Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, du lịch Việt Nam có một vị trí quan trọng, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, làm tăng sự hiểu biết, tăng cường quảng bá nền văn hóa giữa các quốc gia. Vì vậy, xúc tiến du lịch hiện nay đã trở thành một công cụ vô cùng hiệu quả để thuyết phục và lôi kéo khách du lịch đến với điểm du lịch. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch của các tỉnh thành trong cả nước nói riêng. Đặc biệt, nếu có sự liên kết hợp lý trong xúc tiến du lịch giữa các điểm đến du lịch thì hiệu quả của công tác này ngày càng được nâng cao.
6 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn thuộc vùng núi Đông Bắc (phạm vi nghiên cứu của luận văn – lý do giới thuyết được trình bày trong mục đối tượng và phạm vi nghiên cứu) được đánh giá là một trong những khu vực có tiềm năng phát triển du lịch lớn với nhiều thế mạnh như: sự hùng vĩ của cảnh quan thiên nhiên, đa dạng về sắc màu văn hóa; sự thuần khiết, mộc mạc, mến khách của đồng bào các dân tộc thiểu số… Vùng đất này cũng lưu giữ nhiều di tích lịch sử ghi lại những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đây chính là nguồn tài nguyên vô tận để 6 tỉnh nói trên khai thác phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên, để du lịch 6 tỉnh khu vực Đông Bắc phát triển nhanh, mạnh và bền vững thì một trong những hoạt động quan trọng nhất cần phải thực hiện là liên kết xúc tiến du lịch, nhằm giới thiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch, thu hút khách du lịch, xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch. Hiện nay, công tác liên kết xúc tiến du lịch vẫn chưa được 6 tỉnh Đông Bắc (mà luận văn giới hạn nghiên cứu) nói riêng và toàn khu vực Đông Bắc thực sự quan tâm: Thiếu kinh phí khiến việc tham gia các sự kiện du lịch, hội chợ ở các thị trường không làm nổi bật được hình ảnh điểm đến; các đợt xúc tiến không kéo dài, mang tính đứt đoạn; cách làm thiếu chuyên nghiệp vì không chú trọng nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng thị trường và lựa chọn hình thức quảng bá hiệu quả nhất… gây nhiều khó khăn cho việc tiếp cận các thị trường trọng điểm và thu hút khách của du lịch tới khu vực Đông Bắc. Trong bối cảnh hiện nay: Các tỉnh Tây Bắc mở rộng, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, 3 tỉnh Đà Nẵng – Quảng Nam – Thừa Thiên – Huế… đã có sự liên kết trong xúc tiến du lịch và đạt được nhiều thành tựu, các tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc cũng có rất nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện liên kết xúc tiến du lịch (tài nguyên, nguồn nhân lực, các chủ trương, chính sách, chỉ đạo của các cơ quan nhà nước…), nhằm phát triển du lịch mạnh mẽ, đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho nhân dân địa phương và cho đất nước. Vấn đề được đặt ra ở đây là các tỉnh khu vực Đông Bắc đã và đang thực hiện liên kết xúc tiến du lịch ở mức độ nào, cần phải làm gì để đẩy mạnh công tác đó. Đây cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc” làm đề tài luận văn của mình. Việc nghiên cứu để đưa ra được những định hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch ở đây sẽ trở thành mục đích và nội dung nhiệm vụ chính của luận văn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, chuyên khảo đề cập đến xúc tiến du lịch. Tiêu biểu như Ernie H. & Geofrey W.(1992) “Marketing Tourism Destination”, Davidson R. and Maitland R. (1997), “Tourism destination”, Morgan, Nigel (1998), “Tourism promotion & Power: Creating images. Creating identities”, Philip Kotler, Bowen và Markens (2003) “Marketing for hospitality and Tourism”. Lawton và Weaver (2005) “Tourism management”, Steven Pike(2008) “Destination Marketing”, Simon Hudson (2008) “Tourism and Hospitality Marketing”, Eric Law (1995), Tourist destinional management; Francois Vellas (1999), The international marketing of travel and tourism; Stephen Page (1995), TourismUban … Những bài viết này chủ yếu xem xét việc xúc tiến du lịch theo hướng xúc tiến điểm đến và thiên nhiều về khía cạnh lý thuyết thông thường hoặc nghiên cứu dựa trên quan điểm tiếp cận vùng/khu du lịch (theo hệ thống phân vị) và nhấn mạnh cấu trúc mỗi điểm đến du lịch.
Ở Việt Nam, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Tháng 6/2004, Trường Đại học Thương mại đã tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia với chủ đề Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến điểm đến du lịch Việt Nam, tuy nhiên trên 50 bài viết trong Kỷ yếu chưa có bài chuyên khảo nào đề cập đến liên kết xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc.
Bên cạnh đó, còn có các công trình khoa học đã công bố như: Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2005) “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm”, Hoàng Lê Minh (2008) “Tiếp thị trong kinh doanh du lịch”, Nguyễn Văn Dung (2009) “Chiến lược, chiến thuật quảng bá marketing du lịch”, Trần Ngọc Nam – Hoàng Anh (2009) “Cẩm nang nghiệp vụ tiếp thị du lịch & Quy định pháp luật mới về kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn”. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Ngoài ra còn có các luận văn thạc sỹ như: Nguyễn Thu Thủy (2007), “Xây dựng chiến lược xúc tiến du lịchMICE cho điểm đến Hà Nội”, Ngô Minh Châu (2009), “Hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam tại Trung Quốc”, Bùi Văn Mạnh (2011), “Nghiên cứu hoạt động xúc tiến du lịch Ninh Bình giai đoạn 2003 – 2009”, Lê Thành Công (2011), “Hoạt động xúc tiến của du lịch Hải Phòng nhằm thu hút khách du lịch Trung Quốc – Thực trạng và giải pháp”, Đinh Trà Nhi (2011), “Xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch thành phố Đà Nẵng”. Các luận văn này đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về xúc tiến du lịch và đồng thời đi sâu phân tích thực trạng hoạt động xúc tiến ở một số điểm đến.
Đặc biệt, có một số bài báo, các báo cáo khoa học, các đề tài nghiên cứu về hoạt động liên kết phát triển du lịch và liên kết xúc tiến du lịch như:
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số8/2010, Vụ Thị trường – Tổng cục Du lịch (2010), “Liên kết xúc tiến du lịch cho các tỉnh Bắc Trung Bộ – Thực trạng và giải pháp”, Trần Nguyên Trực – Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Khonkean Thái Lan, “Kinh nghiệm xúc tiến du lịch tại Lào và Thái Lan thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao”, Kỷ yếu Hội thảo liên kết phát triển du lịch các tỉnh Bắc miền Trung, Nghệ An, 2010.
Tiêu biểu có thể kể tới Thông báo 205/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc tại Hội nghị liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc và gặp gỡ Ngoại giao đoàn năm 2014 thể hiện sự chú trọng đến vấn đề liên kết phát triển du lịch nhưng tập trung chủ yếu vào vùng Tây Bắc, vùng núi Đông Bắc chỉ là sự mở rộng trong chiến lược phát triển du lịch của Tây Bắc.
Bên cạnh đó, nhiều đề tài nghiên cứu về việc phát triển du lịch của các tỉnh Đông Bắc cũng đã đề cập đến xúc tiến du lịch nhưng chỉ dừng lại ở mức độ đơn lẻ chứ chưa tập trung đi sâu tìm hiểu vào vấn đề liên kết xúc tiến du lịch trong vùng. Vì vậy, có thể đảm bảo đề tài nghiên cứu này không trùng lặp và có hướng đi mới so với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ ngành Du lịch học, tác giả đã tập trung làm rõ:
- Nghiên cứu tổng quan có chọn lọc những tài liệu lý thuyết về du lịch, xúc tiến, xúc tiến du lịch, liên kết xúc tiến du lịch.
- Tìm hiểu và phân tích và đánh giá thực trạng xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc và thực trạng liên kết xúc tiến du lịch trong vùng.
- Làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của việc liên kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh Đông Bắc.
- Phát hiện triển vọng của việc liên kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh Đông Bắc
- Đề xuất được các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả liên kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh Đông Bắc
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu hoạt động liên kết xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc (cơ chế, chính sách, chương trình, hoạt động xúc tiến để phát triển du lịch của vùng).
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Phạm vi không gian: nghiên cứu 6 tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. (Do những đặc thù về hệ thống tài nguyên du lịch của vùng Đông Bắc cũng như trong bối cảnh 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã có những bước đi liên kết xúc tiến du lịch mạnh mẽ thì luận văn đã giới hạn đề tài thực hiện trong phạm vi 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, chứ không nghiên cứu toàn bộ vùng Đông Bắc.)
Phạm vi thời gian: Từ năm 2013 – 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu đề tài là phương pháp tiếp cận hệ thống, biện chứng, lô gíc và lịch sử. Trong từng chương, theo yêu cầu nghiên cứu và soạn thảo, người viết sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phương pháp này là việc nghiên cứu những nguồn thông tin thứ cấp thu được từ tài liệu nghiên cứu có trước, có sẵn. Đó là hệ thống các số liệu và thông tin thể hiện qua các báo cáo, các tài liệu thống kê có liên quan đến xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc. Sau khi đã tiếp cận được các nguồn dữ liệu thứ cấp thì tác giả tiến hành so sánh, phân tích và nhận xét, đánh giá những thông tin trên nhằm sử dụng vào những nội dung có liên quan trong luận văn.
Phương pháp nghiên cứu thực địa: Tiến hành khảo sát điền dã các tỉnh Đông Bắc để thu thập thông tin về các nguồn lực phục vụ cho việc liên kết xúc tiến du lịch của vùng; trực tiếp quan sát, phỏng vấn, ghi âm, chụp hình, thu thập số liệu và tài liệu tại địa phương. Đây là phương pháp đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện luận văn, bởi chỉ có thông qua các tư liệu thực tế và cụ thể mới giải quyết tốt được nội dung mà đề tài đề ra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh: Thu thập, xử lý nguồn tư liệu thứ cấp (các bài viết, tạp chí, các sách xuất bản tại địa phương, báo cáo tổng kết số liệu thống kê liên quan đến đề tài…); phân loại tổng hợp thông tin thông qua các bảng biểu… và so sánh, đối chiếu với những thông tin thu nhận từ điều tra, phỏng vấn tại thực địa. Sau quá trình phân tích dữ liệu, dùng phương pháp đánh giá để đưa ra nhận xét về thực trạng liên kết xúc tiến du lịch của vùng Đông Bắc và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc liên kết xúc tiến ấy.Việc xử lý thông tin tốt sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác cho các luận điểm khoa học của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần hệ thống cơ sở lý thuyết về xúc tiến du lịch và liên kết xúc tiến du lịch.
Ý nghĩa thực tiễn: Liên kết vùng trong xúc tiến du lịch là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến du lịch cho các địa phương trong một vùng, đặc biệt trong điều kiện nguồn lực cho các hoạt động xúc tiến du lịch của từng địa phương còn nhiều hạn chế. Liên kết xúc tiến du lịch giúp quảng bá hiệu quả hơn về điểm đến, về sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch của địa phương. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc liên kết xúc tiến du lịch ở các tỉnh trong khu vực Đông Bắc chưa được đẩy mạnh và gặp nhiều hạn chế. DO đó, việc nghiên cứu, đề xuất các định hướng và giải pháp đẩy mạnh liên kết xúc tiến du lịch của các tỉnh khu vực Đông Bắc đáp ứng được tính thời sự, có ý nghĩa thực tiễn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1. Tổng quan về liên kết xúc tiến du lịch
- Chương 2. Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc
- Chương 3. Giải pháp liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Xúc tiến
Theo Từ điển tiếng Việt thì “xúc tiến” có nghĩa là làm cho tiến triển nhanh hơn.
Các nhà kinh tế Đông Âu cho rằng “xúc tiến là một công cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa người mua và người bán, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục đích đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hóa và dịch vụ” [14, tr. 6].
Theo Philip Kotler, xúc tiến là “hoạt động thông tin marketing tới khách hàng tiềm năng” mà marketing được hiểu là “một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn, thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác” [18, tr. 10].
Như vậy, bản chất của hoạt động xúc tiến là truyền tin về sản phẩm và doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Đó chính là việc sử dụng những công cụ truyền thông để thúc đẩy việc bán hàng cũng như giúp khách hàng hiểu thêm về doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.2. Xúc tiến du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Theo khoản 17, điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch”.
Đây là một quan niệm khá rộng về xúc tiến du lịch, bao hàm từ việc tuyên truyền, quảng cáo về điểm đến, nâng cao nhận thức xã hội, huy động nguồn lực, tìm kiếm cơ hội phát triển du lịch… Tuy nhiên, có thể khái quát khái niệm này ở 3 nội dung cơ bản sau:
- Một là tạo nên sự thu hút du lịch bằng việc truyền tải thông tin, hình ảnh hấp dẫn về điểm đến.
- Hai là tuyên truyền tạo dựng sự đồng thuận trong nhận thức và hành động của cộng đồng dân cư.
- Ba là thúc đẩy sự phát triển du lịch nhằm tăng sự hấp dẫn đối với thị trường khách mục tiêu của điểm đến
Điều 79. Luật Du lịch Việt Nam (2005) cũng đã xác định xúc tiến du lịch gồm 4 nội dung sau:
- (1). Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam; các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách mạng, di sản văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người, bản sắc văn hoá dân tộc cho nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế;
- (2). Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn minh, lành mạnh, an toàn, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc;
- (3). Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển các đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch đa dạng, độc đáo, có chất lượng cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc trong cả nước, từng vùng và từng địa phương; phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch;
- (4). Nghiên cứu thị trường du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với thị hiếu khách du lịch; tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm du lịch” [15]. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm xúc tiến du lịch nêu trên để nhìn nhận việc 6 tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang cùng hợp tác trong công tác xúc tiến du lịch chung cho khu vực. Tức là luận văn coi khu vực Đông Bắc (6 tỉnh nói trên) là một điểm đến du lịch (một vùng lãnh thổ bao gồm nhiều tỉnh có quan hệ mật thiết về điều kiện địa chính trị, địa kinh tế, địa nhân văn…)
1.1.3. Liên kết xúc tiến du lịch
Theo Từ điển Tiếng Việt, liên kết có nghĩa là “gắn chặt với nhau”, là kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc từ nhiều tổ chức riêng rẽ để cùng hợp sức thực hiện một hoạt động gì đó. Hay nói một cách khác, liên kết là các chủ thể tham gia hoạt động này gắn bó chặt chẽ đồng thời có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau về một vấn đề hay một lĩnh vực cụ thể nào đó. Mục đích của sự liên kết này nhằm tạo ra sự đồng nhất về kết quả và điều quan trọng hơn cả là tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa các đối tượng tham gia hoạt động liên kết phát triển lên một tầm cao mới.
Nhìn dưới góc độ du lịch, việc liên kết giữa các tỉnh (thành phố)/ vùng là xu thế chung hiện nay vì mỗi địa phương đều có những lợi thế nhất định.
Tuy nhiên, điều quan trọng là từng điểm đến riêng lẻ này chưa khai thác hiệu quả những nguồn lực đó để phục vụ cho việc phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế địa phương nói chung. Một trong những nguyên do chính xuất phát từ việc sản phẩm/dịch vụ du lịch ở mỗi nơi còn phát triển tự phát, đơn điệu, manh mún, không thu hút khách du lịch; hình ảnh về điểm đến mờ nhạt; sản phẩm du lịch liên tục bị sao chép và kém chất lượng… Do đó, việc cấp thiết cần phải làm ngay là liên kết giữa các tỉnh thành, vùng với nhau để cùng tạo ra một sức mạnh tổng hợp trong phát triển du lịch.
Mục tiêu của việc liên kết ở đây chính là tạo ra thị trường mới cũng như mở rộng thêm thị trường, xác lập sự ổn định mới cho sản phẩm du lịch nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm đó với những sản phẩm khác cùng loại. Liên kết nhằm xây dựng những điểm mạnh, điểm nổi bật của vùng liên kết thành điểm du lịch nổi bật và có sức lan tỏa. Trong xu thế hội nhập quốc tế, du lịch của mỗi nước, mỗi tỉnh chỉ có thể phát triển mạnh hơn trong thế liên kết hợp tác.Vì vậy mà các tỉnh trong vùng cần có sự hợp tác, liên kết để phát triển hơn nữa nâng cao sức cạnh tranh với các vùng khác.
Việc liên kết sẽ giúp cho việc hình thành những cơ chế chung trong chỉ đạo, điều hành, khuyến khích phát triển du lịch của vùng, mở rộng liên kết song phương giữa hai tỉnh và đa phương với nhiều tỉnh khác nhau. Phạm vi liên kết càng mở rộng thì sự quảng bá, tạo sản phẩm, xây dựng chính sách, đào tạo nguồn nhân lực càng được quan tâm và mở rộng hơn theo quy mô liên kết đó. Việc bắt tay vào liên kết sẽ giúp cho việc tạo nên nền tảng tương đối đồng bộ để bắt đầu bước vào giai đoạn mới với những thách thức và cơ hội đặt ra cho những vùng liên kết. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Như vậy, để phát triển du lịch, các địa phương cần phải liên kết, hỗ trợ nhau phát huy lợi thế, khai thác các nguồn lực một cách hợp lý. Do vậy, đẩy mạnh hợp tác, liên kết xúc tiến, quảng bá du lịch là việc làm cần thiết để tạo sức mạnh chung. Các sản phẩm du lịch sẽ không hấp dẫn du khách nếu không có sự gắn kết liên vùng.
Một đặc thù trong hành vi mua sản phẩm du lịch là người mua thường ít biết rõ về sản phẩm mình muốn mua. Trong tiến trình mua sản phẩm du lịch, sau khi xác định loại hình du lịch, du khách sẽ lựa chọn điểm đến. Tuy nhiên, khi lựa chọn điểm đến, đa phần du khách vẫn còn khá mơ hồ về các điểm đến du lịch có thể lựa chọn. Vì vậy, một điểm đến nếu cung cấp được cho du khách các thông tin đầy đủ, kịp thời và tin cậy để du khách có thể hiểu hơn và nhận thấy những nét hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu du lịch, khả năng thanh toán cũng như quỹ thời gian của mình, rõ ràng sẽ có ưu thế lớn hơn trong việc thu hút du khách.
Chính vì vậy, giống như các sản phẩm khác và khác biệt hơn các sản phẩm khác, sản phẩm du lịch đòi hỏi một nỗ lực to lớn trong quảng bá xúc tiến sản phẩm. Ngoài ra, do du khách phân bố phân tán ở nhiều nơi xa điểm đến nên nó thường vượt khỏi khả năng quảng bá của một doanh nghiệp, một địa phương. Do vậy, sự liên kết xúc tiến được phối hợp giữa các doanh nghiệp du lịch khác nhau, các điểm đến du lịch khác nhau dưới sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền là hết sức cần thiết.
Mặt khác, tâm lý của phần đông khách du lịch là muốn trải nghiệm nhiều điểm đến trong chuyến du lịch của mình. Do đó, trước khi quyết định thực hiện một chuyến du lịch nào đó, khách du lịch thường tìm kiếm và lựa chọn các điểm đến cho chuyến lữ hành của mình phù hợp tính chất chuyến đi, độ dài thời gian… đặc biệt là khách đến từ thị trường xa. Du khách châu Âu ít khi chọn Việt Nam là điểm đến duy nhất trong hành trình của mình mà sẽ là cả Việt Nam, Lào và Campuchia, hay khi chọn tour dài ngày đi du lịch vùng miền núi phía Bắc, du khách sẽ chọn nhiều hơn một tỉnh Tây Bắc (Đông Bắc). Như vậy, liên kết xúc tiến du lịch tức là các địa phương (tỉnh/thành phố, điểm đến) hợp tác với nhau trong quảng bá du lịch nhằm tạo hiệu ứng hình ảnh du lịch chung cho toàn vùng, cũng như củng cố và gia tăng sức mạnh cho hình ảnh du lịch của chính địa phương mình. Thông qua chương trình liên kết này sẽ giúp các địa phương tương trợ lẫn nhau; giảm thiểu lãng phí tài nguyên; mở rộng thị trường… đặc biệt là tạo ra sức mạnh tổng lực trong việc thiết lập và quảng bá hình ảnh và thương hiệu du lịch cho toàn vùng. Do đó, có thể thấy công tác liên kết xúc tiến du lịch sẽ mang lại hiệu quả hơn nhiều so với việc các các tỉnh/thành phố/điểm đến tiến hành xúc tiến đơn lẻ.
Tóm lại, liên kết xúc tiến du lịch trong khuôn khổ nghiên cứu này là việc các địa phương cùng hợp tác chặt chẽ trong công tác quảng bá du lịch là một trong những hình thức quảng bá du lịch hiệu quả nhất thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là một trong những yêu cầu quan trọng trong phát triển “ngành công nghiệp không khói” bởi lẽ nếu không có hoạt động liên kết xúc tiến thì điểm đến du lịch của những vùng này sẽ không có sự thu hút cũng như không được nhiều khách chú ý. Vì thế khi liên kết phát triển du lịch cần phải liên kết cả về xúc tiến và quảng bá du lịch.
1.2. Các vấn đề cơ bản trong liên kết xúc tiến du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
1.2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch
1.2.1.1. Điều kiện về tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên hoạt động du lịch và đưa đến sự phát triển của du lịch. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo nên sự gắn kết giữa các địa phương với nhau trong xúc tiến du lịch. Bởi vì, muốn tạo ra hình ảnh biểu trưng mang tính đại diện cho toàn vùng thì mỗi địa phương phải có một hệ thống tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú và đặc biệt là có sức hấp dẫn du khách.
Tài nguyên du lịch càng phong phú và đặc sắc thì việc liên kết để nhằm tạo ra các tour, tuyến phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch sẽ càng nhiều. Đồng thời, giữa các địa phương phải có sự tương đồng nhất định về mặt tài nguyên tự nhiên cũng như nhân văn để có thể liên kết xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù và thuận lợi trong việc quảng bá sản phẩm ấy ra thị trường. Từ đó có thể xây dựng những tour du lịch liên tỉnh theo hình thức du tuyến du lịch chủ đề, cùng lúc có thể kết hợp được nhiều tài nguyên du lịch giữa các địa phương với nhau tạo sự thích thú cho du khách.
1.2.1.2. Điều kiện về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng
Ở đây bao gồm hệ thống đường giao thông, các cơ sở phục vụ cho hoạt động như khách sạn, nhà hàng, các cơ sở vui chơi giải trí… Đường giao thông thuận tiện, được nâng cấp và tu sửa thường xuyên sẽ giúp cho khoảng cách di chuyển giữa các địa điểm du lịch sẽ được giảm xuống, thời gian di chuyển sẽ nhanh hơn. Đây là một trong những yếu tố được bàn đến khi diễn ra sự liên kết trong phát triển du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng. Bởi lẽ, không phải bất cứ một địa phương nào cũng có hệ thống đường giao thông đẹp và hiện đại, vì vậy khi liên kết với nhau thì việc hoàn thiện các trục đường về giao thông và có sự đồng bộ như nhau là rất cần thiết.
Liên kết xúc tiến du lịch cũng đòi hỏi phải có đầu tư trong việc xây dựng các khách sạn hoặc nhà nghỉ có cùng tiêu chuẩn sao hoặc đạt tiêu chuẩn để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của du khách; xây dựng hệ thống các nhà hàng cũng như chất lượng trong các nhà hàng theo kiểu tạo thành các cơ sở có tiếng; xây dựng các khu resort, khu vui chơi tạo sự thoải mái cho du khách.
1.2.1.3. Điều kiện về nguồn nhân lực du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Đào tạo nguồn nhân lực, sự luân chuyển nguồn nhân lực lao động trong ngành du lịch từ các địa phương có sự liên kết tạo nên sự đa dạng về việc hiểu biết về phông văn hóa của các địa phương khác nhau, trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình phục vụ khách du lịch. Đó là việc mở các lớp tập huấn trong công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực lao động, đào tạo thêm kiến thức cho những nhân lực lao động này, đào tạo thêm về kĩ năng nghiệp vụ nhằm nâng cao hơn nữa trình độ của mình trong việc phục vụ khách du lịch từ đó tạo sự hài lòng với khách du lịch.
Nguồn nhân lực du lịch cần có sự tương đồng về trình độ để có thể tạo nên sự đồng đều về chất lượng, bên cạnh đó cũng cần có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và chất lượng cao để có thể tiến hành sự liên kết về mặt này khi các vùng hoặc địa phương liên kết còn yếu về việc đào tạo, chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực còn thấp.
1.2.1.4. Điều kiện về chủ trương và chính sách
Khi đề cập đến vấn đề chủ trương, chính sách Nhà nước trong xúc tiến du lịch, Điều 80. Luật Du lịch (2005) đã quy định:
- Nhà nước quy định cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa phương với các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch trong việc thực hiện hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch.
- Bộ, ngành, cơ quan thông tin đại chúng trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương tổ chức hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài.
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chuyên gia, phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài tham gia vào hoạt động tuyên truyền, quảng bá nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người, du lịch Việt Nam.
- Nhà nước khuyến khích và có biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về du lịch cho các cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư trong xã hội” [15].
Dựa trên cơ sở đó, có thể thấy việc liên kết xúc tiến du lịch là một trong những hướng đi, định hướng cho việc phát triển du lịch trong những năm tới, đặc biệt khi diễn ra sự liên kết xúc tiến du lịch thì việc đưa ra các chủ trương cho sự phát triển về du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng là một trong những việc làm hết sức quan trọng; đòi hỏi cần có sự họp bàn giữa các bên tham gia nhằm thảo luận để đề ra các chủ trương, nêu ý kiến và góp ý để có thể đặt ra một hướng đi đúng đắn nhất cùng với những chiến lược hiệu quả và giải pháp khả thi trong liên kết xúc tiến du lịch. Đồng thời thông qua chủ trương phát triển này các địa phương trong vùng sẽ không bị phát triển lệch hướng.
Các chính sách sau khi tiến hành liên kết ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cũng như sự phát triển của cả vùng trong vấn đề xúc tiến du lịch. Bởi vì, các địa phương khi tiến hành liên kết phải đưa ra những chính sách hợp lí dựa trên sự đồng thuận chung sau khi có sự bàn bạc để tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Nếu không có sự thống nhất về các chính sách sẽ dẫn đến sự lệch nhau về các vấn đề mà khi liên kết diễn ra đã bàn bạc và thống nhất. Những chính sách này cùng phải dựa trên những đặc điểm về du lịch của từng vùng, từng địa phương để bàn bạc và đưa ra chính sách cuối cùng nhằm tạo ra sự thuận lợi nhất cho mỗi địa phương. Trên cơ sở thuận lợi của từng địa phương đó sẽ tạo sự thuận lợi cho cả vùng phát triển du lịch. Đây chính là hành lang pháp lí giúp cho sự liên kết đi tới thành công.
1.2.2. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Căn cứ các nội dung về xúc tiến du lịch đã nêu ở trên thì liên kết xúc tiến du lịch được thực hiện với 4 nội dung sau:
1.2.2.1. Liên kết trong nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm du lịch
Du lịch là ngành công nghiệp không khói có tiềm năng phát triển cực kì lớn. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc di chuyển, tham quan và du lịch giữa các quốc gia ngày nay đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Khách du lịch vì thế mà vô cùng đa dạng, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau, cùng với thói quen và hành vi tiêu dùng khác nhau. Ngược lại, ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực, ngành công nghiệp du lịch phát triển hay không, dịch vụ du lịch được đầu tư đến đâu cũng là điều du khách quan tâm. Để kết nối được cung và cầu, các tổ chức và doanh nghiệp cần nắm rõ thị trường du lịch mà họ đang nhắm tới để đưa ra những chiến lược phát triển hợp lí.
Đối với quy mô vùng, việc các địa phương cùng liên kết nghiên cứu thị trường du lịch mục tiêu và thị trường du lịch tiềm năng là điều cấp thiết. Việc hiểu biết về nhóm khách hàng mục tiêu và thói quen tiêu dùng du lịch của họ sẽ giúp điểm đến tìm ra biện pháp thích hợp để đưa sản phẩm du lịch của mình vào thị trường một cách thành công.
Qua việc liên kết nghiên cứu thị trường, các địa phương sẽ hình thành ý tưởng phát triển một sản phẩm mới mang tính đặc thù của toàn vùng và lựa chọn chiến lược định vị đúng cho sản phẩm đó tại từng thị trường cụ thể. Nhờ việc liên kết này, các địa phương cũng giảm thiểu lãng phí tiền bạc và công sức so với hoạt động nghiên cứu thị trường một cách độc lập.
1.2.2.2. Liên kết trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, truyền thông, quan hệ công chúng
Liên kết trong hoạt động quảng cáo là việc các địa phương cùng thống nhất quan điểm và hành động để có chung những hoạt động quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ cũng như môi trường du lịch của mình. Tùy vào tình hình thực tế, các nhóm địa phương khi liên kết với nhau trong quảng cáo có thể chọn các hình thức sau:
- Xuất bản và phát hành ấn phẩm thông tin: là một hình thức xúc tiến, quảng bá truyền thông. Ấn phẩm thông tin là tất cả những dạng in ấn hoặc điện tử được thiết kế nhằm tạo ra sự nhận biết đối với khách hàng hiện tại và tiềm năng, kích thích nhu cầu và ham muốn về một sản phẩm hay điểm đến cụ thể nào đó. Do vậy, việc các địa phương tổ chức liên kết xuất bản và phát hành ấn phẩm thông tin sẽ tạo được hình ảnh ấn tượng, thông điệp hướng dẫn về điểm đến du lịch/vùng du lịch trên các ấn phẩm truyền thông sẽ có tác động mạnh mẽ đến việc thu hút khách du lịch hiện tại cũng như khơi gợi sự tò mò khám phá điểm đến đối với những khách du lịch tiềm năng.
- Trưng bày du lịch và phim ảnh du lịch: là hình thức quảng cáo thông qua các phòng trưng bày du lịch của một địa phương hay chiếu các cuộn phim về địa phương hoặc điểm du lịch của mình để thu hút khách. Hiện nay, hình thức này đang được tận dụng triệt để trong các chương trình liên kết nội vùng và liên vùng du lịch.
- Quảng cáo hoán đổi: là việc các doanh nghiệp du lịch và các cơ quan truyền thông hợp tác với nhau trong quảng cáo trên cơ sở các hợp đồng thỏa thuận. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
- Quảng cáo hợp tác: là cách mà các doanh nghiệp du lịch vẫn tăng cường quảng cáo được mà lại giảm chi phí. Các doanh nghiệp dàn xếp để quảng cáo chung cho cả vùng và chi phí được phân chia đều cho các doanh nghiệp tham gia quảng cáo.
Quan hệ công chúng là cách thức hoạt động tạo dựng duy trì và phát triển các mối quan hệ với các tầng lớp công chúng khác nhau. Hoạt động này nhằm tạo ra một ấn tượng tốt, một hình ảnh đẹp trong công chúng là cho công chúng yêu thích doanh nghiệp, qua đó để đính chính những thông tin nhiễu và loại bỏ các thông tin sai lệch.
Liên kết quan hệ công chúng trong xúc tiến du lịch được thực hiện thông qua các công cụ như báo cáo, các bài thuyết trình, các tài liệu, số liệu, hình ảnh/âm thanh và những hoạt động dịch vụ khác có liên quan đến điểm đến/nhóm điểm đến du lịch. Khi thực hiện liên kết trong hoạt động xúc tiến du lịch này, phải đảm bảo những quyết định chủ yếu sau: xác định mục tiêu (tạo ra sự biết đến, tạo dựng sự tín nhiệm, trợ giúp cho lực lượng bán hàng và giảm bớt chi phí khuyến mãi), lựa chọn thông điệp và công cụ quan hệ với công chúng (thường là các bài viết về điểm đến du lịch), luôn đảm bảo tính chính xác của các thông tin được đăng tải, đánh giá kết quả quan hệ với công chúng (sử dụng các phương pháp như đo lường số lần thông tin có thể xuất hiện, đo lường sự thay đổi thái độ của khách hàng với điểm đến du lịch, đo lường sự thay đổi của doanh số và lợi nhuận của điểm đến du lịch).
Tùy vào tình hình phát triển du lịch tại các địa phương mà việc liên kết xúc tiến quan hệ công chúng có thể chọn công cụ là các phương tiện truyền thông đại chúng hay các sự kiện về du lịch như:
- Quan hệ với báo chí: thông cáo báo chí, các cuộc họp báo, tổ chức cho các nhà báo đi thực tế để thu lượm thông tin về điểm đến du lịch…
- Xuất bản ấn phẩm: báo cáo hàng năm, cuốn sách nhỏ, những bài báo, những tư liệu nghe nhìn hay những bài viết ngắn gọn về điểm đến du lịch trên các báo…
- Tạo các sự kiện để thu hút sự chú ý của công chúng đến điểm du lịch: hội nghị báo chí, hội thảo chuyên đề, triển lãm, lễ kỉ niệm…
- Tin tức về điểm đến du lịch được đăng tải trên báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác.
- Tạo ra những đặc điểm nhận dạng nổi bật về điểm đến du lịch
Hoạt động liên kết trong xúc tiến du lịch còn được thể hiện ở việc các địa phương trong vùng cùng tổ chức các chương trình phát động thị trường, giới thiệu điểm đến, với mục đích chính là tạo ra những đợt tuyên truyền quảng bá lớn cho toàn vùng. Mục đích của hoạt động này là nhằm phục hồi thị trường khi có dấu hiệu tăng giảm hoặc chững lại và tạo ra ấn tượng tốt, một hình ảnh tốt trong công chúng làm cho công chúng yêu thích điểm đến. Hội chợ, triển lãm du lịch là một phương tiện tiếp cận, là nơi những người điều hành chương trình du lịch đến để tìm mua các chương trình du lịch mới cung cấp cho khách hàng của họ. Hình thức phổ biến nhất là diễn đàn mở, nơi các điểm đến du lịch mua các gian hàng và những người mua được miễn phí khi đến thăm và gặp gỡ với những ai thu hút sự chú ý của họ. Hội chợ du lịch cũng cho phép các điểm đến sắp xếp, lên kế hoạch các cuộc gặp gỡ trực tiếp với các đại lý du lịch, những người mua truyền thống và tiềm năng. Mục đích của các hội chợ triển lãm du lịch là cho những người bán và người mua gặp nhau và thực hiện giao dịch, là cơ hội tốt để nhân viên tiếp thị điểm đến vừa có thể thiết lập các mạng lưới quan hệ với nhau, vừa có thể thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh.
Nhìn nhận từ góc độ liên kết xúc tiến du lịch thì hình thức hội chợ, triển lãm du lịch hiện nay đang được triệt để khai thác nhằm tăng cường hình ảnh điểm đến/khu vực tới khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng. Các Hội chợ, triển lãm du lịch thường niên cấp vùng, quốc gia hay quốc tế không chỉ là nơi gặp gỡ, trao đổi, giao thương của các nhà chuyên nghiệp du lịch gồm những người mua và những người bán mà còn phục vụ cả quảng đại công chúng (những khách hàng tiềm năng).
Truyền thông có một vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ kỹ thuật số, Internet – sự ra đời của các phương tiện truyền thông mới đã và đang làm thay đổi cơ bản hoạt động sống của con người, tác động sâu sắc, đa dạng, phong phú đến “món ăn” tinh thần hàng ngày, đến “bữa tiệc thông tin” của công chúng. Trong một thế giới công nghệ thông tin phát triển và ngày càng phát triển, tác động rất lớn vào công tác dẫn dắt thông tin, truyền bá, thậm chí là luôn sẵn sàng bùng phát và đảm nhận luôn vai trò “định hướng dư luận”. Khai thác các kênh truyền thông trong xúc tiến du lịch là việc sử dụng mạng Internet kết hợp với các phương tiện truyền thông thích hợp khác để xúc tiến sản phẩm và dịch vụ khách hàng. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin ngày càng nhiều người sử dụng mạng Internet để đặt hàng trực tuyến với những lý do sau đây: – Tiện lợi: bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều có thể đặt hàng trực tuyến – Thông tin: khách hàng có thể thu nhận thông tin về các hãng lữ hành, khách sạn và thông tin tại điểm đến – Giá cả: nhờ mạng Internet người tiêu dùng có thể so sánh giá cả của các hãng do đó họ có thể chọn được giá rẻ hơn.
Hiện nay, từ “liên kết” đang trở thành trào lưu trên các phương tiện truyền thông, và cũng được sử dụng rất nhiều trong báo chí, trong đó nó không tách rời 3 cụm từ phổ biến nhất: “Liên kết để phát huy lợi thế so sánh”, “Liên kết để phát triển bền vững” và “Liên kết để nâng cao sức cạnh tranh”. Truyền thông là quan trọng, nhưng truyền thông cái gì phải căn cứ vào những giá trị cốt lõi. Khi một chiến lược đưa có tính chất “liên kết” cũng theo nguyên tắc chung cần có thông điệp và hành động cụ thể để hiện thực “tính chất liên kết” đó, đó chính là những giá trị cốt lõi cho truyền thông để nhận được sự ủng hộ của nhiều người hơn, để sớm và vững trong việc hoàn thành mục tiêu.
Khi “liên kết” trong truyền thông, trước hết phải thể hiện rõ sự liên kết trong mối quan hệ chung thông điệp, chung mục tiêu, trên tinh thần WIN – WIN, chia sẻ hay cộng hưởng nguồn lực để đạt mục tiêu chung.
Trong liên kết xúc tiến du lịch thông qua các kênh truyền thông, ngoài vấn đề quảng bá hình ảnh, các địa phương cần nghiên cứu, chia sẻ những kinh nghiệm, hợp tác trong công tác in ấn, xuất bản, phát hành những tài liệu tuyên truyền, tổ chức các hoạt động truyền thông như triển lãm hình ảnh, hội chợ, hội thảo, hội nghị, tổ chức các hoạt động cộng đồng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, thân thiện với du khách để hướng tới mỗi người dân đều nhận thức rõ vai trò là đại sứ du lịch, và cùng chung tay bảo vệ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, những gì do thiên nhiên ban tặng và con người đã tạo dựng.
Trong khối (quần thể) liên kết cần có một thương hiệu nhận diện chung thể hiện cho mối liên kết, trong đó sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quan trọng và quyết định sự thành công.
Ngoài những sản phẩm truyền thông, công cụ truyền thông, hướng truyền thông thì liên kết trong bộ máy thực thi truyền thông rất quan trọng, đặc biệt là website quảng bá du lịch của tỉnh mình, địa phương mình, khu vực mình. Chính nguồn lực này cần triển khai liên kết tốt trong công tác truyền thông để đạt được mục tiêu chung.
1.2.2.3. Liên kết trong xây dựng thương hiệu du lịch của vùng Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Thương hiệu là sự khẳng định của một quá trình phát triển, về những giá trị tiêu biểu tích cực được thị trường ghi nhận. Hiện nay, phát triển thương hiệu là nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia, điểm đến, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gia tăng và tiến trình toàn cầu hoá ngày một sâu rộng. Yêu cầu tạo ra sự nhận diện rõ ràng, sức cạnh tranh cao đòi hỏi các quốc gia, các điểm đến, vùng du lịch, địa phương, doanh nghiệp phải quan tâm đến công tác xây dựng và phát triển thương hiệu.
Trong giai đoạn phát triển du lịch hiện nay, các vùng du lịch, các địa phương đã dần hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển nhiều loại hình sản phẩm du lịch, định hình dần những hình ảnh về du lịch. Sự liên kết giữa các địa phương trong mỗi vùng cũng được đẩy mạnh và là nhu cầu phát triển hiện nay, phù hợp với bối cảnh và trình độ phát triển của du lịch Việt Nam. Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đã đặt ra các giải pháp phát triển du lịch theo 7 vùng du lịch rõ rệt phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển hiện nay. Điều này cũng phù hợp với việc đẩy mạnh vai trò của các Vùng du lịch, các địa phương và các doanh nghiệp tại các địa phương, phát triển mạnh thành các điểm đến với các thương hiệu riêng lớn mạnh, đóng vai trò như các trụ cột quan trọng của thương hiệu du lịch Việt Nam nói chung.
Như vậy có thể thấy, vai trò và việc phát triển thương hiệu du lịch Vùng là rất quan trọng. Một mặt nhằm đẩy mạnh sự phát triển và hình thành rõ nét được các thương hiệu nhánh, định hình rõ các vùng, mặt khác là cột trụ vững chãi cho quá trình phát triển thương hiệu quốc gia.
1.2.2.4. Liên kết trong quản trị điểm đến du lịch
Thuật ngữ Quản lý điểm đến được hiểu là quản lý chiến lược và tiếp thị các điểm đến du lịch. Trong phạm vi này, điểm đến được xem như một đơn vị riêng biệt có cạnh tranh thị trường, cạnh tranh với các điểm đến khác. Như vậy, liên kết trong quản lý điểm đến là thông qua hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ, để đảm bảo chuỗi dịch vụ liên tục trong những điểm đến và tiếp thị (ví dụ như dịch vụ lưu trú, các nhà cung cấp dịch vụ giải trí cũng như một số điểm tham quan trong vùng).
Điều này nên được thực hiện mà không chịu sự ảnh hưởng của chính trị và của các doanh nghiệp tư nhân để các điểm đến phát triển một chiến lược riêng biệt. Một trong những mục tiêu của liên kết quản lý điểm đến là việc loại bỏ các xung đột về lợi ích của nhà cung cấp dịch vụ, vì họ thường tự coi mình là các đối thủ cạnh tranh.
Việc liên kết quản lý điểm đến nên được thực hiện với hình tam giác của tính bền vững, tức là ưu tiên áp dụng một sự cân bằng thích hợp giữa các yếu tố sinh thái, kinh tế và xã hội.
Việc kiên kết trong quản lý điểm đến sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho du lịch vùng, bởi vì đây là hoạt động nhằm thiết lập một vị trí mạnh mẽ và độc đáo – nghĩa là cung cấp các trải nghiệm khác nhau so với các điểm đến khác (bằng cách phát triển sự hấp dẫn của điểm đến, làm nổi bật đặc điểm độc đáo của nó). Vì vậy, liên kết quản trị điểm đến đòi hỏi một cách tiếp cận phối hợp quản lý dựa trên một tầm nhìn tập thể, quan hệ đối tác mạnh mẽ và đảm bảo phát triển bền vững. Quản lý tốt có thể giúp tránh đọc những xung đột xã hội và văn hóa và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ du lịch đến lối sống truyền thống của cư dân địa phương. Điều quan trọng hơn cả là liên kết trong quản lý điểm đến sẽ phân phối lợi ích du lịch giữ a các địa phương một cách hợp lý (hỗ trợ phát triển sản phẩm và kinh nghiệm dựa vào cộng đồng, thúc đẩy du lịch nông thôn, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ, khai thác các tiềm năng của ngành công nghiệp thủ công mỹ nghệ v.v..). Đồng thời, liên kết quản trị điểm đến còn giúp nâng cao năng suất du lịch thông qua tập trung phát triển không gian và marketing vào thị trường mục tiêu. Điều này sẽ gia tăng sức hấp dẫn cho điểm đến, góp phần kéo dài thời gian lưu trú trung bình của du khách, tăng chi tiêu bình quân đầu ngời và làm giảm tính thời vụ không mong muốn…
1.2.3. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
1.2.3.1. Thống nhất quan điểm liên kết
Liên kết phát triển du lịch là xu thế tất yếu của thời đại. Các địa phương tham gia liên kết phải thống nhất quan điểm phát triển du lịch chung, trong đó bao gồm cả quan điểm liên kết xúc tiến du lịch. Nếu coi xúc tiến du lịch là một trong những chương trình phát động thị trường quan trọng nhất thì việc liên kết xây dựng chương trình xúc tiến du lịch giữa các địa phương trong một vùng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Bởi vì, một chương trình xúc tiến du lịch hợp lý sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho toàn vùng chứ không chỉ đối với một địa phương riêng lẻ.
Việc này chỉ có thể thực hiện được khi từng cá thể nhìn nhận đúng đắn vai trò của xúc tiến du lịch và liên kết xúc tiến du lịch trên phạm vi khu vực. Các địa phương phải vì lợi ích chung cho toàn vùng, vì hình ảnh du lịch, vì sự nhận diện thương hiệu du lịch của vùng, tránh tư tưởng cục bộ địa phương, dựa dẫm, ỷ lại vào đơn vị bạn. Đã là liên kết thì mọi đối tượng tham gia đều có trách nhiệm và quyền lợi ngang nhau, tất cả đều hướng tới mục tiêu đưa hình ảnh du lịch của khu vực ra thị trường một cách hiệu quả nhất.
1.2.3.2. Xác định nhiệm vụ và mục tiêu liên kết xúc tiến
Mục tiêu liên kết xúc tiến phải chỉ ra được kết quả cuối cùng muốn đạt được, còn nhiệm vụ liên kết xúc tiến chỉ ra làm cách nào để đạt được mục tiêu đó. Như vậy, trong liên kết xúc tiến du lịch, các nhiệm vụ mà hàng loạt tổ chức xúc tiến du lịch cấp địa phương và cấp vùng thực hiện có thể là: thu hút khách du lịch tiềm năng tới khu vực, duy trì hoặc cải thiện hình ảnh chung của toàn vùng, giới thiệu thông tin về các sản phẩm/dịch vụ du lịch, tạo dựng uy tín của các đơn vị kinh doanh du lịch, sửa các thông tin không chính xác hoặc thiếu đầy đủ về điểm đến hoặc về sản phẩm đang chào bán. Ngoài ra, đơn vị chịu trách nhiệm xúc tiến du lịch cũng phải đáp ứng các nhu cầu thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch trong vùng, đồng thời chủ trì, điều phối các chương trình xúc tiến chung của vùng.
1.2.3.3. Đồng thuận trong quyết định ngân sách xúc tiến Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Căn cứ theo mục tiêu và đối tượng truyền thông để quyết định ngân sách cho hoạt động này. Đối với du lịch của một vùng, việc xác định ngân sách xúc tiến thường dựa trên 3 phương pháp cơ bản: phương pháp căn cứ khả năng, phương pháp cân bằng cạnh tranh và phương pháp căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ.
Phương pháp căn cứ khả năng: nhiều tổ chức du lịch quyết định ngân sách xúc tiến ở mức độ mà tổ chức có thể chấp nhận được trong giai đoạn nào đó. Phương pháp này hoàn toàn không có căn cứ khoa học vì nó bỏ qua sự tác động của xúc tiến đối với sự trở lại của khách du lịch. Ngân sách xúc tiến hàng năm không ổn định nên việc lập kế hoạch marketing chiến lược dài hạn gặp khó khăn.
Phương pháp cân bằng cạnh tranh: để đạt được sự cân bằng về cạnh tranh trên thị trường, các công ty, tổ chức căn cứ vào chi phí của các đối thủ trên thị trường và điều chỉnh ngân sách xúc tiến. Phương pháp này thiếu khoa học và hiệu quả không cao vì các mục tiêu và phương pháp xúc tiến của các đối thủ cạnh tranh là luôn khác nhau và thay đổi bất kỳ khi nào.
Phương pháp căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu: đây là phương pháp phù hợp để xác định ngân sách xúc tiến du lịch. Phương pháp này đòi hỏi tổ chức quản lý du lịch thiết kế ngân sách dựa trên xác định cụ thể các mục tiêu, nhiệm vụ cần được thực hiện. Chi phí cho công việc được cộng lại, tổng số chính là chi phí xúc tiến.
Xác định ngân sách xúc tiến du lịch cho mỗi địa phương đã khó, việc xác định ngân sách xúc tiến trên quy mô hợp tác khu vực lại càng khó khăn hơn. Thông thường sẽ có 2 hình thức:
- Một là các địa phương tham gia liên kết tự xác định ngân sách cho chương trình xúc tiến của mình (những phần tham gia liên kết) sau đó tự chuẩn bị tất cả những vấn đề có liên quan đến chương trình liên kế xúc tiến, không có vai trò trung gian của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào.
- Hai là một tổ chức quản lý hành chính nhất định sẽ dựa trên chương trình liên kết xúc tiến đã thực hiện và phương hướng (dự báo) chương trình hành động trong thời gian tới để xác định ngân sách thực hiện liên kết xúc tiến cho toàn vùng.
Cả hai phương án trên đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Tuy nhiên ở phương án thứ nhất, tính liên kết rất lỏng lẻo, ít ràng buộc, mạnh ai nấy làm và tính địa phương chủ nghĩa thể hiện rõ rệt. Còn ở phương án thứ hai, mặc dù có nhiều ưu điểm như quy tất cả chương trình liên kết xúc tiến du lịch về một mối, tính liên kết thể hiện rõ nét, sự ràng buộc chi phối lẫn nhau giữa các địa phương ngày càng bền chặt. Tuy nhiên, phương án thứ hai sẽ nảy sinh vấn đề vận hành, tức là buộc phải có một tổ chức quản lý nhất định để điều hành chương trình liên kết xúc tiến du lịch nói chung và xác định/điều phối ngân sách liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.
1.2.3.4. Lựa chọn chương trình xúc tiến hỗn hợp hợp lý Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Các công cụ xúc tiến có chức năng và hiệu quả khác nhau đối với các thị trường khách khác nhau. Để lựa chọn các công cụ tối ưu trong chương trình xúc tiến hỗn hợp cần hiểu rõ đặc điểm của từng công cụ trong những điều kiện thị trường, sản phẩm dịch vụ, khả năng đáp ứng của từng điểm đến và chiến lược tiếp thị điểm đến du lịch.
Đối với điểm đến du lịch địa phương, quảng cáo có thể được xem là công cụ xúc tiến rất hiệu quả về chi phí, bởi vì nó có thể tiếp cận được thị trường mục tiêu rộng lớn với mức chi phí thấp tính theo đầu người. Quan hệ công chúng thông thường không phải trả tiền, là một thành phần rất quan trọng trong các chương trình xúc tiến du lịch, công cụ này có thể hỗ trợ các công cụ khác trong chương trình xúc tiến hỗn hợp. Chính vì thế việc nghiên cứu sử dụng phối hợp tốt các công cụ xúc tiến sẽ đảm bảo sự thành công của các chương trình liên kết xúc tiến du lịch.
1.2.3.5. Thường xuyên đánh giá và kiểm soát chương trình liên kết xúc tiến du lịch
Khi tiến hành xây dựng và đánh giá các chương trình liên kết xúc tiến du lịch, những cơ quan chịu trách nhiệm cần đặc biệt quan tâm đến việc hợp tác với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong việc nghiên cứu thị trường và đa dạng hóa các kênh xúc tiến, đồng thời phải xác định được các chủ đề cụ thể cho điểm đến nhằm gia tăng sự nhận biết những sản phẩm chào bán thông qua hình ảnh, thông điệp quảng cáo nhất quán, trung thực về điểm đến
1.2.4. Vai trò của liên kết xúc tiến du lịch
Góp phần tích cực trong việc phát huy hết khả năng nguồn lực từ con người tới tài nguyên vào hoạt động phát triển du lịch của điểm đến: Tài nguyên du lịch chỉ được khai thác hợp lí khi và chỉ khi giữa các doanh nghiệp/các địa phương có mối liên hệ mật thiết. Hiện nay, nguồn tài nguyên du lịch nước ta rất phong phú và đa dạng nhưng vẫn đang tồn tại thực trạng một số điểm du lịch luôn thu hút khách, thậm chí rơi vào tình trạng quá tải, gây sức ép tới tình hình an ninh, môi trường tự nhiên lẫn nhân văn. Nhưng bên cạnh đó, còn nhiều điểm du lịch chưa khai thác hết khả năng gây nên tình trạng lãng phí tài nguyên du lịch. Từ thực trạng đó, chúng ta thấy giữa các doanh nghiệp đang độc quyền, chưa phát huy hết sự liên kết như quảng bá, chia sẻ kinh nghiệm thu hút nguồn khách. Đó là những mặt hạn chế mà ngành du lịch hiện nay đang gặp phải. Phát huy được tính liên kết là cách giúp các ngành, địa phương và doanh nghiệp khai thác hợp lí nguồn lực con người và tài nguyên du lịch.
Tăng cường tính cạnh tranh cho điểm đến: ngành du lịch có lớn mạnh, có đủ năng lực cạnh tranh được hay không chính nhờ vào một phần của sự liên kết giữa các bên tham gia trong quá trình phát triển du lịch. Nếu các địa phương (điểm đến), doanh nghiệp du lịch liên kết và tìm ra tiếng nói chung trong xây dựng, hoạch định chiến lược, chia sẻ kinh nghiệm và trách nhiệm v.v.. thì sự vận hành của ngành du lịch sẽ có những bước tiến xa. Bên cạnh đó, hiện nay đang có xu thế liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch trong nước với doanh nghiệp du lịch nước ngoài trong việc đưa/đón khách sang du lịch lẫn nhau. Đó là xu thế chung, là một nhân tố góp phần nâng cao sự hợp tác cùng có lợi, làm hạn chế tính cạnh tranh, rất có lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Góp phần phát triển du lịch có trách nhiệm: du lịch là tổng thể của tính đa ngành nên sự đóng góp của các doanh nghiệp du lịch đối với xã hội là không hề nhỏ. Một dự án xây dựng khu du lịch ngoài mục tiêu kinh tế còn có mục tiêu xã hội, xóa đói giảm nghèo mà nó đem lại cho cộng đồng, cho xã hội thông qua tạo công ăn việc làm cho lao động trực tiếp như bàn, buồng, bếp, lễ tân; đóng góp thuế; tiêu thụ các sản phẩm của cộng đồng địa phương làm ra. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với địa phương, khách du lịch có ý nghĩa quan trọng tới trách nhiệm bảo vệ môi trường. Nếu địa phương ra sức bảo vệ môi trường còn doanh nghiệp và du khách thiếu ý thức thì sự ô nhiễm sẽ ngày một tăng, kéo theo sự suy giảm chất lượng tài nguyên du lịch là điều hiển nhiên.
Kích thích gia tăng tiêu dùng du lịch: thực tế hiện nay thời gian khách lưu lại tại các điểm du lịch cũng như địa phương là rất ngắn. Nguyên nhân thường do sự hạn chế của dịch vụ; thiếu cái mới lạ, độc đáo của sản phẩm du lịch… Trừ các thành phố du lịch lớn, còn lại rất nhiều địa phương chỉ là trạm trung chuyển của du khách, hoặc chỉ có thể giữ chân du khách 1-2 đêm. Vì vậy, nếu phát huy được sự liên kết tức là khi giữa các địa phương tìm được tiếng nói chung thì việc thu hút khách lưu lại với thời gian dài sẽ thuận lợi hơn. Từ đó kéo theo các lợi ích khác mà các chủ thể tham gia đều được hưởng lợi.
Giúp các doanh nghiệp du lịch/địa phương tiết kiệm chi phí khi sản xuất sản phẩm, dịch vụ: mục tiêu tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận luôn đặt ra với bất cứ ngành kinh doanh nào chứ không riêng gì du lịch. Nhưng trong lĩnh vực du lịch, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, các điểm đến với nhau có thể giúp tiết kiệm được chi phí thông qua việc giảm giá dịch vụ cho nhau; thể hiện trong việc chung tay quảng bá, xây dựng sản phẩm, dịch vụ để cùng khai thác; tận dụng nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp với nhau.
1.3. Một số bài học kinh nghiệm về liên kết xúc tiến du lịch Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
1.3.1. Khu vực Tây Bắc
Du lịch khu vực Tây Bắc được đánh giá là một trong những thị trường du lịch tiềm năng của cả nước với những thế mạnh, hùng vĩ của cảnh quan thiên nhiên, đa dạng về sắc màu văn hóa; thuần khiết, mộc mạc, mến khách của đồng bào các dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc. Nơi đây cũng lưu giữ nhiều di tích lịch sử ghi lại những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch vô tận để các tỉnh trong khu vực khai thác phục vụ du lịch. Từ năm 2008, 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng bao gồm Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và Hà Giang đã ký kết biên bản hợp tác phát triển du lịch nhằm khai khác hợp lý tiềm năng du lịch các địa phương và thúc đẩy sự tăng trưởng du lịch của cả khu vực.
Hợp tác xúc tiến du lịch là một trong những nội dung chính của chương trình hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Trong thời gian vừa qua, ngành du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã có nhiều hoạt động hợp tác về xúc tiến du lịch đem lại hiệu quả thiết thực góp phần thúc đẩy sự phát triển chung về du lịch của mỗi địa phương như: tổ chức cuộc thi thiết kế mẫu hàng lưu niệm và quà tặng du lịch, cuộc thi ảnh đ p du lịch Tây Bắc, cuộc thi hướng dẫn viên du lịch, xây dựng website du lịch Tây Bắc, sách hướng dẫn du lịch, bản đồ du lịch Tây Bắc, khảo sát vòng cung Tây Bắc, tham dự Hội chợ du lịch quốc tế tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,… Đây là tiền đề quan trọng để công tác quảng bá xúc tiến du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng được liên kết chặt chẽ và đạt hiệu quả cao hơn góp phần thúc đẩy du lịch Tây Bắc nói chung và du lịch của mỗi tỉnh nói riêng ngày càng phát triển.
Công tác xúc tiến du lịch các tỉnh Tây Bắc mở rộng đã tạo dựng được thương hiệu, hình ảnh, miền đất, con người và quảng bá được các sản phẩm du lịch vùng Tây Bắc và từng địa phương. Đặc biệt, trong công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, khối hợp tác 8 tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, từ công tác tuyên truyền qua các ấn phẩm Du lịch Tây Bắc bằng các tiếng Việt-Anh, xây dựng Website du lịch mỗi tỉnh, tham gia các hội chợ Du lịch Quốc tế, đến tổ chức các cuộc thi ảnh đ p, thi thuyết minh, hướng dẫn viên giỏi 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Tuy nhiên, du lịch của 8 tỉnh trong khu vực dù đã phát triển khả quan nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thiếu quy hoạch chung của cả khu vực. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Tây Bắc mở rộng còn mang tính tự phát, thiếu đồng bộ, thiếu sự liên kết chặt chẽ.
Công tác thông tin, quảng bá, xúc tiến du lịch của các tỉnh Tây Bắc đang chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, giới thiệu những cái của mình có nhưng chưa đi theo hướng có thông tin cụ thể để hướng dẫn du khách đi bằng cách nào và đến để địa điểm đó được hưởng các dịch vụ du lịch tốt nhất. Thời gian qua, hoạt động xúc tiến du lịch ở các địa phương có tiềm năng du lịch được thực hiện một cách dàn trải, lãng phí nguồn nhân lực và hiệu quả thấp. Các địa phương thực hiện công tác xúc tiến, quảng bá du lịch hiện nay vẫn trong tình trạng “mạnh ai nấy làm” khiến việc xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm du lịch Tây Bắc còn gặp nhiều khó khăn. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Như vậy, từ hoạt động liên kết xúc tiến du lịch của Tây Bắc, các tỉnh Đông Bắc có thể học tập một số bài học kinh nghiệm áp dụng vào việc thực hiện hợp tác xúc tiến du lịch như sau:
Bài học về nguồn lực tài chính: trong hợp tác xúc tiến du lịch, 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã có sự hỗ trợ rất lớn từ các Dự án EU, Dự án Tây Ban Nha, Dự án SVN. Các tỉnh Đông Bắc cũng cần phải có tầm nhìn và chiến lược trong việc thu hút, kêu gọi sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ dự án nước ngoài trong phát triển du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.
Bài học về sự chuyên nghiệp: như đã nói ở trên, dù đã có những cải thiện đáng kể nhưng Tây Bắc thực hiện liên kết xúc tiến du lịch vẫn theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. Chính vì vậy, các tỉnh Đông Bắc cần tránh “vết xe đổ” này, đồng nghĩa với việc phải hình thành cơ chế hợp tác liên vùng giữa các trung tâm xúc tiến du lịch của các tỉnh; tích cực đào tạo nguồn nhân lực làm công tác quảng bá, xúc tiến du lịch… Vì vậy, cần xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch quảng bá, xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với chiến lược, kế hoạch phát triển sản phẩm thị trường và thương hiệu du lịch
Bài học về việc sử dụng công cụ, phương tiện xúc tiến: các tỉnh Đông Bắc cũng cần học tập 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng trong việc kết hợp nhuần nhuyễn và hiệu quả các công cụ xúc tiến du lịch như website bằng tiếng Việt và tiếng Anh, tờ rơi/tập gấp/sách ảnh/sách hướng dẫn du lịch/bản đồ du lịch, tổ chức/tham gia hội chợ/liên hoan/sự kiện du lịch trong nước và quốc tế, emarketting… nhằm quảng bá, xúc tiến du lịch tạo thương hiệu chung cho toàn vùng.
Bài học về cơ chế quản lý: 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng có một Ban chỉ đạo chung, hoạt động thường xuyên nhằm đưa toàn vùng phát triển du lịch theo một quỹ đạo thống nhất, trong đó tất nhiên có cả hoạt động liên kết xúc tiến du lịch. Như vậy, các tỉnh Đông Bắc cũng nên học tập điều này, nhằm có một cơ chế quản lý tập trung, thống nhất, nhạy bén về xu hướng phát triển du lịch để kịp thời đưa ra những chiến lược liên kết xúc tiến du lịch có hiệu quả cho toàn vùng.
1.3.2. Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc
Sau khi quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch khu vực đồng bằng Sông Hồng và duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Chính phủ phê duyệt, các tỉnh trong khu vực đã chủ động xây dựng các chương trình hợp tác liên kết phát triển điểm đến, kết nối tour, tuyến, xây dựng các sản phẩm đặc trưng và cam kết trách nhiệm trong việc xúc tiến quảng bá, hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp du lịch đưa, đón khách và sử dụng sản phẩm du lịch của mỗi địa phương. Trên quy mô toàn vùng hiện nay, vùng đã phần nào thực hiện tốt sự hợp tác phát triển du lịch trong khu vực công tác quảng bá, xúc tiến đã xây dựng các sản phẩm du lịch liên kết vùng miền mang những nét đặc trưng, tương đồng, gắn với các tỉnh trong khu vực, phát triển mạnh các sản phẩm du lịch đặc thù, nhất là các sản phẩm kết nối liên tuyến đồng thời cùng phối hợp triển khai chương trình kích cầu du lịch nội địa. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Công tác quảng bá còn thể hiện ở việc xây dựng các ấn phẩm tuyên truyền, giới thiệu tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng và liên kết trang thông tin điện tử. Trung tâm xúc tiến du lịch đã thực sự đóng vai trò cầu nối, tăng cường tổ chức các chương trình gặp gỡ giữa các doanh nghiệp du lịch, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết, hợp tác kinh doanh hiệu quả; phối hợp tổ chức các đoàn Famtrip khảo sát tuyến điểm du lịch; mở rộng liên kết với các tỉnh, thành phố lớn và một số thị trường du lịch trọng điểm. Xúc tiến quảng bá còn dần được chuyên môn hóa các hoạt động thông tin nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ. Hoạt động xúc tiến đã phần nào đóng vai trò điều hành quản lý và kết nối thông tin du lịch, liên kết chia sẻ thông tin giữa các đơn vị xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch dùng chung. Trang Website của các Trung tâm xúc tiến được cập nhật thường xuyên, đảm bảo sự đa dạng phong phú về nội dung, hình thức mang tính mỹ thuật cao.
Từ thực tế hoạt động liên kết xúc tiến du lịch của vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang – nhìn từ quy mô 1 khu vực, Đông Bắc – nên học hỏi kinh nghiệm về việc thống nhất nguyên tắc chung trong liên kết. Cũng như bài học về xây dựng sản phẩm đặc thù và kết nối tour tuyến liên tỉnh, liên vùng. Bên cạnh đó, vùng du lịch Đông bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc cũng rất chuyên nghiệp trong việc liên kết thực hiện các hoạt động xúc tiến quảng bá, mà đặc biệt là nâng cao vai trò cũng như chất lượng hoạt động của các Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch. Một kinh nghiệm nữa mà khu vực Đông Bắc cần học hỏi từ thực tế liên kết xúc tiến du lịch của vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc là xây dựng một cơ sở dữ liệu chung về xúc tiến du lịch cho toàn vùng.
1.3.3. Liên kết xúc tiến du lịch giữa 3 tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên – Huế
Từ năm 2010, 3 địa phương Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng liên kết xây dựng thương hiệu “3 địa phương – một điểm đến” nhằm phát triển du lịch.
Theo đó, mỗi địa phương chọn một sự kiện văn hoá, thể thao và du lịch tiêu biểu để xây dựng chương trình chung. Cụ thể, tỉnh Quảng Nam chọn “Hành trình di sản”; thành phố Đà Nẵng chọn “Lễ hội bắn pháo hoa quốc tế” và tỉnh Thừa Thiên – Huế chọn “Festival Huế”. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
Luân phiên hằng năm, mỗi địa phương sẽ đăng cai tổ chức khai mạc mùa du lịch biển chung, cùng có chiến lược xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch liên kết; xây dựng logo; tuyên truyền, cổ động trực quan; dựng pano, trao đổi thông tin, ấn phẩm để quảng bá du lịch; xây dựng bản đồ, hỗ trợ nhau tổ chức đón các đoàn trong nước, nước ngoài đến khảo sát tại 3 địa phương.
Kế hoạch trong năm 2016, 3 địa phương Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam sẽ đẩy mạnh liên kết để xúc tiến du lịch thông qua việc tham gia các hội chợ du lịch trong nước và quốc tế: hội chợ du lịch quốc tế VITM Hà Nội, hội chợ du lịch quốc tế ITE TP. Hồ Chí Minh, hội chợ ITB Berlin, tổ chức roadshow giới thiệu du lịch 3 địa phương tại CHLB Đức, hội chợ JATA Nhật Bản. Ba địa phương cũng xuất bản các ấn phẩm chung, như: tập gấp chương trình, sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch 2016; nhân bản đĩa phim du lịch ba địa phương; tái bản cẩm nang du lịch. Bên cạnh đó, ba địa phương tiếp tục phối hợp xây dựng Bộ nhận diện thương hiệu du lịch; tổ chức hội chợ du lịch MICE và xúc tiến mở 2 đường bay mới: Băng Kốc – Đà Nẵng, Osaka – Đà Nẵng; tổ chức đón các đoàn famtrip, presstrip quốc tế đến tham quan, khảo sát, viết bài, đón và hỗ trợ các đoàn làm phim đến thực hiện phim giới thiệu du lịch của ba địa phương…
Qua 10 năm (2006 – 2016) hợp tác liên kết du lịch chung của 3 địa phương đã mang lại những kết quả khá tích cực. Đó không chỉ là hiệu quả của công tác quảng bá, xúc tiến mà việc liên kết còn thể hiện trong xây dựng chính sách quản lý, phát triển sản phẩm du lịch; phát triển nguồn nhân lực… giúp từng bước định vị thương hiệu du lịch vùng của 3 địa phương như là một điểm đến có giá trị và thú vị nhất ở Việt Nam với sản phẩm đa dạng, chất lượng.
Với kết quả hoạt động liên kết xúc tiến du lịch tích cực như vậy, Đà Nẵng, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế đã mang đến cho khu vực Đông Bắc bài học kinh nghiệm về việc xây dựng cơ chế liên kết, mà nổi lên là việc đồng thuận theo cơ chế tổ chức luân phiên các hoạt động xúc tiến chung. Đồng thời, 3 địa phương này cũng thành công trong việc xác định và xây dựng sản phẩm đặc thù mang tính kết nối liên tỉnh mạnh mẽ. Khu vực Đông Bắc còn nên học tập kinh nghiệm định vị và phát triển thương hiệu du lịch vùng của 3 tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên – Huế.
Tiểu kết chương 1
Với vai trò là phần trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu, Chương 1 của luận văn đã hệ thống hóa được những phạm trù lý thuyết có liên quan đến liên kết xúc tiến du lịch theo hướng tiếp cận marketing du lịch. Bên cạnh đó, chương 1 cũng liên hệ được bài học kinh nghiệm về thực hiện liên kết xúc tiến du lịch của khu vực Tây Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, Đà Nẵng – Quảng Nam – Thừa Thiên Huế. Nói một cách khác, chương 1 đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của để làm căn cứ triển khai các chương mục tiếp theo của luận văn. Luận văn: Liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com