Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện những qui định về thừa kế theo pháp luật dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
3.1.1. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật trong những năm gần đây
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ xã hội, các tranh chấp về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng ở nước ta có xu hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, đặc biệt là các tranh chấp thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất bởi đây là loại tài sản có giá trị lớn và có liên quan mật thiết tới chính sách đất đai của Nhà nước. Thực tiễn giải quyết các trường hợp tranh chấp thừa kế, Tòa án các cấp đã gặp phải không ít khó khăn.
Theo số liệu thống kê của TANDTC về vấn đề thụ lý và giải quyết các vụ việc về thừa kế trong 5 năm gần đây (từ năm 2008 đến năm 2012) thì số lượng vụ án tranh chấp về thừa kế chiếm tỷ lệ khá cao. Dưới đây là bảng thể hiện số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở cấp sơ thẩm trên cả nước từ năm 2008 đến năm 2012
- Bảng 3.1: Số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở cấp sơ thẩm từ năm 2008-2012
- Bảng 3.2: Số lượng các vụ việc về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở cấp phúc thẩm từ năm 2008-2012
Qua bảng thống kê ở trên, có thể nhận thấy số lượng các vụ án về thừa kế phải giải quyết ở cấp sơ thẩm đều tăng qua các năm, năm 2012 đã tăng 401 vụ so với năm 2008. Các vụ việc đã giải quyết cũng ngày càng giảm, cụ thể là năm 2008 đạt 56,3%, năm 2009 đạt 51,3%, năm 2010 đạt 45,5%, năm 2011 đạt 47,4% và năm 2012 đạt 41,5%. Số lượng vụ việc phải giải quyết ở cấp phúc thẩm còn khá cao và có nhiều án phải sửa đổi hoặc bị hủy do cấp sơ thẩm xét xử sai hoặc do phát sinh tình tiết mới.
Trên thực tế, có rất nhiều vụ án tranh chấp về thừa kế phải trải qua nhiều cấp xét xử, có vụ án kéo dài đến hàng chục năm. Điển hình là Bản án sơ thẩm số 01 ngày 26- 02-1997 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ về tranh chấp thừa kế giữa bà Minh và bà Nho. Vụ án có nội dung tóm tắt như sau: Cụ Đinh Thế Pháp chết tháng 02-1966 và vợ là cụ Phan Thị Tùng chết tháng 07-1972 (âm lịch). Cụ Pháp và cụ Tùng sinh được 5 người con gồm: Ông Luật (chết năm 1992), có vợ là bà Nga và con trai là anh Chấn; Bà Minh; Bà Gái; Ông Lệ (bộ đội hy sinh năm 1974); Bà Năm 52 tuổi.
Cụ Pháp, cụ Tùng chết để lại 2 khối tài sản: Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
- Khối tài sản thứ nhất do bà Nho (vợ ông Lệ) quản lý tại xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây gồm 4 gian nhà tre, lợp lá, vách đất và 3 gian nhà tranh, bếp trên diện tích 825,2m2 đất, trong đó 521,2m2 là đất ở, 304m2 là đất ao. Nhà, bếp do lâu ngày cũ nát, năm 1994, bà Nho đã tháo dỡ, xây lại như hiện nay.
- Khối tài sản thứ hai do anh Chấn quản lý gồm 5 gian nhà tranh tre lợp lá, 3 gian 1 trái bếp tranh tre trên diện tích 14 thước = 317,7 m2.
Theo bà Minh, bà Gái, bà Năm và anh Chấn khai, trước khi mất, hai cụ không để lại di chúc, tài sản trên chưa chia cho ai, nay yêu cầu được chia thừa kế theo pháp luật.
Theo bà Nho thì vợ chồng bà được bố mẹ chồng cho ở riêng từ năm 1961, nhà do bố mẹ chồng làm từ trước, trên diện tích đất 2 sào 1 thước. Cụ Tùng cùng em gái út là bà Năm ở với vợ chồng bà, còn cụ Pháp ở với vợ chồng ông Luật. Năm 1974, ông Lệ (chồng bà) hy sinh ở chiến trường. Năm 1966, cụ Pháp ốm nặng. Ngày 27-01-1966 âm lịch, cụ Pháp có nhờ con rể là ông Đỗ Sĩ Tiếp viết di chúc phân chia nhà đất trên cho hai người con là ông Luật và ông Lệ, di chúc hai cụ đã điểm chỉ, nhưng ông Luật, bà Nho và ông Tiếp không đồng ý ký vào bản di chúc và di chúc đó không qua xã chứng thực. Khi bố mẹ chồng ốm đau, bà là người trông nom nuôi dưỡng chính, khi hai cụ qua đời, bà cùng vợ chồng ông Luật đứng lo mai táng, còn các con gái tuy có đóng góp chỉ một ít báo hiếu với cha mẹ. Nay, các con gái cụ Pháp, cụ Tùng kiện yêu cầu chia di sản của bố mẹ, bà không đồng ý.
Tại Bản án sơ thẩm số 01 ngày 26- 02-1997, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ quyết định:
- Giấy văn thư đề ngày 27-01-1966 của cụ Đinh Thế Pháp là không hợp pháp.
- Xác định hàng thừa kế theo pháp luật gồm: 5 người là: Ông Luật, ông Lệ, bà Minh, bà Gái, bà Năm.
Khối di sản được chia như sau:
- Khối di sản do anh Chấn đang quản lý, sau khi trừ chi phí mai táng số tiền còn lại tương ứng với các kỷ phần kia. Như vậy, số đất ở anh Chấn đang quản lý không phải chia cho ai nữa, vẫn để nguyên anh Chấn quản lý là 317,7 m2.
- Khối di sản bà Nho đang quản lý, sẽ chia cho 4 người là Bà Minh, Bà Gái, Bà Năm, Bà Nho.
Không chấp nhận với phương thức giải quyết tại cấp sơ thẩm, ngày 05-03-1997, bà Nho có đơn kháng cáo, không đồng ý chia đất, vì trước khi mất, bố mẹ chồng đã có di chúc giao lại nhà đất cho bà. Ngày 10-03-1997, bà Minh, đại diện cho bà Gái kháng cáo, yêu cầu ngoài số đất được hưởng bà Nho phải thanh toán chênh lệch tài sản cho chị em bà. Tại Bản án phúc thẩm số 47 ngày 24-04-1997, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây quyết định: Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Bác yêu cầu đòi chia di sản thừa kế của bà Minh, bà Gái và bà Năm đối với khối di sản của cụ Pháp và cụ Tùng để lại.
Sau khi có Bản án phúc thẩm, bà Minh, bà Gái, bà Năm, anh Chấn có nhiều đơn khiếu nại cho rằng tại biên bản định giá của cấp sơ thẩm, bà Nho, anh Chấn đồng ý. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào khung giá đất, tính giá đất giảm xuống, xác định giá trị di sản không còn, bác yêu cầu chia thừa kế của các bà là không đúng. Đề nghị xét xử lại và xin nhận bằng hiện vật.
Tại Quyết định số 33 ngày 01-11-1999, Chánh án TANDTC đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Kết luận số 162 ngày 29-11-1999, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với bản kháng nghị; đề nghị xử hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 399 ngày 28-12-1999, Tòa Dân sự TANDTC quyết định:
Hủy Bản án phúc thẩm số 47 ngày 24-04-1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây; giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 01 ngày 26-02-1997 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ xử việc tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị Minh và bị đơn là bà Nguyễn Thị Nho.
Sau khi xử giám đốc thẩm, Ban chỉ đạo thi hành án huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây có Công văn số 54/CV-UB ngày 26-08-2002 đề nghị TANDTC xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số 14/KNDS ngày 25-11-2002, Chánh án TANDTC đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm nêu trên. Tại Kết luận số 46/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 03-04-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án TANDTC; đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tòa án đã xem xét lại nội dung vụ việc như sau: Diện tích nhà và đất mà các đương sự đang tranh chấp là di sản của cụ Pháp (chết năm 1966) và cụ Tùng (chết năm 1972) để lại. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xác minh làm rõ tờ “Giấy văn thư” do bà Nho xuất trình có phải do hai cụ Pháp và cụ Tùng để lại hay không? Dấu vân tay và chữ ký trên giấy này là của ai mà đã xác định “Giấy văn thư” này không hợp pháp là chưa có cơ sở vững chắc. Mặt khác, tại Quyết định giám đốc thẩm số 399/GĐT ngày 28-12-1999, Tòa Dân sự TANDTC đã hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 26-02-1997 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, trong khi thực tế diện tích nhà đất đang tranh chấp có sự mua bán chuyển nhượng mà không đưa những người mua đất vào tham gia tố tụng là không đúng. Bà Nho đã có lời khai thửa đất đang tranh chấp có diện tích đất 5% do Ủy ban nhân dân xã cấp cho gia đình bà vào năm 1961 và năm 1986, đồng thời, Ủy ban nhân dân xã cũng có xác nhận việc cấp đất này, nhưng Tòa án cũng chưa xác minh làm rõ để giải quyết vụ án theo đúng qui định của pháp luật và bảo đảm quyền lợi của các đương sự. Do đó, Tòa án đã ra quyết định hủy Quyết định giám đốc thẩm số 399/GĐT ngày 28-12-1999 của Tòa Dân sự TANDTC; Bản án dân sự phúc thẩm số 47/DSPT ngày 24-04-1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây và Bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 26-02-1997 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ về vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị Minh với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nho. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xác minh, xét xử lại sơ thẩm theo đúng qui định của pháp luật.
Lý do Quyết định giám đốc thẩm của Tòa Dân sự TANDTC, các Bản án phúc thẩm, sơ thẩm bị hủy. Tòa án đã không xác minh “Giấy văn thư” (bản di chúc) có phải do cụ Pháp và cụ Tùng để lại hay không. Diện tích nhà đất đang tranh chấp đã có sự chuyển nhượng, nhưng không đưa người mua tham gia tố tụng. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, do hậu quả pháp lý của việc chia di sản theo di chúc và chia di sản theo pháp luật có sự khác biệt rõ rệt, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của những người liên quan nên xác minh chính xác di sản được chia theo hình thức thừa kế nào là điều hết sức quan trọng. Ngoài ra, trong quá trình xét xử cần xem xét kỹ lưỡng và triệu tập những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để có thu thập thêm thông tin giúp xác định đúng di sản thừa kế bao gồm những tài sản gì.
Trên thực tế, nhiều vụ việc tưởng chừng như đơn giản nhưng do Tòa án lại không ghi nhận cụ thể di sản thuộc về ai dẫn đến không thể thi hành án được và phải hủy án xét xử lại từ đầu. Sau đây là vụ việc điển hình về vấn đề trên:
Vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là cụ Tình và ông Mãng với bị đơn là ông Bê. Nội dung vụ việc được tóm tắt như sau: Cụ Cật có 2 vợ là cụ Bằng và cụ Tình. Cụ Cật và cụ Bằng có 7 người con, bao gồm: ông Thái, ông Luyện, ông Oánh, ông Phức, ông Bê, ông Ngự và bà Lan. Cụ Cật và cụ Tình có 7 người con, bao gồm: bà Nga, bà Loan, ông Mãng, bà Hồng, ông Trung, bà Kim Ánh và ông Long. Cụ Cật chết năm 1998, cụ Bằng chết năm 2003, cả hai cụ đều không để lại di chúc.
Tài sản cụ Cật và hai người vợ tạo lập được như sau: cụ Cật và cụ Bằng tạo lập được căn nhà số 25 đường Bạch Đằng, phường 15, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay ông Trần Đình Bê trực tiếp quản lý, sử dụng. Cụ Cật và cụ Tình tạo lập được căn nhà số 365/19B đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Mình, hiện nay cụ Tình đang quản lý, sử dụng. Cụ Tình và ông Mãng yêu cầu chia thừa kế đối với căn nhà ông Bê đang trực tiếp quản lý.
Bị đơn là ông Bê trình bày: năm 1998 cụ Cật chết đã để lại di chúc với nội dung giao toàn bộ căn nhà 25 đường Bạch Đằng cho ông Oánh (hiện đang cư trú tại Canada) quản lý vì năm 1987 ông Oánh gửi tiền về để sửa chữa căn nhà này với số tiền là 25.000USD, nên yêu cầu thực hiện di chúc của cụ Cật và không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của nguyên đơn. Ngày 15/05/2008, ông Bê nộp đơn yêu cầu chia căn nhà số 365/19B đường Xô Việt Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh mà hiện nay cụ Tình đang quản lý, sử dụng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1358/2008/DSST ngày 29/8/2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là cụ Tình và ông Mãng.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Bê đòi công nhận tờ di chúc ngày 10/1/1998 của cụ Cật (chết ngày 28/4/1998) vì di chúc không hợp pháp. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
- Xác định di sản thừa kế của cụ Cật (chết năm 1998) bao gồm: Phân nửa giá trị nhà và quyền sử dụng đất của căn nhà số 25 Bạch Đằng. phường 15, quận Bình Thạnh và phân nửa giá trị căn nhà và quyền sử dụng đất của căn nhà số 356/19B Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh được chia thừa kế theo pháp luật. Còn lại phân nửa giá trị nhà và quyền sử dụng đất của căn nhà số 25 Bạch Đằng thuộc quyền sở hữu của cụ Bằng (chết năm 2003) và phân nửa giá trị nhà và quyền sử dụng đất của căn nhà số 356/19B Xô Viết Nghệ Tình thuộc quyền sở hữu của cụ Tình.
- Xác định chi phí sửa chữa nhà của ông Oánh tại căn nhà số 25 Bạch Đằng là 412.400.000đ.
- Xác định những người thừa kế theo pháp luật của cụ Cật bao gồm: Cụ cụ Bằng (chết năm 2003), cụ Tình và 14 người con. Mỗi người thừa kế được hưởng tỷ lệ 1/16 trên tổng giá trị di sản của cụ Cật, cụ thể:
a, Đối với căn nhà 356/19B Xô Viết Nghệ Tĩnh có tổng giá trị nhà và quyền sử dụng đất là 1.784.676.000đ được phân chia như sau: Cụ Tình được hưởng tỷ lệ 17/32 bằng 948.109.125 đồng. Cụ Bằng và 14 người con của cụ
Cật mỗi người được hưởng tỷ lệ 01/32 bằng 55.771.125 đồng. Giao căn nhà 356/19B Xô Viết Nghệ Tĩnh cho cụ Tình và 07 người con của cụ Tình với cụ Cật được đồng sở hữu theo tỷ lệ được hưởng như trên và cùng có trách, nhiệm hoàn lại phần thừa kế cho cụ Bằng và 07 người con của cụ Bằng với cụ Cật.
b, Đối với căn nhà 25 Bạch Đằng có tổng giá trị căn nhà và quyền sử dụng đất là 20.245.833.800 đồng được trừ chi phí sửa chữa nhà của ông Oánh số tiền là 412.400.000 đồng, còn lại tổng giá trị là 19.833.433.800 đồng được phân chia như sau: Cụ Bằng được hưởng tỷ lệ 17/32 bằng 9.916.716.900 đồng. Cụ Tình và 14 người con của cụ Cật, mỗi người được hưởng tỷ lệ 01/32 bằng 619.794.806 đồng. Cụ Nguyễn Thị Tình 13 người con của cụ Cật (không bao gồm ông Oánh) cùng có trách nhiệm hoàn lại chi phí sửa chữa nhà cho ông Oánh số tiền là 412.400.000 đồng.
Giao căn nhà 25 Bạch Đằng cho các thừa kế của cụ Nguyễn Thị Bằng và 07 người con của cụ Bằng với cụ Cật được đồng sở hữu theo tỷ lệ được hưởng như trên và cùng có trách nhiệm hoàn lại phần thừa kế cho cụ Tình và 07 người con của cụ Tình và cụ Cật; mỗi người số tiền là 619.794.806 đồng.
Tổng cộng là 4.958.358.448 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm ông Bê, bà Luyện, ông Phức và ông Oánh kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 30/2009/DSPT ngày 19/01/2009, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ y án sơ thẩm về nội dung (chỉ sửa về thời gian thi hành án).
Ngày 15/6/2010 bà Mỹ (không phải là đương sự trong vụ án này) khiếu nại với nội dung: Bà Mỹ là con của cụ Tình và cụ Cật. Năm 1962 sau khi sinh được 3 tháng cụ Tình và cụ Cật giao bà Mỹ cho vợ chồng cụ Đảm (là anh của cụ Cật) nuôi dưỡng. Khi chia thừa kế tài sản của cụ Cật các anh chị em đã che giấu không cho bà Mỹ biết nên bà Mỹ không được hưởng thừa kế tài sản của cụ Cật. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Tại Quyết định số 15/2012/KN-DS ngày 16/01/2012, Chánh án TANDTC kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 30/2009/DSPT ngày 19/01/2009 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 1358/2008/DSST ngày 29/8/2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận kháng nghị của Chánh án TANDTC. Xét thấy: khi chia thừa kế căn nhà số 25 đường Bạch Đằng, Tòa án cấp phúc thẩm đã trừ 412.400.000 đồng tiền chi phí sửa chữa nhà trước khi chia thừa kế cho những người hưởng thừa kế, nhưng sau đó lại buộc cụ Tình và các con của cụ Tình và cụ Cật thanh toán tiền sửa chữa nhà cho ông Oánh là không đúng. Ngoài ra, giá trị của căn nhà sau khi trừ tiền sửa chữa nhà của ông Oánh thì giá trị còn lại là 19.833.433.800 đồng, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giao cho cụ Bằng được hưởng 17/32 phần giá trị căn nhà là 9.916.716.900 đồng là tính toán không chính xác, không đảm bảo được quyền lợi của đương sự. Mặt khác, sau khi xét xử phúc thẩm, bà Mỹ khiếu nại cho rằng bà là con của cụ Cật và cụ Tình, được hai cụ cho làm con nuôi của cụ Đảm (là anh của cụ Cật), cụ Tình cũng thừa nhận bà Mỹ là con chung của cụ Tình và cụ Cật. Đây là tình tiết chưa được các đương sự khai trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, cần phải được xác minh, làm rõ về quan hệ của bà Mỹ với cụ Tình và cụ Cật khi giải quyết lại vụ án. Căn cứ vào những lẽ trên Tòa án đã ra quyết định hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm và yêu cầu xét xử sơ thẩm lại theo qui định của pháp luật.
Qua vụ án nêu trên, có thể nhận thấy, cụ Cật mặc dù có 2 vợ nhưng đây đều là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên cả hai người vợ đều được pháp luật bảo vệ. Nguyên nhân dẫn đến hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm là do Tòa án chưa xác minh làm rõ những người có quyền thừa kế. Trường hợp bà Mỹ nếu là con đẻ của cụ Cật và cụ Tình thì đương nhiên bà Mỹ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Cật và vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của bố nuôi là cụ Đảm khi cụ Đảm chết.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Nguyên nhân
Từ nghiên cứu về thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong những năm gần đây đã cho thấy nhiều vụ việc bị kéo dài, tỷ lệ án bị sửa, bị hủy, bị đình chỉ giải quyết còn khá cao. Xét trên khía cạnh pháp lý và xã hội, việc phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp về thừa kế trong những năm gần đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân bao gồm cả mặt khách quan và chủ quan.
- Về mặt khách quan: Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ nhất, các qui định của pháp luật thừa kế còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Nhiều quy định trong các văn bản có liên quan còn chồng chéo nhau, thẩm quyền giải quyết vụ việc còn nhập nhằng dẫn đến hiện tượng các cơ quan đùn đẩy trách nhiệm. Các quy định về thừa kế tuy còn nhiều điểm phải hoàn thiện nhưng được đánh giá là một trong những chế định hoàn thiện nhất của BLDS. Tuy nhiên cũng như việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định về thừa kế cũng phải được hoàn thiện để không một quan hệ thừa kế nào nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật.
Thứ hai, sự thay đổi về chính sách đất đai cụ thể là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm trễ, chưa rõ ràng khiến cho việc xác định người thừa kế và di sản không thuận lợi.
Thứ ba, xuất phát từ công tác điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ. Việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn do những vụ án tranh chấp thừa kế thường liên quan đến rất nhiều thế hệ có thể cư trú ở nhiều nơi khác nhau, tài sản cũng phong phú đa dạng và phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt, các vụ án tranh chấp về thừa kế có yếu tố nước ngoài thường khá phức tạp về cả chủ thể và đối tượng tranh chấp, nên khó tránh khỏi tình trạng bị kéo dài. Mặt khác, theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự, Tòa án chỉ tiến hành điều tra xác minh khi cần thiết. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án cụ thể, Tòa án thường phải tự điều tra, thu thập chứng cứ để xây dựng hồ sơ vụ án. Bản thân các đương sự trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khác nhau không tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án điều tra mà còn có những hành vi gây cản trở làm cho việc giải quyết vụ án càng khó khăn, phức tạp hơn.
Thứ tư, liên quan đến nhận thức của người dân về pháp luật thừa kế còn hạn chế. Cũng như nhận thức về pháp luật nói chung của người Việt Nam, nhận thức pháp luật về thừa kế của người dân còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Nhiều địa phương vẫn còn chịu ảnh hưởng của các phong tục tập quán lạc hậu. Xuất phát từ nhận thức pháp luật còn hạn chế, người dân không nhận thấy được tranh chấp về thừa kế có nguy cơ xảy ra nên chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc kê khai tài sản hoặc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời. Điều này dẫn đến việc xác định tài sản gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như trường hợp tài sản ở nhiều nơi.
Thứ năm, do điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều đặc thù. Các quan hệ truyền thống và các quan hệ xã hội mới luôn luôn đan xen tồn tại làm tăng tính phức tạp của các tranh chấp về thừa kế. Bên cạnh đó còn phải kể đến nền kinh tế thị trường phát triển với tốc độ chóng mặt đã phá vỡ nhiều mối quan hệ kinh tế và xã hội truyền thống của nhân dân ta, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh làm cho các quan hệ kinh tế xã hội phát triển và có nhiều thay đổi lớn. Con người ngày càng coi trọng lợi ích cá nhân, giá trị vật chất hơn nên nhiều vụ án khi được đưa ra xét xử, các đương sự tìm cách chống đối, trì hoãn nhằm trục lợi cho bản thân.
- Về mặt chủ quan: Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Ngoài những khó khăn, vướng mắc mang tính khách quan nói trên, thực tiễn giải quyết tranh chấp còn gặp nhiều khó khăn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, công tác xét xử của Tòa án còn rất nhiều thiếu sót, hạn chế:
- Thiếu sót trong việc điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án chưa đầy đủ, chưa chính xác. Khâu định giá tài sản còn nhiều bất cập. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu nên nhiều vụ án, công tác điều tra, thu thập chứng cứ không đảm bảo.
- Sai sót về thủ tục tố tụng, đặc biệt là không triệu tập người có quyền lợi liên quan. Thực tiễn cho thấy, rất nhiều vụ án về tranh chấp thừa kế có nhiều người có quyền lợi liên quan nhưng không ai được triệu tập đến Tòa, thậm chí họ không hề biết về vụ việc đó.
Thứ hai, công tác theo dõi, quản lý nhà ở, đất đai còn lỏng lẻo, chồng chéo, đặc biệt là những trường hợp mua bán, chuyển nhượng qua nhiều chủ sở hữu khác nhau dẫn đến việc xác minh gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các Thẩm phán, đặc biệt là tại các địa phương cũng còn nhiều hạn chế, khả năng tiếp cận, cập nhật thông tin, văn bản mới còn yếu.
Từ đó dẫn tới việc còn nhiều án bị sửa hoặc phải hủy để xét xử lại, làm giảm lòng tin của người dân vào những người cầm cân nảy mực nói riêng, hệ thống pháp luật nói chung cũng như gây tốn kém thời gian, công sức, tài chính của các đương sự và Nhà nước.
Những khó khăn này đang trực tiếp ảnh hưởng đến sự công minh của bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, cùng với việc bổ sung những qui định mới, hướng dẫn cụ thể một số quy định chưa rõ ràng, Tòa án cần nỗ lực hơn nữa, đồng thời cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác để giải quyết tốt các vụ án, mang lại sự công bằng, niềm tin cho các đương sự nói riêng và người dân nói chung.
3.1.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự hiện hành Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời thay thế BLDS năm 1995 đã thể chế hóa một cách đầy đủ các quan điểm và nhiệm vụ cải cách tư pháp theo hướng: đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, thúc đẩy các quan hệ pháp luật về dân sự phát triển lành mạnh, hoàn thiện chế định hợp đồng… từng bước hoàn thiện và phát triển hành lang pháp luật về dân sự, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, BLDS năm 2005 có nhiều quy định chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, một số quy định chưa được cụ thể, rõ ràng hoặc còn chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản luật khác… trong đó có các quy định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ nhất, về người thừa kế từ chối nhận di sản.
Từ chối nhận di sản được quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005:
- Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
- Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
- Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế [32].
Theo quy định tại điều luật này, pháp luật dành cho người thừa kế quyền từ chối nhận di sản. Tuy nhiên, việc từ chối nhận di sản không phải dễ dàng vì phải trải qua một loạt các thủ tục như phải được lập thành văn bản, phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản, phải được thể hiện trong thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Quy định này đã làm phức tạp hóa vấn đề và không phù hợp với thực tế.
Một vấn đề nữa được đặt ra là sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế, người thừa kế mới từ chối nhận di sản (không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản). Vậy trong trường hợp này, nếu người thừa kế vẫn nhất quyết từ chối nhận phần di sản của mình thì sẽ phải giải quyết như thế nào? Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của người thừa kế, pháp luật dành cho người thừa kế quyền từ chối nhận di sản nhưng lại giới hạn thời gian thực hiện quyền này trong vòng 6 tháng là không phù hợp với thực tiễn xã hội và nét đặc thù của văn hóa Việt Nam. Quy định này có tính chất áp đặt, vi phạm nguyên tắc tự định đoạt của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Khoảng thời gian 6 tháng là quá ngắn để người thừa kế thực hiện quyền của mình. Theo quy định tại Điều 648 BLDS năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, trong thời hạn 10 năm, quyền được hưởng di sản của người có quyền thừa kế vẫn được pháp luật bảo hộ. Hay nói cách khác, sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế, quyền được hưởng di sản thừa kế của người thừa kế vẫn được bảo hộ. Trên cơ sở nguyên tắc tự định đoạt, người thừa kế có quyền hưởng thì cũng có quyền nhận hay không nhận di sản. Nhưng theo quy định hiện hành, việc từ chối nhận di sản sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế thì vô hiệu, nghĩa là người thừa kế không có quyền định đoạt mà buộc phải nhận di sản. Quy định như vậy mâu thuẫn ngay cả trong cơ sở lý luận và khó áp dụng trên thực tế. Câu hỏi đặt ra là có nên tiếp tục thừa nhận quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế và nếu thừa nhận người thừa kế có quyền nhận di sản thì pháp luật có cần thiết quy định về thời hạn từ chối nhận di sản hay không và hậu quả pháp lý sẽ như thế nào?
Thứ hai, trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học.
Sinh con theo phương pháp khoa học đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật, chính thành tựu này của khoa học đã đem đến hy vọng, niềm hạnh phúc vô bờ bến cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn bởi ước mơ được làm cha làm mẹ đã trở thành hiện thực. Xét ở khía cạnh khác, sinh con theo phương pháp khoa học là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm bởi biện pháp này không đơn thuần thuộc lĩnh vực khoa học mà còn liên quan đến vấn đề đạo đức, tình cảm, pháp lý. Bên cạnh đó, biện pháp này không chỉ phát sinh trong quan hệ giữa cặp vợ chồng vô sinh với nhau mà còn liên quan đến cả người thứ ba, đó là người cho tinh trùng, cho trứng, cho phôi. Trước thực tế đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học (sau đây gọi tắt là Nghị định 12). Tại Điều 3 của Nghị định 12 đã giải thích như sau: “Sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con được thực hiện bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm” [12].
Theo các quy định hiện hành của BLDS năm 2005, vấn đề thừa kế trong trường hợp con được sinh ra theo phương pháp khoa học chưa được ghi nhận cụ thể. Việc xác định cha, mẹ và con sinh ra trong trường hợp này là một yêu cầu hết sức bức thiết. Điều đó không những có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền lợi cho những đứa trẻ mà còn mang lại tình thương yêu, tạo ra những suy nghĩ tốt đẹp trong việc hình thành nhân cách trẻ thơ đồng thời tránh những tranh chấp không đáng có. Với tầm quan trọng như trên, thiết nghĩ pháp luật cần phải quy định cụ thể trường hợp những người thuộc diện thừa kế được sinh ra theo phương pháp khoa học. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, về vấn đề thừa kế thế vị.
Nếu hiểu theo câu chữ của Điều 677 BLDS 2005 về thừa kế thế vị thì trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt không có quyền hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ do vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì đương nhiên cháu, chắt cũng không thể hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ. Cha, mẹ của cháu hoặc của chắt phải có quyền hưởng di sản thì cháu hoặc chắt mới được hưởng thế vị thay cha, mẹ khi cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm trái ngược hẳn quan điểm này. Theo đó, để bảo vệ quyền hưởng di sản của cháu và chắt khi bản thân họ không bị Tòa án tước quyền hưởng di sản, không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản, họ có năng lực pháp luật để thừa hưởng di sản thì nên cho họ được hưởng thừa kế thế vị, dù cho cha mẹ của họ trước khi chết thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS.
Trường hợp thứ hai cần lưu ý, đó là thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi. Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến con nuôi hiện nay được quy định tại Điều 678 BLDS 2005 còn chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau gây lúng túng cho Tòa án khi giải quyết vụ việc. Thực tế, Tòa án đã gặp một số trường hợp điển hình như sau: Một là, người nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cha mẹ đẻ của họ thì người con nuôi của họ có được hưởng thừa kế thế vị không? Hai là, người con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì con nuôi của người con nuôi đó có được nhận thừa kế thế vị không?
Nói đến thừa kế thế vị, một vấn đề nữa đang được các nhà làm luật rất quan tâm, đó là quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm 2005, con riêng và cha dượng, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau (ở hàng thứ nhất) và con của người đó còn được thừa kế thế vị trong trường hợp người con riêng đó chết trước cha dượng, mẹ kế. Điều kiện để con riêng và cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau nếu họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, cần phải hiểu và dựa trên những tiêu chí nào để đánh giá có sự chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì pháp luật lại chưa đề cập đến, chẳng hạn như thời hạn nuôi dưỡng, chăm sóc nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, hành vi chăm sóc được thể hiện từ hai phía hay chỉ từ một phía. Như vậy nếu một phía chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng, nhưng về tình cảm giữa họ đối với nhau không như cha con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật của nhau không? Có quan điểm cho rằng nên bỏ quy định về thừa kế thế vị của con riêng vì giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không có mối quan hệ huyết thống và cũng không có mối quan hệ pháp lý ràng buộc nào cả. Quan điểm này còn xuất phát từ sự so sánh với trường hợp người con dâu (vợ của người con) không được hưởng thừa kế thế vị đối với phần di sản của bố chồng vì giữa họ không có mối quan hệ huyết thống. Do đó, việc quy định con riêng được hưởng thừa kế thế vị thay bố dượng, mẹ kế là không thuyết phục, cần phải xóa bỏ. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Từ thực tiễn cuộc sống xã hội hiện nay, còn phát sinh trường hợp thừa kế thế vị liên quan đến con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 12 thì “Người gửi tinh trùng phải trả chi phí lưu giữ, bảo quản theo qui định của pháp luật. Trong trường hợp người gửi tinh trùng bị chết, cơ sở lưu giữ tinh trùng phải hủy số tinh trùng của người đó” [12]. Về vấn đề này, theo quan điểm của chúng tôi, không được hủy số tinh trùng đang được lưu giữ trừ trường hợp người vợ đồng ý bởi trước đó cả hai vợ chồng đã thể hiện mong muốn được sinh con theo phương pháp khoa học, nên nếu sau khi người chồng chết, người vợ vẫn muốn tiếp tục thực hiện việc sinh con theo phương pháp đó thì phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Trong tình huống này, người con được sinh ra rõ ràng là con của người cha đã chết, và nếu cha chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà nội thì xét về mặt đạo lý, đứa bé hoàn toàn có quyền hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mình. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý thì chưa có quy định nào của pháp luật về trường hợp này. Như đã trình bày về điều kiện hưởng thừa kế của người thừa kế theo pháp luật thì cá nhân phải sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Nghĩa là đứa bé sinh ra theo phương pháp khoa học muốn thừa kế thế vị hưởng di sản của ông bà thì cũng phải sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm ông hoặc bà chết. Như vậy pháp luật đã vô tình tước mất quyền hưởng thừa kế thế vị di sản từ ông bà của người cháu khi người cha chết trước hoặc chết cùng thời điểm đó. Thiết nghĩ pháp luật nước ta cần có quy định bổ sung các trường hợp về thừa kế thế vị để quyền lợi của cá nhân sinh ra theo phương pháp khoa học được bảo vệ tốt hơn nữa.
3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
3.2.1. Yêu cầu chung
Hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quyền hưởng thừa kế cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nói chung, mà còn tạo hành lang pháp lý cần thiết cho Tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trên tinh thần đó, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật cần phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải đảm bảo được sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay, phát huy được tính tích cực của quy đinḥ về thừa kế theo pháp luật. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo ra nhiều thay đổi trong đời sống xã hội đồng thời cũng tạo ra khó khăn, thách thức mới. Để cho các quan hệ thừa kế theo pháp luật nói chung và thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng diễn ra một cách thuận lợi, để quyền và lợi ích của những người thừa kế được đảm bảo trong cơ chế mới, thì hệ thống pháp luật về thừa kế phải thường xuyên được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, xích lại gần với thông lệ, chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Pháp luật về thừa kế hiện hành ở Việt Nam hiện nay chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới của đất nước và xu thế hội nhập đời sống kinh tế quốc tế. Nhiều qui định của pháp luật còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như giải quyết tranh chấp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp về thừa kế của công dân. Quy định về thừa kế theo pháp luật không chỉ được điều chỉnh bằng BLDS mà còn liên quan đến các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật HN&GĐ, Luật Nuôi con nuôi, Luật Đất đai, Luật Nhà ở,… Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng cũng như đảm bảo được quyền lợi chính đáng của công dân trong quan hệ thừa kế, cần phải có sự thống nhất nội dung giữa BLDS và các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn.
Thứ ba , phải đảm bảo tính khả thi của các quy phạm pháp luật trên thực tế. Đây là yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp luật. Những qui định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật phải có khả năng đi vào cuộc sống, phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn chứ không thể chỉ dừng lại trên giấy tờ. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian, công sức, chi phí khi văn bản được ban hành xa rời thực tế.
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật
Trên cơ sở phân tích những vướng mắc về việc xác định người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế qua những vụ việc cụ thể và một số tồn tại phát sinh trong việc áp dụng pháp luật xung quanh vấn đề này cũng như tham khảo quy định tương ứng trong pháp luật của một số nước, tác giả xin được đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể để khắc phục những vướng mắc, góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật như trình bày dưới đây:
Thứ nhất, về thời hạn từ chối nhận di sản thừa kế.
Với những điểm bất cập như đã phân tích ở trên, hầu hết các nhà làm luật đều nhất trí với việc cần sửa đổi thời hạn thực hiện quyền từ chối nhận di sản nhưng chưa thống nhất được khoảng thời gian mở rộng là bao nhiêu. Hiện nay, có ba quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Pháp luật cần mở rộng thời hạn cho phép người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản từ 1 năm hoặc 3 năm. Mục đích để phù hợp với phong tục, tập quán người Việt Nam thường giải quyết việc phân chia di sản sau thời gian chịu tang (từ 1 đến 3 năm); Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Pháp luật không nên quy định về thời hạn từ chối nhận di sản, người thừa kế có thể thực hiện quyền từ chối nhận di sản tại bất cứ thời điểm nào. Bởi về nguyên tắc, một người từ chối một quyền dân sự nào đó không gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và cũng không vi phạm đạo đức xã hội thì không thể bị hạn chế trong một thời hạn như luật định.
Quan điểm thứ ba: Pháp luật nên quy định thời hạn cuối cùng của sự từ chối nhận di sản là thời điểm chia di sản.
Quan điểm của tác giả cho rằng, để đảm bảo và tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của người thừa kế, phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, việc quy định thời hạn từ chối nhận di sản theo quan điểm thứ ba được nêu ở trên là hợp lý. Việc quy định cụ thể 6 tháng, một năm, hai năm, ba năm là không cần thiết bởi thời hạn từ chối hưởng di sản không thể dài hơn thời hạn của thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Thứ hai, thừa kế theo pháp luật trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học
Pháp luật thừa kế cần quy định cụ thể về trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết là cho đứa trẻ được sinh ra và của những người thân thích nói chung và dễ dàng giải quyết các tranh chấp (nếu phát sinh). Theo chúng tôi, cần quy định trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học thì giữa con và cha, mẹ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được xác định như cha mẹ đối với con đẻ và họ có quyền thừa kế di sản của nhau. Người con sinh ra theo phương pháp khoa học không được quyền yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị.
- Trường hợp vi phạm khoản 1 Điều 634 BLDS 2005.
Trong trường hợp này, cháu hoặc chắt không có lỗi và cũng không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi do cha, mẹ mình gây ra. BLDS năm 2005 quy định về việc tước quyền thừa kế những người đã có hành vi vi phạm các quy định tại khoản 1 Điều 643. Trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng với những người có hành vi phạm tội, do vậy các cháu hoặc chắt của người để lại di sản không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập của cha mẹ trong quan hệ cụ thể này. Quyền thừa kế thế vị của các cháu hoặc chắt không thể bị pháp luật tước bỏ khi mà giữa cha, mẹ và các con hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự với tư cách cá nhân và hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu chỉ hiểu một cách máy móc là cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống không có quyền hưởng di sản thì cháu cũng không có quyền hưởng thừa kế thế vị nếu cha, mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng với ông bà thì hết sức bất công, trái với bản chất của pháp luật hiện đại, trái với truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế trong nhân dân. Tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới, thấy rằng trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu (chắt) khi còn sống bị pháp luật tước quyền thừa kế do những hành vi vi phạm thì cháu (chắt) vẫn được hưởng di sản thừa kế của ông bà hoặc cụ. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Do vậy, thiết nghĩ nên sửa đổi lại quy định tại Điều 677 BLDS 2005, theo đó, điều kiện để các cháu, chắt được thừa kế thế vị của cha, mẹ mình nhận di sản của người để lại di sản chỉ cần quy định điều kiện cha hoặc mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, trừ khi chính con, cháu họ cũng vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS 2005.
- Trường hợp thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi.
Đây cũng là vấn đề khá phức tạp nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể. Như đã trình bày tại mục 2.2.2, trước khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 được ban hành, mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với các thành viên trong gia đình người nhận nuôi con nuôi, mà đặc biệt trong trường hợp này là mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với cha, mẹ của người nhận nuôi được quy định một cách cụ thể duy nhất trong Nghị quyết số 02. Nghị quyết số 02 nêu rõ: “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ người nuôi dưỡng và con đẻ của người nuôi” [44]. Quan điểm này vẫn được duy trì và mặc nhiên áp dụng khi BLDS 1995 và sau đó là BLDS 2005 được ban hành do không có văn bản nào khác hướng dẫn về vẫn đề này.
Việc nuôi con nuôi có làm phát sinh đầy đủ quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi hay không tùy thuộc vào việc nuôi con nuôi được xác lập theo hình thức nào. Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi, theo đó:
Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng kí trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật nuôi con nuôi thì được đăng kí từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi [13].
Đồng thời, cũng cần thấy quy định pháp luật tại khoản 4, Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 cần được sửa đổi bổ sung theo hướng nếu giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận gì khác thì kể từ ngày giao nhận con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ đẻ và gia đình huyết thống người con được cho làm con nuôi không còn quyền và nghĩa vụ pháp lý gì với nhau; và quy định tại Điều 678 BLDS 2005 cũng cần được bổ sung theo hướng: con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi khi đáp ứng đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật thì có quyền hưởng thừa kế di sản của nhau và còn được hưởng thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của BLDS. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
- Trường hợp con riêng với cha dượng, mẹ kế.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là “chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì hiện nay chưa có quy định cụ thể nào. Về vấn đề này, có thể hiểu, con riêng và cha dượng, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con khi giữa họ thể hiện những hành vi được quy định tại Điều 34, Điều 35, Điều 36, Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, cha dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền cùng yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con riêng, chăm lo cho việc học tập và giáo dục con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức… cha, mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, không ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con…; con riêng có bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha dượng, mẹ kế, có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ, không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ… Hay nói cách khác pháp luật cần ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa vụ của con đẻ với cha, mẹ đẻ. Pháp luật cũng cần quy định rằng việc chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không nhất thiết dựa trên cơ sở cùng sống với nhau dưới một mái nhà bởi trên thực tế có rất nhiều trường hợp người con ở xa nhưng vẫn luôn quan tâm, thể hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành động giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các vật chất khác. Do đó, việc xác định thế nào là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con không nên phụ thuộc vào nơi cư trú của các thành viên.
- Trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học.
Trong trường hợp người chồng đã gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng, sau đó chết, người vợ vẫn muốn tiếp tục việc sinh con nên đã lấy tinh trùng để thụ thai và sinh ra đứa trẻ. Nếu người chồng chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với bố, mẹ chồng thì đứa trẻ được sinh ra có được thừa kế thế vị hay không? Thiết nghĩ pháp luật nên quy định trường hợp này, đứa trẻ có quyền được thừa kế thế vị di sản của ông, bà nội. Theo đó, cần phải sửa đổi quy định về người thừa kế tại Điều 635 BLDS năm 2005 theo hướng trừ trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học.
- Về số lượng hàng thừa kế và chủ thể trong từng hàng thừa kế.
Pháp luật dân sự hiện hành của nước ta quy định giới hạn 3 hàng thừa kế trong đó các chủ thể được hưởng thừa kế trong mỗi hàng xuất phát từ nhiều mối quan hệ với người để lại di sản. Xuất phát từ mục đích của việc thừa kế là di chuyển tài sản của người chết cho những người gần gũi, thân thích nhất của người để lại di sản để duy trì và tiếp nối, thiết nghĩ pháp luật nước ta nên sửa đổi mở rộng số lượng hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên những người có quan hệ huyết thống trực hệ được hưởng trước, sau đó mới đến những người có quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Liên quan đến hàng thừa kế thứ hai: Điều 677 BLDS đã quy định cháu được thừa kế thế vị, do vậy việc quy định cho các cháu nội, ngoại của người để lại di sản trong hàng thừa kế thứ hai là không thực sự hợp lý. Nhằm hoàn thiện quy định về hàng thừa kế thứ hai, cần thiết phải sửa đổi theo hướng: Không quy định cho cháu nội, ngoại được hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai của người để lại di sản là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Tương tự, liên quan đến hàng thừa kế thứ ba: Cũng như phân tích đối với trường hợp cháu ở hàng thừa kế thứ hai, chắt đã được thừa kế thế vị theo Điều 677 BLDS, do vậy việc quy định chắt của người để lại di sản trong hàng thừa kế thứ ba là không cần thiết. Vì lẽ đó, pháp luật về thừa kế nên sửa đổi theo hướng: Không quy định cho chắt nội, ngoại được hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ ba của người để lại di sản là các cụ nội, ngoại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Qua các số liệu thống kê của Tòa án cũng như qua việc đưa tin của các phương tiện truyền thông, có thể dễ dàng nhận thấy tranh chấp về thừa kế loại tranh chấp dân sự rất phổ biến ở Việt Nam và không có chiều hướng giảm. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ cả phía cơ quan có thẩm quyền và nhận thức của công dân… Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân, tác giả đã chỉ ra những vấn đề còn vướng mắc, hạn chế khi áp dụng qui định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật. Từ đó kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định trong BLDS về thừa kế theo pháp luật trên cơ sở bảo đảm tối đa và tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nội dung kiến nghị chủ yếu tập trung vào các quy định còn chung chung, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến khó áp dụng trên thực tiễn, chẳng hạn như vấn đề về thừa kế thế vị, vấn đề chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế để xác định quyền thừa kế hay vấn đề quyền thừa kế của người con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Mục tiêu cuối cùng hướng tới hoàn thiện hơn nữa các quy định về thừa kế theo pháp luật và các quy định này có khả năng thực thi cao.
KẾT LUẬN Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Quyền để lại di sản và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân và được pháp luật ghi nhận. Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề thừa kế cũng chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã hội đó. Ở Việt Nam, quyền thừa kế của công dân được khẳng định ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và được tiếp tục kế thừa, xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn trong những giai đoạn sau. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra như vũ bão cùng với tác động của toàn cầu hóa khiến cho nhiều quan hệ xã hội bị xáo trộn hoặc phát sinh quan hệ mới đòi hỏi phải có quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh. Các quy định về thừa kế theo pháp luật đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh nhưng vẫn còn có nhiều điểm hạn chế, cần sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn.
Đề tài “Thừa kế theo pháp luật – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã được hoàn thành với những nội dung chủ yếu sau:
Khái quát được khái niệm thừa kế theo pháp luật, phân tích các trường hợp được hưởng thừa kế theo pháp luật. Đồng thời, để có được cái nhìn khách quan, toàn diện về vấn đề thừa kế theo pháp luật, tác giả đã phân tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật từ thế kỷ XV đến nay. Từ đó chỉ ra những điểm mới, tiến bộ trong các quy định về thừa kế qua từng giai đoạn và đưa ra những nhận định làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thừa kế. Luận văn còn tìm hiểu và phân tích các quy định về thừa kế theo pháp luật trong pháp luật của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, một mặt để tìm ra những điểm tương đồng, hiểu được tại sao các quy định đó lại có sức sống lâu bền, mặt khác học hỏi và tiếp thu có chọn lọc những qui định tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Phân tích, xác định diện và hàng thừa kế trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Đặc biệt là vấn đề thừa kế thế vị và các trường hợp mới phát sinh. Đồng thời, phân tích đan xen trong sự so sánh với các qui định của pháp luật trước đây để tìm ra các điểm hợp lý, tiến bộ cũng như những hạn chế cần khắc phục, sửa đổi.
Trên cơ sở chỉ ra những nguyên nhân, những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật, tác giả đã đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật, khắc phục những khó khăn này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế đồng thời cũng đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án khi xảy ra tranh chấp, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế. Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật.
Vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng không phải là vấn đề mới nhưng nó lại luôn mang tính thời sự và phát sinh nhiều tình huống mới. Do đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về thừa kế theo pháp luật phải luôn được quan tâm và xem xét trong mối quan hệ qua lại với nhau, trong đó có việc phát sinh các mối quan hệ mới của đời sống xã hội.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com