Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, đặc biệt là đối với Việt Nam, kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đã mở ra nhiều cơ hội giao lưu và hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển xã hội. Các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam với mục đích làm ăn, du lịch và kinh doanh ngày càng nhiều, thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài và nguồn lao động chất lượng cao. Với chính sách thông thoáng, quy định về thủ tục nhập cảnh đơn giản và dễ dàng nên số lượng người nước ngoài nhập cảnh Việt nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần, với nhiều mục đích khác nhau (hàng năm, có từ 4 – 5 triệu lượt người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam; riêng năm 2009 có khoảng 3,5 triệu người). Hiện cả nước có khoảng 75.000 người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Với số lượng lớn người nước ngoài như vậy hiện diện toàn đất nước, việc nảy sinh những hành vi vi phạm pháp luật cũng như việc kiểm soát các hành vi trái pháp luật của người nước ngoài ngày càng trở nên phức tạp và đòi hỏi các cơ quan chức năng phải thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm trong việc phát hiện và xử lý tội phạm.

Đây là một vấn đề mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý tội phạm là người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm. Đòi hỏi đặt ra là trong hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự nước ta phải có hình phạt đặc thù để áp dụng đối với đối tượng là người nước ngoài.

Hình phạt trục xuất được ghi nhận với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng linh hoạt đối với đối tượng đặc biệt là người nước ngoài phạm tội với mục đích không chỉ nhằm trừng trị mà còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.

Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân, cũng như ổn định, giữ vững và phát triển các quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nước ta chủ yếu xử lý các trường hợp này thông qua con đường ngoại giao theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc theo thông lệ quốc tế nên hình phạt trục xuất được quy định trong luật hình sự vừa phải đảm bảo tính nghiêm khắc nhưng cũng vừa phải linh hoạt trong xử lý để bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia.

Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng.

Là một hình phạt mới được áp dụng sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời, là giải pháp hữu hiệu thay thế cho các chế tài hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh. Sau một thời gian áp dụng và thi hành, các quy định về hình phạt trục xuất cũng đã thể hiện được một số điểm tích cực cũng như bộc lộ những mặt thiếu sót. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin phép được đưa ra những kiến thức chuyên ngành về hình phạt trục xuất, những mặt mạnh, mặt yếu của nó, thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng như đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình phạt trục xuất. Đề tài của tôi có tên gọi: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam“.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Hình phạt trục xuất là một chế định mới được ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Trong thực tiễn nghiên cứu pháp luật, cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này.

Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003; tác giả Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Đặng Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; v.v…

Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ bảy – Hình phạt và biện pháp tư pháp, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nước và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang Phương (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà Nội, 1996; v.v…

Ngoài ra, có một số bài viết, nghiên cứu của các tác giả khác, điển hình như bài viết “Một số ý kiến về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999” của TS. Trịnh Tiến Việt và ThS. Nguyễn Cửu Đức Bình đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2003; bài viết “Hình phạt trục xuất đối với người nước ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam – một số vấn đề thực tiễn”, của Trịnh Tiến Việt và Nguyễn Khắc Hải – Các báo cáo hội thảo khoa học lần thứ IX (Hiệp hội khoa học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga). Mátxcơva, 2007, tr. 91-97.

Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy là các vấn đề liên quan đến trục xuất mới chỉ được đề cập dưới cấp độ các bài viết, các nghiên cứu tổng hợp chứ chưa được xem xét dưới góc độ một công trình nghiên cứu độc lập. Trong thực tế xét xử, các vụ án liên quan đến trục xuất người nước ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là rất ít so với các hình phạt khác. Một phần là do tính chất nhạy cảm của vấn đề, mặt khác do đây là một hình phạt tương đối mới, chỉ được quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999, trước đây chỉ được xem là một biện pháp hành chính nên trong công tác xét xử cũng còn gặp nhiều khó khăn.

Bởi vậy, khi chọn đề tài này, tác giả nhận thấy đây là một vấn đề rất mới mẻ và nếu thành công, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học – luật gia, cán bộ thực tiễn, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự cũng như phục vụ cho công tác lập pháp, công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

3.1. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tội phạm là người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận về hình phạt trục xuất, những vấn đề pháp lý liên quan, thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời phân tích những ưu điểm, nhược điểm của hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề ra phương án hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến vấn đề trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở những mục đích trên, luận văn này có nhiệm vụ nghiên cứu:

  • Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam quy định về hình phạt trục xuất;
  • Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam;
  • Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn tại của hình phạt này trong luật thực định Việt Nam; những phương hướng khắc phục;
  • Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục xuất trong những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng và những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó;
  • Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn;

4. Phương pháp tiếp cận vấn đề

Nghiên cứu tình hình tội phạm liên quan đến trục xuất trong những năm gần đây. Những số liệu nghiên cứu là căn cứ có giá trị nhất định để xác định về tội phạm là người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm này cũng như các biện pháp để hình phạt này phát huy được ý nghĩa lý luận của nó trong thực tiễn.

Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp tổng hợp, so sánh; phương pháp thống kê tội phạm học; phương pháp điều tra xã hội; phương pháp dự báo khoa học…để thực hiện nghiên cứu đề tài này.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Lần đầu tiên nhà làm luật nước ta đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt trục xuất. Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đưa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận – thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng và chống người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trước tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lưu và hợp tác quốc tế.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ – tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về hình phạt và hình phạt trục xuất; phân biệt các hình phạt trục xuất với chế tài hành chính; phân tích những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng hình phạt này tại Việt Nam thông qua việc phân tích số liệu 10 năm gần đây trên địa bàn cả nước. Trên cơ sở này, đề xuất một số phương hướng và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng một số quy định tương ứng về hình phạt trục xuất ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.

6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn

Đối với sự thành bại của bất kỳ một luận văn nào, điều quan trọng là thể hiện được những đóng góp của luận văn đối với việc tìm hiểu bản chất vấn đề của đề tài mà tác giả theo đuổi cũng như tính mới của nó đối với những công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà nghiên cứu khác. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hình phạt trục xuất, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:

Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về hình phạt, hình phạt trục xuất để xây dựng nên khái niệm hình phạt trục xuất, đảm bảo tính chính xác, khoa học, chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất, phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất theo luật hành chính;

Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của các quy phạm của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình vi phạm pháp luật liên quan đến người nước ngoài phạm tội và tình hình áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

  • Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.
  • Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng.
  • Chương 3: Một số phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất.

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1 . KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1 . Khái niệm hình phạt trục xuất

Hệ thống hình phạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành từ sau lần pháp điển hóa lần thứ hai (1999) được điều chỉnh tại 15 điều của Chương V độc lập ” hình phạt” trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Từ Điều 26 đến Điều 40) bằng các quy phạm riêng biệt chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp dụng cụ thể 12 loại hình phạt (các điều 29 -40) có tính chất bắt buộc đối với các tòa án là: Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

  1. Cảnh cáo;
  2. Cải tạo không giam giữ (từ 6 tháng đến 3 năm);
  3. Tù có thời hạn;
  4. Tù chung thân;
  5. Tử hình;
  6. Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
  7. Cấm cư trú;
  8. Quản chế;
  9. Tước một số quyền công dân;
  10. Tịch thu tài sản;
  11. Phạt tiền; và
  12. Trục xuất [7, tr. 696].

Trong đó, trục xuất là một loại hình phạt mới, lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đây là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Trước khi được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất được quy định và áp dụng như là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948, và đến năm 2000 được quy định trong Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam ngày 28/04/2000.

Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài (người không có quốc tịch Việt Nam) trong thời hạn nhất định phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ tính phức tạp của việc xử lý những trường hợp chủ thể là người nước ngoài, Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định những điều kiện cụ thể để áp dụng hình phạt này, đồng thời cũng không quy định hình phạt này vào điều luật cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự [5, tr. 344]. Cũng theo Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất được áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung tùy vào từng trường hợp cụ thể.

Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho thấy đa số các nước quy định trục xuất với tư cách là một biện pháp cưỡng chế hành chính, thậm chí có nước trước đây quy định trục xuất là một hình phạt trong luật hình sự thì nay nó chỉ còn được quy định là một biện pháp cưỡng chế hành chính, ví dụ như Cộng hòa Liên bang Đức (trục xuất được quy định trong Bộ luật hình sự của Đức với tên gọi là biện pháp An ninh và Cải tạo theo Đạo luật chống những người phạm tội chuyên nghiệp nguy hiểm và về các biện pháp an ninh và cải tạo. Năm 1969, trục xuất đã bị loại bỏ khỏi danh mục các biện pháp an ninh và cải tạo trong Bộ luật hình sự. Hiện nay, trục xuất được quy định trong đạo luật về người nước ngoài với tính chất là một biện pháp cưỡng chế hành chính) . Ngày nay trục xuất với tư cách là hình phạt chỉ được quy định trong luật hình sự một số nước và việc quy định hình phạt này trong luật hình sự mỗi nước cũng rất khác nhau. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Trong Bộ luật hình sự của Trung Quốc, trục xuất được quy định tại Điều 35 là loại hình phạt có thể được áp dụng với tư cách là hình phạt độc lập hoặc hình phạt bổ sung đối với người nước ngoài phạm tội, tức là, trục xuất được quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Điều luật này cũng không quy định rõ điều kiện, phạm vi, thời hạn của hình phạt này như Việt Nam. Có thể các nhà lập pháp nước ta đã nghiên cứu tham khảo và tiếp thu kinh nghiệm này của Trung Quốc khi xây dựng chế định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 của mình? [55, tr. 103].

Nghiên cứu Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ Đức năm 1968 cho thấy hình phạt trục xuất được quy định tại Điều 59 với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Trục xuất áp dụng với người nước ngoài cư trú tại Cộng hòa dân chủ Đức mà phạm tội. Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc tịch ngày 20/2/1967 cũng quy định rõ trục xuất không áp dụng đối với những người mang hai quốc tịch: Quốc tịch Cộng hòa dân chủ Đức và quốc tịch nước khác. Điều 5 các luật về người nước ngoài cũng quy định không được áp dụng hình phạt này với người tị nạn chính trị tại Cộng hòa dân chủ Đức.

Trong Bộ luật hình sự của Thụy Sĩ, Điều 55 quy định trục xuất chỉ với tính chất là hình phạt bổ sung. Theo Điều luật này, hình phạt trục xuất được quy định chỉ áp dụng với người nước ngoài bị kết án tù khổ sai hoặc tù có thời hạn từ 3 năm đến 15 năm. Như vậy, luật hình sự Thụy Sĩ cũng xác định rõ đối tượng và phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất [55, tr. 105].

Luật hình sự của Thụy Điển cũng có quy định trục xuất người bị kết án là người nước ngoài. Tuy nhiên, khác với luật hình sự nước ta, trục xuất trong luật hình sự của Thụy Điển không phải là hình phạt mà chỉ là một biện pháp an ninh áp dụng đối với người bị kết án về một tội nghiêm trọng [17].

  • Hoa Kỳ, hình phạt trục xuất được quy định trong Bộ luật Di trú. Theo Điều 237 của Bộ luật này thì trục xuất được áp dụng với người không phải công dân Hoa Kỳ đã nhập cảnh Hoa Kỳ phạm tội hình sự trong những trường hợp:
  • Khi người nước ngoài phạm tội có tính cách suy đồi đạo đức (Moral Turpitude) và tội đó có thể bị phạt từ 01 năm tù trở lên thì sẽ bị trục xuất;
  • Nếu đương sự phạm hai tội có tính cách suy đồi đạo đức thì đương sự bị trục xuất, dù tội đó là nhỏ nhặt.

Điều luật cũng quy định nếu bị cáo bị kết án về tội nghiêm trọng (aggravated felony) thì sẽ bị trục xuất, đó là những tội: giết người, hãm hiếp, cướp tài sản và bị phạt tù trên 01 năm, buôn lậu ma túy, buôn lậu vũ khí, những tội hành hung và bị án tù trên 1 năm, những tội giả mạo chữ ký, giấy tờ và bị phạt tù trên 01 năm, những tội gian lận và gây thiệt hại cho nạn nhân trên 10000 USD [55, tr. 105]. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Theo Điều 2 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Điều 3 Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam này 28/4/2000 và Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hướng dẫn về việc thi hành hình phạt trục xuất thì khái niệm người nước ngoài được hiểu là “người không có quốc tịch Việt Nam”. Từ khái niệm này có thể hiểu người nước ngoài là người mang quốc tịch của nước khác hoặc là người không mang quốc tịch của bất cứ nước nào.

Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Nhà nước Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”. Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối với người Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nước ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không được áp dụng hình phạt trục xuất đối với họ [55, tr. 106].

Mặc dù luật quy định hình phạt trục xuất được áp dụng đối với bất kỳ hành vi phạm tội nào, tuy nhiên, trên thực tế xét xử các vụ án liên quan đến việc trục xuất người nước ngoài phạm tội, không phải người nước ngoài nào phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam đều bị áp dụng hình phạt trục xuất này, mà Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và các yếu tố khác liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự… để áp dụng khi cần thiết.

Để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, nhất quán về mặt pháp lý, thống nhất về mặt ngôn từ, đồng thời xét đến tính phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước, theo chúng tôi, khái niệm hình phạt trục xuất phải bao gồm được các nội dung như: thứ nhất, bản chất pháp lý của hình phạt trục xuất; thứ hai, cơ quan có thẩm quyền áp dụng, thứ ba, đối tượng bị áp dụng, thứ tư, căn cứ và điều kiện áp dụng.

Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm hình phạt trục xuất có thể được định nghĩa như sau:

Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt Nam trong thời gian nhất định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia; bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.

Như vậy, từ khái niệm khoa học về hình phạt trục xuất nêu trên, theo chúng tôi bản chất pháp lý của hình phạt này là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước đối với các đối tượng là người nước ngoài phạm tội và buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn nhất định. Hình phạt trục xuất không chỉ nhằm mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn nhằm ngăn chặn các hành động có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh, chủ quyền dân tộc.

Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đưa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận – thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng và chống người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trước tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lưu và hợp tác quốc tế.

1.1.2 . Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Với tính chất vừa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự 1999, hình phạt trục xuất mang những đặc điểm chung của hình phạt như sau:

Là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích

Tính cưỡng chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo, là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng của hình phạt; đặc điểm này cho phép phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Tính cưỡng chế của hình phạt được thể hiện với mức độ khác nhau và với những hình thức cũng rất khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình phạt. Mặc dù các hình phạt (hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) có nội dung cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục, nặng, nhẹ khác nhau, nhưng chúng đều có cùng tính chất là một loại biện pháp cưỡng chế trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Khi được áp dụng, hình phạt gây ra những tổn hại nhất định cho người bị kết án. Họ có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân nhất, như tước hoặc hạn chế quyền tự do, tước quyền chính trị, tước quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tước cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Nhà nước thể hiện thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị-pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với người thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý như vậy của hình phạt làm cho người bị kết án và những người khác không vững vàng trong xã hội trong tương lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự.

  • Chỉ có thể xuất hiện khi có sự kiện phạm tội

Tội phạm là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế duy nhất cho phép áp dụng hình phạt. Vì thế không cho phép áp dụng hình phạt đối với hành vi không được luật hình sự quy định là tội phạm và cũng không được phép áp dụng hình phạt nếu hình phạt ấy không được quy định trong phần chung và trong chế tài của điều luật về tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm luật hình sự.

  • Phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự – tòa án – áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói riêng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật

Nguyên tắc pháp chế trong việc quy định hình phạt – không có luật thì không có hình phạt (nulla poena sine lege) có tính chất tuyệt đối, được áp dụng đối với tất cả các loại hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) và không có ngoại lệ. Nói hình phạt được luật hình sự quy định có nghĩa là tất cả các nội dung liên quan đến hình phạt đều phải do luật hình sự quy định và việc quy định loại hình phạt áp dụng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Nguyên tắc pháp chế và hiệu lực thi hành của hình phạt không chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà còn thể hiện hiệu lực thi hành của hình phạt. Trong bộ máy nhà nước, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất mới có quyền nhân danh Nhà nước quyết định một người có phải chịu hình phạt hay không và nếu phải chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể được áp dụng như thế nào. Nghiên cứu cho thấy, trong các lĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án phải giải quyết, các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông qua Tòa án.

Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã kết luận: “Mỗi người đều có quyền được thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nước để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã được hiến pháp hay luật pháp của các nước đó thừa nhận” [27, tr. 33]. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

  • Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt

Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình sự có ảnh hưởng rất lớn đến người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết định hình phạt như đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố tụng hình sự đưa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố của Nhà nước, thay mặt Nhà nước truy tố bị can và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình tự luật tố tụng hình sự quy định. Việc luật hình sự quy định hình phạt do Tòa án quyết định là đảm bảo sự thận trọng, khách quan toàn diện và triệt để trách oan, sai và như vậy phù hợp với Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948: “Mỗi người đều có quyền được thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nước để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã được hiến pháp hay luật pháp của các nước đó thừa nhận”.

  • Nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án

Họ có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân nhất, như tước hoặc hạn chế quyền tự do, tước quyền chính trị, tước quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tước cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Nhà nước thể hiện thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị – pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với người thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý như vậy của hình phạt làm cho người bị kết án và những người khác không vững vàng trong xã hội trong tương lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự. Mức độ của cưỡng chế cần thiết và hợp pháp của hình phạt trước hết (nhưng không chỉ) được xác định thông qua mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dưới những điều kiện xã hội đã cho, trong đó mức độ của tính nguy hiểm chủ quan của hành vi của người phạm tội, sự phủ định các nghĩa vụ cơ bản xã hội được khách quan hóa. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nội dung giai cấp cũng như tính chất và mức độ cưỡng chế, trừng trị của hình phạt được Nhà nước quy định trong luật hình sự là không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi nước, mỗi dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử phát triển. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

  • Là sự thống nhất giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục

Một điều hiển nhiên là ở đâu không có cưỡng chế, trừng trị thì ở đó không thể nói đến hình phạt, nhưng nội dung của hình phạt thể hiện không chỉ duy nhất ở sự cưỡng chế, trừng trị. Cùng với cưỡng chế, trừng trị, các hình phạt chủ yếu là những biện pháp thuyết phục, cải tạo, giáo dục. Bằng việc áp dụng hình phạt nói chung, hình phạt bổ sung nói riêng đối với người bị kết án, Nhà nước trừng trị và đồng thời lên án họ về việc đã thực hiện hành vi phạm tội gây hại cho xã hội, thông qua đó thuyết phục, giáo dục để họ nhận thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi phạm tội đã thực hiện, không làm những việc bị xã hội lên án, có ý thức tuân theo pháp luật và các nguyên tắc của cuộc sống xã hội.

  • Mang tính chất cá nhân, tức là chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người bị kết án mà thôi

Dựa theo nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân nên hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nhà nước nhằm thực hiện quan hệ pháp luật của trách nhiệm hình sự nảy sinh giữa người có hành vi phạm tội và Nhà nước chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội về chính hành vi phạm tội của mình, chứ không được phép áp dụng với tập thể, với các thành viên trong gia đình hoặc đối với những người thân thiết khác của người phạm tội, ngay cả trong những trường hợp người phạm tội lẩn tránh hình phạt, hay nói cách khác, hình phạt chỉ có ảnh hưởng về mặt pháp lý trong các mối quan hệ pháp luật của trách nhiệm hình sự.

Trục xuất, bên cạnh những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, còn mang những đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu như:

  • Trục xuất là hình phạt mới – chỉ được quy định cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999.

Trước khi được quy định là một loại hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất được áp dụng như một chế tài hành chính. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng biện pháp trục xuất, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay của Việt Nam, biện pháp này trở nên không đủ nghiêm khắc và không phát huy được tính răn đe, ngăn ngừa hành vi phạm tội cuả một số thành phần người nước ngoài vào Việt Nam với mục đích gây cản trở trật tự công cộng và xâm hại các quan hệ pháp luật được luật hình sự điều chỉnh. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn có tác dụng ngăn ngừa một cách triệt để khả năng phạm tội mới của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Việc quy định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 như một chế tài là biện pháp hữu hiệu trong giai đoạn đất nước đang hội nhập mạnh mẽ, khi hình phạt trục xuất áp dụng theo thủ tục hành chính không còn đủ tính răn đe; tình trạng phạm tội của người nước ngoài tại Việt Nam ngày càng gia tăng, dẫn theo nhiều hậu quả xấu, đặc biệt là tội phạm có tổ chức vào Việt Nam trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Việc thiết lập một hàng rào pháp lý để bảo vệ những quan hệ xã hội được Nhà nước điều tiết cũng như hạn chế tối đa tình trạng người nước ngoài phạm tội là một trong những vấn đề trọng tâm của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

  • Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối tượng bị áp dụng hình phạt này là người nước ngoài. Khi niệm người nước ngoài đã được xác định trong Luật quốc tịch Việt Nam, trong pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

Theo đó, “người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam”. Từ khái niệm này có thể hiểu người nước ngoài là người mang quốc tịch của một nước khác và người không mang quốc tịch của bất cứ một nước nào (người không quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lưu ý là, trục xuất sẽ không được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam. Với đối tượng này, Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện.

Đối với những viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự và những người nước ngoài khác được hưởng những ưu đãi về miễn trừ ngoại giao thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo con đường ngoại giao. Khoản 3 Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất quy định: “Việc trục xuất người nước ngoài phạm tội thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Nhà nước Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”. Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối với người Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nước ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không được áp dụng hình phạt trục xuất đối với họ.

Trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật không quy định những tiêu chí cụ thể cho loại hình phạt này như phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng, thời hạn xóa án tích…, và cũng không quy định hình phạt này trong bất cứ một điều luật cụ thể nào tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, là xuất phát từ tính chất phức tạp, nhạy cảm của việc xử lý những trường hợp người phạm tội là người nước ngoài. Có những trường hợp rất khó khăn trong việc áp dụng vì nó liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ: người phạm tội mang nhiều quốc tịch.

Như vậy, hình phạt trục xuất có thể được áp dụng đối với người nước ngoài phạm bất kỳ tội nào được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, và tùy từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc nhiều tình tiết khác nhau, trong đó có vấn đề quốc tịch, Tòa án sẽ vận dụng quy định của điều luật này để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất đối với người phạm tội.

  • Trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung

Hệ thống hình phạt trong luật hình sự mỗi quốc gia thông thường được phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung được phân biệt chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng độc lập của từng loại hình phạt đối với các trường hợp phạm tội cụ thể. Hình phạt chính khác hình phạt bổ sung là ở chỗ nó được áp dụng chính, độc lập cho mỗi tội phạm, không phụ thuộc vào các loại hình phạt khác. Do tính chất và vai trò đặc thù của hình phạt chính nên các hình phạt chính được quy định có tính hệ thống. Các hình phạt chính được xắp xếp theo một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt quy định. Tùy theo đường lối, chính sách hình sự của mỗi Nhà nước mà các hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự nước đó được sắp xếp theo thứ tự khác nhau, có thể sắp xếp các hình phạt theo thứ tự từ hình phạt nặng đến hình phạt nhẹ hoặc từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng. Nhưng việc sắp xếp đó phải tuân theo nguyên tắc là hình phạt kế ngay sau hình phạt kia phải nặng hơn (hoặc nhẹ hơn) nhưng lại là hình phạt ở mức độ nhẹ hơn (hoặc năng hơn) được quy định ngay sau nó. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Còn đối với hình phạt bổ sung, nghiên cứu cho thấy chúng không có thể liên kết với nhau theo một trật tự có hệ thống, vì tính chất, nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo của mỗi hình phạt bổ sung là rất khác nhau. Mỗi loại hình phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động riêng đối với từng loại tội phạm. Ngay theo cách sắp xếp các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam (khoản 2 Điều 28) cũng khó có thể đánh giá được hình phạt nào nặng, hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào. Chúng ta khó có thể đánh giá, so sánh được trong số các hình phạt bổ sung như quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, trục xuất, hình phạt nào nặng hơn, nghiêm khắc hơn hình phạt nào. Chính bởi lý do đó các hình phạt bổ sung không có khả năng thay thế cho nhau được, và cũng vì thế Tòa án không thể áp dụng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Hình phạt trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp.

Trường hợp Tòa án áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính thì không được áp dụng là hình phạt bổ sung. Nếu hình phạt chính áp dụng đối với người bị kết án là một hình phạt khác không phải là trục xuất thì hình phạt bổ sung áp dụng đối với người bị kết án có thể là trục xuất… Như vậy, hình phạt bổ sung là trục xuất được áp dụng đối với người bị kết án chỉ khi hình phạt chính được áp dụng đối với người bị kết án không phải là hình phạt này. Bởi vì, hình phạt bổ sung là là loại hình phạt không thể tuyên độc lập mà nó chỉ được tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhưng không phải tuyên kèm theo bất kỳ loại hình phạt chính nào, đồng thời nó cũng không được quy định và áp dụng đối với mọi tội phạm mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất. Nên khi áp dụng hình phạt chính đối với người bị kết án Nhà nước hướng chủ yếu vào việc trừng trị, giáo dục, cải tạo họ nhằm đạt được mục đích phục hồi công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Còn khi áp dụng các hình phạt bổ sung thì Nhà nước nghiêng về mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn, nhưng tất nhiên là không có nghĩa việc áp dụng hình phạt bổ sung vượt ra ngoài các mục đích chung của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa tội phạm, hình phạt bổ sung vẫn còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục người bị kết án nhằm đạt được các mục đích của hình phạt và trách nhiệm hình sự. Hình phạt trục xuất là một loại hình phạt đặc biệt, bên cạnh đối tượng áp dụng của nó khá đặc biệt, ngay cả việc áp dụng nó cũng khá nhạy cảm và mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý phải hết sức mềm dẻo nhưng cũng không thể khoan nhượng với tội phạm, nên việc quy định trục xuất là loại hình phạt lưỡng tính thể hiện sự linh hoạt trong đường lối xử lý tội phạm nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Tương tự như hình phạt tiền, hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, hình phạt trục xuất có cách thức tác động đối với người bị kết án rất khác so với hình phạt tiền và các hình phạt khác. Nếu các hình phạt khác có thể áp dụng chung cho tất cả mọi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội thì trục xuất là hình phạt chỉ được áp dụng đối với chủ thể là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và theo quyết định của Tòa án nhân dân trong một thời hạn nhất định, chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày có quyết định thi hành án thì người đó bắt buộc phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

  • Hình phạt trục xuất chỉ được quy định ở phần chung của Bộ luật hình sự mà không được quy định tại các điều luật cụ thể trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự

Ngoài được ghi nhận tại Điều 32 của Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất không được quy định tại Điều luật nào khác trong phần riêng của Bộ luật hình sự. Như vậy, hình phạt trục xuất có thể áp dụng đối với bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt trục xuất, các nhà làm luật phải căn cứ vào các nguyên tắc được ghi nhận trong Bộ luật hình sự về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội… để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất như là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung.

Việc không quy định rõ từng cấu thành tội phạm trong từng chương, từng điều của Bộ luật hình sự tạo cho hình phạt trục xuất một diện mạo hoàn toàn khác biệt với các loại hình phạt khác. Điều này xuất phát từ chủ thể đặc biệt mà loại hình phạt này điều chỉnh. Cũng do tính chất nhạy cảm và phức tạp trong đường lối xử lý mà đòi hỏi các Thẩm phán và các cán bộ thực thi pháp luật phải hết sức linh hoạt trong đường lối xử lý, vừa phải đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng cũng phải chú trọng đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước có người phạm tội bị áp dụng hình phạt này.

1.2 . KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY

Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhất là từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay nhằm nhận dạng hình phạt trục xuất trong từng giai đoạn lịch sử, từ đó thấy được những dấu ấn, những đặc điểm chủ yếu của từng giai đoạn lịch sử được thể hiện trong chế định này và đồng thời cũng thấy được sự tồn tại và phát triển của hình phạt bổ sung là do các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội, truyền thống, đặc điểm của dân tộc ta trong từng giai đoạn lịch sử quy định và là nhu cầu khách quan của xã hội. Quan trọng hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử của hình phạt trục xuất qua các giai đoạn phát triển của đất nước là nhằm xác định khả năng kế thừa và phát huy có hiệu quả những thành tựu và bài học kinh nghiệm về pháp luật hình sự của ông cha ta. GS.TSKH. Đào Trí Úc đã đúng khi viết: “Một trong những mục đích của việc nghiên cứu về pháp luật trong bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử là xác định cho được những khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật hình sự là sự kế thừa văn hóa và truyền thống”. Bên cạnh đó, bởi đây là một hình phạt mang nhiều nét riêng biệt so với tất cả các loại hình phạt khác, không chỉ là đối tượng của nó chỉ là người nước ngoài, mà còn vì việc xử lý người phạm tội mang nhiều màu sắc ngoại giao và nhạy cảm nên việc nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của nó cũng góp phần giúp ta nhìn nhận một cách đúng đắn thực tiễn xét xử và đề ra những phương án hữu hiệu để tối ưu hóa hình phạt này, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ của đất nước ta hiện nay. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999

1.2.1.1. Từ 1945 đến 1985

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Trước tình hình đó, nhân dân ta phải đối mặt với ba nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm. Ngày 5/9/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 6-SL trong đó: “Cấm nhân dân Việt Nam không được đăng lính, bán thực phẩm, dẫn đường, liên lạc, làm tay sai cho Pháp; kẻ nào trái lệnh sẽ bị đưa ra Tòa án quân sự nghiêm trị”. Ngoài ra, các Sắc lệnh số 7-SL (5/9/1945) về việc cấm đầu cơ, tích trữ thóc gạo, Sắc lệnh số 45-SL (9/10/1945) về việc cấm xuất khẩu thóc, gạo, đỗ, các chế phẩm từ ngũ cốc cũng được ban hành. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xét xử những hành vi phản động này, ngày 14/2/1946, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 21-SL quy định sẽ đem ra xét xử: “Tất cả những người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Đây cũng là thời kỳ bắt đầu xây dựng nền móng pháp luật hình sự của Nhà nước kiểu mới đến trước khi chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng pháp luật của chế độ thực dân-phong kiến, tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật mới. Trong thời kỳ lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ 1955 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các đạo luật hình sự được ban hành chủ yếu là những văn bản pháp luật đơn hành đề cập đến các tội phạm cụ thể, ít đề cập đến các vấn đề thuộc về Phần chung. Trục xuất trong thời kỳ này cũng được ban hành trong một số văn bản đơn hành.

Thời điểm này đất nước ta phải đối diện với nhiều vấn đề, trong đó có một vấn đề rất cần thiết đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật cho chế độ mới. Có nhiều chế định cũ bị bãi bỏ, nhiều chế định tạm thời vẫn áp dụng theo chế độ thực dân và nhiều chế định mới được ra đời. Sau một thời gian dài bị đô hộ, số lượng người nước ngoài ở Việt Nam là khá đáng kể, với nhiều mục đích và không tránh khỏi có những người có ý định gây tổn hại cho chế độ, xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ, cũng như sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Việc cho ra đời biện pháp trục xuất người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời điểm này là cần thiết và đúng đắn.

Trục xuất được quy định và áp dụng như là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Sắc lệnh 205 được ban hành trong bối cảnh đất nước đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Điều 1 quy định:

  1. Những người ngoại quốc xét ra lời nói hay việc làm có phương hại đến cuộc trị an, sự trật tự chung, hoặc cuộc kháng chiến hiện thời của quốc gia.
  2. Những người ngoại quốc đã bị một tòa án Việt Nam kết án về đại hình, tiểu hình, sau khi họ mãn hạn giam, hoặc được ân xá hay phóng thích.
  3. Những người ngoại quốc đã bị một tòa án ngoại quốc kết án về những tội thường phạm, tiểu hình hay đại hình.
  4. Những người ngoại quốc xét ra là lưu manh, vô gia cư, vô nghề nghiệp hoặc không được Chính phủ Việt Nam cho phép cư trú trên lĩnh thổ Việt Nam.

Hình phạt trục xuất trong các văn bản pháp luật thời kỳ này nhìn chung là có đặc điểm như sau:

  • Trục xuất thời kỳ này do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và Bộ trưởng Bộ Tư Pháp chịu trách nhiệm thi hành (Điều 2 Sắc lệnh)
  • Người bị trục xuất không phải mang án tích và được ấn định thời gian trục xuất. Trong trường hợp những người ngoại quốc bị trục xuất mà không chịu rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn đã định hoặc trở lại Việt Nam không có phép của Chính Phủ thì sẽ bị truy tố và phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm. Chấp hành xong hình phạt sẽ bị áp dẫn ra ngoài biên giới (Điều 5 Sắc lệnh).
  • Do hoàn cảnh chủ quan và khách quan của đất nước trong giai đoạn chiến tranh, đất nước đang bị bao vây nhiều mặt nên các văn bản pháp lý liên quan đến việc trục xuất người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời điểm này là hết sức ít ỏi. Việc quy định cụ thể các loại chế tài, cách thức xử lý cũng không cụ thể mà còn rất chung chung.

1.2.1.2. Từ 1985 đến 1999 Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Trong giai đoạn này, không có một văn bản riêng biệt nào quy định cụ thể về trục xuất mà trục xuất được ghi nhận tại một số văn bản pháp lý liên quan đến việc xuất nhập cảnh… của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, tiêu biểu nhất là Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam được Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1992. Trục xuất được ghi nhận tại Chương IV của Pháp lệnh, gồm 2 điều (Điều 16 và Điều 17), quy định đối tượng bị áp dụng biện pháp trục xuất, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng và thời gian áp dụng. Tuy nhiên, nội dung vẫn còn rất sơ sài, không thể hiện hết được nội dung là hình phạt cũng như những quy định cụ thể về cách thức xử lý đối với người bị trục xuất.

Nhìn chung, các văn bản pháp luật liên quan đến trục xuất người nước ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời điểm trước năm 1999 là khá sơ sài, chủ yếu được dụng để áp dụng trong thời kỳ chiến tranh. Sau khi đất nước giải phóng, không có một văn bản nào quy định cụ thể về hình phạt trục xuất, mà chỉ được quy định rải rác trong các văn bản pháp lý liên quan đến phạt hành chính. Ngay cả khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, các nhà làm luật cũng chưa quy định cụ thể hình phạt trục xuất trong Bộ luật.

Điều này có thể nói là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta chủ yếu tập trung ban hành những văn bản pháp quy quy định về những loại tội phạm,nhóm loại tội phạm cụ thể và đường lối xử lý đối với các loại tội phạm như các loại tội phạm liên quan đến việc trừng trị âm mưu, hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân; các tội phạm liên quan đến đầu cơ; các tội phạm phản cách mạng; xâm phạm tài sản Nhà nước và cá nhân… Thực tế đất nước ta trong giai đoạn này là công cuộc cải tổ lại đất nước. Sau khi giành lại độc lập, đất nước ta phải đối diện với nhiều khó khăn, thù trong giặc ngoài vẫn diễn ra hết sức phức tạp, kẻ địch vẫn không ngừng tiến hành các hoạt động diễn biến hòa bình hết sức ma lanh, sự thay đổi của tình hình kinh tế – chính trị cũng dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội phát triển, việc bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ chế độ và tài sản quốc dân là việc cần thiết hơn cả. Chính sách với người nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu thông qua con đường ngoại giao mềm dẻo, bao gồm cả việc xử lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam.

Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định:

Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các hiệp định quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hay công nhận hoặc theo tục lệ quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao [42].

Khoản 2 Điều 6 Bộ luật hình sự 1985 cũng quy định:

Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các hiệp định quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hay công nhận [42].

Qua đó, có thể thấy đường lối xử lý người nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn này là hết sức mềm dẻo, chủ yếu áp dụng các hiệp định, hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc công nhận.

1.2.2. Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Do yêu cầu của việc từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền của nước ta, đồng thời đáp ứng tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, nên có nhiều tổ chức và cá nhân nước ngoài vào Việt Nam làm ăn kinh doanh hoặc du lịch. Sự ra đời của hình phạt trục xuất trong thời điểm khi tình trạng người nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng nhiều, với đa dạng nhiều loại hình, như buôn bán, du lịch, quan hệ ngoại giao, học tập… kéo theo nhiều mặt tiêu cực, trong đó tình trạng vi phạm pháp luật Việt Nam gia tăng một cách nhanh chóng, việc xử lý người nước ngoài vi phạm trở nên khó khăn. Chỉ bằng việc xử lý họ theo các quy định theo thủ tục hành chính là không đủ nghiêm khắc và mức độ răn đe chưa đáng kể, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra và ngày càng ra tăng, có nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích của Nhà nước Việt Nam, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam hoặc của người nước ngoài mà theo pháp luật Việt Nam họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và trong nhiều trường hợp, việc cải tạo họ ở Việt Nam không đem lại hiệu quả, không đạt được mục đích của việc giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Việc để họ tại Việt Nam còn gây ra những phức tạp không đáng có, việc trục xuất họ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ có lợi nhiều mặt. Hình phạt trục xuất là một biện pháp cưỡng chế đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên, không phải tất cả những người nước ngoài bị kết án đều áp dụng hình phạt trục xuất, mà chỉ áp dụng hình phạt này trong những trường hợp cần thiết. Hình phạt trục xuất có liên quan đến chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nên khi áp dụng hình phạt này cần phối hợp với cơ quan ngoại giao để cân nhắc tính hiệu quả của việc áp dụng hình phạt trục xuất.

Từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất chính thức được ghi nhận là một loại hình phạt trong Bộ luật, với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây Nhà nước ta cũng đã quyết định trục xuất một số người nước ngoài ra khỏi lãnh thổ nước ta, những người này có thể là người đã bị kết án, nhưng cũng có thể là người không bị kết án. Việc Nhà nước ta quyết định trục xuất người nước ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong những năm qua là biện pháp hành chính chứ không phải là biện pháp cưỡng chế về hình sự với ý nghĩa là một loại hình phạt.

Ngoài quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 và Nghị định số 54/2001/NĐ-CP thì cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn cụ thể các quy định về hình phạt trục xuất và các vấn đề liên quan. Luật không quy định trong trường hợp nào thì áp dụng trục xuất với tư cách là hình phạt chính, trường hợp nào áp dụng trục xuất với tư cách hình phạt bổ sung, các điều luật tại phần riêng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không quy định khung hình phạt liên quan đến trục xuất, mà tùy vào tình chất, mức độ nguy hiểm để cán bộ Tòa án xử lý. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất của cán bộ tư pháp cũng rất hạn chế, thay đổi thất thường trong khi tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Cho đến thời điểm hiện tại, hình phạt trục xuất vẫn chưa phát huy hết được ý nghĩa thực tiễn của nó trong công cuộc xử lý tội phạm. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

1.3. PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI BIỆN PHÁP TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÀNH CHÍNH; HÌNH PHẠT TIỀN; PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI TƯ CÁCH HÌNH PHẠT CHÍNH VÀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG

1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính

  • Điểm giống nhau

Về hình thức, hình phạt trục xuất trong luật hình sự và biện pháp trục xuất trong luật hành chính là giống nhau trong việc đều buộc đối tượng riêng biệt là người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Theo cả pháp luật hành chính và pháp luật hình sự thì trong trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của pháp luật điều chỉnh liên quan đến vấn đề trục xuất thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó.

  • Điểm khác nhau Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Thứ nhất, trục xuất hành chính là biện pháp (chế tài) áp dụng đối với người nước ngoài có các hành vi vi phạm các quy định pháp luật hành chính. Bên cạnh đó, người nước ngoài phạm tội buộc phải chịu hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam chỉ khi có quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Còn trường hợp người nước ngoài vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú hoặc vi phạm một số quy định hành chính khác phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

Thứ hai, hình phạt trục xuất theo Bộ luật hình sự được quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính được quyết định bằng văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt hành chính ban hành.

Thứ ba, về đối tượng áp dụng, hình phạt trục xuất trong luật hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân người phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật (cố ý và vô ý) phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Thứ tư, về bản chất pháp lý, hình phạt trục xuất trong luật hình sự hoàn toàn khác biệt so với biện pháp trục xuất theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an với tính chất là chế tài hành chính. Cụ thể, nếu hình phạt trục xuất được ghi nhận trong hệ thống hình phạt được quy định trọng Bộ luật hình sự năm 1999 là một dạng trách nhiệm hình sự dành cho cá nhân người nước ngoài phạm một trong các tội được quy định trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước áp dụng đối với cá nhân người phạm tội.

Về nguyên tắc, người chịu hình phạt này phải mang án tích trong thời hạn nhất định. Còn trục xuất theo thủ tục hành chính thì người bị trục xuất không phải chịu án tích.

3.1.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

Điểm giống nhau

  • Hình phạt trục xuất và hình phạt tiền đều là loại hình phạt lưỡng tính, tức là vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung.
  • Đối với cả hai loại hình phạt này, khi đã áp dụng là hình phạt chính thì không được áp dụng là hình phạt bổ sung nữa. Có nghĩa là đối với một loại tội phạm cụ thể, loại hình phạt này chỉ áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.
  • Đối tượng bị áp dụng hai loại hình phạt này đều phải mang án tích trong một khoảng thời gian nhất định.

Điểm khác nhau

  • Về đối tượng áp dụng: nếu đối tượng bị áp dụng hình phạt của hình phạt trục xuất là người nước ngoài thì đối tượng của hình phạt tiền là bất kỳ chủ thể nào phạm tội và bị kết án phạt tiền.
  • Phương thức tác động: đối với người bị áp dụng hình phạt tiền, phương thức tác động là tước bỏ một phần lợi ích kinh tế của họ để sung vào công quỹ nhà nước; còn đối với hình phạt trục xuất thì phương thức của nó là buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  • Phạm vi áp dụng: hình phạt trục xuất có thể được áp dụng đối với bất kỳ loại tội phạm nào được quy định trong Phần riêng Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; còn hình phạt tiền được áp dụng tùy nghi trong 301 khung chế tài của 103 điều luật trên tổng số 674 khung chế tài của 261 điều luật về tội phạm. Tòa án chỉ được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định, và áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do Bộ luật quy định. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính và hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt bổ sung

  • Phạm vi tác động: trục xuất với tư cách là hình phạt chính được áp dụng đối với người bị kết án là một hình phạt khác không phải là hình phạt trục xuất còn với tư cách hình phạt bổ sung, trục xuất có thể được áp dụng đối với bất kỳ người nước ngoài nào phạm tội.
  • Căn cứ áp dụng: trục xuất với tư cách là hình phạt bổ sung không được tuyên độc lập mà mà chỉ được tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhưng không phải tuyên với bất cứ loại hình phạt chính nào mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất định, căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
  • Mức độ tác động của hình phạt: so với hình phạt chính, hình phạt trục xuất khi áp dụng với tư cách là hình phạt bổ sung có mức độ nghiêm khắc cao hơn, bởi vì nếu áp dụng hình phạt trục xuất với tư cách hình phạt chính, người phạm tội chỉ phải chịu hậu quả là bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, còn nếu áp dụng là hình phạt bổ sung thì người phạm tội phải chịu nhiều hậu quả pháp lý bất lợi khác như: phạt tiền, tù giam v.v…
  • Mục đích của hình phạt: đối với loại hình phạt bổ sung, hình phạt trục xuất nhằm mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn; còn đối với hình phạt chính, Nhà nước chủ yếu hướng đến mục đích răn đe, trừng trị, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm. Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng hình phạt trục xuất theo luật hình sự VN

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993