Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng cơ bản, mang tính xuất phát điểm, cấu thành một bộ phận quan trọng nhất thấm nhuần toàn bộ nội dung cũng như hình thức của hệ thống pháp luật, là cơ sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng pháp luật cũng như thực hiện pháp luật [22, tr 147].
Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là giai đoạn đầu tiên của cơ chế điều chỉnh pháp luật (đôí với văn bản quy phạm pháp luật) hoặc đóng vai trò là phương tiện pháp lý đặc thù để đưa pháp luật vào cuộc sống (đối với văn bản cá biệt). Hơn bất kỳ hoạt động thực hiện pháp luật nào, xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần phải dựa trên những nguyên tắc khoa học.
Ngoài những nguyên tắc chung của pháp luật như nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì luật không cấm, các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; nguyên tắc công bằng; nguyên tắc Đảng lãnh đạo…Trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản có những nguyên đặc thù cần được nhấn mạnh, phân tích và có biện pháp thực thi nguyên tắc trên thực tế.
3.1.1. Nguyên tắc dân chủ
Điều 2 Hiến pháp 2001 ghi nhận nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy pháp luật của nhà nước Việt Nam phải xuất phát từ ý chí của nhân dân. Pháp luật xuất phát từ ý chí của nhân dân thì nguyên tắc dân chủ phải đặc biệt được nhấn mạnh trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Phải tạo các kênh khác nhau để ý chí nhân dân được phản ánh vào quá trình lập pháp. Thứ nhất, để bảo đảm nguyên tắc dân chủ, cần phải phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp trong hoạt động lập pháp như trưng cầu dân ý hay phúc quyết hiến pháp như Hiến pháp 1946 đã làm. Trong tương lai với sự phát triển của công nghệ thông tin thì khoảng cách không gian không phải là trở ngại lớn để tiến hành các hình thức dân chủ trực tiếp.
Thứ hai, cần phải tăng cường lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, các hoạt động lập pháp cần phải được công khai. Các đại biểu Quốc hội Việt Nam là đại biểu cho toàn quốc (theo thuyết chủ quyền quốc dân chứ không theo thuyết chủ quyền nhân dân) [2, tr 84]. Nhưng cần phải báo cáo về hoạt động lập pháp của mình. Ý kiến của các đại biểu thiểu số cần phải được ghi lại và công bố cho cử tri. Qua đó cử tri biết được đại biểu mà họ bầu có hoàn thành nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền lợi cho họ không.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Nguyên tắc khách quan Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Chỉ có các điều kiện kinh tế xã hội ra lệnh cho pháp luật, mà pháp luật không thể ra lệnh cho các điều kiện kinh tế xã hội (Kark Mark). Vì vậy pháp luật phải bảo đảm nguyên tắc khách quan. Nếu vi phạm nguyên tắc khách quan, pháp luật trở thành luật chết và chúng ta phải trả giá đắt. Ví dụ: khi trình độ lực lượng ở Việt Nam còn thấp, chúng ta lại xây dựng mô hình hợp tác xã bậc cao.
Để bảo đảm nguyên tắc khách quan, nội dung pháp luật phản ánh đúng các quy luật xã hội, quy luật tự nhiên, phản ánh đúng tồn tại xã hội thì cần phải tiến hành các điều tra, nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Và phải có điều kế hoạch điều tra, đánh giá sau ban hành để sửa đổi, huỷ bỏ những văn bản lạc hậu, bất hợp lý.
Các lợi ích khách quan thường bị che lấp bởi cái chủ quan của những người tham gia lập pháp. Vì vậy hiện nay do năng lực lập pháp của Quốc hội chưa đáp ứng được nên việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thường giao cho các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó soạn thảo. Ví dụ: Pháp lệnh Hải quan giao cho Tổng cục Hải quan soạn thảo, Pháp lệnh về tổ chức luật sư giao cho Bộ Tư pháp soạn thảo. Cách làm này bảo đảm cơ quan soạn thảo am hiểu về lĩnh vực mà dự luật đang đề cập. Nhưng họ là chủ thể tham gia các quan hệ xã hội mà dự luật đang điều chỉnh vì vậy họ sẽ đưa ra phương án có lợi cho họ mà có thể làm thiệt hại đến lợi ích chủ thể khác, làm hạn chế các quyền tự do của đối tượng bị quản lý.
Khi tăng dần số đại biểu chuyên trách trong Quốc hội, năng lực lập pháp của Quốc hội được nâng cao thì cần hạn chế tình trạng này. Để bảo đảm tính chuyên môn trong quá trình soạn thảo luật thì các cơ quan quản lý các lĩnh vực liên quan có thể gửi các báo cáo giải trình và cử các chuyên gia vào ban soạn thảo theo yêu cầu của các Uỷ ban của Quốc hội.
Để tăng cường tính khách quan thì không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước mà cả đối tượng bị quản lý đều được tham gia vào quá trình lập pháp. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
3.2. LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT .
3.2.1. Nhà nước pháp quyền và việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Nhà nước pháp quyền theo tiếng Anh là rule of law, có nghĩa là sự ngự trị của pháp luật. Hiện nay có nhiều khái niệm, quan điểm, tiêu chí khác nhau để xem một Nhà nước là Nhà nước pháp quyền [20, tr 132]. Mặc dù các tác giả khác nhau về một số khía cạnh của khái niệm Nhà nước pháp quyền, các nguyên tắc, đặc điểm, tiêu chí để xem một Nhà nước là Nhà nước pháp quyền nhưng mọi người đều thống nhất rằng Nhà nước pháp quyền là Nhà nước có sự ngự trị của pháp luật, sự ràng buộc của pháp luật đối với Nhà nước và tất cả các thành viên khác trong xã hội, và pháp luật đó phải bảo đảm yêu cầu khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Tại sao trong Nhà nước pháp quyền thì pháp luật do Nhà nước ban hành ra hay nói cách khác Nhà nước sinh ra pháp luật, Nhà nước lại bị ràng buộc bởi pháp luật?
Trong nhà nước chủ nô, phong kiến chỉ có “Nhà nước pháp chế” mà không có “Nhà nước pháp quyền”. Nhà nước chủ nô mà hiện thân là vị vua là hiện thân cho ý chí của Thượng đế. Lúc đó không có khái niệm chủ quyền nhân dân, ý chí nhà vua là cao nhất, là luật nên ông ta có thể tuỳ tiện vi phạm vì chính vua là hiện thân của luật.
Theo chúng tôi, nếu dùng học thuyết đấu tranh giai cấp để lý giải hiện tượng “pháp luật cao hơn nhà nước” sẽ có một vài khía cạnh chưa được thoả đáng. Vì theo học thuyết giai cấp của Lênin thì Nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp không thể dung hoà được. Nhà nước luôn thuộc về một giai cấp thống trị, là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị nên cả Nhà nước và pháp luật đều là sản phẩm trực tiếp của ý chí giai cấp thống trị, cái ý chí bị quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Vì vậy Nhà nước được tổ chức theo mô hình tập quyền và chỉ lệ thuộc ý chí của giai cấp thống trị mà không nhất thiết bị ràng buộc bởi pháp luật. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Nếu thừa nhận chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội thì lý giải sự ngự trị của pháp luật được triệt để hơn. Cách mạng tư sản thừa nhận quyền lực Nhà nước không từ hư vô mà từ nhân dân [26, tr 94]. Từ khi con người biết lao động theo tập thể thì sẽ xuất hiện nhu cầu quản lý tập thể đó và có các thiết chế tương ứng để thực hiện nhiệm vụ đó. Khi các quan hệ xã hội ngày càng phát triển, càng trở nên đa dạng, phức tạp thì để đảm nhiệm công việc khổng lồ đó mọi người dân cùng nhau “thoả thuận” thành lập ra một tổ chức quyền lực chung nhằm thực hiện nhiệm vụ trên. Tổ chức đó chính là Nhà nước (Tôi cho rằng đó là một khế ước giữa các chủ thể không ngang nhau về sức mạnh nên hợp lý nhưng không hoàn toàn tự nguyện đối với kẻ yếu). Quan niệm nhà nước là sản phẩm của khế ước xã hội không của riêng cá nhân, đẳng cấp, giai cấp nào. Vì vậy quyền lực nhà nước phụ thuộc vào chủ quyền nhân dân. Nhân dân thiết lập ra nhà nước nhưng vẫn kiểm soát nó thông qua pháp luật và bằng cách:
Chia quyền lực nhà nước thành ba bộ phận và trao cho các cơ quan khác nhau là hành pháp, lập pháp và tư pháp. Nghị viện-cơ quan lập pháp ban hành ra luật ràng buộc các cơ quan hành pháp, tư pháp phải thi hành. Như vậy có sự ngự trị của luật đối với hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp.
Đến lượt “Nghị viện lập pháp” lại bị ràng buộc bởi các quy tắc do “Quốc hội lập hiến” đặt ra qua bản hiến pháp. Quốc hội lập hiến có thể nói là nơi chuyển giao quyền lực trực tiếp giữa chủ quyền nhân dân và quyền lực nhà nước. Bởi vậy đến đây nghị viện lập pháp hoạt động dưới sự ngự trị của luật do “quốc hội lập hiến” đặt ra.
Như vậy theo học thuyết khế ước xã hội và tam quyền phân lập thì Nhà nước là một tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt để thể hiện ý chí chung của nhân dân [37, tr 149]. Cái ý chí được thể hiện dưới các hình thức dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý, bầu ra tổng thống, thị trưởng… hoặc dưới hình thức của dân chủ gián tiếp là nhân dân bầu ra đại diện của mình và các đại biểu đó thay mặt nhân dân ban hành ra pháp luật . Vì vậy, pháp luật ràng buộc mọi hoạt động của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội vì pháp luật là ý chí của nhân dân. (Điều 1 Hiến pháp Áo 1929 quy pháp luật nhà nước Áo bắt nguồn từ nhân dân – Austria is democratic republic and its law emanate from people).
Pháp luật là ý chí nhân dân nên pháp luật trong nhà nước pháp quyền cần phải lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành. Đặc biệt đối với những vấn đề liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
3.2.2. Thực tiễn lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Một số kiến nghị
Thực tiễn lấy ý kiến nhân dân trong thời gian vừa qua:
Kể từ sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành. Hoạt động lập pháp của Nhà nước được đẩy mạnh hơn trước và vấn đề lấy ý kiến nhân dân được chú trọng hơn trước theo đúng tinh thần nhà nước của dân, do dân, vì dân như Điều 2 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Trong số các văn bản Luật pháp lệnh được ban hành có nhiều văn bản trước khi thông qua, đã được công bố lấy ý kiến nhân dân. Đó là các luật như Luật Đất đai, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật Lao động, Luật tổ chức hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân, Bộ luật dân sự, Luật khiếu nại tố cáo, Bộ luật hình sự 1999 … Trong đó việc lấy ý kiến nhân dân của Bộ Luật dân sự và Luật khiếu nại tố cáo tương đối đầy đủ về quy mô, phạm vi và kết quả.
Đồng thời thời gian qua cũng cho thấy nhiều bấy cập trong việc lấy ý kiến nhân dân.
Thứ nhất, chưa có những tiêu chí định tính đề xác định những dự luật nào sẽ lấy ý kiến nhân dân.
Khoản 1. Điều 39. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh như sau:
“…Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh…”.
Điều 39 Hoàn toàn chưa xác định những tiêu chí dù là định tính tối thiểu để xác định loại dự luật, pháp lệnh nào cần phải lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành. Việc quyết định dự án luật, pháp lệnh nào đưa ra lấy ý kiến nhân dân cũng như nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân hoàn toàn do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Nếu quan niệm pháp luật bắt nguồn từ nhân dân thì ý chí nhân dân cần được phản ánh một cách sát thực. Muốn được phản ánh một cách sát thực thì không chỉ nội dung phản ánh, phản ánh như thế nào mà cái quan trọng đầu tiên là phải được phản ánh, nhân dân phải được hỏi ý kiến. Cần phải quan niệm nhân dân được hỏi ý kiến và tư cách là người chủ quyền lực chứ không phải là thiết chế tư vấn được cơ quan nhà nước hỏi đến khi cơ quan nhà nước cảm thấy cần. Việc quy định cho cơ quan nhà nước toàn quyền quyết định việc hỏi ý kiến như Điều Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là chưa hợp lý lắm làm mất đi ý nghĩa của việc hỏi ý kiến nhân dân vì theo Jame Madison trong Luận về hiến pháp Liên bang (Federalist paper) thì nếu mọi công dân là thiên thần thì không cần đến chính phủ. Nếu thiên thần điều hành chính phủ thì không cần đến sự giám sát từ bên trong cũng như từ bên ngoài. Nhưng chính phủ của chúng ta là chính phủ quản lý con người bởi con người mà con người có lúc cao thượng cũng có lúc xấu xa cũng như chính phủ vậy. Vì vậy theo chúng tôi, các cơ quan nhà nước chỉ thay mặt nhân dân giải quyết những vấn đề định trước theo những tiêu chuẩn định trước mà nhân dân đặt ra trong các văn bản luật.
Pháp luật một số nước có cách quy định để hạn chế sự lạm quyền này bằng cách quy định dự thảo hiến pháp và những dự luật liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thì phải thăm dò ý kiến nhân dân và quy định nguyên thủ quốc gia hoặc ít nhất 1/3 thành viên nghị viện có thể yêu cầu nghị viện thảo luận xem xét việc đưa dự luật ra thăm dò ý kiến nhân dân (Theo bài phát biểu của giáo sư ICHIASHI tại hội thảo Promulgation of Legal normative documents tại Bộ tư pháp).
Thứ hai, việc xác định phạm vi, cách thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân còn chưa được quy định.
Khoản 2 Điều 39 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 nhường quyền quyết định này cho UBTVQH và UBTVQH quyết định phạm vi, thể thức, thời gian khác nhau tuỳ thuộc các dự luật khác nhau (adhoc) mà không theo một quy tắc nào. Theo chúng tôi, khi một dự luật được đưa ra thì mọi vấn đề trong đó đều cần hỏi ý kiến nhân dân , các định hướng thảo luận chỉ là khuyến nghị chứ không nên giới hạn trong phạm vi một số điều như trong lần sửa đổi Hiến pháp 1992 vừa qua đã làm.
Muốn việc ý kiến nhân dân trong thăm dò dư luận nói chung được hiệu quả hơn. Trước hết phải cho nhân dân nắm được nội dung cơ bản của dự luật, những nhóm lợi ích cần điều chỉnh trong dự luật, những ý kiến quan điểm khác nhau …
Công việc này chủ yếu được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và một số diễn đàn khác nhau sẽ bàn đến ở phần sau. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Hiện nay việc lấy ý kiến nhân dân được tiến hành chủ yếu theo các cách sau:
Tổ chức thảo luận tập thể theo địa bàn cư trú như tổ dân phố, phường xã. Đây là cách làm khá phổ biến và có ưu điểm thu thập thông tin một cách đa chiều rộng rãi phản ánh lợi ích của nhiều thành phần, tầng lớp xã hội trong một cộng đồng nhất định đồng thời phản ánh được các đặc thù, các lợi ích địa phương.
Nhưng cách làm này gặp phải hai trở ngại:
Thứ nhất, khó thảo luận tập trung vấn đề. Do thành phần xã hội trong cộng đồng khác nhau về quan điểm, về trình độ học vấn, nhận thức, về lợi ích. Các thành viên nhiều lúc thấy lợi ích mâu thuẫn nhau và thấy tiếng nói lợi ích của mình lọt thỏm giữa cộng đồng, kém hiệu quả dẫn đến sự chán nản của các thành viên, kém thu hút. và tất yếu là khó tổng kết, đánh giá kết quả lấy ý kiến.
Thứ hai, khó thu hút được đầy đủ nhân dân tham gia vì công việc của mỗi người trong cộng đồng là khác nhau khó sắp xếp thời gian.
Thứ ba, việc lấy ý kiến nhân dân theo cách này đòi hỏi kinh phí lớn hơn việc lấy ý kiến tại các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Vì thường phải chi cho việc thành lập ra ban tổ chức và có thể phải chi phí cho những người tham gia để thu hút dân chúng.
Chí phí này có thể lấy từ nhiều nguồn, có thể từ nguồn ngân sách trích trong kinh phí làm luật hoặc do Uỷ ban nhân dân quyết định hoặc từ các nguồn hỗ trợ khác. Đồng thời, việc quản lý các nguồn kinh phí này rất khó.
Tổ chức thảo luận tại các cơ quan , đoàn thể tổ chức xã hội nghề nghiệp. Cách này khắc phục được hầu hết những nhược điểm của cách trước. Các thành viên thuộc về một tổ chức, đoàn thể nhất định có kỷ luật chặt chẽ nên việc tập hợp thảo luận được dễ dàng và sử dụng những thiết chế sẵn có vào tổ chức đó nên tiết kiệm được kinh phí; các thành viên có trình độ nhận thức tương đối đồng đều lợi ích tương đối giống nhau nên sẽ thảo luận một cách tập trung và phản ánh đúng lợi ích của ngành, nhóm đó.
Cách thảo luận này đặc biệt có ý nghĩa tại các cơ quan, tổ chức liên quan hoạt động áp dụng pháp luật như Toà án, Viện kiểm sát, các cơ quan nghiên cứu pháp luật như các viện nghiên cứu , trường đại học hoặc các tổ chức nghề nghiệp của những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật như hội luật gia, đoàn luật sư… Đây là tổ chức của những người am hiểu về pháp luật và có cái nhìn toàn diện đối với các dự luật. Lợi ích của họ thường không liên quan trực tiếp đến các dự luật nên ý kiến thường khách quan, chính vì vậy ở các nước tư bản thì các buổi thảo luận và ý kiến của các hiệp hội, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học danh tiếng thường được các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải và đóng vai trò như ý kiến chuyên gia chính những ý kiến ngày chứ không phải là khuyến nghị của các cơ quan nhà nước sẽ đóng vai trò định hướng dư luận xã hội.
Cách lấy ý kiến theo cơ quan, tổ chức, nghiệp đoàn mặc dù có những ưu điểm trên nhưng nó không mang tính phổ quát hơn nữa nó có thể không khách quan khi dự luật liên quan đến quyền lợi của một ngành, nghiệp đoàn, hoặc cơ quan nào đó. Ví dụ: ý kiến của Viện kiểm sát trong việc sửa đổi Hiến pháp 1992 liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát.
Cách lấy ý kiến theo phương pháp điều tra xã hội học. Lấy ý kiến nhân dân theo phương pháp điều tra xã hội học tức là dùng bảng hỏi hoặc phỏng vấn trực tiếp từng người để xác định ý kiến. Cách làm này cho phép thu được những gì mà mình muốn bằng cách thiết kế bảng hỏi phù hợp và kết quả thu được khá trung thực, khả năng bóp méo ý kiến những người tổ chức được giảm xuống. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Tuy nhiên phương pháp này chỉ được áp dụng để lấy ý kiến một phần của dự luật nơi có nhiều ý kiến trái ngược nhau và có các phương án lựa chọn khá rõ ràng mà không được áp dụng cho toàn bộ dự luật.
Hơn nữa bảng hỏi áp dụng trong trường hợp này thường là bảng hỏi đóng; không có cơ hội cho việc bình luận, phân tích dự luật. Phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực cho việc lấy bảng hỏi, điều tra cũng như xử lý dữ liệu khác tốn kém so với điều kiện của Việt Nam nên khó có thể áp dụng với quy mô lớn.
Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tin học và Internet thì có thể mở ra hướng thứ tư. Đó là việc thành lập các trang Web để tạo diễn đàn thảo luận các vấn đề của dự luật; thành lập ra các hộp thư điện tử để có thể nhận kiến đóng góp, thực hiện các bảng hỏi và xử lý một cách tự động. Hiện nay số máy thuê bao in Internet còn ít nhưng trong tương lai gần thì phương pháp này có thể áp dụng cho các thành phố lớn. Đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh nơi đang triển khai mô hình “chính phủ điện tử” .
Thứ ba, việc tập hợp, tiếp thu ý kiến nhân dân.
Việc tập hợp, xử lý ý kiến nhân dân rất quan trọng. Nếu không làm tốt khâu này thì mọi hoạt động ở giai đoạn trước trở nên vô nghĩa.
Việc tập hợp xử lý ý kiến nhân dân phải bảo đảm các yêu cầu:
- Đầy đủ: Mọi đóng góp dưới các hình thức như kết luận của hội thảo các diễn đàn thảo luận của nhân dân, thư từ gửi trực tiếp; ý kiến thu nhận được của các đại biểu Quốc hội qua tiếp xúc với cử tri; ý kiến đóng góp mà các cơ quan nhà nước, tổ chức khác nhận được đều phải được thu thập và xử lý.
- Thống nhất. Vì các thông tin, ý kiến liên quan dự án đều phải được cân nhắc, đánh giá một cách toàn diện.
Hay nói cách khác thông tin phải đầy đủ và tập trung tại một đầu mối.
Việc tập trung nên bắt đầu ngay từ khi tiếp nhận ý kiến. ý kiến nhân dân từ các nguồn, các kênh, các hình thức khác nhau.; qua các cơ quan tổ chức khác nhau đều phải tập trung tại đầu mối cuối cùng là Văn phòng Quốc hội.
Phải khách quan, trung thực, chính xác toàn diện việc tập hợp và tiếp thu ý kiến nhân dân cần phải khách quan, toàn diện, thu thập các thông tin đại diện cho nhóm lợi ích đa số và thông tin đại diện cho lợi ích thiểu số. Việc tập hợp, xử lý các ý kiến đóng góp khách quan, trung thực sẽ giúp các nhà làm luật có cái nhìn sát thực và tạo cho những người đóng góp ý kiến tin rằng ý kiến của mình được phản ánh, hành động của mình có ý nghĩa, tăng niềm tin nhân dân vào Nhà nước, Đảng.
Theo Điều 41. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định văn phòng quốc hội có trách nhiệm tập hợp điều chỉnh ý kiến của nhân dân. Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phù hợp với cơ quan thẩm tra, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến nhân dân, chỉnh lý dự án và báo cáo Uỷ ban thường vụ quốc hội. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Trong thực tiễn việc tập hợp, xử lý các ý kiến hiện nay nhân dân đã có sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc Quốc hội thẩm tra dự án và cơ quan soạn thảo với sự giúp đỡ của các chuyên viên khác từ TAND, VKSNDTC ..
Nhưng xác định trong văn bản pháp luật về trách nhiệm chính của cơ quan nào cũng còn chưa rõ ràng [5, tr 47].
Qua quá trình nghiên cứu nhận thấy một số hạn chế như trên vừa phân tích, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị.
Để xác định rõ hơn những loại dự án luật, pháp lệnh nào cần đưa ra lấy ý kiến nhân dân thì Khoản 1.Điều 39 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên sửa thành:
“Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ quyết định lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, gồm những dự án luật, pháp lệnh liên quan các lĩnh vực sau đây [25, tr 24]:
- Chủ quyền quốc gia.
- Thành lập, tổ chức và thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
- Hệ thống tự trị của các vùng dân tộc thiểu số, các đặc khu hành chính và hệ thống tự quản cơ sở.
- Tội phạm và hình phạt.
- Tước quyền chính trị của công dân hoặc các biện pháp cưỡng bức và trừng phạt liên quan đến việc hạn chế tự do cá nhân.
- Tịch thu bất động sản.
- Các thiết chế dân sự cơ bản.
- Các hệ thống kinh tế thiết yếu và hệ thống thuế, tài chính, hải quan, ngoại thương.
- Tố tụng và hệ thống tài phán. và những trường hợp khác do UBTVQH quyết định.
Chủ tịch nước, chánh án TAND tối cao, hoặc ít nhất 1/3 số thành viên đại biểu quốc hội có thể yêu cầu Quốc hội thảo luận xem xét đưa một số dự án luật, dự án pháp lệnh ra lấy ý kiến nhân dân.
Cần có quy tắc xác định nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh không nên để UBTVQH quyết định khác nhau tuỳ theo từng dự án một (adhoc) thì Khoản 2 Điều 39 nên sửa thành.
“Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh do UBTVQH quy định….” (Chữ quy định có nghĩa là theo một quy tắc định trước, còn quyết định trong Luật 96 sẽ được hiểu là Adhoc).
Để tăng cường tính khách quan, sự giám sát của nhân dân vào quá trình lấy ý kiến nhân dân và tạo niềm tin của nhân dân vào kết quả và ý nghĩa của việc thăm dò ý kiến nhân dân thì Điều 41 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên bổ sung vào khoản 3 như sau: Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các cơ quan thông tin báo chí có quyền cử đại diện đến giám sát quá trình lấy ý kiến nhân dân từ lúc bắt đầu tiến hành đến lúc tập hợp, xử lý kết quả lấy ý kiến nhân dân. Việc cử đại diện tham gia giám sát phải thông báo trước 5 ngày cho cơ quan tiếp nhận.
Cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ mối quan hệ và trách nhiệm của văn phòng Quốc Hội, cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định và các cơ quan khác trong việc phối hợp tổ chức lấy ý kiến, tiếp nhận, phân loại và xử lý ý kiến nhân dân đóng góp.
Theo đó thì cần thành lập một trung tâm thăm dò, phân tích dư luận và lấy kiến nhân dân thuộc văn phòng Quốc hội..
Đưa một chương về lấy ý kiến nhân dân vào Luật trưng cầu dân ý theo điều 3 Mục IX Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Mặc dù trưng cầu dân ý và việc hỏi ý kiến nhân về các dự án luật, dự án pháp lệnh có bản chất khác nhau. Trưng cầu dân ý là đưa một vấn đề nào đó ra cho toàn dân trực tiếp quyết định. Thường quyết định này có hiệu lực pháp lý cao nhất và những quyết định được thông qua bằng trưng cầu dân ý thì việc sửa đổi nó cũng chỉ có thể bằng trưng cầu dân ý.
Còn lấy ý kiến nhân dân cho các dự án luật, pháp lệnh là sự phản ánh ý chí thái độ của nhân dân đối với các dự án đó nhưng chủ thể quyết định cuối cùng vẫn là Quốc hội, UBTVQH.
Tuy nhiên, để tăng tính dân chủ tăng hiệu quả, tính toàn diện của dự luật, pháp lệnh thì kết quả lấy ý kiến nhân dân là một căn cứ rất quan trọng mà các nhà luật pháp phải nghiên cứu kỹ. Vì vậy có thể coi lấy ý kiến nhân dân như là “hình thức dân chủ bán trực tiếp”.
Sở dĩ là ” hình thức dân chủ bán trực tiếp” vì nó không phải là hình thức dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý mà ở trên chúng ta đã phân tích. Nhưng nó cũng không giống chính thức dân chủ gián tiếp truyền thống – tức hình thức dân chủ mà nhân dân thể hiện ý chí của mình thông qua người đại biểu của mình.
Vì vậy có thể đưa chương” lấy ý kiến nhân dân cho các dự án luật, dự án pháp lệnh vào Luật trưng cầu dân ý và có thể áp dụng mutatis mutandis một số nội dung của trưng cầu dân ý.
3.3. CÔNG BỐ, TRUYỀN ĐẠT TOÀN VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
3.3.1. Công bố, truyền đạt văn bản quy phạm pháp luật – một chế định cần hoàn thiện trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
Pháp luật bên cạnh các thuộc tính, đặc điểm, yêu cầu mà các giáo trình lý luận chung về nhà nước Việt Nam thường phân tích thì pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm ba thuộc tính (hay có thể gọi là ba yêu cầu) [12, tr 195].
Thứ nhất, tính rõ ràng của pháp luật (Transparency). Một hệ thống pháp luật bảo đảm tính rõ ràng, trước hết phải bảo đảm yêu cầu rõ ràng về nội dung; phải là một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo mâu thuẫn, bảo đảm trật tự hiệu lực pháp lý.
Sau đó sự thống nhất, rõ ràng này phải biểu hiện ra bên ngoài qua cách phân định sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực từng vấn đề và cách công khai những văn bản quy phạm pháp luật. Tính rõ ràng của pháp luật xét về hình thức thể hiện phải bảo đảm một chủ thể dễ dàng xác định được những quy phạm pháp luật nào mà thương vụ (Transaction) hoặc hành vi của mình nói chung bị ràng buộc.
- Thứ hai, tính ổn định (Stability) .
Quy phạm pháp luật được xem như mẫu số chung cho các hành vi xử sự của các cá nhân trong xã hội. Như vậy từ bản chất bên trong của quy phạm pháp luật đã có sự ổn định. Nó thay đổi khi các hành vi riêng lẻ cùng các cá nhân đồng loạt thay đổi cơ bản và dịch chuyển đến một mức cân bằng mới.
Trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật là công cụ quản lý xã hội chứ không phải là cái roi của giai cấp thống trị tuỳ ý vụt lên đầu người khác hay là công cụ trục lợi của tệ tham nhũng chính sách. Nên pháp luật trong nhà nước pháp quyền chỉ có ý nghĩa khi nó được nhân dân và các chủ thể khác trong xã hội tuân theo. Muốn tuân theo thì phải có sự chuẩn bị nhất định từ phía người dân. Muốn có sự chuẩn bị thì pháp luật phải ổn định để người dân kịp lập kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch, chuẩn bị các điều kiện vật chất để thực thi kế hoạch. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
- Thứ ba, tính có thể dự đoán trước (Preditable).
Tính có thể dự đoán có hai cấp độ. Tính có thể dự đoán nghĩa là nhân dân được thông báo về khả năng sẽ xuất hiện một dự luật và nội dung của nó cho một dự luật khi được thông qua và có hiệu lực thì các chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện các quy phạm chứa đựng trong dự luật đó.
cấp độ cao hơn, tính có thể dự đoán của pháp luật nghĩa là pháp luật đó được ban hành dựa theo những quy luật chung của xã hội, của tự nhiên. Nói một cách khác ở một xã hội mà pháp luật bảo đảm tính có thể dự đoán cao thì một công dân bình thường, không hiểu biết sâu sắc về luật, dùng lý trí của một người bình thường có thể suy luận hành vi của mình hợp lẽ công bằng thì sẽ hợp pháp, sẽ được nhà nước bảo vệ mà chưa cần tìm hiểu kỹ về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Hoàn toàn tương tự mỗi công dân có thể vận dụng các quy luật, dự đoán pháp luật trong tương lai để lập các kế hoạch, chính sách dài hạn cho việc kinh doanh của mình, cũng như mọi công việc khác.
Nếu pháp luật không bảo đảm tính có thể dự đoán thì nó sẽ gây thiệt hại cho công dân. Vì nếu pháp luật không bảo đảm tính có thể dự đoán ở cấp độ thứ nhất thì sự xuất hiện và có hiệu lực của một đạo luật sẽ ra Shock cho thị trường, cho xã hội.
Nó sẽ trực tiếp gây thiệt hại cho một số chủ thể đồng thời có thể là cơ hội làm giàu hợp pháp nhưng bất chính của những ai nhờ những nguồn thông tin khác nhau biết trước được sự thay đổi bất thường đó.
Ví dụ: Việc đổi tiền năm 1985 ở Việt Nam hoặc gần đây một số tư thương biết trước việc chính phủ ra quy định về việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm xe máy đã nhập khẩu hàng vạn chiếc trong khi các doanh nghiệp trong nước với thời gian sáu tháng không thể kịp điều chỉnh dây chuyền, thiết bị để sản xuất đáp ứng nhu cầu thi trường.
Nếu pháp luật không bảo đảm tính có thể dự đoán ở cấp độ thứ hai thì mọi chủ thể không thể lập kế hoạch dài hạn cho việc kinh doanh của mình [29, tr 33]. Mọi vấn đề do không có kế hoạch dài hạn sẽ trở nên manh mún, hỗn độn, làm ăn theo kiểu chụp giựt. Các chủ thể sẽ không yên tâm đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Sẽ không có các doanh nghiệp quy mô lớn. Một hệ thống pháp luật không bảo đảm tính có thể dự đoán ở cấp độ thứ hai, có nghĩa là pháp luật đó không dựa trên những quy luật của xã hội, quy luật của tự nhiên và đang đi ngược lại lợi ích lâu dài của nhân dân, của một dân tộc.
Việc bảo đảm ba thuộc tính trên của pháp luật như là một tiêu chuẩn nhà nước pháp quyền [40, tr 373] một định hướng xây dựng nhà nước mà chúng ta theo đuổi lâu dài. Quan trọng hơn, cấp bách hơn, việc bảo đảm ba thuộc tính đó là đòi hỏi gần kề của quá trình hội nhập quốc tế. Giữa các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, học thuyết pháp lý thì để có thể trở thành đối tác trong các quan hệ kinh doanh thì tính rõ ràng của pháp luật, tính ổn định, tính có thể dự đoán của pháp luật phải đặt lên hàng đầu. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Xin đơn cử Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Có rất nhiều điều khoản liên quan đến tính rõ ràng của pháp luật nằm rải rác ở các chương khác nhau. Đặc biệt tại chương VI. Các điều khoản liên quan tính rõ ràng của pháp luật và quyền khiếu kiện (Transparepcy – related provisions and right to appeal).
Tại Điều 1. Chương VI quy định:
Mỗi bên phải công bố tất cả các luật quy định và thủ tục hành chính liên quan việc áp dụng các vấn đề liên quan trong hiệp định này.
Việc công bố phải tuân theo định kỳ và nhanh chóng ngay sau khi ban hành các văn bản nói trên.
Việc công bố những thông tin đó và biện pháp nói trên phải tuân theo một cách sao cho các cơ quan đại diện của chính phủ, các doanh nghiệp, các các nhân liên quan các hoạt động thương mại trở nên quen thuộc với nó trước khi nó có hiệu lực và có thể áp dụng phù hợp với các điều kiện của họ.
Nội dung công bố của mỗi lần gồm ngày có hiệu lực, các hoạt động thương mại chịu sự ảnh hưởng của các văn bản đó và mọi cơ quan có thẩm quyền mà các chủ thể liên quan phải xin ý kiến hay phê chuẩn để thực hiện các yêu câù mà các văn bản quy phạm pháp luật nói trên đề ra và phải thiết lập các điểm trong mỗi đơn vị hành chính để có thể lấy được các văn bản quy phạm pháp luật từ đó.
Đặc biệt tại Điều 4 Chương VI, quy định mọi luật, các quy định và thủ tục hành chính nói ở Điều 1 chương VI này chưa được công khai đối với các cơ quan nhà nước và toàn thể nhân dân liên quan hoạt động thương mại mà hiệp định này đề cập thì phải công khai kể từ ngày ký hiệp định. Chỉ những luật, quy định và thủ tục hành chính áp dụng chung (in general application) đã được công khai công bố tới các cơ quan hoạt động thương mại và chủ thể liên quan thì mới được xem là có hiệu lực và có thể áp dụng.
Muốn bảo đảm ba yêu cầu trên phải có sự cải cách đồng bộ của nhiều yếu tố nhưng chủ yếu liên quan đặc biệt đến quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt ở đây chúng tôi muốn phân tích việc công bố, truyền đạt văn bản quy phạm pháp luật ảnh hưởng trong việc đáp ứng ba yêu cầu trên của pháp luật.
3.3.2. Thực trạng công bố, truyền đạt văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam: Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Công bố không đầy đủ. Hiện tại ở Việt Nam rất khó có thể xác định một cách chắc chắn (kể cả đối với một luật sư thông thường chứ không chỉ là người dân bình thường). Những văn bản pháp luật nào, quy phạm pháp luật nào ràng buộc và điều chỉnh một thương vụ, một hoạt động, một dự án nhất định. Sở dĩ như vậy vì công báo là nơi duy nhất ở Việt Nam công bố các văn bản pháp luật chính thức và toàn văn các văn bản pháp luật. Các báo, tạp chí khác thỉnh thoảng đưa tin nhưng không thường xuyên, không kịp thời và chỉ trích dẫn mang tính thông tin thời sự.
Nhưng Điều 10. đoạn 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn cho thấy chỉ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Trung ương (tức từ cấp Bộ, cơ quan ngang Bộ và một số cơ quan trực thuộc Chính phủ) được đăng lên công báo. Như vậy vô vàn các loại văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, quy định chi tiết của các cơ quan, bộ phận trực thuộc Bộ, các cơ quan cấp dưới sẽ không đăng công báo. Và như chúng ta đã biết, ở Việt Nam loại quy phạm trực tiếp ấn định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể là loại quy phạm chứa đựng trong các văn bản này. Theo một số luật sư đánh giá thì công báo Việt Nam chỉ đăng tải khoảng 70% đối với các văn bản của cơ quan Trung ương [27, tr 93]. Điều đó có nghĩa là 30% các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là không thể tiếp cận đối với những người bình thường. Vì vậy có tình trạng một số luật sư, văn phòng tư vấn luật đã chi phí tiền bạc và nhân lực, bằng mọi cách để có được tất cả các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp từ các cơ quan ban hành. Thậm chí bằng những cách thức khác nhau, họ có thể có đầy đủ các bản dự thảo của văn bản đó trước khi nó được chính thức ban hành.
Thêm vào đó thì các đều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về nguyên tắc sẽ có hiệu lực trực tiếp giống như một bộ phận pháp luật quốc gia (Xem Điều 827 Bộ Luật Dân sự Việt Nam 1996). Nhưng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn cho thấy các Điều ước quốc tế không được công bố trên công báo cũng như phương tiện thông tin đại chúng. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Một lý do nữa, khiến cho chúng ta tại một thời điểm nhất định không dám chắc chắn có bao nhiêu văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của chúng ta là tình trạng các cơ quan nhà nước Trung ương gửi các văn bản pháp luật của mình để đăng công báo rất chậm. Và trong trường hợp văn bản được cơ quan ban hành gửi đăng công báo đúng yêu cầu về thời hạn ở Khoản 2 Điều 5 Nghị định 101/CP (ngày 23/9/1997 của Chính Phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật) thì không hẳn nó sẽ được đăng trên công báo số gần nhất. Theo một số luật sư được phỏng vấn thì văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ, cơ quan ngang Bộ thường bị đăng muộn khoảng 2 tháng [27, tr 91]. Trong khi các văn bản quy phạm pháp luật đăng công báo không đầy đủ, đăng muộn thì toàn bộ nội dung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 không có điều khoản nào nói rằng nếu văn bản quy phạm pháp luật không đăng công báo sẽ không có hiệu lực. Hơn nữa thời điểm có hiệu lực theo Điều 75 luật 96 hoàn toàn không phụ thuộc thời điểm đăng công báo. Có nghĩa là một văn bản sẽ có hiệu lực khoảng 45 ngày (60 ngày trễ – 15 ngày có hiệu lực sau khi ký theo Điều 75) trước khi nó được đăng công báo.
Thêm vào tình trạng trên, thì các công văn hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao theo quy định tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 cũng như NĐ101/1997/CP thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Đương nhiên, công văn hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tổng kết của ngành Toà án, Viện kiểm soát sẽ không được đăng công báo và cũng không được đăng định kỳ ở bất cứ đâu. Trong khi đó, trong thực tiễn xét xử của toà án thì hai loại văn bản này được xem là loại nguồn trực tiếp, mạnh mẽ.
Ví dụ: Điều 680, 684 của Bộ luật dân sự quy định người chết trước thời điểm thì được hưởng thừa kế của người chết sau(thông qua thừa kế thế vị) nhưng người chết cùng thời điểm không được hưởng tài sản thừa kế của nhau. Khắc phục điểm bất hợp lý này của Bộ luật dân sự không phải bằng một đạo luật, mà Toà án nhân dân tối cao ban hành công văn (Số 15/KHXX ban hành ngày 19/6/1998) hướng dẫn dù chết trước hay chết cùng thời điểm đều được hưởng thừa kế của nhau. Và thực tiễn xét xử, các toà án xem công văn này là chuẩn mực.
Tình trạng không xác định được các quy phạm liên quan một hoạt động nhất định, các quy phạm pháp luật sẽ không được áp dụng đúng hoặc có lúc áp dụng đúng một cách vô ý thức về sự tồn tại của quy phạm đó. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật cao. Đó cũng là nguyên nhân cản trở các nhà đầu tư, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nói chung. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Khó tìm kiếm các văn bản quy phạm pháp luật, đối với nhà nghiên cứu pháp luật pháp bình thường sẽ ít ai có đủ tất các số công báo của các năm. Trong khi đó ở Việt Nam không có nơi nào tập hợp tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương, các qui định, tiêu chuẩn pháp lý và các điều của quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Kể cả các thư viện hay các tuyển tập dữ liệu luật, kể cả Bộ tư pháp hay Văn phòng quốc hội.
Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành một cách tản mạn, không được soạn thảo và sắp xếp theo từng vấn đề và các chỉ mục làm cho việc tìm kiếm các văn bản pháp luật liên quan một vụ việc cụ thể càng thêm khó khăn.
Việc tìm kiếm càng khó khăn đối với các công văn của TATC, VKSTC, các bản báo cáo tổng kết. Vì đó là loại văn bản chủ trương ít phổ biến. Hàng năm TATC có ra các tuyển tập về văn bản của ngành mình. Nhưng tuyển tập đó chỉ mang tính sưu tầm nhiều hơn là tính áp dụng. Vì nó được xuất bản sau gần một năm có hiệu lực.
Việc tìm kiếm trở thành bí mật đối với các bản án của Toà án. Bản án của Toà án chính là luật sống, chỉ qua tìm hiểu bản án và các phán quyết cụ thể thì chúng ta mới có thể hiểu được một quy phạm pháp luật được áp dụng như thế nào, có nghĩa trên thực tế như thế nào. Nhưng theo qui định hiện hành, tuy trong phiên toà được xét xử công khai nhưng việc tiếp cận các bản án đã xét xử là điều không thể đối với người bình thường, mặc dù chúng ta sẵn sàng trả những chi phí cần thiết để phục vụ cho việc đó.
Việc qui định thời gian có hiệu lực chưa hợp lý. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Do thiếu sự tham khảo ý kiến của các đối tượng chịu ảnh hưởng của văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành nên bên cạnh việc qui định các nội dung bất hợp lý thì các văn bản quy phạm pháp luật đặt ra một khoảng thời gian quá ngắn kể từ khi ban hành đến khi có hiệu lực mà Nghị định về bắt buộc đội mũ bảo hiểm ở trên là một ví dụ.
Các văn bản như luật, pháp lệnh, nghị định thường cân nhắc và định ra một khoảng thời gian hợp lý trước khi có hiệu lực thi hành đối với những văn bản liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân hoặc đòi hỏi có sự chuẩn bị cho việc áp dụng luật. Còn các văn bản của cán bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì thường có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký mà không cân nhắc đến các yếu tố trên.
Công bố các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng. Công bố các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ cần thiết sau khi ban hành mà trước khi ban hành chính thức rất quan trọng. Việc công bố các dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành sẽ giúp:
- Bảo đảm tính có thể dự đoán ở cấp độ thứ nhất đối với các chủ thể liên quan.
- Nâng cao tính dân chủ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cho phép các chủ thể có quyền lợi liên quan thông qua báo chí, truyền hình, các kênh khác nhau bày tỏ tái độ đối với dự thảo.
- Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì qua việc thăm dò phản ứng và các ý kiến đóng góp từ các đối tượng liên quan các nhà chức trách có đầy đủ thông tin hơn và dự đoán trước được hiệu quả thực tế của văn bản.
Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một số ít dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đăng tải toàn văn. Còn lại các văn bản dưới nghị định thì chưa bao giờ đăng toàn văn trên các báo đại chúng.
Trong khi rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam qui định “các điều khoản trong văn bản này được áp dụng trừ trường hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia có qui định khác” (phần điều khoản hiệu lực thi hành của các văn bản quy phạm ). Và trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì các quy phạm chưa đựng trong các điều với quốc có hiệu lực trực tiếp mà không cần thông qua thủ tục “nội luật hoá” nào. Hay nói cách khác các điều ước quốc tế có hiệu lực giống như một phần của hệ thống pháp luật quốc gia. Nhưng các điều ước quốc tế rất ít khi được đăng trên báo chí và chưa bao giờ đăng dự thảo. Điều này vi phạm quyền được thông tin của công dân, trái với tính transparency của pháp luật và gây ra những nghi ngờ không đáng có. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Qua phân tích sự cần thiết việc công khai kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành như là một nhu cầu bức xúc cho việc hội nhập quốc tế và tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền, cũng như phân tích những ích lợi thu được từ việc đăng tải toàn văn dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của tất cả các cấp ( chỉ cần đăng mà không nhất thiết phải tổ chức lấy ý kiến) và phân tích thực trạng bất cập của việc công khai các văn bản pháp luật, chúng tôi có một vài đề xuất:
1- Yêu cầu tất cả các văn bản quy phạm của cơ quan Trung ương phải được đăng công báo trừ trường hợp văn bản có nội dung bí mật Nhà nước và qui định giống như ở Nga và một số nước khác (Article 4 Chapter VI of The Agreement between the Socialist republic of Viet Nam and The United state of America on Trade relation). Nếu một văn bản không đăng công báo theo đúng yêu cầu thì chỉ có hiệu lực đối với nội bộ cơ quan ban hành và các cơ quan trực thuộc cơ quan đó mà không có hiệu lực ràng buộc đối với mọi công dân và chủ thể khác.
Vì vậy Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa thành “Văn bản quy phạm pháp luật phải được công báo hoặc yết thị, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật Nhà nước.
Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước ở trung ương, điều ước quốc tế được đăng công báo trong thời hạn chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày công bố hoặc ngày ký ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật chưa đăng công báo chỉ có hiệu lực đối với cơ quan ban hành và cơ quan cấp dưới trực thuộc một cấp.
Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương chưa đăng công báo chỉ có hiệu lực ràng buộc công dân và mọi chủ thể khác trong trường hợp khẩn cấp. Cơ quan ban hành phải báo cáo lên Thủ tướng nếu là cơ quan thuộc chính phủ; báo cáo lên Chủ Tịch nước đối với cơ quan trung ương khác về trường hợp này trong vòng 10 ngày kể từ ngày ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp này sẽ chấm dứt hiệu lực nếu không được đăng công báo sau 60 ngày kể từ ngày ban hành.
2- Nên có một khoảng thời gian dài hơn kể từ ngày ban hành đến ngày có hiệu lực. Và do hệ quả sửa đổi Điều 10 nên các thời điểm trong Điều 75 được xây dựng căn cứ vào thời điểm đăng công báo chứ không phải là thời điểm ban hành.
Theo đó Điều 75 nên sửa thành Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Khoản 1: – Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày đăng công báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
Khoản 2: – Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng công báo trừ trường hợp văn bản đó qui định ngày có hiệu lực khác.
Khoản 3: – Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được qui định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ qui định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.
3 – Yêu cầu tất cả các dự thảo cuối cùng của các văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng toàn văn trên các báo đồng thời cho các báo chí được đăng tải các bài bình luận về dự án theo tất cả các chiều hướng.
Theo đó Chương I Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên bổ sung thêm một điều trước Điều 10 hiện tại. Nội dung gồm: “Tất cả các bản dự thảo cuối cùng của các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Trung ương phải được đăng toàn văn trên Báo nhân dân nếu dự thảo liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các dự thảo còn lại phải được đăng trên các tờ báo, tạp chí mà cơ quan ban hành là cơ quan chủ quản.
Dự thảo lần cuối các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, UBTVQH, tập thể chính phủ phải được đăng báo 60 ngày trước khi thảo luận thông qua. Dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương còn lại phải đăng báo 30 ngày trước khi xem xét thông qua. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Những qui định này không áp dụng cho các văn bản mà việc công bố những thông tin bí mật trong đó làm cản trở việc thi hành văn bản đó hoặc trái với lợi ích của Nhà nước, làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của một số chủ thể khác” (Article 2 Chapter VI of The Agreement between the Socialist republic of Viet Nam and The United state of America on Trade relation ).
Đồng thời Luật Báo chí và các luật liên quan cho phép các phương tiện thông tin đại chúng bình luận các dự thảo và tự mình tiến hành các điều tra xã hội học và công bố kết quả về những vấn đề liên quan dự thảo.
4 – Bên cạnh mạng tin học diện rộng của Chính phủ cho phép các cơ quan Nhà nước truy cập đến dữ liệu luật của Nhà nước thì cần thành lập một trang Web riêng độc lập với mạng tin học diện rộng để đề phòng tin tặc.
Trang Web này phải đăng tải tất cả các nội dung của công báo và các dự thảo mà mục 3 vừa nêu. Trang Web này được truy cập miễn phí và trên đó thiết lập các diễn đàn cho phép những người truy cập trang Web có thể trao đổi ý kiến về nội dung của trang Web và thiết lập các hộp thư để nhận và xử lý tự động ý kiến của những người truy cập trang Web về nội dung của các dự thảo đăng trước trên đó.
Cùng với việc thành lập trang Web thì văn phòng Chính phủ và văn phòng quốc hội phải thành lập các trung tâm dữ liệu luật. Ba tháng một lần phải phát hành một đĩa CD tuyển tập tất cả các văn bản pháp luật được đăng công báo và phát hành rộng rãi với giá đúng bằng chi phí sản xuất mà không gồm tiền bản quyền trong đó.
5 – Nên có chính sách trợ giá cho các sách báo, văn bản pháp luật, đĩa CD chứa dữ liệu luật.
Trong khi chúng ta tốn rất nhiều tiền cho hoạt động tuyên truyền pháp luật tới những người không quan tâm, không cần nghe, hiệu quả thấp thì những người quan tâm luật pháp lại phải mua sách báo, văn bản pháp luật, đĩa CD chứa dữ liệu luật với giá khá cao. Đặc biệt đĩa CD luật thì cơ quan phát hành không phải trả chi phí cho tiền tác giả, chi phí thiết kế chương trình không lớn và chỉ phải trả một lần nhưng các đĩa CD luật hiện nay giá bán cao hơn chi phí sản xuất nó khoảng từ 4 đến 5 lần. Vì vậy trong khi chưa có điều kiện trợ giá cho các sách báo pháp lý, văn bản pháp luật, đĩa CD dữ liệu luật thì Nhà xuất bản chính trị quốc và Văn phòng quốc hội cho nên bán các sản phẩm đó giá đúng bằng chi phí sản xuất mà không tính lợi nhuận trong đó theo đúng phương châm “Nhà nước phục vụ nhân dân”.
Nếu các cơ quan đó không làm được thì phải cho phép các Công ty tư nhân làm việc đó và trong ấn phẩm của họ ghi rõ là do họ xuất bản.
6 – Ngành toà án cần có quy chế cho phép luật sư, người có liên quan bản án, các trung tâm nghiên cứu, trường đại học được phép photo tất cả các hồ sơ bản án trên cơ sở phải trả cho Toà án một khoản chi phí đủ để bù đắp cho việc phục vụ đó.
Mặt khác trong khi chưa chính thức thừa nhận án lệ và giá trị pháp lý của công văn hướng dẫn của Toà án tối cao, các báo cáo tổng kết ngành thì cần qui định các công văn, báo cáo đó phải được đăng trên tạp chí của ngành đó trong số phát hành gần nhất.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Chúng ta đang bắt tay vào xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Do đó, một logic tất yếu là pháp luật phải của dân, do dân và vì dân, phải xuất phát từ ý chí nhân dân. Nhân dân có thể trực tiếp quyết định qua các hình thức dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý hoặc được biết, được lấy ý kiến trước lúc ban hành. Vì vậy, việc lấy ý kiến nhân dân trong xây dựng pháp luật cần được nghiên cứu trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Lấy ý kiến nhân dân cho các dự án luật, pháp lệnh là sự phản ánh ý chí thái độ của nhân dân đối với các dự án đó, nhưng chủ thể quyết định cuối cùng vẫn là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, để tăng tính dân chủ, tăng hiệu quả, tính toàn diện của dự luật, pháp lệnh thì kết quả lấy ý kiến nhân dân là một căn cứ rất quan trọng mà các nhà lập pháp phải nghiên cứu kỹ. Nhưng việc lấy ý kiến nhân dân hiện nay còn nhiều bất cập. Qua việc phân tích những điểm bất cập, luận văn đề xuất một số giải pháp.
Dự luật nào sẽ lấy ý kiến nhân dân:
Hiện nay, chúng ta chưa có những tiêu chí định tính để xác định những dự luật nào sẽ lấy ý kiến nhân dân.
Khoản 1 Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh như sau: “…Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh…“.
Quy định này chưa có những tiêu chí định tính để xác định loại dự luật, pháp lệnh nào cần phải lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành. Việc quyết định dự án luật, pháp lệnh nào đưa ra lấy ý kiến nhân dân cũng như nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân hoàn toàn do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Trong hoạt động lập pháp, pháp luật một số nước có quy định công thức như sau: dự thảo hiến pháp và những dự luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thì phải thăm dò ý kiến nhân dân; nguyên thủ quốc gia hoặc ít nhất 1/3 thành viên nghị viện có thể yêu cầu nghị viện thảo luận, xem xét việc đưa dự luật ra thăm dò ý kiến nhân dân.
Thiết nghĩ, để xác định rõ hơn những loại dự án luật, pháp lệnh nào cần đưa ra lấy ý kiến nhân dân, theo chúng tôi, Khoản 1, Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên sửa lại như sau:
“Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ quyết định lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, gồm những dự án luật, pháp lệnh liên quan các lĩnh vực sau đây:
- Chủ quyền quốc gia. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
- Thành lập, tổ chức và thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
- Tội phạm và hình phạt.
- Các thiết chế dân sự cơ bản.
- Các hệ thống kinh tế thiết yếu và hệ thống thuế, tài chính, hải quan, ngoại thương.
- Tố tụng và hệ thống tài phán.
Phạm vi, cách thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân
Việc xác định phạm vi, cách thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân còn chưa được quy định rõ ràng.
Khoản 2, Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phạm vi, thể thức, thời gian lấy ý kiến tuỳ thuộc các dự luật và tình hình cụ thể mà không theo một quy tắc định trước. Ở đây, có vấn đề định hướng thảo luận và phạm vi những vấn đề lấy ý kiến. Theo chúng tôi, khi một dự luật được đưa ra thì mọi vấn đề trong đó đều cần hỏi ý kiến nhân dân, các định hướng thảo luận chỉ là khuyến nghị chứ không nên giới hạn trong phạm vi một số điều.
Lấy ý kiến theo cách thức nào cũng nên tuỳ thuộc vào tính chất của dự luật, có tính đến ưu điểm của từng cách thức. Nếu dự luật liên quan lợi ích của nhiều tầng lớp xã hội, liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, các vấn đề cơ bản của quốc gia cần lấy ý kiến theo theo địa bàn dân cư. Cần xây ban hành quy định về cơ cấu, tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến theo cách thức này. Theo chúng tôi, cần sử dụng các thiết chế trong các cuộc bầu cử quốc gia vào quá trình lấy ý kiến nhân dân.
Nếu dự luật có nhiều nội dung chuyên sâu, nên lấy ý kiến trong giới chuyên môn. Cần phải tạo các diễn đàn để cho các ý kiến đối lập được thể hiển trong trường hợp này; tránh chủ nghĩa quyết định luận của cơ quan nhà nước khi lựa chọn cơ quan hỏi ý kiến, tránh ý kiến thiếu khách quan của các cơ quan, tổ chức có lợi ích liên quan.
Trên cơ sở mạng tin học diện rộng của Chính phủ hiện nay, Nhà nước nên xây dựng thêm các diễn đàn thông tin và trao đổi về chính sách, pháp luật và phục vụ việc lấy ý kiến trực tuyến theo cách thứ tư.
Cần có quy tắc xác định nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh. Thời gian phải đủ dài, thông tin phải đầy đủ để nhân dân có thể hiểu đúng nội dung của dự thảo. Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, hoặc ít nhất 1/3 số đại biểu Quốc hội có thể yêu cầu Quốc hội thảo luận, xem xét đưa một số dự án luật, dự án pháp lệnh ra lấy ý kiến nhân dân. Tiếp đó, không nên để UBTVQH quyết định khác nhau tuỳ theo từng dự án một. Bởi vậy, Khoản 2 Điều 39 nên sửa thành: “Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quy định…” (Chữ “quy định” có nghĩa là theo một quy tắc định trước).
Để tăng cường tính khách quan, sự giám sát của nhân dân vào quá trình lấy ý kiến nhân dân và tạo niềm tin của nhân dân đối với kết quả và ý nghĩa của việc thăm dò ý kiến nhân dân, nên bổ sung vào Khoản 3, Điều 41 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các cơ quan thông tin báo chí có quyền cử đại diện đến giám sát quá trình lấy ý kiến nhân dân từ lúc bắt đầu tiến hành đến lúc tập hợp, xử lý kết quả lấy ý kiến nhân dân. Việc cử đại diện tham gia giám sát phải thông báo trước 5 ngày cho cơ quan tiếp nhận”.
Cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ mối quan hệ và trách nhiệm của Văn phòng Quốc hội, cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định và các cơ quan khác trong việc phối hợp tổ chức lấy ý kiến, tiếp nhận, phân loại và xử lý ý kiến nhân dân đóng góp. Theo đó thì cần thành lập một Trung tâm thăm dò, phân tích dư luận và lấy ý kiến nhân dân thuộc Văn phòng Quốc hội.
Một vấn đề thứ hai gắn liền với nhà nước pháp quyền là pháp luật pháp quyền. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính minh bạch. Nghĩa là pháp luật đó phải bảo đảm tính rõ ràng, ổn định và có thể dự đoán.
Pháp luật là công cụ để quản lý xã hội nên nó chỉ có ý nghĩa khi được nhân dân và các chủ thể khác trong xã hội tuân theo. Muốn tuân theo thì nhân dân phải biết và dễ dàng tiếp cận với các văn bản pháp luật của nhà nước. Hiện nay Điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp và Nghị định 101 của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật trên đã yêu cầu tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương phải đăng công báo. Nhưng trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau các cơ quan ban hành gửi đăng công báo không đầy đủ, gửi đăng muộn; nếu gửi đúng thời hạn thì cúng có thể bị đăng muộn. Theo thống kê của một số luật sư và công ty luật thời gian trung bình từ khi ban hành đến khi được đăng công báo của một văn bản quy phạm pháp luật thông thường của cơ quan trung ương là 75 ngày.
Mặt khác rất nhiều văn bản pháp luật Việt Nam xem điều ước quốc tế là một nguồn trực tiếp, một bộ phận trong tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng cho đến nay điều ước quốc tế không được đăng toàn văn trên công báo hay phương tiện thông tin đại chúng.
Pháp luật ban hành ra nhằm để nhân dân thực hiện, phải được nhân dân chuẩn bị đón nhận nó. Vì vậy không chỉ văn bản sau khi ban hành mà dự thảo văn bản đó cũng phải được cho nhân dân biết. Hiện nay, chỉ dự thảo luật còn dự thảo các văn bản của cơ quan trung ương khác rất ít được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. Nên đến khi ban hành ra có thể gây sock thị trường mà nghị định về bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một ví dụ.
Ngoài ra phải luật phải ổn định để đủ thời gian cần thiết cho nhân dân kịp thích nghi và điều chỉnh chiến lược kinh doanh và hành vi của mình. Cao hơn nữa pháp luật phải bảo đảm tính dự đoán. Nếu pháp luật bảo đảm tính dự đoán thì chúng ta có thể vận dụng các quy luật của tự nhiên và xã hội để tiên đoán nội dung pháp luật trong tương lai. Pháp luật bảo đảm tính dự đoán có nghĩa pháp luật đó phù hợp với các quy luật khách quan, đưa lợi ích dân tộc đi lên. Nếu pháp luật không bảo đảm hai thuộc tính này thì chúng ta sẽ không có kế hoạch kinh doanh dài hạn được, không có doanh nghiệp quy mô lớn không thể cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Quan trọng hơn, cấp bách hơn, việc bảo đảm ba thuộc tính nói trên là đòi hỏi gần kề của quá trình hội nhập quốc tế. Giữa các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, học thuyết pháp lý thì để có thể trở thành đối tác trong các quan hệ kinh doanh thì tính rõ ràng của pháp luật, tính ổn định, tính có thể dự đoán của pháp luật phải đặt lên hàng đầu. Mà chương VI, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một ví dụ. Theo đó mỗi bên sẽ công bố một cách định kỳ và kịp thời tất cả các luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp dụng chung. Chỉ những luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp dụng chung mà đã được công bố và sẵn có cho các cơ quan chính phủ hoặc các cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại thì mới được thi hành và có khả năng thực thi.
Một bất cấp nữa là hàng năm chúng ta bỏ ra hàng chục tỷ đồng để tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhưng hiệu quả không cao. Vì rất nhiều đối tượng mà hoạt động đó hướng tới họ không muốn nghe, nghe không hiểu, hiểu không nhớ. Trong khi đó những người quan tâm, liên quan đến công tác pháp luật thì phải trả chi phí rất cao: 120.000 đ/ đĩa CD dữ liệu luật, 23.000 đ/tháng cho việc phí truy cập vào địa chỉ trang Web cung cấp văn bản luật.
Từ một số bất cập nêu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị.
Tăng cường việc công bố các dự thảo văn bản pháp luật của cơ quan trung ương. Quy định điều ước quốc tế phải được đăng toàn văn trên công báo.
Quy định thời gian có hiệu lực dài hơn đối với các văn bản liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hạ giá bán các đĩa CD, dịch vụ truy cập văn bản luật xấp xỉ bằng chi phí sản xuất. Không tính giá độc quyền trong đó.
Bên cạnh việc đưa ra những giải pháp tăng cường hiệu quả của việc lấy ý kiến nhân dân, luận văn còn làm rõ các nguyên tắc đặc thù trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật như nguyên tắc khách quan, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc điều hoà lợi ích cũng như nếu các giải pháp để bảo đảm nguyên tắc đó trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
KẾT LUẬN Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động cơ bản của các nhà nước hiện đại. Nó là hoạt động đầu tiên trong cơ chế điều chỉnh pháp luật nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một mục đích nhất định. Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm như tính sáng tạo cao, phức tạp, có mối quan hệ với chính trị trực tiếp hơn, có tác động lâu dài, nhiều chiều lên các quan hệ xã hội. Muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải phân tích các đặc điểm nói trên để đánh giá đúng tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật. Pháp luật tốt chưa đủ để tạo ra xã hội tốt, vì cần có người thi hành tốt, nhưng pháp luật tồi thì đủ để tạo ra một xã hội hỗn độn, nên hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần được đặc biệt chú trọng.
Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chúng ta cần tìm ra những yếu tố tác động đến hiệu quả của hoạt động này. Đó là các yếu tố:
Thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thủ tục cần phải rõ ràng, đơn giải, tiết kiệm, cụ thể hoá trách nhiệm của các cơ quan liên quan, đặc biệt cần tạo điều kiện cho nhân dân và các chủ thể có lợi ích liên quan vào quá trình xây dựng văn bản.
Thông tin: các thông tin liên quan các quan hệ xã hội cần được điều chỉnh, thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, thông tin về kinh nghiệm quốc tế, thông tin về kinh nghiệm lịch sử. Để tăng cường độ chính xác, đầy đủ của các thông tin thì công tác thống kê cần được đẩy mạnh, áp dụng nhiều phương pháp thu thập thông tin khác nhau, có quy trình tập hợp, xử lý thông tin thống nhất. Đồng thời tránh hiện tượng sao chép, tham khảo một cách máy móc pháp luật nước ngoài.
Dân chủ: dân chủ là mục đích của nhà nước chúng ta và là phương tiện để đạt hiệu quả cao trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhân dân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách nói chung, cũng như hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chúng là một quyền cơ bản đã được Hiến pháp ghi nhận và Đảng chú trọng. Việc tham gia của nhân dân với sự cọ xát của các nhóm lợi ích, quan điểm khác nhau sẽ giúp tìm ra giải pháp lập pháp tốt nhất; đồng thời nó sẽ giúp nhân dân hiểu biết các quy định của pháp luật ngay từ lúc hình thành, sẽ nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Nhân sự, chuẩn bị: quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tốt cùng với người thực hiện tốt, việc chuẩn bị chu đáo sẽ cho ra đời các văn bản quy phạm pháp luật chất lượng cao.
Trong thời gian vừa qua với sự ra đơì của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996, pháp luật về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được nâng lên một tầm cao mới; mang lại những thành tựu to lớn, tư 1996 đến nay Quốc hội đã ban hành hơn 40 Luật; UBTVQH đã ban hành 42 Pháp lệnh, Chính phủ ban hành hơn 4000 Nghị định và Nghị quyết [15, tr 6]. Hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng, Bộ trưởng đã được ban hành trong thời kỳ này. Trong 4 năm thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 và Nghị định 101/CP, số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm sau cao hơn năm trước với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Nhưng thời gian qua cũng cho thấy pháp luật về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều bất cập như chưa quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan địa phương, trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong chu trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng; chưa đánh giá đúng vai trò của các uỷ ban của Quốc hội cũng như chưa luật hoá hoạt động của các uỷ ban; trách nhiệm và chu trình thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng. Mặc dù ngày 16/12/2002, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với những đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Chúng ta đang bắt tay vào xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Do đó, một logic tất yếu là pháp luật phải của dân, do dân và vì dân, phải xuất phát từ ý chí nhân dân. Nhân dân có thể trực tiếp quyết định qua các hình thức dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý hoặc được biết, được lấy ý kiến trước lúc ban hành. Vì vậy, việc lấy ý kiến nhân dân trong xây dựng pháp luật cần được nghiên cứu trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Lấy ý kiến nhân dân cho các dự án luật, pháp lệnh là sự phản ánh ý chí thái độ của nhân dân đối với các dự án đó, nhưng chủ thể quyết định cuối cùng vẫn là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, để tăng tính dân chủ, tăng hiệu quả, tính toàn diện của dự luật, pháp lệnh thì kết quả lấy ý kiến nhân dân là một căn cứ rất quan trọng mà các nhà lập pháp phải nghiên cứu kỹ. Nhưng việc lấy ý kiến nhân dân hiện nay còn nhiều bất cập. Qua việc phân tích những điểm bất cập, luận văn đề xuất một số giải pháp.
Dự luật nào sẽ lấy ý kiến nhân dân: Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Hiện nay, chúng ta chưa có những tiêu chí định tính để xác định những dự luật nào sẽ lấy ý kiến nhân dân.
Khoản 1 Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh như sau: “…Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh…“.
Quy định này chưa có những tiêu chí định tính để xác định loại dự luật, pháp lệnh nào cần phải lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành. Việc quyết định dự án luật, pháp lệnh nào đưa ra lấy ý kiến nhân dân cũng như nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân hoàn toàn do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Trong hoạt động lập pháp, pháp luật một số nước có quy định công thức như sau: dự thảo hiến pháp và những dự luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thì phải thăm dò ý kiến nhân dân; nguyên thủ quốc gia hoặc ít nhất 1/3 thành viên nghị viện có thể yêu cầu nghị viện thảo luận, xem xét việc đưa dự luật ra thăm dò ý kiến nhân dân.
Thiết nghĩ, để xác định rõ hơn những loại dự án luật, pháp lệnh nào cần đưa ra lấy ý kiến nhân dân, theo chúng tôi, Khoản 1, Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên sửa lại như sau:
“Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ quyết định lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh liên quan quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, gồm những dự án luật, pháp lệnh liên quan các lĩnh vực sau đây:
- Chủ quyền quốc gia.
- Thành lập, tổ chức và thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
- Tội phạm và hình phạt.
- Các thiết chế dân sự cơ bản.
- Các hệ thống kinh tế thiết yếu và hệ thống thuế, tài chính, hải quan, ngoại thương.
- Tố tụng và hệ thống tài phán.
Phạm vi, cách thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Việc xác định phạm vi, cách thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân còn chưa được quy định rõ ràng.
Khoản 2, Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phạm vi, thể thức, thời gian lấy ý kiến tuỳ thuộc các dự luật và tình hình cụ thể mà không theo một quy tắc định trước. Ở đây, có vấn đề định hướng thảo luận và phạm vi những vấn đề lấy ý kiến. Theo chúng tôi, khi một dự luật được đưa ra thì mọi vấn đề trong đó đều cần hỏi ý kiến nhân dân, các định hướng thảo luận chỉ là khuyến nghị chứ không nên giới hạn trong phạm vi một số điều.
Lấy ý kiến theo cách thức nào cũng nên tuỳ thuộc vào tính chất của dự luật, có tính đến ưu điểm của từng cách thức. Nếu dự luật liên quan lợi ích của nhiều tầng lớp xã hội, liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, các vấn đề cơ bản của quốc gia cần lấy ý kiến theo theo địa bàn dân cư. Cần xây ban hành quy định về cơ cấu, tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến theo cách thức này. Theo chúng tôi, cần sử dụng các thiết chế trong các cuộc bầu cử quốc gia vào quá trình lấy ý kiến nhân dân.
Nếu dự luật có nhiều nội dung chuyên sâu, nên lấy ý kiến trong giới chuyên môn. Cần phải tạo các diễn đàn để cho các ý kiến đối lập được thể hiển trong trường hợp này; tránh chủ nghĩa quyết định luận của cơ quan nhà nước khi lựa chọn cơ quan hỏi ý kiến, tránh ý kiến thiếu khách quan của các cơ quan, tổ chức có lợi ích liên quan.
Trên cơ sở mạng tin học diện rộng của Chính phủ hiện nay, Nhà nước nên xây dựng thêm các diễn đàn thông tin và trao đổi về chính sách, pháp luật và phục vụ việc lấy ý kiến trực tuyến theo cách thứ tư.
Cần có quy tắc xác định nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh. Thời gian phải đủ dài, thông tin phải đầy đủ để nhân dân có thể hiểu đúng nội dung của dự thảo. Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, hoặc ít nhất 1/3 số đại biểu Quốc hội có thể yêu cầu Quốc hội thảo luận, xem xét đưa một số dự án luật, dự án pháp lệnh ra lấy ý kiến nhân dân. Tiếp đó, không nên để UBTVQH quyết định khác nhau tuỳ theo từng dự án một. Bởi vậy, Khoản 2 Điều 39 nên sửa thành: “Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quy định…” (Chữ “quy định” có nghĩa là theo một quy tắc định trước).
Để tăng cường tính khách quan, sự giám sát của nhân dân vào quá trình lấy ý kiến nhân dân và tạo niềm tin của nhân dân đối với kết quả và ý nghĩa của việc thăm dò ý kiến nhân dân, nên bổ sung vào Khoản 3, Điều 41 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các cơ quan thông tin báo chí có quyền cử đại diện đến giám sát quá trình lấy ý kiến nhân dân từ lúc bắt đầu tiến hành đến lúc tập hợp, xử lý kết quả lấy ý kiến nhân dân. Việc cử đại diện tham gia giám sát phải thông báo trước 5 ngày cho cơ quan tiếp nhận”.
Cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ mối quan hệ và trách nhiệm của Văn phòng Quốc hội, cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định và các cơ quan khác trong việc phối hợp tổ chức lấy ý kiến, tiếp nhận, phân loại và xử lý ý kiến nhân dân đóng góp. Theo đó thì cần thành lập một Trung tâm thăm dò, phân tích dư luận và lấy ý kiến nhân dân thuộc Văn phòng Quốc hội. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Một vấn đề thứ hai gắn liền với nhà nước pháp quyền là pháp luật pháp quyền. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính minh bạch. Nghĩa là pháp luật đó phải bảo đảm tính rõ ràng, ổn định và có thể dự đoán.
Pháp luật là công cụ để quản lý xã hội nên nó chỉ có ý nghĩa khi được nhân dân và các chủ thể khác trong xã hội tuân theo. Muốn tuân theo thì nhân dân phải biết và dễ dàng tiếp cận với các văn bản pháp luật của nhà nước. Hiện nay Điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp và Nghị định 101 của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật trên đã yêu cầu tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương phải đăng công báo. Nhưng trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau các cơ quan ban hành gửi đăng công báo không đầy đủ, gửi đăng muộn; nếu gửi đúng thời hạn thì cúng có thể bị đăng muộn. Theo thống kê của một số luật sư và công ty luật thời gian trung bình từ khi ban hành đến khi được đăng công báo của một văn bản quy phạm pháp luật thông thường của cơ quan trung ương là 75 ngày.
Mặt khác rất nhiều văn bản pháp luật Việt Nam xem điều ước quốc tế là một nguồn trực tiếp, một bộ phận trong tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng cho đến nay điều ước quốc tế không được đăng toàn văn trên công báo hay phương tiện thông tin đại chúng.
Pháp luật ban hành ra nhằm để nhân dân thực hiện, phải được nhân dân chuẩn bị đón nhận nó. Vì vậy không chỉ văn bản sau khi ban hành mà dự thảo văn bản đó cũng phải được cho nhân dân biết. Hiện nay, chỉ dự thảo luật còn dự thảo các văn bản của cơ quan trung ương khác rất ít được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. Nên đến khi ban hành ra có thể gây sock thị trường mà nghị định về bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một ví dụ.
Ngoài ra phải luật phải ổn định để đủ thời gian cần thiết cho nhân dân kịp thích nghi và điều chỉnh chiến lược kinh doanh và hành vi của mình. Cao hơn nữa pháp luật phải bảo đảm tính dự đoán. Nếu pháp luật bảo đảm tính dự đoán thì chúng ta có thể vận dụng các quy luật của tự nhiên và xã hội để tiên đoán nội dung pháp luật trong tương lai. Pháp luật bảo đảm tính dự đoán có nghĩa pháp luật đó phù hợp với các quy luật khách quan, đưa lợi ích dân tộc đi lên. Nếu pháp luật không bảo đảm hai thuộc tính này thì chúng ta sẽ không có kế hoạch kinh doanh dài hạn được, không có doanh nghiệp quy mô lớn không thể cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
Quan trọng hơn, cấp bách hơn, việc bảo đảm ba thuộc tính nói trên là đòi hỏi gần kề của quá trình hội nhập quốc tế. Giữa các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, học thuyết pháp lý thì để có thể trở thành đối tác trong các quan hệ kinh doanh thì tính rõ ràng của pháp luật, tính ổn định, tính có thể dự đoán của pháp luật phải đặt lên hàng đầu. Mà chương VI, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một ví dụ. Theo đó mỗi bên sẽ công bố một cách định kỳ và kịp thời tất cả các luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp dụng chung. Chỉ những luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp dụng chung mà đã được công bố và sẵn có cho các cơ quan chính phủ hoặc các cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại thì mới được thi hành và có khả năng thực thi. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
Một bất cấp nữa là hàng năm chúng ta bỏ ra hàng chục tỷ đồng để tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhưng hiệu quả không cao. Vì rất nhiều đối tượng mà hoạt động đó hướng tới họ không muốn nghe, nghe không hiểu, hiểu không nhớ. Trong khi đó những người quan tâm, liên quan đến công tác pháp luật thì phải trả chi phí rất cao: 120.000 đ/ đĩa CD dữ liệu luật, 23.000 đ/tháng cho việc phí truy cập vào địa chỉ trang Web cung cấp văn bản luật.
Từ một số bất cập nêu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị.
- Tăng cường việc công bố các dự thảo văn bản pháp luật của cơ quan trung ương. Quy định điều ước quốc tế phải được đăng toàn văn trên công báo. Quy định thời gian có hiệu lực dài hơn đối với các văn bản liên quan các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Hạ giá bán các đĩa CD, dịch vụ truy cập văn bản luật xấp xỉ bằng chi phí sản xuất. Không tính giá độc quyền trong đó.
Bên cạnh việc đưa ra những giải pháp tăng cường hiệu quả của việc lấy ý kiến nhân dân, luận văn còn làm rõ các nguyên tắc đặc thù trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật như nguyên tắc khách quan, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc điều hoà lợi ích cũng như nếu các giải pháp để bảo đảm nguyên tắc đó trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản […]