Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Tiêu đề: Các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Tóm tắt: Bài nghiên cứu này nhằm tìm ra những nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn từ 2016 – 2021. Kết hợp những lý thuyết có liên quan mà tác giả được học tại trường cũng như tham khảo qua sách báo và những đề tài cùng lĩnh vực. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ 623 doanh nghiệp niêm yết, bao gồm 3738 quan sát, kết hợp với việc sử dụng mô hình Binary Logistic. Tác giả đề xuất hai mô hình cần kiểm định bao gồm hai biến phụ thuộc (lựa chọn dựa treo hai tiêu chí) và bảy biến độc lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả hai mô hình đều cho cùng một kết quả là có ba nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính bao gồm: LEV (Đòn bẩy tài chính), SIZE (Quy mô công ty) và VLĐRTSNH (Tỷ lệ vốn lưu động ròng trên tài sản ngắn hạn), nhưng trong đó biến tác động mạnh nhất là LEV, rồi đến SIZE và cuối cùng là VLĐRTSNH (tại các mức ý nghĩa 5%). Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đưa ra một số kiến nghị cho những doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán về những biện pháp cho cả hai trường hợp: Những doanh nghiệp đang rơi vào kiệt quệ tài chính và những doanh nghiệp có thể phòng tránh khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Từ khóa: Kiệt quệ tài chính, Đòn bẩy tài chính, Quy mô công ty, Mô hình đánh giá tác động cố định, Mô hình đánh giá tác động ngẫu nhiên. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

ABSTRACT

Title: Factors affecting the financial distress for the companies on the stock market of Viet Nam.

Abstract: In this study, I find factors affecting the financial distress for the companies on the Ho Chi Minh City Stock Exchange and Hanoi Stock Exchange in the period from 2016 – 2021. The theories that the author learned at my university as well as referenced through books and articles and topics in the same field. The paper used data from 623 listed firms, including 3738 observations, combined with the use of the Binary Logistic model. The author proposes two models, including two dependent variables (selected based on two methods) and seven independent variables. Research results show that both models give the same result that there are three factors affecting the financial distress: LEV, SIZE and VLDRTSNH, but in which the most influential variable is LEV, then SIZE and VLDRTSNH (at the significance level 5%). In addition, the author also gave some recommendations to companies listed on the HOSE and HNX about measures for both cases: businesses that have fallen into financial distress and businesses that may to prevent the financial distress.

Keywords: Financial distress, Financial Leverage, Size, Fixed effects model (FEM), Random Effect model (REM).

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong giai đoạn từ 2017 đến 5 tháng đầu năm 2020, nền kinh tế Việt Nam liên tục ghi nhận những thông tin không khả quan từ tổng cục thống kê: Năm 2019 có 91.282 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, chiếm hơn 66% trong tổng số doanh nghiệp thành lập mới; năm 2017 có 72.666 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, trong đó 92% là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (dưới 10 tỷ đồng). Tuy nhiên cũng cùng kỳ trong năm, Việt Nam ghi nhận số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt mức kỷ lục 126.849 doanh nghiệp. Như vậy, trung bình số doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc ngừng hoạt động chiếm 60% so với số doanh nghiệp vừa thành lập. Nếu ta nhìn lại ở năm 2014 thì con số này còn khó tưởng tượng hơn, cứ 10 doanh nghiệp mới thành lập thì có đến 9 doanh nghiệp tuyên bố phá sản. Số doanh nghiệp mới thành lập và tuyên bố phá sản tại Việt Nam giai đoạn 2013 – 2021 được minh họa tại Biểu đồ 1:

Đây chỉ là những số liệu được công khai tình hình phá sản và giải thể của các doanh nghiệp nhưng chưa kể đến những doanh nghiệp đang trong tình trạng gặp khó khăn tài chính, đang trong tình trạng nợ cao mà không có khả năng chi trả, chỉ đang có nguy cơ phá sản nhưng vẫn đang cố gắng xoay sở cho chính doanh nghiệp của mình mà chưa công khai thông tin một cách minh bạch. Đáng quan tâm hơn khi vào đầu năm 2020, Việt Nam nói riêng mà trên toàn thế giới nói chung đều đối mặt mới hai lần đỉnh điểm của dịch COVID19, đây là một bất lợi rất lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dịch COVID-19 là một trong những nguyên nhân khách quan làm cho các doanh nghiệp rơi vào kiệt quệ tài chính, hay nói cách khác việc nghiên cứu về khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính là việc hết sức cần thiết cho hiện tại và một kế hoạch trong tương lai.

Kiệt quệ tài chính không phải là nguyên nhân chắc chắn để dẫn đến phá sản, nhưng một doanh nghiệp phá sản thì chắc chắn trải qua tình trạng kiệt quệ tài chính. Do đó dự báo khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính đã trở thành nhu cầu cần thiết, là một vấn đề ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, các chủ nợ và các nhà quản lý. Việc xác định khi một công ty rơi vào kiệt quệ tài chính thông qua nhận diện các yếu tố tác động, giúp cho các nhà quản lý đưa ra được các quyết sách phù hợp nhằm duy trì hoạt động cho công ty và thúc đẩy công ty tiếp tục phát triển. Đồng thời giúp cho các nhà đầu tư và các chủ nợ có thể đánh giá mức độ rủi ro khi công ty có những yếu tố đáng báo động làm nó có thể rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.

Hiện nay đã có nhiều các mô hình dự báo kiệt quệ tài chính được áp dụng cho các doanh nghiệp ở Việt Nam, cũng như những nghiên cứu xoay quanh những nhân tố tác động đến tình trạng này. Tuy nhiên ở mức độ hiểu biết của tác giả và việc cập nhật những số liệu mới nhất từ đó đưa ra một mô hình dự báo những nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam là điều cần thiết và nằm trong khả năng nghiên cứu.

Từ những yêu cầu bức thiết trên, tác giả chọn đề tài “Các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học của mình với mong muốn có thể nâng cao khả năng phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), từ đó giúp hạn chế số lượng doanh nghiệp bị kiệt quệ tài chính.

1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu tổng quát: Vận dụng các lý thuyết nền tảng, tham khảo những nghiên cứu cùng lĩnh vực trong và ngoài nước, từ đó tác giả đưa ra kết luận về những nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam và đề xuất những giải pháp dựa trên kết quả thu được.

Mục tiêu cụ thể: Bài nghiên cứu của tác giả nhằm giải quyết ba vấn đề chính:

Tìm ra các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. ii. Lý giải mức độ tác động của các yếu tố ấy. iii. Đề xuất những giải pháp liên quan dựa trên kết quả hồi quy.

1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu:

Câu hỏi 1: Có những nhân tố nào tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam?

Câu hỏi 2: Từ những nhân tố phát hiện được thì chúng tác động ở mức độ và chiều hướng như thế nào và nhân tố nào tác động mạnh nhất đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính?

Câu hỏi 3: Những dự báo cho doanh nghiệp để phòng tránh khả năng rơi vào kiệt quệ tài chính hoặc giải pháp cho doanh nghiệp khi họ đang trong tình trạng kiệt quệ tài chính?

1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các nhân tố có thể đo lường (thông qua báo cáo tài chính) tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:

  • Phạm vi không gian: công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX.
  • Phạm vi thời gian: giai đoạn 2016 – 2021.

Nguyên nhân tác giả chọn giai đoạn 2016 – 2021 là do trong khoảng thời gian này thị trường các doanh nghiệp tại Việt Nam diễn ra khá sôi nổi, ghi nhận nhiều mức kỷ lục về số doanh nghiệp thành lập mới và số doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc ngừng hoạt động.

Đồng thời, trong giai đoạn năm 2020 và năm 2021, thời điểm nay các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid, nền kinh tế Việt Nam trải qua giai đoạn có nhiều biến động lớn, qua đó có thể giúp bài luận văn có những đánh giá và đưa ra quan điểm sát với thực tế hơn.

1.4. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

1.4.1. Dữ liệu nghiên cứu:

Tác giả sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) được trích xuất từ báo cáo tài chính của các công ty đó trong giai đoạn 2016 – 2021.

Tác giả thu thập dữ liệu thứ cấp của các công ty phi tài chính (loại bỏ các tổ chức tín dụng như: ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính, vì những công ty này có cơ cấu tài sản và vốn khác với các công ty sản xuất kinh doanh khác) trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) bằng cách sử dụng báo cáo thường niên, báo cáo tài chính đã kiểm toán của các công ty đó công bố công khai trong giai đoạn 2016 – 2021. Mẫu nghiên cứu của tác giả ban đầu bao gồm 697 công ty được niêm yết trên HOSE, HNX trong giai đoạn từ 2016 – 2021.

Tiếp theo đó, tác giả đã loại bỏ 74 Công ty không có số liệu đầy đủ, không theo tiêu chuẩn đề ra là danh sách các công ty bị phá sản, hủy niêm yết trên sàn HOSE, HNX (ngoại trừ trường hợp sát nhập và chuyển sàn) trong giai đoạn từ 2016 – 2021 do thu thập được từ công ty Viet Stock; và các công ty bị rơi vào diện kiểm soát hoặc cảnh báo yết trên sàn HOSE, HNX (chỉ xét trên 2 chỉ tiêu là lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận sau thuế chưa phân phối) trong giai đoạn từ 2016 – 2021. Mẫu nghiên cứu của tác giả bao gồm 623 công ty được niêm yết trên HOSE, HNX trong giai đoạn từ 2016 – 2021.

1.4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Việc tìm kiếm các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán được thực hiện thông qua những phương pháp sau:

Phân tích, thống kê mô tả để đánh giá tổng quan về mẫu nghiên cứu.

Sử dụng phương pháp hồi quy trên dữ liệu bảng (Panel data) đối với mô hình kinh tế lượng được thiết lập để biểu thị mối quan hệ tác động giữa các biến độc

lập lên biến phụ thuộc (kiệt quệ tài chính). Các phương pháp hồi quy bao gồm: phương pháp hồi quy theo cách tiếp cận các yếu tố ảnh hưởng cố định (FEM) và phương pháp hồi quy theo các yếu tố ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM). Tác giả tiến hành lựa chọn pháp hồi quy phù hợp với mô hình, sau đó kiểm định lựa chọn mô hình. Các phương pháp được thực hiện dưới sự hỗ trợ của phần mềm Stata. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Sử dụng kết luận của mô hình để lập luận và đề xuất những giải pháp tương ứng.

1.5. Đóng góp của đề tài

1.5.1. Đóng góp về mặt lý luận:

Khái quát và phát triển những lý luận về những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam. Cũng như đánh giá được mức độ tác động của từng yếu tố đó.

Đề tài được xem là một ví dụ minh chứng cho những lý thuyết về kiệt quệ tài chính đã được nêu trước đây, các học thuyết khác như: Lý thuyết đánh đổi; Lý thuyết trật tự phân hạng; Lý thuyết chi phí đại diện.

1.5.2. Đóng góp về mặt thực nghiệm:

Thứ nhất, kết quả của nghiên cứu này giúp các doanh nghiệp có cơ sở nắm bắt được các yếu tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở đưa ra những giải pháp giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng kiệt quệ và giảm những thất thoát do kiệt quệ tài chính gây ra.

Thứ hai, kết quả của nghiên cứu này giúp các nhà đầu tư có thể nhận biết tình trạng của công ty mà mình muốn đầu tư. Xem xét xem doanh nghiệp đó có khả năng lâm vào kiệt quệ tài chính hay không và có quyết định đúng đắn.

Thứ Ba, kết quả của nghiên cứu này giúp các doanh nghiệp nhận biết được mức tác động của từng yếu tố đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính, từ đó phải ưu tiên xử lý yếu tố nào trước và có lợi cho doanh nghiệp nhằm giảm thiểu chi phí kiệt quệ tài chính.

1.5.3. Đóng góp mới của luận văn:

Giới hạn bởi kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như ràng buộc về thời gian làm luận văn, tác giả đã nỗ lực hoàn thiện nghiên cứu và có những đóng góp mới như sau:

Một là, có sự cập nhật số liệu mới nhất so với những đề tài tương tự cùng lĩnh vực nghiên cứu. Việc cập nhật số liệu mới nhất sẽ cho thấy tính chính xác càng cao khi đưa ra mô hình và sát với thực tế các doanh nghiệp nhất. Mẫu nghiên cứu thu thập được tương đối lớn, bao gồm 3.738 quan sát cho 623 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX trong giai đoạn từ 2016-2021.

Hai là, tác giả có sự chọn lọc và tránh hiểu nhầm giữa: (1) Những nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính và (2) Những nhân tố được biểu hiện ra khi kiệt quệ tài chính xảy ra. Việc xác định tính đúng đắn và phù hợp của các biến trong mô hình làm tăng độ chính xác cho mô hình đề xuất của tác giả. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Ba là, mô hình thực tế được đề xuất đúng 92,88% so với mẫu quan sát. Đây cũng là đóng góp thực tiễn thứ nhất của đề tài.

Bốn là, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu trên, luận văn đã đề xuất được những giải pháp cụ thể, đồng bộ và có tính hệ thống cho các doanh nghiệp đã hoặc đang có dấu hiệu rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính cũng như những doanh nghiệp muốn hạn chế khả năng rơi vào tình trạng này. Đây cũng là đóng góp thực tiễn thứ hai của đề tài.

1.6. Bố cục đề tài:

  • Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu.
  • Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan lý thuyết.
  • Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
  • Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
  • Chương 5: Kết luận.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Lý thuyết về kiệt quệ tài chính:

2.1.1. Khung lý thuyết về kiệt quệ tài chính:

Kiệt quệ tài chính được xác định như là một sự “bất lực” của một công ty trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính của chính mình. Theo Andrade và Kaplan (1998) xác định hai hình thức kiệt quệ tài chính: hình thức đầu tiên là mặc định trong thanh toán nợ và hình thức thứ hai là cố gắng cơ cấu lại khoản nợ để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ.

Khía cạnh thứ nhất, một công ty kiệt quệ tài chính khi bỏ lỡ các khoản thanh toán lãi hoặc vi phạm các giao ước nợ. Định nghĩa này phân biệt rõ ràng tình trạng kiệt quệ tài chính với sự phá sản: Một công ty có thể kiệt quệ mà không mặc định phá sản. Tuy nhiên, phá sản là không xảy ra thể nếu không có giai đoạn kiệt quệ tài chính trước đó.

Còn xét về khía cạnh thứ hai là cố gắng cơ cấu lại khoản nợ để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ thì: Purnanandam (2005) đồng điệu với nghiên cứu của Gilbert (1990) cho thấy tình trạng kiệt quệ tài chính có đặc điểm tài chính khác với phá sản: Kiệt quệ tài chính được đặc trưng bởi thu nhập tích lũy âm trong ít nhất một hoặc một vài năm liên tiếp, thua lỗ và hiệu suất kém. Còn phá sản là một trong những kết quả có thể xảy ra của tình trạng kiệt quệ tài chính.

Ở nghiên cứu khác của Whitaker (1999) sử dụng thước đo dòng tiền và giá trị thị trường của công ty để xác định khi nào một công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Kiệt quệ tài chính được định nghĩa là một tình huống khi một công ty không có đủ dòng tiền để trang trải các nghĩa vụ của mình và làm giảm giá trị thị trường của nó.

Tóm lại kiệt quệ tài chính (Financial Distress) xảy ra khi doanh nghiệp không đáp ứng được các hứa hẹn với chủ nợ hay đáp ứng một cách khó khăn. Đôi khi kiệt quệ tài chính đưa đến phá sản, đôi khi nó chỉ có nghĩa là công ty đang gặp khó khăn, rắc rối về tài chính. Tuy nhiên một công ty đã phá sản thì chắc chắn đã trải qua tình trạng kiệt quệ tài chính. Theo đó, các trạng thái của kiệt quệ tài chính bao gồm: thất bại, mất khả năng thanh khoản, vỡ nợ, phá sản và giải thể. Tuy nhiên, trong thực tế những trạng thái này rất khó có thể quan sát thấy (Hashi, 1997). Do hạn chế trong dữ liệu sẵn có nên quan điểm về kiệt quệ tài chính có sự khác biệt giữa các nhà nghiên cứu.

2.1.2. Các quan điểm về kiệt quệ tài chính: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Như đã đề cập ở trên, do hạn chế trong dữ liệu sẵn có cũng như tính đa dạng và phức tạp về các hình thức khó khăn của doanh nghiệp, việc không có ranh giới rõ ràng của các giai đoạn kiệt quệ tài chính làm cho các quan điểm về kiệt quệ tài chính có sự khác nhau giữa các nhà nghiên cứu (Wruck, 1990). Vì vậy, việc làm rõ các quan điểm về kiệt quệ tài chính để tìm ra một quan điểm kiệt quệ tài chính phù hợp nhất là rất cần thiết. Theo Atlman và Hotckis (2005), các doanh nghiệp lâm vào kiệt quệ tài chính có thể được xác định thông qua các giai đoạn khó khăn mà họ trải qua. Có bốn giai đoạn khái quát được phát hiện trong các tài liệu nghiên cứu về kiệt quệ tài chính để phân biệt một doanh nghiệp là kiệt quệ tài chính đó là: thất bại (Failure), mất thanh khoản (Insolvency), vỡ nợ (Default) và phá sản (Bankruptcy).

Theo quan điểm của tác giả trong luận văn này các công ty kiệt quệ tài chính ít nhất cần phải bước vào giai đoạn thứ hai “mất khả năng thanh khoản”, với dấu hiệu nhận biết sau: Lợi nhuận trước thuế, lãi vay (EBIT) thấp hơn chi phí tài chính trong hai năm liên tiếp Trường hợp doanh nghiệp bước vào giai đoạn thứ 3 của kiệt quệ tài chính – giai đoạn “vỡ nợ, phá sản”, thì doanh nghiệp sẽ có những biểu hiện cụ thể như: + Công ty làm thủ tục phá sản do thua lỗ kéo dài;  + Bị huỷ niêm yết bắt buộc trên sàn giao dịch.

Bảng 2.1. Các giai đoạn của trạng thái kiệt quệ tài chính trong doanh nghiệp

STT Giai đoạn Đặc tính Biểu hiện nhận biết
1. Thất bại (Failure) – Tình trạng bắt gặp: Tỷ suất sinh lợi cổ phiếu của doanh nghiệp bị âm, doanh nghiệp bị kiểm soát hay hủy niêm yết trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ làm mất cân đối tài sản, doanh nghiệp phải tiến hành dàn xếp với chủ nợ hoặc đang trong quá trình phải thanh lý công ty.

– Andrade và Kaplan (1998) đã phân chia thất bại thành hai trường hợp:

+ Thất bại do hoạt động kinh doanh không hiệu quả: tỷ suất sinh lợi thực tế trên vốn đầu tư và các thước đo tỷ suất sinh lợi khác thấp hơn giá trị trung bình của các nhà đầu tư tương đương trên thị trường, hoặc doanh thu không đủ bù đắp chi phí của doanh nghiệp (Altman và Hotchkiss, 2006).

+ Thất bại do doanh nghiệp không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính: Wruck (1990) cho rằng một doanh nghiệp được xác định là thất bại khi dòng tiền của doanh nghiệp không đủ để đáp ứng nghĩa vụ tài chính hiện tại.

– Whitaker (1999):

Năm đầu tiên dòng tiền của doanh nghiệp thấp hơn khoản nợ dài hạn đã đến hạn.

– Andrade và Kaplan (1998): Năm đầu tiên mà EAT âm. Ở giai đoạn này, nếu doanh nghiệp không có giải pháp vượt qua khó khăn, tình hình sức khỏe của doanh nghiệp càng trở nên nghiêm trọng và có thể dẫn đến mất khả năng thanh khoản.

2.

Mất thanh khoản (Insolvency)

– Tình trạng bắt gặp: Doanh nghiệp có thu nhập hoạt động bị âm và hiện giá dòng tiền của doanh nghiệp ít hơn tổng giá trị các nghĩa vụ tài chính (Altman, 1983; Keating cùng cộng sự, 2005); Doanh nghiệp bán tài sản và tái phân phối thu nhập cho các chủ nợ hay là phải thực hiện thanh lý công ty vì mất khả năng thanh khoản (Wruck, 1990).

– Wruck, Ross và cộng sự (2003) chia trạng thái mất thanh khoản thành hai trường hợp:

+ Mất thanh khoản do giá trị: Giá trị thị trường các tài sản của doanh nghiệp là thấp hơn so với giá trị của các khoản nợ.

+ Mất thanh khoản do dòng tiền: Doanh nghiệp không tạo ra đủ dòng tiền để thực hiện các nghĩa vụ tài chính hiện tại theo hợp đồng.

Tóm lại, doanh nghiệp mất thanh khoản khi doanh nghiệp không tạo ra đủ tiền để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình, giá trị thị trường của các tài sản doanh nghiệp bị sụt giảm và thấp hơn giá trị các khoản nợ. Vì vậy, mất khả năng thanh khoản là một giai đoạn của kiệt quệ tài chính nhưng ở mức độ nghiêm trọng hơn so với thất bại và chưa đến mức phá sản.

– Thu nhập trước thuế, lãi vay (EBIT) thấp hơn chi phí lãi vay trong hai năm liên tiếp (Joseph P.H.Fan, Jun Huang và, Ning Zhu, 2013). – Doanh nghiệp có thu nhập trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) thấp hơn chi phí tài chính trong hai năm liên tiếp.

– Có sự sụt giảm trong giá trị thị trường và EAT âm trong hai năm liên tiếp (Mario Hernandez Tinoco và Nick Wilson, 2013).

3.

Vỡ nợ (Default)

– Tình trạng bắt gặp: Theo Altman và Hotchkiss (2005), vỡ nợ là tình trạng doanh nghiệp không thể trả được nợ gốc và lãi vay cho chủ nợ khi đến hạn và do đó vi phạm điều kiện của hợp đồng tín dụng, dẫn đến các hành động pháp lý.  – Gilson và cộng sự (1990); Altman và Hotchkiss (2005) chia vỡ nợ ra thành hai trạng thái: vỡ nợ thanh toán do không thể trả được nợ gốc và lãi đến hạn; vỡ nợ kỹ thuật do doanh nghiệp vi phạm các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. – Doanh nghiệp thường xuyên thua lỗ trong hoạt động kinh doanh (Altman và Hochkiss, 2005).  – Doanh nghiệp nộp đơn xin phá sản;
4.

Phá sản (Bankruptcy

Tình trạng bắt gặp: Một doanh nghiệp nộp đơn cho tòa án để tuyên bố phá sản; Doanh nghiệp không thể hoàn thành hợp đồng tín dụng theo lịch trình để trả nợ gốc và lãi; Giá trị sổ sách ròng của doanh nghiệp bị âm (Ross và cộng sự, 1999). –  Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản tự nguyện hay bắt buộc theo luật định; – Doanh nghiệp bị đình chỉ niêm yết trong ba năm; (Christidis và Gregory, 2010).

Theo nghị định 58/2012/NĐ-CP bắt gặp quy định khi một doanh nghiệp bị cảnh báo, kiểm soát, hủy niêm yết (Lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính kiểm toán Năm là số âm hoặc Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối trên Báo cáo Tài chính Kiểm toán Năm là số âm (Tức là Lỗ lũy kế)) có sự tương đồng với những dấu hiệu đã nêu ở trên hoặc một doanh nghiệp bị hủy niêm yết (doanh nghiệp thua lỗ trong ba năm liên tiếp hoặc tổng số lỗ lũy kế vượt qua số vốn điều lệ thực góp trong báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất; doanh nghiệp bị tổ chức kiểm toán không chấp nhận kiểm toán hoặc từ chối cho ý kiến đối với báo cáo tài chính năm gần nhất; Sở giao dịch chứng khoán, Ủy ban chứng khoán phát hiện doanh nghiệp giả mạo hồ sơ niêm yết, hồ sơ niêm yết chứa đựng những thông tin sai lệch nghiêm trọng ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư). Điều này cho thấy, những đối tượng doanh nghiệp trên đang trong tình trạng kiệt quệ tài chính.

2.2. Cơ sở lý thuyết liên quan: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

2.2.1. Cơ sở lý thuyết về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp:

2.2.1.1. Cơ cấu vốn và các thành phần của cơ cấu vốn trong doanh nghiệp:

Dựa vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, cơ cấu vốn được tiếp cận với các thành phần được sắp xếp theo thứ tự tính ổn định tăng dần (Ngô Kim Phượng – Lê Hoàng Vinh và các tác giả, 2018).

Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn vốn trong doanh nghiệp tiếp cận theo đối tượng sở hữu

Tiêu chí Nợ phải trả Vốn chủ sở hữu
1. Thời hạn Có thời hạn hoàn trả Không có thời hạn hoàn trả
2. Trách nhiệm thanh toán Phải trả lãi cho khoản tiền đã vay trừ các khoản nợ chiếm dụng.

Doanh nghiệp có thể bị phá sản nếu không thanh toán được nợ gốc và lãi.

Không phải trả lãi mà chia lợi nhuận tùy theo kết quả hoạt động và chính sách cổ tức.

Doanh nghiệp không bị phá sản nếu không chia lãi.

3. Chi phí sử dụng vốn Chi phí thấp Chi phí cao
4. Ảnh hưởng đến thuế thu nhập doanh nghiệp Lãi vay được tính vào chi phí khi xác định lợi nhuận chịu thuế thu nhập. Do vậy, có tác động làm giảm thuế. Cổ tức trả cho cổ đông không làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.

Nguồn: Ngô Kim Phượng – Lê Hoàng Vinh (2018).

Ngoài ra, cơ cấu vốn còn được tiếp cận theo thời hạn hoàn trả với 2 thành phần là: nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Sự khác biệt giữa nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn thể hiện trên một số khía cạnh trình bày tại bảng 2.3 như sau:

Bảng 2.3. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp tiếp cận theo thời hạn hoàn trả

Tiêu chí Nguồn vốn ngắn hạn Nguồn vốn dài hạn
1. Thời hạn thanh toán Trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh. Trên 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh, hoặc không phải hoàn trả.
2. Đối tượng tài trợ Tài sản ngắn hạn Tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn
3. Chi phí sử dụng vốn Thấp Cao
4. Tính ổn định Thấp Cao
5. Tính linh hoạt Cao Thấp

Nguồn: Ngô Kim Phượng – Lê Hoàng Vinh (2018). Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

2.2.1.2. Một số lý thuyết, quan điểm chủ yếu về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp:

Lý thuyết truyền thống về cơ cấu vốn của Durand

Các giả định của quan điểm truyền thống như sau:

  • Doanh nghiệp hoạt động trong môi trường có thuế thu nhập doanh nghiệp.
  • Thị trường tài chính không hoàn hảo, doanh nghiệp và nhà đầu tư không thể vay nợ với lãi suất như nhau.
  • Doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro kiệt quệ tài chính do sử dụng nợ. Tuy nhiên, nếu mức độ sử dụng nợ thấp thì chủ sở hữu và chủ nợ có thể không điều chỉnh suất sinh lời kỳ vọng, hoặc có điều chỉnh nhưng không đáng kể.

Quan điểm về cơ cấu vốn của Durand (1952) cho rằng giá trị của doanh nghiệp bị tác động bởi cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó. Lý thuyết của Durand đã chỉ ra ba điểm chính sau:

  • Một là, nợ vay thường có chi phí rẻ hơn so với vốn chủ sở hữu, vì vậy giá trị doanh nghiệp sẽ tăng lên nếu kết hợp sử dụng nhiều nợ vay hơn vốn chủ sở hữu do chi phí sử dụng vốn bình quân sẽ thấp hơn.
  • Hai là, chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu sẽ tăng lên khi sử dụng nhiều nợ vay hơn do các cổ đông yêu cầu một mức bù đắp rủi ro cho việc tăng tài trợ bằng nợ vay. Do đó, chi phí sử dụng vốn bình quân sẽ tăng lên, điều đó làm giảm giá trị doanh nghiệp.
  • Ba là, sự cân bằng ròng giữa sự gia tăng của chi phí sử dụng vốn chủ sỡ hữu và lợi ích của việc tài trợ bằng nợ vay có ảnh hưởng đến tác động của cơ cấu vốn đến giá trị doanh nghiệp. Kết quả là sẽ tồn tại một cơ cấu vốn tối ưu khi chi phí vốn là nhỏ nhất hoặc giá trị doanh nghiệp là lớn nhất.

Hình 2.1. Cơ cấu vốn theo quan điểm truyền thống

Tóm lại, quan điểm truyền thống cho rằng doanh nghiệp có tồn tại một cơ cấu vốn tối ưu vì chi phí sử dụng nợ thấp hơn chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu và hai chi phí này sẽ tăng lên cùng với gia tăng mức độ sử dụng nợ. Quan điểm này đã khẳng định có tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ sử dụng nợ trong cơ cấu vốn với rủi ro tài chính, và từ đó có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp, điều này đòi hỏi nhà quản trị cân nhắc khi ra quyết định cơ cấu vốn.

Lý thuyết truyền thống của Durand vẫn còn hạn chế khi không có một lý thuyết cơ sở nào thể hiện mối quan hệ khi tỷ lệ giữa vốn và nợ thay đổi thì chi phí vốn chủ sở hữu nên tăng giảm ra sao, hay chi phí nợ nên tăng bao nhiêu do nguy cơ vỡ nợ (Hồ Đình Bảo, 2014).

Lý thuyết về cơ cấu vốn doanh nghiệp của Modigliani và Miller

Những giả định của lý thuyết M&M như sau:

  • Thị trường tài chính hoàn hảo, tất cả nhà đầu tư có kỳ vọng như nhau về lợi nhuận hoạt động ròng để xác định giá trị doanh nghiệp.
  • Cá nhân và doanh nghiệp đều có thể vay tiền ở mức lãi suất như nhau.
  • Không có chi phí phá sản và chi phí kiệt quệ tài chính do sử dụng nợ.
  • Không có thuế, nhưng sau đó giả định này (Thuế thu nhập doanh nghiệp) cũng đã được loại bỏ (năm 1963).

Khác với quan điểm truyền thống, Modigliani và Miller (1958) đã tìm hiểu khi doanh nghiệp tăng hay giảm vay mượn thì chi phí vốn tăng hay giảm. Trên cơ sở những giả định, Modigliani và Miller đã đưa ra hai định đề của mình:

Định đề I: “Giá trị thị trường của doanh nghiệp độc lập với cấu trúc vốn của mình”, hay tổng giá trị doanh nghiệp có sử dụng nợ và doanh nghiệp không sử dụng nợ là như nhau: VL = VU

Định đề II: Chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp:

Trong đó D và E lần lượt là giá trị thị trường của nợ và giá trị thị trường của vốn cổ phần, rD là chi phí sử dụng nợ, rS là tỷ suất sinh lời đòi hỏi hay chi phí của vốn cổ phần của công ty, rA là chi phí sử dụng vốn cổ phần khi công ty không sử dụng nợ.

Lý thuyết của Modigliani và Miller về cơ cấu vốn chủ yếu dựa trên các phân tích cơ bản về hai hành vi tài chính đó là:

Hành vi 1: Nếu hai doanh nghiệp có cơ cấu vốn khác nhau còn giống nhau về mọi mặt khác thì khi có sự khác biệt về giá trị doanh nghiệp sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh chênh lệch giá và kết quả sẽ khiến giá trị hai doanh nghiệp trở về trạng thái cân bằng.

Hành vi 2: Các nhà đầu tư luôn tỏ ra e ngại rủi ro khi gặp phải sự khác biệt về rủi ro giữa nợ vay và vốn chủ sở hữu. Điều này góp phần chứng minh việc chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng tỷ lệ nợ vay. Modigliani và Miller chỉ ra là những tác động này cân bằng một cách chính xác. Việc sử dụng nợ mang đến cho chủ sở hữu tỷ suất lợi tức cao hơn, nhưng lợi tức cao hơn này chính xác là những gì họ bù đắp cho nguy cơ tăng lên từ tỷ lệ vốn vay so với tổng vốn.

Năm 1963, Modigliani và Miller đưa ra một nghiên cứu tiếp theo với việc loại bỏ giả thiết về thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, với thuế thu nhập doanh nghiệp, việc sử dụng nợ sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Vì chi phí lãi vay là chi phí hợp lý được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó mà một phần thu nhập của doanh nghiệp có sử dụng nợ được chuyển cho các nhà đầu tư theo phương trình: Vg = Vu + T.D

Giá trị của doanh nghiệp sử dụng nợ bằng giá trị của doanh nghiệp không sử dụng nợ cộng với khoản lợi từ việc sử dụng nợ (Trong đó, D là tổng số nợ sử dụng, T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, T.D là khoản lợi từ việc sử dụng nợ).

Hình 2.2. Giá trị doanh nghiệp theo M&M có thuế

Như vậy, theo mô hình thuế Modigliani và Miller (1963) Cơ cấu vốn có liên quan đến giá trị của doanh nghiệp. Sử dụng nợ càng cao thì giá trị doanh nghiệp càng tăng và gia tăng đến tối đa khi doanh nghiệp được tài trợ 100% nợ.

2.2.2. Lý thuyết nền tảng: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

2.2.2.1. Lý thuyết đánh đổi của cơ cấu vốn (Trade-off Theory):

Hình 2.3. Giá trị doanh nghiệp khi có lá chắn thuế và chi phí kiệt quệ tài chính

Lý thuyết đánh đổi cơ cấu vốn khởi nguồn từ lý thuyết về cơ cấu vốn của Modigliani và Miller. Khi yếu tố thuế được đưa vào mô hình trong nghiên cứu của Modigliani và Miller xuất hiện lợi ích thuế khi sử dụng nợ vay, theo đó Cơ cấu vốn tối ưu là 100% nợ vay. Lý thuyết đánh đổi về cơ cấu vốn được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu nhằm giải thích rằng các doanh nghiệp trong thực tế phải chấp nhận đánh đổi khi ra quyết định lựa chọn cơ cấu vốn, không thể chỉ xem xét khoản giá trị lợi ích nhờ có khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay mà bỏ qua nguy cơ kiệt quệ tài chính do sử dụng nợ như giả định của lý thuyết M&M.

Tóm lại, lý thuyết đánh đổi về cơ cấu vốn có xem xét đến tình trạng kiệt quệ tài chính nhằm lựa chọn mức độ sử dụng nợ thích hợp hướng đến mục tiêu đạt được giá trị doanh nghiệp cao nhất, do đó có ý nghĩa thực tiễn cao hơn so với lý thuyết M&M. Lý thuyết đánh đổi đã cung cấp điều kiện ràng buộc giới hạn tối đa về mức độ sử dụng nợ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, đó chính là rủi ro kiệt quệ tài chính.

2.2.2.2. Lý thuyết trật tự phân hạng:

Lý thuyết trật tự phân hạng lí giải các quyết định tài trợ của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, sẽ xuất hiện một trật tự ưu tiên tài trợ cho các khoản đầu tư: đầu tiên họ sử dụng các nguồn vốn hiện có bên trong doanh nghiệp (vốn nội bộ, lợi nhuận giữ lại), tiếp theo là các khoản vay nợ (chứng khoán nợ), và cuối cùng là huy động vốn chủ sở hữu mới.

Lý thuyết này được nghiên cứu đầu tiên bởi Donaldson (1961). Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của lý thuyết này là do sự bất cân xứng thông tin giữ nhà quản lý tài chính và nhà đầu tư bên ngoài. Nhà quản lý sẽ nắm nhiều thông tin hơn các nhà đầu tư, chính vì vậy các nhà đầu tư sẽ thường yêu cầu chiết khấu cao hơn, làm cho chi phí huy động vốn bên ngoài sẽ cao hơn. Từ đó dẫn đến hình thành nên trật tự ưu tiên tài trợ.

Ưu tiên số 1: Nguồn vốn bên trong (Vốn nội bộ hiện có): Gồm hai phần chính: Vốn góp ban đầu và nguồn vốn từ lợi nhuận không chia.

Vốn góp ban đầu là vốn có thể do chủ nhân bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác góp, đối với doanh nghiệp nhà nước sẽ là vốn đầu tư của nhà nước. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Vốn từ lợi nhuận không chia là một phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Đối với công ty cổ phần, công ty để lại một phần lợi nhuận vào tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.

Vốn nội bộ hiện có luôn được ưu tiên sử dụng đầu tiên khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn. Điều này xảy ra là do việc sử dụng vốn nội bộ hiện có là biện pháp chứa đựng ít rủi ro nhất. Các nhà đầu tư luôn hoài nghi về những quyết định tài trợ của doanh nghiệp và luôn muốn tìm hiểu những hàm ý đằng sau các quyết định ấy. Do đó, khi thực hiện huy động vốn bên ngoài, các nhà quản lí sẽ phải cung cấp những thông tin quý giá về doanh nghiệp của họ để thuyết phục các nhà đầu tư. Và việc chia sẻ thông tin như vậy có thể dẫn đến những rủi ro khó lường trước. Bên cạnh đó, sử dụng vốn nội bộ hiện có sẽ giảm bớt sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào bên ngoài, tăng tính tự chủ về tài chính. Bên cạnh đó nếu ưu tiên vay nợ quá nhiều, một doanh nghiệp nếu không có khả năng chi trả sẽ là một nguyên nhân làm cho doanh nghiệp rơi vào kiệt quệ tài chính. Chính vì thế, vốn nội bộ hiện có sẽ luôn được ưu tiên sử dụng trước.

Tuy nhiên nếu gia tăng quá lớn tỷ lệ tài trợ từ nguồn nội bộ thì có thể dẫn đến bất lợi cơ bản là có thể làm cho giá cổ phiếu trên thị trường giảm, ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp. Bởi vì bản chất trong mắt của những nhà đầu tư, một doanh nghiệp vững mạnh là một doanh nghiệp đủ sức chi trả phần lợi nhuận dư ra cho mình, tức chia cổ tức đều qua các năm. Huống chi thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường hiệu quả dạng yếu, do đó đây là một cách chọn lựa bất lợi lớn của một doanh nghiệp nếu đứng ở góc nhìn từ thị trường chứng khoán.

Chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ thực hiện tài trợ vốn bằng vốn nội bộ với một mức độ nhất định để đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp. Khi đó, các nguồn tài trợ bên ngoài sẽ được các nhà quản lý xem xét đến.

Ưu tiên số 2: Các khoản vay nợ (chứng khoán nợ): Khi sử dụng các khoản vay nợ, nhà quản lý sẽ huy động các khoản vay nợ ngắn hạn và các khoản vay nợ dài hạn.

Theo lí thuyết trật tự phân hạng thì khi nhà quản lý xem xét đến việc huy động các nguồn vốn từ bên ngoài thì việc sử dụng tài trợ từ các khoản vay sẽ được ưu tiên hơn việc phát hành vốn chủ sở hữu mới, bởi vì:

Chi phí cho việc vay vốn thấp hơn so với việc gọi vốn. Với vốn vay, chi phí này chính là lãi vay mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ phần, chi phí sử dụng vốn được hiểu như là quyền đối với doanh thu, thu nhập của công ty phải thỏa mãn được các cổ đông khi họ quyết định góp vốn vào công ty. Chi phí này thấp hơn là nhờ vào tác dụng của tấm lá chắn thuế. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Thêm một lí do nữa khiến việc vay vốn được ưu tiên hơn gọi vốn là do những nhà cho vay sẽ luôn nhận được khoản chi trả cố định, điều này khiến họ trở nên dễ thuyết phục hơn so với các cổ đông tương lai.

Nhưng vì nợ là chi phí tài chính cố định, dù doanh nghiệp của bạn có hoạt động ra sao, thu nhập nhiều hay thậm chí đang thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo việc trả lãi vay đúng kỳ hạn và trả nợ gốc khi đáo hạn, do vậy một sự gia tăng nợ của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc gia tăng thêm rủi ro tài chính. Chính vì thế các doanh nghiệp luôn cần phải cân nhắc khi nào sử dụng nợ và sử dụng bao nhiêu là hợp lý.

Ưu tiên số 3: Vốn góp mới trực tiếp từ chủ sở hữu: Các doanh nghiệp huy động vốn chủ sở hữu mới bằng cách phát hành cổ phiếu.

Việc huy động vốn chủ sở hữu mới là lựa chọn cuối cùng của các nhà quản lý khi có nhu cầu về vốn. Điều này do chi phí để gọi vốn là rất đắt và hàm chứa nhiều rủi ro, cụ thể như sau:

  • Khi muốn phát hành cổ phiếu, các doanh nghiệp phải thỏa mãn được những quy định cơ bản theo pháp luật (như về vốn điều lệ). Hơn thế, để phát hành cổ phiếu các doanh nghiệp phải tốn kém chi phí cho việc nghiên cứu thị thị trường.
  • Khi huy động vốn chủ sở hữu mới, quyền sở hữu có thể bị chia nhỏ, và tác động, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có hệ thống quản lí chặt chẽ.
  • Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải cung cấp rất nhiều thông tin cho các nhà đầu tư để thuyết phục họ, trong khi các thông tin này rất quý cho một môi trường kinh doanh cạnh tranh.

Chính vì những nhược điểm trên nên việc huy động vốn chủ sở hữu mới thường là lựa chọn cuối cùng của các nhà quản lý.

2.2.2.3. Lý thuyết chi phí đại diện:

Một trong những lý thuyết ra đời sớm nhất về chi phí đại diện là nghiên cứu của Jensen & Meckling (1976). Trong nghiên cứu này, chi phí đại diện được định nghĩa là tổng các chi phí: (1) Chi phí kiểm soát (Monitoring Expenditure): Là chi phí được trả cho các kiểm soát viên nhằm báo động cho các cổ đông khi các nhà quản lý trục lợi cho bản thân họ quá nhiều. (2) Chi phí giao kèo (Bonding Expenditure): Là chi phí nhằm ngăn ngừa những hậu quả xấu có thể xảy ra từ những hành động thiếu trung thực của các nhà quản lý (đối với cổ đông và chủ nợ). (3) Tổn thất lợi ích (Residua Loss hay Welfare Loss): Là những tổn thất xảy ra do sự khác biệt giữa những quyết định trên thực tế của các nhà quản lý và những quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cho các cổ đông.

Lý thuyết đại diện cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa chủ thể và đại diện trong công ty. Cả hai bên có lợi ích khác nhau và vấn đề này được giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, thông qua thiết lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho các nhà quản trị và thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.

2.2.3. Mô hình về tài trợ vốn lưu động:

Để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược tài trợ hay nói cách khác doanh nghiệp phải có chiến lược trong việc tổ chức huy động nguồn vốn. Hiện nay, doanh nghiệp ở các nước có ba mô hình tài trợ chủ yếu. Mỗi mô hình tài trợ có những ưu điểm và hạn chế khác nhau. Doanh nghiệp cần lựa chọn mô hình tài trợ thích hợp cho doanh nghiệp mình. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

  • Mô hình thứ nhất:

Hình 2.4. Mô hình số 1

Với mô hình này, toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên, một phần của TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên và một phần TSLĐ tạm thời còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.

Sử dụng mô hình này làm cho tài chính của doanh nghiệp vững chắc hơn và giảm thiểu được rủi ro tài chính. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải sử dụng nhiều hơn khoản vay dài hạn và trung hạn, vì thế phải trả chi phí cao hơn cho việc sử dụng vốn.

Ưu điểm: Doanh nghiệp chủ động đáp ứng hầu hết nhu cầu VLĐ của mình bằng nguồn vốn dài hạn, kể cả nhu cầu thường xuyên và nhu cầu tạm thời dẫn đến đảm bảo khả năng thanh toán và mức độ an toàn về tài chính là cao trong doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, ổn định.

Nhược điểm: chi phí sử dụng vốn cao do sử dụng vốn dài hạn – nguồn vốn có chi phí sử dụng vốn cao – để đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời, mang tính chất ngắn hạn.

  • Mô hình thứ hai:

Hình 2.5. Mô hình số 2

Theo mô hình này, toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.

Ưu điểm: Xác lập sự cân bằng về thời gian sử dụng vốn và nguồn vốn, do đó hạn chế phát sinh thêm chi phí sử dụng vốn hoặc các rủi ro trong thanh toán.

Nhược điểm: Không tạo ra sự linh hoạt trong tổ chức nguồn vốn của doanh nghiệp.

Với mô hình này giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh toán và giảm bớt được chi phí sử dụng vốn so với mô hình thứ nhất. Tuy nhiên, mô hình này chưa tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức sử dụng nguồn vốn. Trong thực tế, doanh thu tiêu thụ sản phẩm thường xuyên biến động, khi gặp khó khăn trong kinh doanh, doanh nghiệp phải tạm thời giảm bớt quy mô kinh doanh, nhưng vẫn phải duy trì một lượng vốn thường xuyên khá lớn.

Nhìn chung, mô hình này không thích hợp với những doanh nghiệp mà tính ổn định của quy mô kinh doanh là thấp (khi quy mô kinh doanh giảm nhưng doanh nghiệp vẫn phải duy trì lượng vốn lưu động thường xuyên khá lớn dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao). Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

  • Mô hình thứ ba:

Hình 2.6. Mô hình số 3

Theo mô hình này: toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được bảo đảm bằng nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ thường xuyên và toàn bộ TSLĐ tạm thời được bảo đảm bằng nguồn vốn tạm thời.

Ưu điểm: Tiết kiệm chi phí sử dụng vốn do sử dụng vốn ngắn hạn có chi phí sử dụng vốn thấp hơn để đáp ứng nhu cầu vốn thường xuyên ổn định.

Nhược điểm: Do tài trợ một phần VLĐ thường xuyên bằng nguồn vốn ngắn hạn nên có thể dẫn đến tình trạng bị căng thẳng về vốn, thậm chí thiếu vốn do nguồn vốn ngắn hạn có thời gian sử dụng ngắn trong khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết ổn định, lâu dài.

Sử dụng mô hình này giúp cho doanh nghiệp giảm bớt được chi phí sử dụng do sử dụng nhiều hơn nguồn vốn ngắn hạn. Mặt khác, tạo ra sự linh hoạt hơn trong việc tổ chức nguồn vốn. Tuy nhiên, với mô hình này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự năng động hơn trong việc tổ chức nguồn vốn. Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là doanh nghiệp có khả năng gặp rủi ro cao hơn so với việc sử dụng 2 mô hình trên.

2.2.4. Nội dung và ý nghĩa của việc quản trị dòng tiền trong sản xuất kinh doanh:

Khả năng tạo tiền và sử dụng tiền là cơ sở để đánh giá khả năng thanh khoản của một doanh nghiệp. Khả năng tạo tiền của một doanh nghiệp đến từ ba dòng: hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền thu từ hoạt động đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính.

Trong đó việc duy trì và kiểm soát một cách chặt chẽ về dòng tiền trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một điều rất quan trọng. Một quy trình sản xuất kinh doanh bao gồm từ việc mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu để sản xuất, sau đó bán cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu cần sử dụng. Như vậy việc quản lý dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ liên quan trực tiếp đến quản lý doanh thu, chi phí, hàng tồn kho, khoản phải thu và phải trả trong doanh nghiệp.

  • Quản lý doanh thu:

Doanh thu là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ sau khi trừ các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (Nếu có chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh toán (không phân biệt đã thu hay chưa thu tiền được).

Doanh thu là một chỉ tiêu rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, đó là cơ sở để xác định “kích cỡ của miếng bánh ngành” trên thị trường. Các doanh nghiệp luôn đặt ra mục tiêu cho mình là tối đa hóa doanh thu và thực hiện các chính sách để có thể thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng suy ra cho cùng thì các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ không quên việc gắn liền hai chỉ tiêu doanh thu và dòng tiền hoạt động sản xuất kinh doanh.

  • Quản lý chi phí: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động và phi lao động mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Tóm lại, chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản tiền thuế mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.

Như vậy, quản lý chi phí là việc mà các nhà quản trị doanh nghiệp tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về việc sử dụng các nguồn vốn và chi phí, rồi đối chiếu và xem xét lại biểu thị của dòng tiền trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn cho doanh nghiệp.

  • Quản lý phải thu khách hàng

Doanh nghiệp thường bán hàng theo 2 phương thức: trả ngay và trả chậm. Đối với phương pháp trả ngay tiền sẽ nhận về ngay lập tức. Còn đối với phương thức trả chậm tức là việc mở rộng thương mại dẫn đến việc hình thành khoản phải thu khách hàng. Nếu khách hàng không thanh toán, hay thậm chí chỉ là việc ghi nhận khoản phải thu cũng đã mang đến nhiều rủi ro cho bản thân doanh nghiệp. Kết quả ghi nhận mà doanh nghiệp công bố thì lại muốn có doanh thu cao, tức có thể thực hiện chính sách mềm dẻo. Tuy nhiên bản thân những nhà quản lý thì lại cho rằng khoản phải thu càng giảm càng tốt. Kết quả là hình thành một sự đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập yêu cầu: một mặt rủi ro của việc không nới lỏng chính sách gây mất doanh thu, một mặt khoản phải thu quá cao sẽ gây ra chi phí và có thể vượt quá những lợi ích do doanh thu cao mang lại.

Trong phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ nêu ra 3 yếu tố cơ bản cần quan sát và gắn liền với dòng tiền OCF. Việc theo sát dòng tiền OCF là việc rất quan trọng, bởi vì nó là chi tiêu phản ánh thực tại “dòng máu tốt” của một doanh nghiệp đang hoạt động.

2.3. Tổng quan nghiên cứu: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

2.3.1. Đề tài nghiên cứu nước ngoài:

“Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate bankruptcy” (tạm dịch là: Phân tích báo cáo tài chính bằng phương pháp so sánh, phân tích biệt lập và dự đoán một công ty phá sản) của Edward I.Altman, năm 1968. Được thực hiện nhằm đánh giá khả năng phá sản, là một trường hợp minh họa, cho phương pháp phân tích các chỉ số tài chính và so sánh nó với một con số cụ thể để cho thấy thực trạng của doanh nghiệp. Bài báo này đã đưa ra một mô hình phân biệt mà mẫu quan sát là 60 công ty được sử dụng và phân loại thành hai nhóm: các công ty phá sản và không phá sản.

Như đã nói, tác giả đã chọn mẫu 30-30 trong hai nhóm: (1) Nhóm phá sản. (2) Nhóm không phá sản. Tổng số biến được thống kê là 22 biến có khả năng hữu ích, các biến được nhóm thành 5 tỷ lệ chuẩn: thanh khoản, đòn bẩy, khả năng thanh toán, tỷ lệ hoạt động. Các bước kiểm định mô hình được tiến hành và cho kết quả có 5 biến thật sự có tác động đến khả năng phá sản của doanh nghiệp:Vốn lưu động / Tổng tài sản, Thu nhập giữ lại / Tổng tài sản, Thu nhập trước lãi và thuế / Tổng tài sản, Giá trị vốn chủ sở hữu / Giá trị sổ sách của tổng nợ, Doanh số / Tổng tài sản.

Bài viết đã đề xuất một bộ các tỷ số tài chính được kết hợp theo cách tiếp cận phân tích cho vấn đề dự đoán phá sản của doanh nghiệp. Kết quả rất đáng khích lệ, mô hình được chứng minh là cực kỳ chính xác trong dự đoán phá sản là 94%.

“Financial Distress in the great Depression” (tạm dịch là: Khủng hoảng tài chính trong cuộc đại khủng hoảng) của John R.Graham, Solani Hazarika và Narasimhan, năm 2011. Xác định các yếu tố tác động đến việc mất khả năng thanh toán và dẫn đến kiệt quệ tài chính trong suốt giai đoạn từ 1926 đến 1938 (giai đoạn xảy ra khủng hoảng) và 2008- 2009 (giai đoạn bình thường).

Với dữ liệu 443 công ty phi tài chính, bằng phương pháp hồi quy logistic tác giả xác định các yếu tố tác động đến xác suất kiệt quệ này tập trung ở mức độ vi mô và các tỷ số tài chính của công ty bao gồm: Giá trị thị trường / giá trị sổ sách; Lợi nhuận / vốn chủ sở hữu; Sự biến động giá; Lợi nhuận hoạt động; Quy mô doanh nghiệp; Tỷ số nợ / tổng tài sản; Mức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp; Đầu tư của doanh nghiệp; Tính thanh khoản thông qua tỷ lệ tài trợ; Tuổi của doanh nghiệp; Nhận giá trị 1 nếu công ty thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng (1 ký tự trong mã SIC là 1,3,4) ngược lại nhận giá trị 0.

Như vậy bài nghiên cứu trên đã xác định các công ty có sử dụng vốn vay cao và các công ty được xếp hạng tín nhiệm thấp có khả năng kiệt quệ tài chính cao trong quá trình suy thoái (giai đoạn 1926-1938) và trong giai đoạn 2008-2009 cũng tương tự.

“Predicting Financial Distress of companies: Revisiting the Z-score and Zeta models” (tạm dịch là Dự đoán sự suy thoái tài chính của các công ty: Xem xét lại các mô hình Z-points và Zeta), của Edward I. Altman, năm 2000 đã đề xuất hai mô hình, Z-Score (1968) và ZETA (1977). Nghiên cứu xác định những đặc điểm của doanh nghiệp kiệt quệ tài chính, định lượng các biến và dự đoán về sự kiệt quệ tài chính của công ty. Trong mô hình Z-score (Altman 1968), đã dùng phương pháp MDA (multiple discriminant analysis), từ danh sách ban đầu gồm 22 biến tác giả đã chọn ra 5 biến để đưa ra mô hình dự đoán về tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty: Vốn lưu động / Tổng tài sản, Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản, Thu nhập trước lãi suất và thuế / Tổng tài sản, Giá trị thị trường của Vốn chủ sở hữu / Giá trị sổ sách của Tổng nợ phải trả, Bán hàng / Tổng tài sản. Dựa vào kết quả mô hình, tác giả cho thấy sự chính xác trong việc dự báo sự thất bại hai năm trước kiệt quệ và giảm bớt khi thời gian dẫn đầu gia tăng. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Năm 1977, tác giả xây dựng mô hình ZETA (là một cải tiến cho mô hình Z-core, mô hình này không chỉ dự báo cho các doanh nghiệp lớn mà còn có doanh nghiệp vừa và nhỏ) trên hai mẫu gồm 53 công ty phá sản và phù hợp với 58 công ty không bị phá sản dựa trên 7 biến như sau: Lợi nhuận trên tài sản, Tính ổn định của lợi nhuận, Lợi nhuận trước lãi và thuế / Tổng thanh toán lãi suất, Lợi nhuận giữ lại của công ty (bảng cân đối kế toán) / Tổng tài sản, Vốn hoạt động / Tổng tài sản, Vốn thông thường / Tổng vốn, Tổng tài sản của công ty. Vùng chính xác phân loại phá sản của mô hình ZETA từ trên 96% một giai đoạn trước phá sản đến 70% trước năm năm báo cáo thường niên.

“Financial Ratios and the Probabilistic Prediction of Bankruptcy” (tạm dịch là tỷ số tài chính và dự đoán khả năng phá sản), của James A. Ohlson, năm 1980. Bài viết này trình bày một số kết quả của nghiên cứu dự đoán thất bại của công ty được chứng minh bằng việc phá sản của công ty ấy. Dữ liệu được sử dụng là 105 công ty phá sản và 2.058 công ty không phá sản trong giai đoạn 1970 – 1976. Với mục đích là tìm và đánh giá những nhân tố dự báo dựa trên những nghiên cứu trước đó, chứ không cố gắng tìm kiếm những tỷ lệ mới hoặc khác thường chưa từng được công bố.

Tác giả xây dựng mô hình gồm 9 biến phụ thuộc: log (tổng tài sản), Tổng nợ phải trả / Tổng tài sản; Vốn lưu động / Tổng tài sản; Nợ ngắn hạn / Tài sản hiện tại; Tổng nợ phải trả vượt quá tổng tài sản; Thu nhập ròng / Tổng tài sản; Tiền được cung cấp bởi các hoạt động chia cho tổng nợ phải trả; CHIN.

Kết quả chỉ ra rằng bốn yếu tố xuất phát từ báo cáo tài chính có ý nghĩa thống kê cho mục đích đánh giá xác suất phá sản là: (i) quy mô; (ii) cấu trúc tài chính được phản ánh bằng thước đo đòn bẩy; (iii) NITA; (iv) WCTA.

“Financial distress and bankruptcy prediction among listed companies using accounting, market and macroeconomic variables’’ (Tạm dịch là khủng hoảng tài chính và dự đoán phá sản giữa các công ty niêm yết sử dụng các biến số kế toán, thị trường và kinh tế vĩ mô), do Mario Hernandez Tinoco, Nick Wilson viết, năm 2013.

Sử dụng mẫu quan sát 23.218 công ty trong giai đoạn 1980 – 2011, nghiên cứu trên thực nghiệm các tiện ích của việc kết hợp dữ liệu kế toán, dựa trên thị trường và kinh tế vĩ mô. Bài viết phát triển mô hình rủi ro cho các công ty niêm yết dự đoán kiệt quệ và phá sản.

Kết quả cho thấy tiện ích của việc kết hợp dữ liệu kế toán, thị trường và kinh tế vĩ mô trong tình trạng khó khăn tài chính mô hình dự đoán cho các công ty niêm yết. Tác giả sử dụng mô hình logistic cho kiểm định những giả thuyết đưa ra và có kết quả cuối cùng cho những biến có tác động đến khả năng kiệt quệ tài chính: TFOTL / Tổng số tiền từ hoạt động đến tổng nợ phải trả; TLTA / Tổng nợ phải trả đối với Tổng tài sản; NOCREDINT / Không có khoảng thời gian tín dụng; COVERAGE.

“Comparing Financial Distress and Bankrupcy” (tạm dịch là so sánh giữa kiệt quệ tài chính và phá sản) của Platt, H.D và Platt, M.B, năm 2006. Trong nghiên cứu này tác giả đã chỉ ra những điểm khác biệt mà nhiều nhà nghiên cứu hay nhầm lẫn giữa trạng thái kiệt quệ tài chính và phá sản. Một doanh nghiệp bị rơi vào trạng thái kiệt quệ tài chính thì không chắc hẳn sẽ rơi vào trạng thái phá sản, nhưng một doanh nghiệp phá sản thì chắc chắn sẽ rơi vào trạng thái kiệt quệ tài chính.

Mẫu nghiên cứu được tiến hành trong năm 1999 và 2000 gồm 1.403 công ty trong đó có 276 công ty kiệt quệ tài chính hoạt động trong 14 ngành và 1.127 công ty không bị kiệt quệ. Công ty được chia làm hai vào nhóm kiệt quệ tài chính và không bị kiệt quệ. Tác giả sử dụng mô hình hồi quy logistic để đo lường kiệt quệ tài chính bởi vì đây là mô hình có ý nghĩa thống kê và linh hoạt. Kết quả cho thấy các nhân tố tác động đến kiệt quệ tài chính: Dòng tiền / Doanh thu; Lãi vay và khấu hao trên tổng tài sản (EBITDA/TA); Nợ dài hạn trên tổng tài sản; Tỷ số khả năng trả lãi (EBIT/ chi phí lãi vay); Tỷ số thanh toán nhanh.

2.3.2. Đề tài nghiên cứu trong nước: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

“Khánh kiệt tài chính và ứng dụng mô hình Z-Score trong dự báo khánh kiệt tài chính” của Huỳnh Cát Tường, năm 2008. Tác giả đã giới thiệu quá trình thiết lập mô hình Z-core và các thử nghiệm tính dự báo của mô hình về khả năng phá sản của doanh nghiệp. Nghiên cứu đặc thù của nền kinh tế Việt Nam từ đó áp dụng mô hình Z-Score cho các doanh nghiệp

Việt Nam trong việc dự báo khả năng phá sản từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng dự báo và giải quyết một cách hiệu quả tình trạng khánh kiệt tài chính doanh nghiệp ở Việt Nam:

Bảng 2.4. Kết quả nghiên cứu của Huỳnh Cát Tường (2008)

STT  TÊN CÔNG TY KẾT QUẢ
1. Trường hợp công ty Xuất Nhập Khẩu Thủy Sản An Giang-AGF Có thể thấy rằng các chỉ số Z-Scores cho công ty AGF đều khá tốt báo hiệu rằng công ty có tình hình tài chính lành mạnh. → ĐÚNG THỰC TẾ.
2. Trường hợp công ty Cổ Phần Bánh Kẹo Biên Hòa-BBC Chỉ số Z-Score của 2 năm 2002 và 2003 lần lượt là 1.92 và 2.60 tức là nằm trong vùng đáng báo động. → ĐÚNG THỰC TẾ.
3. Trường hợp của Công Ty TNHH Kết Cấu Thép- PEB Chỉ số Z-Scores trong ba năm 2005, 2006 và 2007 lần lượt là 0.53, 1.094 và 1.216, chứng tỏ là công ty đang có một tình hình tài chính tồi tệ, và đang bị kiệt quệ tài chính theo tiêu chuẩn của mô hình Z-Score. Nói cách khác, công ty luôn ở vào tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.  → SAI THỰC TẾ.
4. Trường hợp Công Ty Cổ Phần Cơ Điện Lạnh- REE Các chỉ số Z-Scores cho công ty REE đều khá tốt báo hiệu rằng công ty có tình hình tài chính lành mạnh. → ĐÚNG THỰC TẾ.

Từ đó ta nhận thấy việc ứng dụng và phân tích tại 4 công ty làm đại diện cho tổng thể các công ty Việt Nam là quá nhỏ. Việc lựa chọn mẫu quá nhỏ sẽ làm ảnh hưởng đến tính thuyết phục và chính xác của kết quả.

“Đo lường khả năng kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán” của Phạm Thị Hồng Vân, năm 2015. Nghiên cứu sử dụng mô hình Binary Logistic để đo lường khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán của Việt Nam qua bộ dữ liệu bảng với 606 doanh nghiệp trong giai đoạn 2010-2015. Qua kết quả hồi quy, kết hợp so sánh với những giả thuyết ban đầu mà tác giả đã đề xuất, nghiên cứu đã xác định được các nhân tố tác động đến kiệt quệ tài chính doanh nghiệp gồm: Tỷ số thanh toán hiện thời; Tỷ số nợ; Quy mô doanh nghiệp. Thông qua nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, tỷ số thanh toán hiện thời và tỷ số nợ có tác động cùng chiều đến kiệt quệ tài chính, quy mô DN tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài chính. Đồng thời nghiên cứu đề xuất mô hình dự báo kiệt quệ tài chính với tỷ lệ dự đoán đúng theo tổng thể là 92,74%. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

“Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng kiệt quệ tài chính của công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh” của Võ Thị Thu Nguyệt, năm 2017. Mục tiêu của bài nghiên cứu là ứng dụng mô hình kết hợp các yếu tố tài chính và yếu tố cơ cấu quản trị để dự báo kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam. Mẫu nghiên cứu là 716 quan sát của các doanh nghiệp đã và đang được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2010 – 2017. Áp dụng mô hình logistic, bài nghiên cứu cho thấy: Từ 10 biến độc lập đưa vào mô hình, chỉ có 7 biến thật sự có ảnh hưởng đến sự kiệt quệ tài chính của một doanh nghiệp: LEV, BIN, DC, OPRO, SIZE, OCF, COVERATE.

“Nghiên cứu kiệt quệ tài chính các nhân tố tác động và mô hình dự báo cho các công ty cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Lương Trọng Đức, năm 2012. Tác giả thu thập bảng dữ liệu của các công ty phi tài chính niêm yết trên sàn chứng khoán Hồ Chí Minh bằng cách sử dụng báo cáo tài chính và bảng cân đối kế toán của các công ty ấy ở năm 2010. Sau khi lọc các mẫu, tác giả còn lại 252 công ty. Các biến độc lập được tác giả đưa vào mô hình: M/B, RET, OL, OPRO, log (SIZE), LEV, Log(RAT), INV, CUA, log(AGE). Tuy nhiên kết quả sau cũng chỉ có 2 biến có tác động đến khả năng kiệt quệ tài chính đó là biến LEV và RAT.

“Các yếu tố tác động đến kiệt quệ tài chính”, của Trần Thị Bích Ngọc, năm 2013. Tác giả sử dụng dữ liệu của 555 công ty trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (HNX) năm 2011 để nghiên cứu các yếu tố tác động đến xác suất rơi vào kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2012-2013, từ đó đưa ra mô hình dự báo của những yếu tố này đến kiệt quệ tài chính.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng có mối quan hệ nghịch chiều giữa lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và xếp hạng tín nhiệm với xác suất kiệt quệ. Ngoài ra, tỷ lệ nợ có tác động cùng chiều với kiệt quệ tài chính.

“Ý nghĩa của dòng tiền ròng đối với kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam” của Bùi Kim Dung & cộng sự, năm 2020, kiểm định dòng tiền ròng trong mối quan hệ với kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam với mẫu nghiên cứu là 542 doanh nghiệp trong giai đoạn 2014 – 2018. Kết quả phân tích hồi quy theo GLS cho thấy, dòng tiền ròng trong cùng kỳ không giải thích cho vấn đề kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, trong khi đó dòng tiền ròng kỳ trước giải thích ngược chiều cho kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.

“Kiệt quệ tài chính và dòng tiền của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam” của Bùi Kim Dung & Mai Thị Trúc Ngân, năm 2021, nghiên cứu về vấn đề kiệt quệ tài chính trong mối quan hệ với dòng tiền cùa doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2014 – 2018. Kết quả nghiên cứu theo GLS chỉ ra rằng kiệt quệ tài chính có thể được nhận diện thông qua sự biến động các dòng tiền: dòng tiền hoạt động kinh doanh có tác động ngược chiều, còn dòng tiền hoạt động đầu tư và tài chính lại có tác động cùng chiều.

“Dòng tiền và kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Tiếp cận theo phương pháp Bayes”, của Đỗ Thị Vân Trang, năm 2021. Bài viết đánh giá ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chỉnh của các doanh nghiệp niêm yêt trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2020. Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu đều được thu thập từ báo cáo tài chính của 531 doanh nghiệp niêm yết trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội trong giai đoạn 2010 – 2020 từ cơ sở dữ liệu FiinPro. Phương pháp hồi quy Bayes được sử dụng để phán tích ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Kết quả phân tích cho thấy doanh nghiệp có dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư, dòng tiền hoạt động tài chính gia tăng làm giảm nguy cơ xảy ra kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có chính sách quản trị dòng tiền phù hợp để giảm nguy cơ xảy ra kiệt quệ tài chính.

Để thuận tiện theo dõi kết quả định lượng của các nghiên cứu trước. Tác giả tóm lược mối quan hệ giữa các biến số nguyên nhân chính và kết quả như sau: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Bảng 2.5. Tổng hợp kết quả những nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Các biến số độc lập Dấu Tác giả nghiên cứu
Vốn lưu động chia tổng tài sản WC/TA Edward I. Altman (1968,2000); Ohlson (1980); Võ Thị Thu Nguyệt (2007)
Thu nhập trước lãi suất và thuế / Tổng tài sản EBIT/ TA Edward I. Altman (2000); Ohlson (1980); Platt, H.D và Platt, M.B (2006); Võ Thị Thu Nguyệt (2007)
Tỷ lệ tài trợ của Vốn lưu động ròng VLĐR/TSNH Solani Hazarika và Narasimhan (2011), Võ Thị Thu Nguyệt (2007) đề xuất, Lương Trọng Đức (2012) đề xuất; Trần Thị Bích Ngọc (2013) đề xuất
Dòng tiền hoạt động của doanh nghiệp OCF/ DTT Platt, H.D và Platt, M.B (2006); Võ Thị Thu Nguyệt (2007); Phạm Thị Hồng Vân (2005) đề xuất
Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay OCF/ Nợ Wilson (2013)
Tỷ số thanh toán hiện thời TSNH/Nợ NH + Ohlson (1980); Platt, H.D và Platt, M.B (2006); Phạm Thị Hồng Vân (2005)
Tỷ số nợ trên tổng tài sản LEV + John R.Graham, Solani Hazarika và Narasimhan (2011); Ohlson (1980); Wilson (2013); Võ Thị Thu Nguyệt (2007); Phạm Thị Hồng Vân (2005); Trần Thị Bích Ngọc (2013); Lương Trọng Đức (2012)
Quy mô của doanh nghiệp SIZE Ohlson (1980); Phạm Thị Hồng Vân (2005); Võ Thị Thu Nguyệt (2007); Lương Trọng Đức (2012)
Xếp hạng tín nhiệm RATE John R.Graham, Solani Hazarika và Narasimhan (2011); Lương Trọng Đức (2012); Võ Thị Thu Nguyệt (2007); Trần Thị Bích Ngọc (2013)
Lợi nhuận giữ lại chia tổng tài sản RE/TA

Edward I. Altman (1968,2000); Phạm Thị Hồng Vân (2005) đề xuất

Tác giả chỉ thống kê những biến số chính trong mô hình từ các nghiên cứu Dấu “+”: tác động cùng chiều; Dấu “-”: tác động ngược chiều

2.3.3. Khoảng trống các nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo của luận văn:

2.3.3.1. Khoảng trống của các nghiên cứu: Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Các công ty được kiểm tra là tất cả tổ chức công khai sản xuất toàn diện tức là dữ liệu có thể dễ dàng đạt được, bao gồm cả báo giá thị trường.

Bằng việc lược khảo hệ thống khung lý thuyết về cơ cấu vốn, lý thuyết đánh đổi của cơ cấu vốn, lý thuyết trật tự phân hạng và việc quản trị dòng tiền trong sản xuất kinh doanh, tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Luận văn nhận thấy chủ đề nghiên cứu về ảnh hưởng của quy mô công ty đến kiệt quệ tài chính còn hạn chế, ít được nghiên cứu. Đến thời điểm hiện nay, có khá nhiều nghiên cứu xem xét quy mô công ty khi công ty xảy ra kiệt quệ tài chính nhưng lại được thực hiện tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, nhiều nhất là tại Mỹ. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu phối hợp đưa lý thuyết quản trị doanh nghiệp vào mô hình thực nghiệm để phân tích cùng với kiệt quệ tài chính và quy mô doanh nghiệp.

Cho đến thời điểm hiện nay tại Việt Nam, bài viết chưa tìm thấy nghiên cứu toàn diện chính thức về ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đến kiệt quệ tài chính. Vấn đề nghiên cứu này lại hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ trong và ngoài nước, khi mà xu thế hội nhập sâu rộng đã tạo ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đưa đến những thách thức, khó khăn rất lớn cho chính bản thân doanh nghiệp. Do vậy, nếu kiệt quệ tài chính và các chiến lược liên quan đến quản trị doanh nghiệp được tác giả nghiên cứu sâu tại Việt Nam, sẽ cung cấp bằng chứng thực nghiệm, cơ sở khoa học cho nhà quản trị tài chính công ty. Trên cơ sở kết quả đạt được, Luận văn đưa ra ý kiến đề xuất nhằm dự báo cho các doanh nghiệp để phòng tránh khả năng rơi vào kiệt quệ tài chính.

Việc thực hiện nghiên cứu chuyên sâu thông qua kết quả của Luận văn sẽ lấp đầy khoảng trống nghiên cứu về chủ đề này khi trong bối cảnh hầu hết các nghiên cứu trước đây chỉ khai thác ở các góc độ riêng biệt về kiệt quệ tài chính, quy mô công ty; ít các nghiên cứu trên thế giới và cả ở Việt Nam đưa yếu tố quy mô doanh nghiệp cùng phân tích với mối liên hệ kiệt quệ tài chính.

2.3.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo của luận văn:

Luận văn đã nghiên cứu thực nghiệm và đưa ra được những đề xuất giải pháp đối với lĩnh vực kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam, tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này khá rộng và phức tạp nên cần tiếp tục có những nghiên cứu trong tương lai.

Thứ nhất, mở rộng cỡ mẫu nghiên cứu.

Mẫu nghiên cứu của luận văn là 623 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trong giai đoạn 2016 – 2021 với dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính, theo đó, cỡ mẫu đủ lớn để đảm bảo tính đại diện cho tổng thể doanh nghiệp Việt Nam nhưng các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng cỡ mẫu về không gian và thời gian.

  • Về thời gian, các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện trong khoảng thời gian 10 năm, có thể từ năm 2012 đến năm 2021, hoặc dài hơn nữa để có đánh giá hữu ích đối với tổng thể trong dài hạn.
  • Về không gian, các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện đối với nhiều doanh nghiệp hơn, không chỉ dựa vào các doanh nghiệp niêm yết mà có thể bổ sung thêm các doanh nghiệp chưa niêm yết.

Thứ hai, mở rộng hoặc thu hẹp nội dung nghiên cứu.

Luận văn đưa ra thiết kế nghiên cứu định lượng các yếu tố tác động đến khả năng kiệt quệ tài chính tại các doanh nghiệp phi tài chính Việt Nam thuộc các ngành nghề kinh doanh khác nhau, vì vậy, các nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng hoặc thu hẹp nội dung nghiên cứu. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

Các nghiên cứu tương lai có thể mở rộng nội dung theo hướng phân tích các yếu tố tác động đến khả năng kiệt quệ tài chính tại các doanh nghiệp phi tài chính Việt Nam thuộc các ngành nghề khác nhau, hoặc nghiên cứu đối với tất cả các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi tài chính.

Các nghiên cứu tương lai có thể thu hẹp nội dung theo hướng phân các yếu tố tác động đến khả năng kiệt quệ tài chính của một doanh nghiệp, của nhóm doanh nghiệp ở Việt Nam.

Thứ ba, nghiên cứu các biện pháp cụ thể cho các gợi ý, đề xuất của luận văn.

Dựa vào kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra được một số gợi ý, đề xuất chung đối với tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam. Để các gợi ý, đề xuất của luận văn có tính thuyết phục cao hơn, các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp cận từng trường hợp doanh nghiệp và từ đó chỉ ra cách thức, biện pháp thực hiện cụ thể cho các gợi ý, đề xuất này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên nền tảng lý thuyết đánh đổi, trật tự phân hạng và chi phí đại và những lý thuyết có liên quan đã đề cập ở trên, tác giả đã tiến hành thống kê các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính trong và nước. Đây là căn cứ rất quan trọng được sử dụng để xây dựng mô hình lý thuyết, mô hình nghiên cứu thực nghiệm, hệ thống các biến và phương pháp nghiên cứu phục vụ cho quá trình phân tích các nhân tố tác động đến kiệt quệ tài chính trong chương 3 và chương 4. Cuối cùng, việc tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến các nhân tố tác động đến kiệt quệ tài chính và các mô hình dự báo đã cho tác giả ý tưởng thực hiện nghiên cứu của mình. Luận văn: Nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: PPNC tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993