một trong những đối tượng thuộc diện bát nghị đó là Nghị hiền, còn trong pháp luật hình sự hiện đại thì tình tiết nhân thân : người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (điểm s, khoản 1, điều 46, Bộ luật hình sự 1999) là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nghiên cứu giá trị bảo vệ các chuẩn mực đạo đức được thừa nhận chung của Phương Đông cho thấy đây là một giá trị pháp luật truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và nó cũng là giá trị pháp luật được thừa nhận chung ở các nước Phương Đông phong kiến. Giá trị này của pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam đương đại. Pháp luật hình sự phong kiến đặc biệt chú trọng đến các giá trị đạo đức trong gia đình, coi gia đình là cơ sở để tạo lập kỷ cương và ổn định xã hội, giá trị pháp luật truyền thống này của dân tộc cần được tiêp tục kế thừa và phát huy trong thời đại ngày nay, như phát biểu của Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng trong hội thảo quốc gia về Quốc triều hình luật : Bộ luật đã bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như lòng hiếu thảo, sự tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu, sự hòa thuận chung thủy giữa vợ chồng, truyền thống tôn sư trọng đạo góp phần hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong gia đình, trong xã hội, đã dùng pháp luật để xây dựng, củng cố những chuẩn mực và giá trị đạo đức truyền thống. Như vậy, nên chăng trong thời gian tới, trong công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam chúng ta cần quan tâm nghiên cứu để đưa vào pháp luật vấn đề bảo vệ trực tiếp những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, (chẳng hạn, chúng ta có thể đưa trực tiếp điều luật phạm tội với cha mẹ, người nuôi nấng… là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự) điều này rất phù hợp bởi đây là điều kiện để chúng ta phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tạo tiền đề cho việc áp dụng pháp luật hình sự dễ dàng, và phù hợp với quan điểm xây dựng nền pháp luật tiến bộ, theo kịp thời đại và đậm đà bản sắc dân tộc.
Kết luận chương 3 Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Qua việc nhận định sự cần thiết của việc cần thiết tiếp tục nghiên cứu những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành, đồng thời trên cơ sở của việc nghiên cứu những đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam kéo dài suốt gần mười thế kỷ, tác giả đã khái quát những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới.
Bằng việc phân tích, đánh giá, so sánh những giá trị pháp luật truyền thống được thể hiện trong pháp luật hình sự phong kiến và đương đại, tác giả đã khẳng định những giá trị pháp luật truyền thống này đã và đang được kế thừa, phát huy trong việc ghi nhận bằng những quy phạm pháp luật hình sự phù hợp với điều kiện nền kinh tế xã hội hiện đại nhưng vẫn phát huy được truyền thống của dân tộc và trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục có những nghiên cứu và vận dụng những giá trị pháp luật truyền thống này của dân tộc trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Điều này đã góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp nói chung mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành.
KẾT LUẬN
Bằng việc nghiên cứu các vấn đề về đặc điểm pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam suốt một chiều dài lịch sử từ khi thành lập Nhà nước phong kiến Việt Nam đầu tiên(Nhà Ngô năm 939) đến triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam(triều Nguyễn kết thúc năm 1884), tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của pháp luật hình sự phong kiến trong giai đoạn đang nghiên cứu, phân tích những đặc điểm cơ bản của pháp luật phong kiến giai đoạn này bằng việc nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự có liên quan đến từng giai đoạn. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam, tác giả đã rút ra những giá trị pháp luật mang tính truyền thống của dân tộc, đồng thời phân tích sự cần thiết của việc cần phải lĩnh hội những giá trị pháp luật này vào quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sụ nói riêng.
So sánh những điểm mà pháp luật hình sự đương đại đã và đang lĩnh hội, những vấn đề mà trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục kế thừa, phát huy trong điều kiện hiện tại nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung- là một trong những nhiệm vụ của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta trong thời gian vừa qua đã và đang tiếp tục triển khai thực hiện. Trên cơ sở phân tích và so sánh đó, tác giả cho rằng cần đưa ra một số sửa đổi đối với pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, đó là:
Ghi nhận tình tiết nhân thân “ người có chức vụ phạm tội” là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tại điểm c, khoản 1, điều 48 chỉ ghi nhận tình tiết “lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội” là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong khi đó, có rất nhiều trường hợp người có chức vụ quyền hạn phạm tội(mặc dù không lợi dụng chức vụ đó để phạm tội), và việc phạm tội đó của họ thường ảnh hưởng đến dư luận xã hội lớn hơn các đối tượng tội phạm khác. Do vậy, nhằm nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của bộ phận đối tượng này thì pháp luật hình sự trong thời gian tới cần quy định tình tiết nhân thân “là người có chức vụ quyền hạn phạm tội” là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đây cũng là một quy định tiến bộ mà pháp luật phong kiến nước ta đã ghi nhận và chúng ta nên kế thừa và phát huy.
Ghi nhận thêm trong phần các tội phạm về tội thiếu trách nhiệm trong hoạt động nhân đạo trong phạm vi địa phương quản lý trong Chương các tội phạm về chức vụ, song song với quy định này pháp luật cần quy định trách nhiệm của người có quyền hạn trong hoạt động nhân đạo tại địa phương.
Với nghiên cứu này của mình, tác giả hy vọng những luận điểm được trình bày trong luận văn này sẽ góp phần về mặt lý luận tham khảo để hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới, vừa mang tính tiến bộ của thời đại, vừa tiếp thu được những giá trị truyền thống pháp luật tốt đẹp của dân tộc, là một điều kiện để pháp luật được áp dụng trong thực tiễn có hiệu quả. Đồng thời, nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy cũng như học tập về luật hình sự Việt Nam nói riêng và pháp luật nói chung. Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com