Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế và khu vực, như: tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1996 (ICCPR), Công ước Quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990; Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN năm 2012… Ở Việt Nam, tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong các Hiến pháp Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 (Điều 10), Hiến pháp năm 1959 (Điều 28), Hiến pháp năm 1980 (Điều 71), Hiến pháp năm 1992 (Điều 68), Hiến pháp năm 2013 (Điều 23), trong Bộ luật dân sự, Luật cư trú và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trước sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là yêu cầu hội nhập kinh tế, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật cư trú (Sửa đổi, bổ sung năm 2013) nhằm đáp ứng các đòi hỏi khách quan, để công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do cư trú ở trong nước của mình theo quy định của Hiến pháp 2013 và đáp ứng yêu cầu đăng ký, quản lý cư trú trong tình hình mới, trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. Đó cũng là đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, phục vụ đắc lực cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và phát triển đất nước. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, vì vậy quyền con người, quyền công dân, quyền cư trú đòi hỏi phải được ghi nhận và thực hiện mức cao hơn. Để tạo cơ sở pháp l‎ý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác thực hiện pháp luật về cư trú, nhất là việc triển khai Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác thực hiện pháp luật về cư trú theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của công tác thực hiện pháp luật về cư trú mà hơn 10 năm qua kể từ ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Cư trú, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2007. Luật Cư trú được ban hành đã đánh dấu bước quan trọng trong việc cụ thể hóa quyền tự do cư trú của công dân, gắn với yêu cầu quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, đáp ứng kịp thời nhu cầu tư do đi lại và cư trú của công dân trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.Trong quá trình triển khai Luật Cư trú năm 2006 đã bộc lộ một số hạn chế, làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính gây khó khăn cho người dân và phía cơ quan quản lý nhà nước . Nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý cư trú, ngày 20/6/2013 Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Để Luật Cư trú thật sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Cư trú, thay thế Nghị định 56/2010/NĐ-CP ngày 20/5/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Hòa nhịp với tiến trình đổi mới, cũng như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, Quảng Ngãi đã và đang ra sức phấn đấu và đạt được được những thành tựu trên các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, , xã hội. Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nói chung và Quảng Ngãi nói riêng, nhất là yêu cầu hội nhập kinh tế, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nhiều quy định của pháp luật hiện hành về cư trú và quản lý cư trú còn bất cập, trình tự, thủ tục còn phức tạp; chưa thật sự dân chủ, thống nhất, dẫn đến tình trạng vận dụng tuỳ tiện, gây khó khăn, phiền hà cho công dân. Bên cạnh đó, cũng có một thực tế là một bộ phận nhân dân chưa thực hiện tốt quy định của pháp luật về đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm vắng, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú chưa cao, tạo ra kẽ hở để các phần tử xấu lợi dụng tiến hành hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, việc tìm hiểu về thực hiện pháp luật cư trú có ý‎ nghĩa quan trọng trong việc đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao ‎ý thức thực hiện pháp luật của người dân trong thực hiện pháp luật cư trú, thực hiện tốt phương châm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, phát huy mạnh mẽ vai trò của người dân vào việc quản lý xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Từ những lý‎ do trên học viên đã mạnh dạn nghiên cứu chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về cư trú-từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn

Làm thế nào để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung và hiệu quả thực hiện pháp luật về cư trú của người dân đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý quan tâm nhằm tìm ra những giải pháp tích cực. Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau được công bố thể hiện qua sách chuyên khảo, luận án, luận văn, bài báo. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của GS.TS Đinh Văn Mậu (2011), Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, đây là cuốn giáo trình đã cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn về nhà nước và thực hiện pháp luật, đồng thời để nghiên cứu sâu về các khoa học pháp lý.

Luật Cư trú và công tác đăng ký, quản lý nhà nước về cư trú (2008), Học viện Cảnh sát nhân dân, đây là cuốn giáo trình giảng dạy tại Học viện Cảnh sát nhân dân, nội dung của giáo trình đã phân tích một số vấn đề cơ bản về Luật Cư trú; công tác đăng ký, quản lý nhà nước về cư trú; cơ sở dữ liệu về cư trú. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân về bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay (1996), Luận án Phó tiến sỹ Luật học của Đỗ Tiến Triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án này đã đi sâu phân tích những cơ sở lý luận về pháp luật, thực hiện pháp luật liên quan đến trật tự, an toàn xã hội, trong đó có nội dung thực hiện pháp luật liên quan đến cư trú, đồng thời luận án đã đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động của lực lượng Công an nhân dân về bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta và đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội trong những giai đoạn tiếp theo.

Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (2017), Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thành Luân, Học viện Khoa học Xã hội. Luận văn đã đi sâu tìm hiểu những vấn đề lý luận quản l‎ý nhà nước về cư trú như khái niệm, nội dung, phương thức, chủ thể quản l‎ý nhà nước về cư trú, các yếu tố tác động đến quản l‎ý nhà nước về cư trú. Từ đó, luận văn đã nghiên cứu thực trạng công tác quản l‎ý nhà nước về cư trú ở Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản l‎ý nhà nước về cư trú.

Bên cạnh những tài liệu nói trên, các bài báo cũng đã đề cập đến vấn đề này như:

Bài báo đăng trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp ngày 23/11/2015 về “Một số bất cập từ quy định của Luật cư trú và văn bản hướng dẫn – kiến nghị hoàn thiện” của ThS. Lê Văn Sua. Bài báo đã chỉ rõ 5 bất cập lớn nhất từ các quy định của Luật cư trú và các văn bản hướng dẫn, đồng thời với những bất cập này tác giả đã đưa ra những giải pháp cụ thể như: chưa thống nhất trong cách hiểu về nội dung của công tác đăng ký, quản l‎ý cư trú; chưa có sự phân biệt về điều kiện đăng ký thường trú áp dụng đối với công dân ngoại tỉnh với công dân ở ngoại thành khi đăng ký thường trú vào các quận nội thành và bất cập trong phân cấp thẩm quyền đăng ký thường trú tại các địa bàn trung tâm; bất cập trong một số trường hợp xóa đăng ký thường trú; Luật Cư trú cũng chưa quy định cụ thể về cách hiểu và áp dụng đối với cụm từ “thường xuyên sinh sống”.

Bài báo đăng trên trang thông tin điện tử của tỉnh Vĩnh Long ngày 25/10/2016 về “Công tác đăng kí quản lýcư trú trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long – thực trạng và giải pháp” của ThS, Trung tá Lê Phước Tài – Phó trưởng Cảnh sát quản l‎ý hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh Vĩnh Long. Bài báo đã nêu những kết quả đạt được khi Luật cư trú được ban hành, đồng thời trong quá trình triển khai thực hiện có những khó khăn vướng mắc từ đó đã đề xuất một số giải pháp để công tác đăng kí quản lý cư trú ngày càng tinh gọn và từng bước hoàn chỉnh hơn nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý cư trú phục vụ xây dựng, phát triển kinh tế, , xã hội, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.

Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên là hết sức có giá trị đối với những người đã và đang nghiên cứu về thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về cư trú. Vì vậy, luận văn là công trình đầu tiên thực hiện đề tài này trong phạm một địa phương. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá để học viên tham khảo trong việc thực hiện đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

3.1. Mục đích:

Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả pháp luật về cư trú nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ:

  • Phân tích những vấn đề lý luận về cư trú, pháp luật về cư trú, thực hiện pháp luật về cư trú.
  • Thông qua việc nghiên cứu dữ liệu sơ cấp (phiếu khảo sát điều tra và phỏng vấn sâu) và dữ liệu thứ cấp (các số liệu qua các công trình nghiên cứu và các báo cáo tổng kết của Công an tỉnh, của Sở Tư pháp và UBND tỉnh Quảng Ngãi) tác giả phân tích thực trạng việc thực hiện pháp luật về cư trú ở tỉnh Quảng Ngãi.
  • Bên cạnh những kết quả đạt được, rút ra được những hạn chế, bất cập trong thực hiện pháp luật về cư trú, tìm ra những nguyên nhân hạn chế,bất cập.
  • Phân tích, đề xuất giải pháp thực hiện pháp luật về cư trú ngày càng hiệu quả hơn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình thực hiện pháp luật về cư trú tại tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

  • Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi
  • Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 – 2017.
  • Phạm vi nội dung: Thực hiện pháp luật về cư trú

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

5.1. Phương pháp luận

Luận văn lấy quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật XHCN làm cơ sở phương pháp luận; đặc biệt coi trọng những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp nhằm bảo vệ quyền tự do cư trú của công dân. Trên cơ sở đó, phân tích các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn quá trình thực hiện pháp luật về cư trú.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài sử dụng phối hợp hệ thống các phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:

  • Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp: quan sát, phỏng vấn.
  • Phương pháp thu thập thông tin gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu.
  • Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo: nguồn tin từ mạng Internet, thông tin báo cáo định kỳ của UBND tỉnh, UBND các huyện, thành phố, Sở Công an và các cơ quan, đơn vị có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về cư trú. Từ đó bổ sung một số vấn đề về lý luận pháp luật về cư trú và thực hiện pháp luật về cư trú.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

  • Thông qua nghiên cứu đề tài thực hiện pháp luật về cư trú trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giúp cho các cơ quan, đơn vị, cá nhân hiểu rõ về đường lối, chủ trưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cư trú.
  • Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước về cư trú, cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, làm tài liệu tập huấn, phổ biến tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú cho cán bộ, công chức và nhân dân trong lĩnh vực cư trú.
  • Một số kiến nghị, giải pháp của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương cụ thể như sau:

  • Chương 1: Cơ sở khoa học thực hiện pháp luật cư trú
  • Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật cư trú của tỉnh Quảng Ngãi.
  • Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯ TRÚ

1.1. Quan niệm về cư trú và pháp luật về cư trú

1.1.1. Quan niệm về cư trú

Đăng ký và quản lý cư trú có vị trí hết sức quan trọng và có tác dụng to lớn đối với quản lý xã hội của nhà nước. Đối với hoạt động quản lý xã hội của đất nước, công tác quản lý cư trú là nhằm xác định việc cư trú và những thông tin cơ bản nhất về nhân thân của công dân để phục vụ, thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời phục vụ cho công tác giữ gìn an ninh, trật tự, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Quản lý xã hội thực chất là quản lý con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Con người luôn luôn là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy quản lý cư trú được hình thành, phát triển rất lâu và nó diễn ra hầu như ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Từ đó cho thấy quản lý cư trú là một tất yếu khách quan vì trong xã hội có giai cấp, phải có quản lý xã hội, đồng thời nó đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội phải quản lý con người, mà trước hết là qua hoạt động cư trú. Vì thế có thể khẳng định: Trên thế giới vấn đề quản lý cư trú của con người đã có từ rất lâu, do bản chất của từng nhà nước khác nhau mà mục đích, hình thức, biện pháp quản lý cư trú khác nhau.

Luật cư trú ở Việt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013 đã làm rõ các khái niệm về cư trú, đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú. “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc phường, xã, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú” (Điều 1) “Đăng ký thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho họ” (Điều 18) “Đăng ký tạm trú là việc công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ”. (Điều 30)[40] Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Đăng ký, quản lý hộ khẩu là quá trình cơ quan Công an dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước để tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Phục vụ cho công tác quản lý xã hội của nhà nước; công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các phạm pháp về an ninh, trật tự.

Như vậy, quản lý cư trú công dân có thể hiểu khái quát là quản lý việc thường trú, tạm trú, tạm vắng của công dân.

  • Quản lý thường trú là việc đăng ký ghi nhận vào sổ hộ khẩu và áp dụng các biện pháp để quản lý đối với những người thường xuyên cư trú trên một địa bàn nhất định theo đơn vị hành chính.
  • Quản lý tạm trú là quản lý những người thường trú ở một nơi nhưng do nhiều lý do khác nhau họ đến ở lại một địa phương khác trong thời gian nhất định.
  • Quản lý tạm vắng là quản lý đối với những người thường trú của địa phương theo quy định của pháp luật khi đi ra khỏi địa phương của mình phải khai báo tạm vắng.

Như vậy, có thể hiểu: Cư trú là việc công dân sinh sống thường xuyên tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn hoặc huyện đảo nơi chưa tổ chức đơn vị hành chính cấp xã được nhà nước quản lý thông qua hình thức đăng ký thường trú hoặc tạm trú.

1.1.2. Nguyên tắc về cư trú

Theo Điều 4 Luật cư trú số 81/2006/QH11 Quy định về nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú…

  1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
  2. Bảo đảm hài hoà quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và xã hội; kết hợp giữa việc bảo đảm quyền tự do cư trú, các quyền cơ bản khác của công dân và trách nhiệm của Nhà nước với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
  3. Trình tự, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú phải đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, không gây phiền hà; việc quản lý cư trú phải bảo đảm hiệu quả.
  4. Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký; mỗi người chỉ được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại một nơi”.

1.1.3. Pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Quan điểm của học thuyết Mác-Lê nin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật về những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh và tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Mức độ đậm, nhạt của hai tính giai cấp và xã hội của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị của mỗi nước ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và Nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị – pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp luật và nhà nước đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực chính trị có thể được triển khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm, và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội.

Từ cơ sở lý luận trên, có thể hiểu: pháp luật về cư trú là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quá trình cư trú của cơ quan, tổ chức, cá nhân và việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động cư trú của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

1.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về cư trú

1.2.1.1 Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về cư trú

Thực hiện pháp luật

Xây dựng được hệ thống pháp luật tốt là tiền đề, là yêu cầu cấp bách nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhưng điều quan trọng hơn và có ý nghĩa quyết định là hệ thống pháp luật đó có được thực hiện không và được thực hiện như thế nào. Pháp luật dù có tốt như thế nào chăng nữa, nhưng nếu không được thực hiện thì cũng chỉ nằm trên giấy.

Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự (hành động hay không hành động), theo yêu cầu của pháp luật, của các chủ thể trong xã hội. Hành vi xử sự này có thể là hành động đơn giản (không khai báo khi thay đổi nơi cư trú…), có khi là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động phức tạp (tổ chức thực hiện Nghị định về lập lại trật tự an toàn giao thông….)

Do tính đa dạng, phong phú của quy phạm pháp luật và tính chất khác nhau của hoạt động thực hiện pháp luật, nên cũng có nhiều hình thức thực hiện pháp luật khác nhau. Tuy vậy, dù thực hiện pháp luật dưới hình thức nào, tính chất thực hiện khác nhau như thế nào chăng nữa, tất cả mọi hoạt động thực hiện pháp luật đều có chung mục đích là bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trên thực tế, trở thành hiện thực trong cuộc sống.

Như vậy, thực hiện pháp luật là quá trình thành viên trong xã hội thực hiện các hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật dưới những hình thức và tính chất thực hiện khác nhau, nhưng cùng nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, tăng cường pháp chế trong đời sống, trong nhà nước và xã hội.

Thực hiện pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật là các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời sống pháp luật; đồng thời thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước theo các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền. Thực hiện pháp luật được hiểu là bằng phương pháp phù hợp biến pháp luật từ quy định đi vào đời sống xã hội thông qua tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng của các chủ thể. Thực hiện pháp luật trong cuộc sống chủ yếu thuộc về trách nhiệm và là chức năng của cơ quan hành pháp. Đó là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực (con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất thực hiện từng văn bản pháp luật) đảm bảo sẵn sàng phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt, vận dụng để mọi hành vi ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.

Như vậy, thực hiện pháp luật về cư trú được hiểu là đưa pháp luật về cư trú vào thực tiễn, đền gần với người trực tiếp làm công tác giải quyết các vấn đề liên quan đến cư trú bao gồm cán bộ, công chức có liên quan và đặc biệt là người dân, bởi họ là chủ thể thực hiện pháp luật về cư trú, hơn ai hết họ là những người phải biết được khung pháp lý để từ đó thực hiện đảm bảo, tránh ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bản thân mình và gây cản trở hoạt động của các cơ quan nhà nước.

1.2.1.2 Đặc điểm thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện, với các thực hiện pháp luật có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Để quản lí xã hội, nhà nước tiến hành xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện chúng trong đời sống thực tế, làm cho những yêu cầu, quy định của pháp luật trở thành hiện thực.

Thứ hai, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể. Pháp luật được đặt ra để điều chỉnh hành vi của con người nên việc thực hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi của con người. Hành vi đó có thể là hành động hay không hành động phù hợp với quy định của pháp luật đều được coi là thực hiện pháp luật.

Thứ ba, thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức, trình tự thủ tục khác nhau. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân, có thể là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Cách thức thực hiện pháp luật cũng khác nhau: hành động, không hành động. Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc vào ý chí của mỗi chủ thể, cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.Quy trình thực hiện pháp luật có thể đơn giản hoặc phức tạp.

1.2.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

  • Vai trò của thực hiện pháp luật trong việc triển khai thực hiện quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước

Pháp luật luôn phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, thể chế hóa đường lối, chủ trương ấy thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như công tác tổ chức và thực hiện pháp luật phải thấm nhuần các quan điểm của Đảng. Thực tiễn cho thấy, nếu sử dụng tốt công cụ pháp luật, thì đường lối, chính sách của Đảng sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống. Thông qua pháp luật, các đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được triển khai một cách nhanh chóng, cụ thể, rộng lớn hơn. Thực tiễn pháp lý là môi trường để kiểm nghiệm tính đúng đắn và có hiệu quả đường lối, chủ trương và quan điểm của Đảng.

Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước ấn định những khuôn mẫu hành vi, những mô hình xử sự với các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội đối với việc ổn định nơi ăn chốn ở. Chỉ trong trường hợp đó, nơi ăn chốn ở với những quan niệm vốn không đồng nhất trở thành nghĩa vụ thực hiện của các công dân. Như vậy, pháp luật không chỉ là quy phạm hóa chính sách của Nhà nước về cư trú mà còn đề cao và làm giàu thêm tính nhân văn. Từ chỗ chỉ là quan điểm, đường lối của một giai cấp, một chính đảng, tính nhân văn đã trở thành quan niệm, tiêu chí và yêu cầu chung của toàn xã hội. Bởi thế, vi phạm pháp luật về cư trú không chỉ đơn thuần là xâm phạm nơi cư trú mà còn đi ngược lại những tiêu chí và yêu cầu chung của toàn xã hội.

Hệ thống pháp luật thể hiện quan điểm thông qua quyền và nghĩa vụ cụ thể trong những quan hệ pháp luật cụ thể và hệ thống chế tài tương ứng với các loại trách nhiệm pháp lý. Tính khách quan là điều kiện hàng đầu để pháp luật gánh vác vai trò của mình trong bảo đảm quyền con người. Không phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia trong những hoàn cảnh nhất định, pháp luật sẽ trở thành công cụ quản lý kém hiệu quả. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải phản ánh chân thực khách quan các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhưng không phải là một phiên bản của cuộc sống, mà trái lại là sự phản ánh tích cực và có giá trị phổ biến. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Để có thể tổ chức, quản lý được tốt hơn các vấn đề về cư trú, đảm bảo cho các chủ trương, đường lối của Đảng về cư trú, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về cư trú, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để thể chế hóa các chủ trương trên. Khi tiến hành xây dựng (ban hành) các quy phạm pháp luật, Nhà nước sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của Nhà nước và xã hội. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật về cư trú do Nhà nước ban hành được mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện đầy đủ và chính xác.

  • Vai trò của thực hiện pháp luật trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Việc chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân là những nội dung quan trọng trong việc thực hiện pháp luật về cư trú. Về nguyên tắc tắc muốn thực hiện quyền làm chủ thì trước tiên công dân phải nhận thức đúng đắn, hiểu biết đầy đủ về các nguyên tắc cư trú. Các nguyên tắc, quy định của pháp luật về thực hiện pháp luật cư trú là sự cụ thể hóa các quyền tự do cư trú của công dân. Thông qua việc thực hiện pháp luật về cư trú, công dân có điều kiện thuận lợi để biết được các quyền của mình, hiểu các nguyên tắc, hình thức thực hiện các quyền đó cũng như các hành vi nghiêm cấm. Nếu không triển khai thực hiện pháp luật về cư trú thì nhiều người dân sẽ không biết đến các quyền cu trú mà pháp luật trao cho họ. Khi nhận thức đúng đắn, hiểu biết đầy đủ các quyền cư trú theo quy định của pháp luật. Người dân có thể chủ động, tích cực thực hiện các quyền đó. Vì vậy việc thực hiện pháp luật về cư trú là sự hiện thực hóa nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

1.2.2. Chủ thể của thực hiện pháp luật về cư trú

Chủ thể thực hiện pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể, theo những điều kiện do pháp luật quy định, tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định. Chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về cư trú bao gồm:

1.2.2.1. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Cấp bộ: Bộ Công an Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Trong đó, Cục Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư (C72) trực thuộc Tổng cục Cảnh sát có trách nhiệm giúp Tổng cục trưởng thống nhất, quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính trong cả nước về công tác đăng ký, quản lý cư trú; cấp và quản lý căn cước công dân; xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác quản lý nhà nước về cư trú, đảm bảo an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế, xã hội theo đúng quy định của pháp luật và của Bộ trưởng .

Cấp tỉnh: Công an tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương Trong đó, đơn vị tham gia trực tiếp quản lý nhà nước về cư trú là Phòng Cảnh sát quản l‎ý hành chính về trật tự xã hội (PC64)

Cấp huyện: Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Trong đó, đơn vị tham gia trực tiếp quản lý nhà nước về cư trú là Phòng Cảnh sát quản l‎ý hành chính về trật tự xã hội.

Cấp xã: Công an xã, phường, thị trấn

cấp xã có 01 cán bộ thực hiện công tác chuyên môn.

1.2.2.2. Các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện pháp luật về cư trú.

Là các tổ chức, hộ gia đình, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống.

Chủ thể này tham gia thực hiện pháp luật về cư trú mục đích ổn định cuộc sống.

1.2.3. Nội dung, hình thức và tiêu chí thực hiện pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

1.2.3.1. Nội dung

Để pháp luật đi vào cuộc sống đòi hỏi các cơ quan nhà nước, cá nhân phải thực hiện các hoạt động cụ thể khác nhau, bao gồm:

Tuyên truyền pháp luật về cư trú: Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về cư trú nói riêng là nhiệm vụ của các cấp, các ngành. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật về cư trú trong đăng ký tạm vắng, tạm trú cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu; bảo đảm bảo tạo sự thống nhất quản lý Nhà nước về cư trú ở các cấp chính quyền, tạo sự chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và nhân dân trong thực hiện Luật Cư trú, qua đó đảm bảo giữ gìn trật tự an ninh nông thôn hiệu quả.

Công tác tuyên truyền đã được thực hiện thông qua nhiều hình thức như tổ chức hội nghị giới thiệu, tập huấn chuyên sâu về Luật Cư trú; mở các chuyên trang, chuyên mục trên ấn phẩm của ngành, địa phương, in ấn tài liệu hỏi đáp, hướng dẫn pháp luật về cư trú, cấp phát tờ gấp pháp luật, treo panô, áp phích…..

Triển khai thực hiện pháp luật về cư trú: Công tác triển khai, thực hiện pháp luật trong cuộc sống nói chung và triển khai thực hiện pháp luật về cư trú nói riêng chủ yếu thuộc về trách nhiệm và là chức năng của cơ quan hành pháp. Đó là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực (Con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất để triển khai thực hiện luật cư trú) bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt, vận dụng để mọi hành ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với quy định của pháp luật liên quan. Luật cư trú được Quốc hội Nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 01/7/2007, được sửa đổi năm 2013. Sau khi Luật cư trú được thông qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 29/3/2007 về việc triển khai luật cư trú, quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ công an, các Bộ ngành có liên quan, và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong tổ chức thực hiện Luật cư trú. Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an, các Bộ, ngành và địa phương đã triển khai thực hiện đúng chức năng có hiệu quả các quy định về thực hiện Luật cư trú. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Các hoạt động cụ thể để thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước về cư trú:

Các hoạt động của Chính phủ: Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật cư trú. Thủ tướng Chính Phủ ban hành các Chỉ thị về việc triển khai Luật cư trú, quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ công an, các Bộ ngành có liên quan, và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong tổ chức thực hiện Luật cư trú.

Hoạt động của Bộ Công an: Các hoạt động của Bộ Công an được quy định tại điều 33 Luật cư trú gồm:

  1. Xây dựng và trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về cư trú.
  2. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cư trú.
  3. Đình chỉ, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ những quy định về quản lý cư trú trái với quy định của Luật này.
  4. Ban hành các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về cư trú.
  5. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý cư trú.
  6. Thống kê nhà nước về cư trú, tổng kết, nghiên cứu khoa học về quản lý cư trú, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú.
  7. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về cư trú.
  8. Hợp tác quốc tế về quản lý cư trú. [40]

Các hoạt động của Uỷ ban nhân dân: Uỷ ban nhân dân các cấp trong thực hiện pháp luật về cư trú được quy định tại điều 34 gồm các hoạt động cụ thể sau: Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

  1. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cư trú tại địa phương.
  2. Chỉ đạo việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương về quản lý cư trú.
  3. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú.
  4. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật. [40]

Hoạt động của cơ quan đăng ký, quản lý lưu trú: Các cơ quan đăng ký, quản lý cư trú thực hiện các hoạt động được quy định tại điều 35 Luật cư trú gồm:

  1. Niêm yết công khai, hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về cư trú.
  2. Bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác đăng ký, quản lý cư trú.
  3. Cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú đúng thời hạn cho công dân theo quy định của Luật này.
  4. Quản lý, lưu trữ hồ sơ, tài liệu về đăng ký, quản lý cư trú.
  5. Giải quyết kịp thời kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến cư trú, quản lý cư trú. [40]

Hoạt động của người trực tiếp làm công tác đăng ký, quản lý cư trú: Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú được quy định thực hiện các hoạt động tại Điều 36 Luật cư trú gồm:

  1. Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
  2. Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú trong khi thực hiện nhiệm vụ phải có thái độ, lời nói, cử chỉ nghiêm túc, khiêm tốn, hoà nhã; tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, tài liệu có liên quan, viết biên nhận, hẹn ngày trả kết quả và giải quyết đúng thời hạn theo quy định của Luật này; trường hợp hồ sơ còn thiếu hoặc chưa đúng thì hướng dẫn cụ thể, đầy đủ bằng văn bản và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc hướng dẫn đó. [40]

1.2.3.2. Hình thức Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Trong khoa học luật ở trong nước, cũng như ngoài nước các nhà khoa học đều quan niệm thực hiện pháp luật bao gồm 4 hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Việc phân chia thành các hình thức thực hiện pháp luật là nhằm phân biệt, thấy được đặc điểm, đặc thù của từng hoạt động, còn trong thực tiễn đôi khi những hành thức này lại đan xen, ”lồng chứa” vào nhau. Trong hình thức này lại có hình thức khác, ví dụ trong áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước, chứa luôn cả tuân thủ và thi hành pháp luật.

Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật về cư trú, trên cơ sở nhận thức chung về các hình thức thực hiện pháp luật về cư trú, có thể xác định những hình thức thực hiện pháp luật về cư trú bao gồm các hình thức sau:

Tuân thủ pháp luật về cư trú: Là một hình thức thực hiện pháp luật về cư trú trong đó các chủ thể pháp luật về cư trú kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành động. Như việc nhân dân phải chấp hành các quy định của pháp luật về sử dụng sổ hộ khẩu, không được dùng sổ hộ khẩu đề thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như cho thuê, mượn sổ hộ khẩu …

Thi hành pháp luật về cư trú: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Như việc mọi người dân phải chấp hành các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thường trú. Khác với tuân thủ pháp luật, trong hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới dạng hành động tích cực, ví dụ cá nhân phải tự giác đến cơ quan nhà nước để đăng ký nơi cư trú, tạm trú, khai báo khi vắng mặt.

Sử dụng pháp luật về cư trú: Là một hình thức thực hiện pháp luật về cư trú, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Sử dụng pháp luật trong cư trú đó là việc cơ quan nhà nước sử dụng các quyền của mình để thực hiện các công việc được quy định trong luật. Như việc cơ quan công an đăng ký tạm trú cho công dân đến tạm trú trên địa bàn mình quản lý.

Áp dụng pháp luật về cư trú: Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

Áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.

Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, khi những quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: phát hiện một xác chết trên sông có dấu hiệu bị giết, cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, trưng cầu giám định pháp y.

Trường hợp thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Ví dụ tranh chấp hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trường hợp thứ ba, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước do các chế tài pháp luật quy định đối với những chủ thể có hành vi vi phạm. Những người có hành vi vi phạm bị xử phạt làm hàng giả, hàng nhái,…

Trường hợp thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. Chẳng hạn toà án tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một người; tuyên bố không công nhận vợ chồng đối với nam nữ sống chung với nhau không có đăng ký kết hôn hoặc đăng ký kết hôn tại cơ quan không có thẩm quyền.

1.2.3.3. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật về cư trú

Nhìn từ góc độ của lý luận về theo dõi thi hành pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu tổng thể hệ thống quản lý nhà nước về cư trú, hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực cư trú phải được xem xét, đánh giá trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tiêu chí cơ bản sau đây: Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật về cư trú thực sự đầy đủ, đồng bộ và bảo đảm các điều kiện để tổ chức thi hành các quy định đó theo đúng nội dung của Nghị định số 31/2014/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú.

Nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn cho thấy, nhiệm vụ nêu trên có ý nghĩa quan trọng khi đánh giá về hiệu quả thực hiện pháp luật, vì tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết văn bản quy phạm pháp luật là tiêu chí để đánh giá tình hình tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, các văn bản điều chỉnh hoạt động cư trú phải được ban hành kịp thời, đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi. Thực tế qua triển khai thực hiện pháp luật về cư trú còn nhận thấy một số bất cập như: chưa thống nhất trong cách hiểu về nội dung của công tác đăng ký, quản lý cư trú; chưa có sự phân biệt về điều kiện đăng ký thường trú áp dụng đối với công dân ngoại tỉnh với công dân ở ngoại thành khi đăng ký thường trú vào các quận nội thành; bất cập trong phân cấp thẩm quyền đăng ký thường trú tại các địa bàn trung tâm; bất cập trong một số trường hợp xóa đăng ký thường trú. Bên cạnh đó, pháp luật trong lĩnh vực cư trú muốn phát huy được hiệu quả trong thực tiễn thì Nhà nước cần phải bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật trong lĩnh vực này, ví dụ như: Hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật phải được thực hiện thường xuyên; tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác đăng ký tại các văn phòng đăng ký cư trú, cũng như kinh phí và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho thi hành pháp luật về đăng ký cư trú phải được bố trí đầy đủ.

Thứ hai, bảo đảm thực sự thuận lợi, khách quan và chính xác trong hoạt động đăng ký cư trú. Đây là tiêu chí tiên quyết, quan trọng đối với tổ chức, cá nhân đăng ký cư trú đối với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về cư trú. Một hệ thống đăng ký chỉ thực sự có giá trị, chất lượng nếu như thủ tục đăng ký đơn giản, dễ thực hiện, nhưng chất lượng thông tin đăng ký được cá nhân, tổ chức kê khai, phản ánh trung thực, khách quan trong nội dung đăng ký. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền đăng ký không được yêu cầu người đi đăng ký cung cấp các giấy tờ, tài liệu không được pháp luật quy định trong hồ sơ đăng ký, đồng thời có trách nhiệm phải giải quyết theo đúng thứ tự tiếp nhận hồ sơ, cũng như phải ghi lại đầy đủ, chính xác vào Sổ đăng ký nội dung mà người yêu cầu đăng ký đã kê khai. Những thông tin sai lệch, thiếu chính xác sẽ không có giá trị pháp lý. Tiêu chí này đòi hỏi các chủ thể pháp luật phải có ý thức và hành tôn trọng sự tồn tại khách quan của thông tin được đăng ký, nghiêm cấm hành vi làm sai lệch giấy tờ, tài liệu chứng minh sự tồn tại khách quan của nội dung có trong hồ sơ yêu cầu đăng ký, cũng như trong Sổ đăng ký được lưu giữ tại cơ quan đăng ký. Để thực hiện được tốt tiêu chí này, Nhà nước cần phải có các giải pháp để hỗ trợ và giám sát chặt chẽ việc kê khai, giải quyết hồ sơ đăng ký và lưu giữ kết quả đăng ký trong quá trình các chủ thể thực hiện pháp luật. Theo đó, Nhà nước phải quy định một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, thủ tục đăng ký để mọi người dễ dàng tiếp cận, dễ dàng thực hiện, từ đó ngăn chặn nguy cơ nhũng nhiễu, tham nhũng từ phía các cơ quan có thẩm quyền đăng ký. Đồng thời, Nhà nước phải tạo lập các thiết chế cần thiết để giám sát, bảo đảm thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật. Về lâu dài, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này rất cần có sự hỗ trợ của khoa học hiện đại, tránh sự can thiệp trực tiếp của con người vào quá trình thực hiện đăng ký (tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký, lưu giữ thông tin được đăng ký). Nói cách khác, hiện đại hóa hệ thống đăng ký là đòi hỏi có tính tất yếu, khách quan.

Thứ ba, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu đăng ký với chi phí đăng ký thấp nhất khi thực hiện các quy định về đăng ký. Nội dung đăng ký sau khi có hiệu lực phải giúp bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu đăng ký. Điều này có nghĩa khi kê khai thông tin đăng ký, Nhà nước phải xác định thông tin ghi trong Sổ đăng ký là một nguồn chứng cứ quan trọng, giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu đăng ký. Yêu cầu này đòi hỏi trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà nước phải xác định rõ ràng giá trị pháp lý của việc đăng ký. Đồng thời, khi tiếp nhận, giải quyết hồ sơ yêu cầu đăng ký, cơ quan có thẩm quyền đăng ký phải kiểm tra kỹ hồ sơ với đầy đủ chứng cứ. Ngoài ra, để thúc đẩy việc đăng ký được thực hiện thì Nhà nước cũng cần phải giảm thiểu chi phí đăng ký cho người dân. Thực tiễn cho thấy, pháp luật về đăng ký cư trú chỉ phát huy được hiệu quả nếu người dân nhận thức rõ ý nghĩa, giá trị thực sự của việc đăng ký. Nói cách khác, đăng ký cư trú là một phương thức để người dân bảo vệ được quyền tự do cư trú của mình.

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về cư trú Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Thực hiện pháp luật diễn ra một cách phổ biến trong đời sống hàng ngày và đối với hầu hết mọi người, trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến từ nhiều hướng khác nhau với những mức độ khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dịch vụ rất đa dạng và phức tạp, có thể nhìn nhận chúng dưới góc độ tác động bên trong và tác động bên ngoài như dưới đây:

1.2.4.1. Các yếu tố bên trong

Trình độ hiểu biết về pháp luật của chủ thể:

Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật. Nếu chủ thể có nhận thức cao chính là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp, nếu chủ thể có trình độ hiểu biết về pháp luật dẫn đến việc thực hiện pháp luật tốt, điều đó sẽ ngược lại nếu không hiểu biết về pháp luật thì việc thực hiện pháp luật thật khó khăn, dẫn đến vi phạm pháp luật. Nếu chủ thể không hiểu biết về pháp luật liên quan đến cư trú thì sẽ không hiểu được sâu sắc bản chất, thậm chí còn có thể hiểu sai, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp luật, đôi khi dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật. Nhận thức đúng đắn vấn đề này, các cơ quan quản lý nhà nước về cư trú thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân nâng cao ý thức thực hiện pháp luật về cư trú. ‎

Yếu tố tâm lý. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Trong điều kiện xã hội hiện nay, nhất là ở nông thôn, yếu tố tâm lý cũng đang bộc lộ những tác động tích cực và tiêu cực của nó đối với công tác thực hiện pháp luật. Hẳn ai cũng biết truyền thống trọng tình, duy tình trong quan hệ dòng họ thân tộc của người Việt Nam đã được tạo nên từ lối sống, từ tập quán sản xuất và sinh hoạt lâu đời, đã tạo nên sự đoàn kết, nhất trí, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, động viên nhau những lúc khó khăn… là cơ sở hình thành nên giá trị đời sống tinh thần của người dân. Đây là nhân tố tích cực thúc đẩy các chủ thể thực hiện pháp luật tích cực hơn, nhiệt tình hơn vì họ không muốn mang tiếng xấu với người thân, làng xóm. Tuy nhiên cũng từ tâm lý trọng tình nghĩa này mà người dân nhiều khi mới “chín bỏ làm mười”, có trường hợp biết người thân phạm tội mà không nỡ tố giác… điều đó gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội, và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật. Yếu tố tâm lý đã được hình thành từ lâu đời và trở nên quá bền vững, thật không dễ gì thay đổi để người Việt tiếp nhận pháp luật một cách tự nguyện và tích cực hơn…

1.4.2. 2. Các yếu tố bên ngoài

Tình hình phát triển kinh tế xã hội:

Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế xã hội. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau, do đó nó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất được nâng cao thì pháp luật mới có điều kiện và khả năng được thực hiện. Điều kiện xã hội, giáo dục không ngừng phát triển, mở rộng làm chuyển biến đáng kể trình độ dân trí, cách nghĩ và tầm nhìn của người dân Việt Nam không ngừng được cải thiện, đặc biệt là tư duy pháp lý. Người dân có nhiều điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng như loa đài, ti vi, sách báo, các loại hình vui chơi giải trí, … để hiểu pháp luật hơn, họ sẽ dễ dàng thi hành pháp luật, tuân theo pháp luật. Nhưng khi kinh tế kém phát triển, cuộc sống của người dân nghèo đói thì hiện tượng vi phạm pháp luật tràn lan là không có gì đáng ngạc nhiên, bởi mối quan tâm hàng đầu của người dân lúc đó là miếng cơm manh áo, họ sẽ thờ ơ với pháp luật, thậm chí còn vi phạm pháp luật để kiếm sống.

Hệ thống pháp luật. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Bản thân pháp luật sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là cơ sở để các chủ thể thực hiện pháp luật. Song chính các mặt, các khía cạnh khác nhau của chuẩn mực pháp luật cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thực hiện pháp luật. Người dân thực hiện pháp luật tốt hơn với một hệ thống pháp luật toàn diện (hệ thống pháp luật phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng), đồng bộ ( không được chồng chéo, không được mâu thuẫn với nhau) và phù hợp ( nội dung của thực hiện pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước). Có thể nói pháp luật là đời sống xã hội được khái quát hóa và nâng lên thành luật thông qua hoạt động lý trí và ý chí của con người. Do vậy sự thống nhất, toàn diện, đồng bộ, phù hợp của các văn bản pháp luật, đặc biệt là các đạo luật là vô cùng quan trọng, đảm bảo cho hiệu quả của việc thực hiện pháp luật. Trong thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta, nhiều văn bản pháp luật được ban hành ( thậm chí ngay cả hiến pháp ) chưa phù hợp với qui luật phát triển khách quan của xã hội, chưa đồng bộ và thống nhất. Có khi nhiều văn bản pháp luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí phải được thay thế bằng văn bản khác, vì nếu để nguyên không những không thực hiện được trong thực tế mà còn gây thiệt hại cho đất nước

Yếu tố chính trị

Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Một đất nước có môi trường chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật, bởi nó củng cố niềm tin của người dân, để họ tin và đi theo Đảng. Một đất nước bất ổn về chính trị sẽ luôn khiến người dân hoang mang, lo lắng, dao động… và dẫn đến thực hiện pháp luật không tốt. Nhận thấy đây là một trong những yếu tố quan trọng cho việc thực hiện pháp luật hiệu quả, chính xác, hiện nay Đảng ta luôn quan tâm và chỉ đạo sâu sát đối với việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức nhằm nâng cao ý thức chính trị cũng như hiểu biết pháp luật cho các đảng viên và đã đạt được những kết quả tốt đẹp, để các đảng viên luôn là những người đi trước, gương mẫu thực hiện pháp luật, từ đó tăng được lòng tin của quần chúng nhân dân

Ngoài ra tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động thực hiện pháp luật. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, các tầng lớp xã hội có thể thẳng thắn, công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình đối với các vấn đề pháp luật và các cơ quan pháp luật, sẵn sàng lên tiếng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, bầu không khí chính trị ngột ngạt, gò bó thì các công dân không dám bày tỏ những suy nghĩ thật của mình, không dám đòi hỏi công lý vì tâm lý lo lắng, e ngại

Bộ máy nhà nước: Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Bộ máy nhà nước có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật phải được tổ chức một cách khoa học có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn… để xử lý công việc nhanh chóng không chồng chéo lên nhau. Sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ và thiếu sự phối hợp với nhau ở các cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ dẫn đến sự chồng chéo trong cách giải quyết và sự đùn đẩy lẫn nhau. Có sự việc thì nhiều cơ quan cùng giải quyết, nhưng cũng có sự việc thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm cả. Hiện nay, bộ máy nhà nước ta đã có nhiều chuyển biến khá tích cực, để việc thực hiện pháp luật đạt kết quả tốt hơn

1.3. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về cư trú ở một số địa phương và bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Quảng Ngãi

1.3.1. Kinh nghiệm của các địa phương

1.3.1.1. Thực hiện pháp luật về cư trú ở thành phố Hải phòng

Hải Phòng là thành phố cảng lớn nhất phía bắc, đô thị loại 1 cấp Quốc gia, là trung tâm kinh tế – khoa học, kỹ thuật tổng hợp của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Phòng là đầu mối giao thông quan trọng – hội tụ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, trong đó hệ thống giao thông đường thủy rất đa dạng và có mật độ cao, các tuyến đường thủy quan trọng đều đi qua những địa bàn tập trung dân cư, trọng điểm về phát triển kinh tế biển. Trong quá trình phát triển và hội nhập, cùng với các địa phương trong cả nước, Hải Phòng cũng chịu tác động lớn của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, khu vực và trong nước. Việc phát triển, mở rộng không gian đô thị, tốc độ xây dựng các tuyến đường, các khu công nghiệp gắn với nhu cầu đời sống, tìm việc làm của người dân… dẫn tới biến động về hộ khẩu, nhân khẩu của thành phố diễn ra với mức độ ngày càng cao. Việc quản lý đô thị chưa được đồng bộ, chặt chẽ. Ở các vùng giáp ranh nội thành, người dân lấn chiếm đất, mua, bán nhà cửa… đã hình thành các xóm liều, khu vực “chồng lấn” cư trú tùy tiện, bất hợp pháp. Hải Phòng là địa bàn thu hút đầy đủ dân cư từ các tỉnh, thành phố khác trong cả nước đến lao động, học tập, sinh sống; tập trung số lượng lớn người đến thăm quan, du lịch, công tá trên địa bàn thành phố. Nhận thức của một số cơ quan, doanh nghiệp và một bộ phận nhân dân về công tác quản lý nhà nước về cư trú còn hạn chế dẫn tới tình trạng vi phạm các quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Tình hình an ninh trật tự có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch bên ngoài luôn tìm cách chống phá công cuộc đổi mới và phát triển đất nước; hoạt động của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội…luôn là vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Thực tiễn chỉ đạo của Bộ Công an về triển khai thực hiện Luật Cư trú, Công an Hải Phòng đã tham mưu UBND thành phố chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành. Công an thành phố đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai Luật Cư trú trong toàn lực lượng; tổ chức tập huấn Luật Cư trú cho cán bộ chiến sĩ thuộc các phòng nghiệp vụ, Công an các quận, huyện, phường, xã, thị trấn. Qua đó, giúp cán bộ, chiến sĩ hiểu, nắm vững Luật Cư trú, nâng cao nhận thức đối với công tác đăng ký, quản lý cư trú theo chức năng của lực lượng Công an, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao để tổ chức thực hiện hiệu quả công tác đăng ký, quản lý cư trú, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thành phố. Công an thành phố đã phối hợp với các cơ quan báo, đài của Trung ương, thành phố và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng…tổ chức tuyên truyền, phổ biến những nội dung cơ bản của Luật Cư trú đến các cơ quan, doanh nghiệp và nhân dân thành phố. Phối hợp với Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật, Hội Luật gia thành phố, Sở Tư pháp, Sở Nội vụ, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Sở Lao động thương binh và Xã hội, Bộ đội biên phòng thành phố tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến Luật Cư trú và các quy định về đăng ký, quản lý cư trú tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật Cư trú với 45.560 bài dự thi, trong đó nhiều bài dự thi có chất lượng.

Thực hiện Nghị định 90/2010/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 10/2013/TT-BCA và Kế hoạch số 140/KH-BCA-C61 ngày 24/5/2013 của Bộ Công an về việc triển khai thực hiện Dự án “Xây dựng hệ thống quản lý dân cư” sử dụng tín dụng ưu đãi của Chính phủ Hungary tại thành phố Hải Phòng, Công an thành phố đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành kế hoạch triển khai thực hiện quy định về Cở sở dữ liệu quốc gia về dân cư và dự án “Xây dựng hệ thống quản lý dân cư” và chỉ đạo thành lập Ban chỉ đạo dự án để triển khai thực hiện trong lực lượng Công an thành phố. Phối hợp với cục C72 Bộ Công an tổ chức tập huấn thu thập Phiếu thông tin dân cư, chỉ đạo tập trung làm điểm tại 02 đơn vị và triển khai mở rộng dự án tại Công an các đơn vị; phối hợp khảo sát xây dựng hệ thống phần mềm quản lý dân cư; lắp đặt máy móc, thiết bị, đường truyền dẫn; tập huấn phần mềm ứng dụng trong công tác đăng ký, quản lý cư trú. Rà soát, bồi dưỡng cán bộ có trình độ công nghệ thông tin để phục vụ máy móc, thiết bị. Tổ chức thu thập phiếu thông tin dân cư nhân khẩu có đăng ký thường trú trên địa bàn thành phố, phối hợp tổ chức tập huấn phần mềm quản lý dân cư cho Công an các đơn vị và tiến hành nhập liệu vào hệ thống. Tập trung đầu tư, nâng cấp trụ sở tiếp dân với 15 trụ sở tiếp công dân tới đăng ký thường trú, 223 trụ sở tiếp công dân tới đăng ký tạm trú và khai báo tạm vắng, 1.696 điểm tiếp nhận thông báo lưu trú. Nơi tiếp công dân bảo đảm thuận tiện, khang trang, lịch sự, đủ ánh sáng và thoáng mát, có đủ bàn, ghế, sổ sách, bảng nội quy thông báo công khai, đầy đủ điều kiện, thủ tục, lệ phí đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, tiếp nhận thông báo lưu trú và khai báo tạm vắng. Lựa chọn, bố trí cán bộ có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ làm công tác tiếp nhận và giải quyết đăng ký, quản lý cư trú. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Đối với việc đăng ký, quản lý nhân khẩu mặt nước, Công an Hải Phòng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố triển khai tổ chức thực hiện hiệu quả các nội dung, biện pháp nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú, đi lại của công dân trên đường thủy nội địa. Bố trí 90 điểm tiếp nhận thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng đối với nhân, hộ khẩu mặt nước. Củng cố các tổ an ninh nhân dân, tổ tự quản, cụm tàu thuyền, lồng bè an toàn, phát động sâu rộng trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động và hướng dẫn nhân dân thực hiện công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu mặt nước; lập mới các nơi tiếp nhận lưu trú; thường xuyên rà soát nắm tình hình di biến động của nhân, hộ khẩu mặt nước, tình hình hoạt động của phương tiện thủy, bến bãi và thực hiện việc tiếp nhận lưu trú đối với những nhân, hộ khẩu làm nghề trên mặt nước.

Đến nay, Công an các quận, huyện, phường, xã, thị trấn đã ứng dụng phần mềm vào công tác đăng ký, quản lý cư trú, khai thác các tính năng, tác dụng của hệ thống, phục vụ cho việc giải quyết đăng ký cư trú.

1.3.1.1. Thực hiện pháp luật về cư trú của tỉnh Quảng Bình

Nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, lực lượng Công an nhân dân, cán bộ, công chức và nhân dân trong việc thi hành nghiêm túc Luật Cư trú trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, thực hiện Chỉ thị số 07/2007/CT-TTCg ngày 29/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg ngày 11/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Cư trú, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan, ban ngành trên địa bàn toàn tỉnh tổ chức triển khai quán triệt và tuyên truyền rộng rãi trong chiến sỹ lực lượng Công an, cán bộ, công chức và nhân dân về nội dung Luật Cư trú và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Cư trú. Tăng cường chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, thống nhất trong toàn tỉnh các quy định của Luật Cư trú, Nghị định hướng dẫn của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an, bảo đảm quyền tự do cư trú và các quyền cơ bản khác của công dân. Tổ chức tập huấn chuyên sâu về Luật Cư trú, bồi dưỡng nâng cao nhận thức pháp luật, ý thức phục vụ nhân dân, yêu cầu cải cách hành chính, chống quan liêu, gây phiền hà về quản lý cư trú trong cán bộ chiến sỹ, đặc biệt là đội ngũ Công an xã trực tiếp làm công tác quản lý cư trú ở cấp xã, bảo đảm thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú đơn giản, kịp thời, chính xác công khai, minh bạch và thực hiện đúng quy định của Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn của Trung ương. Chỉ đạo rà soát, củng cố, kiện toàn bộ máy; 1ựa chọn, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác đăng ký, quản lý cư trú ở Công an các huyện, thành phố và cấp xã, đặc biệt là cán bộ trực tiếp tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký cư trú của công dân. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc tiếp công dân; công khai, minh bạch thủ tục giải quyết đăng ký cư trú. Cải tiến phương pháp, lề lối làm việc, giải quyết kịp thời các khiếu nại tố cáo của công dân. Thực hiện việc đăng ký và cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nhanh chóng, thuận tiện cho những người có đủ điều kiện theo quy định của Luật Cư trú. Chỉ đạo các cơ quan, ban ngành có liên quan như Sở Tư pháp, Sở Công an tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản khác thuộc phạm vi quản lý liên quan đến quy định về hộ khẩu để sửa đổi, bãi bỏ hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bãi bỏ những nội dung trái với Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Bên cạnh đó, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và phương thức đăng ký, quản lý thường trú, tạm trú, thông báo lưu trú nhằm giữ vững an ninh trật tự ở địa phương. Giải quyết kịp thời các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến cư trú, quản lý cư trú theo quy định của pháp luật; kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức có thái độ, lời nói, cử chỉ thiếu nghiêm túc hoặc sách nhiễu, gây phiền hà cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành Luật Cư trú.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ngãi

Qua quá trình thực hiện pháp luật về cư trú của thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Bình, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ngãi sau đây: Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Một là, Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát công tác đăng ký ‎và quản lý ‎cư trú, đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành có liên quan. Thực tiễn cho thấy những nơi cấp, ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo sâu sát công tác đăng ký, quản lý cư trú thì nơi đó được thực hiện tốt. Qua đó đã phát huy vai trò của công tác đăng ký quản lý cư trú, phục vụ có hiệu quả công tác phòng ngừa đấu tranh với tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác bảo đảm ANQG và giữ gìn TTATXH ở địa phương.

Hai là, tiếp tục quán triệt Luật cư trú, vị trí tầm quan trọng của công tác quản lý cư trú đến toàn thể cán bộ chiến sỹ, trong đó xác định rõ vai trò trách nhiệm của cấp ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện;

Ba là, chủ động tham mưu đề xuất cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng về Luật cư trú và các văn bản hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành của công dân và cơ quan tổ chức;

Bốn là, nghiên cứu cải tiến nội dung, biện pháp công tác đăng ký, quản lý cư trú đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong từng giai đoạn, gắn việc thực hiện đăng ký, quản lý cư trú với công tác cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân;

Năm là, làm tốt công tác nắm tình hình hộ, người, di biến động của các loại đối tượng, phục vụ hiệu quả công tác đăng ký, quản lý cư trú nói riêng và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tệ nạn xã hội nói chung;

Sáu là, tăng cường công tác hướng dẫn, đôn đốc Công an, các đơn vị tiến hành thu thập, cập nhật thường xuyên số nhân khẩu đăng ký thường trú vào hệ thống Quản lý dân cư; quản lý tốt máy móc thiết bị, phương tiện được nâng cấp và ứng dụng phần mềm vào công tác đăng ký, quản lý cư trú theo đúng quy định; kịp thời giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân về cư trú, không để xảy ra tình trạng khiếu nại, phức tạp;

Bảy là, rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ công an các cấp, tăng cường cho công an cơ sở, chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ chiến sỹ về kiến thức pháp luật, nghiệp vụ. Bố trí cán bộ chiến sĩ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú và thực hiện dự án quản lý dân cư có năng lực, trình độ, nắm chắc chính sách pháp luật, có phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp, có tinh thần trách nhiệm trước công việc và nhân dân;

Tám là, đảm bảo về kinh phí, quan tâm đầu tư kinh phí, trang bị máy móc, phương tiện có trọng tâm, trọng điểm, nhằm từng bước thực hiện lộ trình tin học hóa công tác đăng ký, quản lý cư trú, phục vụ yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an nói riêng và yêu cầu quản lý xã hội nói chung.

Tiểu kết chương 1 Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Cư trú là một quyền hiến định của công dân, đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm vắng, lưu trú là quyền, đồng thời là nghĩa vụ của của công dân. Quản lý hành chính nhà nước về cư trú là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền nhằm bảo đảm an ninh cho công dân, nhà nước, xã hội, được pháp luật quy định. Pháp luật về cư trú là một chế định thuộc ngành Luật Hành chính, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về cư trú. Pháp luật về cư trú chỉ có ý nghĩa đích thực khi được thực hiện. Thực hiện pháp luật về cư trú thực chất là biến các quy định của pháp luật về cư trú thành các hoạt động của các chủ thể pháp luật về cư trú.

Tuy nhiên, thời gian qua, thực hiện pháp luật về cư trú trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều bất cập, vẫn vòn xảy ra tình trạng đăng ký cư trú khi chưa đủ thủ tục (thiếu đề xuất ý kiến bằng văn bản; không có giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp…); cấp giấy chuyển hộ khẩu không đúng thẩm quyền; cấp phiếu khai báo tạm vắng không đúng đối tượng (như: sinh viên, công dân đi làm ăn xa); việc trao đổi thông tin thay đổi về nhân khẩu, hộ khẩu cho nơi cấp giấy chuyển hộ khẩu và tàng thư căn cước công dân chưa thực hiện thường xuyên, dẫn đến tình trạng công dân có 02 nơi thường trú.

Trên cơ sở khoa học về thực hiện pháp luật về cư trú, học viên đi sâu phân tích thực trạng tại Chương 2 của luận văn. Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng thực hiện pháp luật về cư trú tại Quảng Ngãi

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi […]

trackback

[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về cư trú từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi […]

2
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993