Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với các loại hình kinh doanh khác, hộ kinh doanh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, cả nước có khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh, ước tính tổng tài sản trên 655 nghìn tỷ đồng, trên 2,2 triệu tỷ đồng doanh thu, đóng góp 34% GDP; nộp hơn 12 nghìn tỷ tiền thuế sử dụng; thu hút khoảng 7,9 triệu lao động; tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ (chiếm hơn 15% doanh thu của các tổ chức kinh doanh có đăng ký) cho xã hội… [32]
Nhấn mạnh tầm quan trọng của loại hình này, trong nội dung Nghị quyết Hội nghị, Đảng cũng nhấn mạnh “… Hộ kinh doanh đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước. Cùng với các loại hình kinh doanh khác, sự phát triển của hộ kinh doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục và hội nhập kinh tế quốc tế” .[16]
Tuy nhiên, thực tế hoạt động của hộ kinh doanh của Việt Nam hiện nay chưa phát huy được hết các tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh như: quy mô nhỏ; vốn ít; công nghệ lạc hậu; sức cạnh của hàng hóa thấp… Nguyên nhân do hộ kinh doanh chưa có kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường; chưa năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, cũng do chưa có một hệ thống khung pháp lý rõ ràng, ổn định từ phía Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát huy hết khả năng của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra là cần có các giải pháp hữu hiệu, thiết thực về tổ chức và hoạt động của hộ kinh doanh đảm bảo phù hợp với những điều kiện của nền kinh tế thị trường.
Theo số liệu thống kê năm 2019, tổng số hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 78.545 hộ, trong đó Huyện Krông Bông có 5972 hộ. Việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông cũng gặp một số bất cập. Một số trường hợp cá nhân muốn kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh nhưng không được phép cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh… Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Vấn đề đặt ra là tìm giải pháp điều chỉnh pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh như thế nào cho phù hợp với điều kiện của hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông nói riêng và nền kinh tế thị trường của nước ta nói chung.
Từ những vấn đề đặt ra từ những bất cập thực tế trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk , tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình nghiên cứu viết đề tài, tôi đã tham khảo các nghiên cứu của học giả, các tài liệu, các thống kê số liệu, tham khảo từ thầy cô và các anh, chị đi trước trong phạm vi đề tài “hộ kinh doanh”, bản thân tự nhận thấy: có rất nhiều tài liệu đề cập đến một số vấn đề về hộ kinh doanh như:
Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2016, đề cập đến lịch sử cũng như khái niệm của hộ kinh doanh tại nước ta, nhận định về hộ kinh doanh thông qua quy định pháp luật và chỉ ra đặc điểm của hộ kinh doanh.
Trong Giáo trình Luật kinh tế, của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006; Giáo trình luật dân sự; Giáo trình Luật thương mại, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006…; Báo cáo nghiên cứu “Chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng và khuyến nghị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2017.
Ngoài ra, cũng tìm thấy trong các bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý như: Bài viết của TS. Ngô Huy Cương đăng trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (Luật học 25, năm 2009) với chủ đề “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập, Tạp chí Luật học. Theo đó, tác giả đã tập trung nghiên cứu một vài bất cập của pháp luật điều tiết hộ kinh doanh ở mức độ khái quát nhất. Nhưng chỉ dừng lại ở việc tìm ra bất cập của pháp luật chứ tác giả mà không nêu ra các giải pháp hay kiến nghị để hoàn thiện pháp luật.
Luận văn thạc sỹ của học viên Hoàng Minh Sơn với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” năm 2012. Tác giả đã phân tích những quy định của pháp luật hiện hành (tại thời điểm viết) đối với hộ kinh doanh, đồng thời cũng ghi nhận những bất cập, tồn tại để từ đó đưa ra các đề xuất nhằm củng cố, tăng cường địa vị pháp lý của hộ kinh doanh; hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật kinh tế và chấn chỉnh việc thi hành luật một cách đồng bộ và thống nhất.
Luận văn thạc sỹ của học Viên Trần Ngọc Trà với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” năm 2016. Tác giả đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về hộ kinh doanh, nội dung quy định pháp luật hiện hành (tại thời điểm viết) bên cạnh đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện và thúc đẩy phát triển hộ kinh doanh.
Luận văn thạc sỹ của học viên Lê Thị Thảo với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2019. Với đề tài này tác giả đã nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường qua đó đánh giá, so sánh các quy định thông qua thực tế tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra các giải pháp cụ thể kiến nghị đến sự phát triển của khu vực này.
Trên các bài báo Báo điện tử như: Báo diễn đàn doanh nghiệp (2019), “TS Vũ Tiến Lộc: Cần “tấm áo pháp lý mới” cho hộ kinh doanh”. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Các thống kê số liệu hộ kinh doanh như: Trong Niên giám thống kê Tỉnh Đắk Lắk năm 2018, của Cục Thống kê Đắk Lắk, Nxb Thanh niên, 2018;
Niên giám thống kê Tỉnh Đắk Lắk năm 2019, của Cục Thống kê Đắk Lắk, Nxb Thanh niên, 2020, Tổng cục thống kê 2019….
Bên cạnh đó, quy định về hộ kinh doanh cụ thể nhất cũng chỉ nằm gọn trong một chương của Nghị định 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 9 năm 2015 về đăng ký hộ kinh doanh chứ không được quy định trực tiếp tại Luật nào được ban hành bởi Quốc hội.
Đặc biệt vào ngày 04/01/2021, Chính phủ ban hành nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp (có hiệu lực từ ngày 04/01/2021) đã có những quy đinh mới về hộ kinh doanh.
Tóm lại, lại các tài liệu, các tác giả đều chỉ ra đặc tính, bản chất, vị trí, vai trò của hộ kinh doanh trong tổng quan nền kinh tế của Việt Nam qua các thời kỳ; từ đó chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, để tìm ra các giải pháp hoàn thiện.
Tuy nhiên, tôi vẫn tâm đắc với đề tài: “Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk”. Bởi vì, huyện Krông Bông, một huyện vùng núi đang trong quá trình chuyển mình, phát triển khá nhanh.và đa dạng các ngành nghề kinh doanh thương mại – dịch vụ.Do vậy tôi mong muốn qua nghiên cứu sẽ kiến nghị UBND huyện Krông Bông triển khai thực hiện pháp luật kinh doanh tốt hơn, chặt chẽ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài thông qua việc so sánh, đối chiếu, phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực tiễn áp dụng các vấn đề pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động hộ kinh doanh để tìm ra những bất cập cần hoàn thiện;
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Từ việc phân tích thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk để đề xuất các giải pháp, các phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây:
- Các quan hệ xã hội có liên quan, về mô hình kinh doanh hộ kinh doanh hiện nay tại Việt Nam, pháp luật nước ngoài.
- Các quan điểm, các học thuyết pháp lý về hộ kinh doanh và vai trò của Nhà nước trong việc quy định các thủ tục, điều kiện thành lập hộ kinh doanh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Tập trung vào các cơ sở lý luận pháp lý liên quan đến hộ kinh doanh, thực trạng hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề về hộ kinh doanh đến thời điểm tháng 3 năm 2021.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận: Các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh doanh Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, bản chất và những đặc điểm của hộ kinh doanh, làm rõ những phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hoạt động của hộ kinh doanh.
Phương pháp hệ thống được sử dụng nhằm mục đích đánh giá thực trạng vị trí pháp lý của hộ kinh doanh ở Việt Nam để tìm ra những hạn chế.
Phương pháp thực tiễn để đánh giá tình hình thực tế nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn trước hết có ý nghĩa đối với bản thân người viết vì đây là cơ hội để người viết có thể tìm hiểu một cách đầy đủ về pháp luật liên quan đến hộ kinh doanh của Việt Nam cũng như nâng cao khả năng nghiên cứu pháp luật.Các kết quả liên quan đến luận văn này có giá trị tham khảo cho các nhà làm luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phân tích những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động của hộ kinh doanh, thực trạng tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk để tìm ra những hạn chế và đề ra những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt nam hiện nay từ thực tiễn tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk” bao gồm:
Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH
1.1. Khái niệm hộ kinh doanh
Khi tiến hành nghiên cứu một số cách định nghĩa của hộ kinh doanh theo quy định pháp luật của một số quốc gia phát triển, có nhiều tên gọi cho loại hình này và đây là một trong những hình thức kinh doanh tương đối phổ biến bởi sự đơn giản trong thủ tục, chi phí tham gia thị trường thấp vì những lợi ích đó mà loại hình này vẫn khá được ưu tiên và được các nhà lập pháp ở các quốc gia này quan tâm cụ thể:
Tại Hà Lan, mô hình hộ kinh doanh được xác định là mô hình doanh nghiệp một chủ (One-Man Business) có ít hơn 9 lao động, hoặc một cá nhân tự làm chủ, tự kinh doanh và không sử dụng bất cứ nhân viên nào. Theo quy định này có thể thấy hộ kinh doanh sẽ được gắn với mô hình doanh nghiệp và một chủ khi tiến hành kinh doanh được giới hạn số lượng lao động dưới 09 người và đặc biệt với mô hình này không sử dụng bất kì nhân viên nào, có thể hiểu cách định nghĩa này hộ kinh doanh được đánh đồng là một doanh nghiệp (một chủ) và sẽ không được thuê lao động cho mô hình vì thế có thể nghĩ ngay đến việc số lượng lao động này xuất phát từ chính là các thành viên trong gia đình của hộ kinh doanh.
Tại Singapore, hộ kinh doanh được coi như loại hình kinh tế doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship). Đây là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của một người hoặc một công ty, không có đối tác và chủ sở hữu có toàn quyền đối với cáchoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định này cũng được xác định là doanh nghiệp cá thể có sự đánh đồng nhất định về khái niệm cũng như về mặt sở hữu ở đây bao gồm cả cá nhân và công ty tức là hộ kinh doanh Singapore có thể được thành lập bởi một công ty khác, và chủ sở hữu có toàn quyền với loại hình này. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Theo đánh giá chung thì khái niệm về hộ kinh doanh ở một số quốc gia thường được định nghĩa một cách chung chung gắn liền với khái niệm doanh nghiệp từ đó có thể dẫn đến việc hiểu nhầm đi bản chất của hộ kinh doanh cũng như các yếu tố về trách nhiệm không được đề cập điều này sẽ dẫn đến các vấn đề như nhà làm luật phải có các văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc khi áp dụng tùy thuộc vào pháp luật mà có thể có sự giải thích ứng dụng khác nhau.
Trong nền kinh tế nước ta hộ kinh doanh là chủ thể kinh doanh chiếm số lượng đông đảo và được pháp luật thừa nhận bởi các quy định pháp luật, đối với chủ thể này có nhiều cách gọi khác nhau như: hộ cá thể, hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh dưới mỗi thời kì mỗi góc độ thì có những cách gọi khác nhau tuy nhiên về bản chất của hộ kinh doanh thì không có sự thay đổi.
Xét về phương diện ngôn ngữ, theo từ điển Tiếng việt năm 2003 thì“hộ” được hiểu là “đơn vị quản lí dân số gồm những người cùng ăn ở chung với nhau” và “kinh doanh” được hiểu là “việc tổ chức việc sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục sinh lợi”. Vậy hộ kinh doanh theo hai định nghĩa trên được hiểu là để chỉ những một nhóm người cùng ăn ở chung với nhau tại một địa điểm thực hiện việc tổ chức sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Hay nói cách khác là một nhóm người có thể hiểu đây là một gia đình có quan hệ huyết thống với nhau và thực hiện các công việc từ sản xuất đến mua bán và cung cấp dịch vụ trong hoạt động kinh doanh và mang bản chất thuần túy của hoạt động kinh doanh có thể thấy hộ kinh doanh cũng là một chủ thể tìm kiếm lợi nhuận. Qua cách nhìn nhận này có thể thấy những thiếu sót nhất định về khái niệm hộ kinh doanh như sau:
Một là, việc cho rằng hộ kinh doanh là tập hợp nhiều người cùng ăn ở chung với nhau tại một địa điểm bởi trên thực tế có những trường hợp chủ hộ kinh doanh là một cá nhân và chỉ có một cá nhân đứng ra hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy các quy định pháp luật.
Hai là, cách nhìn nhận vẫn chưa tồn tại một sự tự do nhất định của hộ kinh doanh như việc đề cập đến năng lực trong hoạt động kinh doanh và chế độ trách nhiệm.
Qua đây, cách nhìn dưới phương diện từ ngữ về hộ kinh doanh chỉ cung cấp một cách khái quát về khái niệm này mà vẫn chưa làm rõ những yếu tố mang tính chất nội tại của vấn đề và còn nhiều thiếu sót cho người nghiên cứu.
Xét về phương diện nghiên cứu lý luận, trích dẫn Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (2016), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức, trang 100: “Hộ kinh doanh là đơn vị quy mô nhỏ,không phải là doanh nghiệp nhưng cũng được thành lập đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh”. Dưới góc độ nhìn nhận này có thể thấy được người nghiên cứu đã đặt ra sự so sánh về quy mô và đánh giá hộ kinh doanh là một đơn vị có quy mô nhỏ đồng thời để có sự tách biệt khái niệm đã đề cập đến việc hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp để cho người nghiên cứu có nhìn nhận đúng đắn hơn, nhưng việc xác định hộ kinh doanh có quy mô nhỏ nhưng lại không đưa ra được yếu tố định lượng về mức độ để xét quy mô như các yếu tố về vốn, tài sản hay số lượng lao động sử dụng. Bên cạnh đó khái niệm đã dựa trên các căn cứ pháp luật để xác định hộ kinh doanh là đối tượng đăng kí theo quy định để tiến hành các hoạt động kinh doanh, vì khi căn cứ trên thực tế dễ dàng nhận thấy rằng nhiều “hộ gia đình” tiến hành hoạt động kinh doanh mang bản chất của hộ kinh doanh nhưng không tiến hành đăng kí hay không đủ điểu kiện thì vẫn không được xem là hộ kinh doanh.
Xét về góc độ lịch sử lập pháp của nước ta có thể thấy có thể khái niệm “hộ kinh doanh” không gọi thống nhất ngay từ đầu mà mỗi thời kì thì khái niệm này lại có những tên gọi khác nhau. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Đặc biệt, Hiến pháp 1992 ghi nhận về quyền tự do kinh doanh của công dân Việt Nam là một bước ngoặt lớn cho sự ra đời, phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có mô hình cá nhân kinh doanh. Mô hình này thời điểm đó có mục tiêu quan trọng nhằm xóa đói, giảm nghèo và được gọi với những tên khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội qua các thời kỳ, như: Tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa, hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, hộ kinh doanh. Dưới mỗi thời kì mỗi góc độ thì có những cách gọi khác nhau tuy nhiên về bản chất của hộ kinh doanh thì không có sự thay đổi.
Luật Doanh nghiệp 1999 và các Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 và Nghị định số 109/2004/ NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh đã quy định Hộ kinh doanh tồn tại như hình thức kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ gia đình (gồm các thợ thủ công, người làm dịch vụ nhỏ) được phép kinh doanh sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy môn bài; tuy nhiên không được phép thuê lao động thường xuyên (sau đó đã bãi bỏ).
Luật Doanh nghiệp 2005 được ra đời nhằm giải quyết những khúc mắc cũng như dần hoàn thiện các quy định của loại hình doanh nghiệp cũng không đề cập đến khái niệm hộ kinh doanh nhưng lại có đề cập tại khoản 4, Điều 170: “Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp” tức là đã gián tiếp thừa nhận rằng hộ kinh doanh là các cơ sở kinh doanh có quy mô sử dụng lao động thường xuyên dưới mười người và đối với các hộ kinh doanh sử dụng từ mười lao động trở lên phải chuyển đổi loại hình sang doanh nghiệp. Tại khoản 1, Điều 36 Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng kí kinh doanh đã đưa ra khái niệm về hộ kinh doanh như sau “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Luật Doanh nghiệp 2014 của Quốc Hội ra đời ngày 26 tháng 11 năm 2014 và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đăng kí kinh doanh ngày 14 tháng 9 năm 2015 là cuộc cách mạng lớn trong thủ tục thành lập doanh nghiệp nói chung trong đó có hộ kinh doanh.
Khoản 1, điều 66, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP quy đinh: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.” Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia thành ba loại căn cứ vào chủ thể tạo lập ra nó:
- Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ;
- Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ;
- Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ.
Đối với nhóm chủ thể là “cá nhân” khi thành lập hộ kinh doanh ở nước ta hiện nay được gắn với yếu tố quốc tịch tức là pháp luật nước ta chỉ thừa nhận rằng hộ kinh doanh là một chủ thể kinh doanh nhưng chỉ được áp dụng cho đối tượng là công dân Việt Nam cũng như các đối tượng là các nhà đầu tư nước ngoài khi tiên hành kinh doanh ở nước ta phải lựa chọn hình thức khác mà pháp luật về Doanh nghiệp cũng như Luật Đầu tư yêu cầu. Bên cạnh đó là việc yêu cầu đối với hai điều kiện đối với chủ thể này đó là yêu cầu về tuổi và năng lực hành vi dân sự đây là một trong những yêu cầu phù hợp với pháp luật về Dân sự ở nước ta, bởi một cá nhân khi tiến hành thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình thì một điều bắt buộc là các chủ thể phải tiến hành tham gia các quan hệ dân sự để đảm bảo các giao dịch cũng như sự thống nhất trong quan hệ pháp luật.
Tại Nghị định 78 cũng quy định Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ. Đối với nhóm chủ thể là “nhóm người” gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ mới dừng lại ở việc cho phép “một nhóm người” được đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh mà chưa có nhiều quy định cụ thể liên quan đến chế độ chịu trách nhiệm của các cá nhân trong nhóm và chế độ quản trị hộ kinh doanh.
Tại khái niệm này đã bổ sung thiếu xót ở quy định trước đây bằng việc xác định thông qua yếu tố “đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Bên cạnh đó các yêu cầu về số lao động dưới mười, đăng kí tại một địa điểm và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình vẫn được giữ nguyên. Đặc biệt là quy định về không có con dấu đã được loại bỏ trong quy định này điều này dựa trên tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014 bởi tính chất pháp lí của con dấu đã được các nhà làm luật có lộ trình bãi bỏ để nhằm hạn chế những thực tiễn phát sinh từ con dấu. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Về số lượng thành viên, tuy luật và các Nghị định không quy định nào về hạn chế số lượng thành viên trong một nhóm nhưng nếu sử dụng hơn mười lao động thì hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp.
Tổng quan cho thấy “Hộ kinh doanh như một chủ thể doanh nghiệp không tồn tại trong Luật Doanh nghiệp hiện hành nhưng hộ kinh doanh thực chất đã có tư cách pháp lý trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật từ rất lâu rồi”[19]
Với nhóm chủ thể này theo Nghị định số 78/2015/NĐ – CP về đăng kí kinh doanh thì không đưa ra cũng như có sự hướng dẫn nào về khái niệm “nhóm người”. Nhìn nhận chung có thể thấy việc nhà làm luật đưa chủ thể này vào một trong ba nhóm có quyền đăng kí thành lập hộ kinh doanh theo quy định của Chính phủ nhằm mục đích thúc đẩy kinh doanh và phát triển loại hình hộ kinh doanh ở nước ta khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh phát triển và tạo ra nguồn thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống địa phương. Tuy nhiên việc mở rộng nhưng không kèm theo các quy định hay hướng dẫn lại làm khó cho các chủ thể khi tiến hành đăng kí kinh doanh hoặc cách xác định. Căn cứ vào các quy định mà tác giả đã tìm hiểu hiện nay thuật ngữ “nhóm người” chưa có sự định hình cụ thể cũng như cách xác định cũng chưa có căn cứ cụ thể việc xác định một nhóm người thì sẽ bao gồm nhiều tiêu chí để xác định như việc xác định số lượng người của nhóm, có giới hạn hay không? Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn bởi pháp luật Việt Nam quy định về qui mô tổ chức của hộ kinh doanh theo đó pháp luật đã quy định rằng hộ kinh doanh sử dụng dưới mười lao động, có thể thấy hộ kinh doanh quy định về việc số lao động giới hạn của hộ kinh doanh nhằm định hình quy mô của hộ kinh doanh nhưng lại không quy định về số lượng cụ thể mà nhóm người có thể đăng kí thành lập hộ kinh doanh và việc các cá nhân trong nhóm này có được tính vào số lao động động làm việc tại hộ kinh doanh hay không. Theo quan điểm của Bộ luật lao động 2012 thì khái niệm người lao động được định nghĩa là “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”, nếu nhìn nhận theo khái niệm này thì người lao động trong hộ kinh doanh và số người trong hộ kinh doanh (bao gồm người lao động và chủ hộ) có sự khác biệt. Bởi chủ thể thành lập hộ kinh doanh phải đủ điều kiện về tuổi, năng lực và đồng thời đây là những người sử dụng lao động vào mục đích của hộ kinh doanh, nên có sự khác biệt so với người lao động sử dụng trong hộ. Khi phân tích quy định này tác giả thấy hai vấn đề như sau:
Thứ nhất, hộ kinh doanh bắt buộc phải sử dụng dưới mười lao động, vậy nếu nhóm người thành lập hộ kinh doanh theo quy định trên thực hiện các công việc trong hộ có phải chuyển đổi hình thức lên loại hình doanh nghiệp hay không.
Thứ hai, khi quy chiếu chế độ trách nhiệm trong nhóm người đăng kí thành lập hộ kinh doanh này sẽ phải thuộc điều chỉnh của quan hệ pháp luật Dân sự trong khi không có bất kì ràng buộc pháp lý nào.
Việc bỏ ngõ các quy định mặc dù đưa ra đã tạo nên những bất cập cho pháp luật về hộ kinh doanh, có thể thấy do không có quy định và sự phân định rõ ràng thì các hộ kinh doanh có nguy cơ thành lập hộ kinh doanh cho “nhóm người” và thực hiện các hoạt động kinh doanh quá số người lao động mà pháp luật cho phép. Đương nhiên thì các hộ kinh doanh này không thể nói là vi phạm bởi không có bất kì quy định nào hướng dẫn rõ ràng nhưng khi so sánh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng địa bàn cũng như sự thiếu xót mà được đông đảo hộ kinh doanh áp dụng thì thực sự là một vấn đề.
Đối với chủ thể cuối cùng, hộ kinh doanh do một hộ gia đình làm chủ: Chủ thể hộ gia đình là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam vì hộ gia đình không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân mà tập hợp các thành viên có tài sản chung. Do đó hộ kinh doanh không hoàn toàn là thương nhân thể nhân. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình” không dễ xác định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Song “hộ gia đình” không bao gồm tất cả các thành viên có các mối quan hệ đó với nhau. Được xem là thành viên của hộ gia đình cần phải có hai điều kiện:
- Điều kiện quan hệ (điều kiện cần), thể hiện qua việc hoặc có quan hệ hôn nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng;
- Điều kiện chung sống (điều kiện đủ), có nghĩa là cùng trú ngụ ở một nơi hoặc cùng kiếm sống dựa vào cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên số lượng các thành viên thuộc hộ gia đình có thể biến động, vì vậy gây khó khăn không ít cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan[27]
Đây là một chủ thể đặc biệt trong pháp luật Dân sự ở nước ta, qua các thời kì và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đặt hộ gia đình một vị trí quan trọng theo đó gia đình ở nước ta được xác định là một tế bào của xã hội, nền tảng và cơ sở thúc đẩy phát triển nên luôn nhận được sự quan tâm, bên cạnh đó do yếu tố văn hóa lịch sử Á – Đông nói chung mà gia đình được định hình với vai trò cực kì quan trọng cho sự phát triển của xã hội. Do đó mà không ngạc nhiên khi đây là một chủ thể được thành lập hộ kinh doanh, tuy nhiên khi nhìn nhận dưới góc độ pháp lí thì hộ gia đình là một chủ thể cũng gây không ít khó khăn cho quy định pháp luật về hộ kinh doanh. Bởi hộ gia đình được xác định là chủ thể của quan hệ dân sự được cụ thể hóa bằng các quy định của các bộ luật dân sự trước đó mà cụ thể là tại điều 116 BLDS 1995 và điều 106 BLDS 2005 và hiện nay là sự ra đời của BLDS 2015 thì vẫn giữ nguyên và xác định hộ gia đình là một đối tượng của quan hệ dân sự nhưng khái niệm về hộ gia đình khi thành lập hộ kinh doanh cũng có nhiều vấn đề đặt ra:
Theo pháp luật dân sự thì hộ gia đình không phải là một cá nhân và càng không thể hiện được dấu hiệu hay bản chất của pháp nhân mà đây là một đối tượng như tác giả đã đề cập là một chủ thể “đặc biệt” trong pháp luật nước ta được định nghĩa ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như trong Luật đất đai 2013 :“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”, thì hộ gia đình được xác định trên ba yếu tố là hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng tuy nhiên nhìn nhận này lại không thỏa đáng. Hiện nay các quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi khá nhiều quy định tạo nên đặc điểm của hộ gia đình như BLDS 2005 như tài sản, huyết thống, nuôi dưỡng, cùng sống chung tại một địa điểm. Tuy nhiên lại không đưa ra các dấu hiệu cụ thể để định hình điều này dẫn đến việc khi tiến hành thành lập hộ kinh doanh mà hộ gia đình làm chủ trong thực tiễn tư pháp cũng như thực hiện quy định pháp luật ở Việt Nam ở nước ta các cơ quan thường thông qua sổ hộ khẩu. Có thể thấy rằng việc xác lập một hộ gia đình đồng ý thành lập nên hộ kinh doanh thông qua sổ hộ khẩu không mang ý nghĩa tất cả thành viên trong gia đình đồng ý hay việc họ có cùng sinh sống, tạo lập tài sản chung hay không, ngoài ra việc các thành viên trong gia đình cũng không có ý nghĩa họ cùng kiếm sống. Vì việc xác lập số lượng thành viên trong gia đình thực sự quan trọng bởi khi tiến hành giải quyết các tranh chấp, nghĩa vụ của hộ kinh doanh về sau thì các thành viên phải chịu những trách nhiệm chung về hoạt động kinh doanh của hộ. Khi liên hệ vấn đề về chủ thể thành lập hộ kinh doanh ở “nhóm người” và “hộ gia đình” với các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về quyền khởi kiện trong vụ án dân sự sẽ thấy rằng luôn có sự đề cập đến ba chủ thể là: cá nhân, tổ chức, và cơ quan bên cạnh đó quy định “Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” thông qua việc xác định tư cách cũng như phân tích chủ thể đăng kí thành lập hộ kinh doanh ở nước ta hiện nay đối với hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ thì các trách nhiệm cũng như tư cách pháp lý luôn gắn với chủ hộ gia đình chứ không có sự gắn kết tất cả thành viên trong hộ, đối với trường hộ nhóm người làm chủ thì các cơ sở để tiến hành giải quyết các tranh chấp thông qua tòa án cũng có những khó khăn. Vì thế tác giả thấy rằng việc xác lập về mặt chủ thể có quyền đăng kí thành lập hộ kinh doanh có sự tác động không nhỏ đến các vấn đề pháp lý liên quan.
Trong phiên họp sáng 17/6/2020, Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Theo đó, Quốc hội đã thống nhất không đưa hộ kinh doanh vào quy định trong Luật này để xây dựng một luật riêng.
Thay vào đó ngày 04/01/2021 Nghị định đầu tiên của chính phủ trong năm 2021 đã được ban hành, thay thế cho Nghị định 78/2015/NĐ-CP là Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh. Khoản 1, điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP quy định về hộ kinh doanh như sau: Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
“Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.”
Từ khái niệm trên có thể thấy sự thay đổi lớn về chủ thể tạo lập hộ kinh doanh so với nghị định 78. Chủ thể “hộ gia đình” và “một nhóm người” đã được thay đổi thành “các thành viên hộ gia đình”. Việc bỏ cụm từ “một nhóm người” ra khỏi khái niệm HKD giúp việc xác định chủ thể dễ dàng hơn nhiều, nội hàm của chủ thể tạo lập HKD chỉ còn là cá nhân và rộng hơn là hộ gia đình mà thôi. Ngoài ra khái niệm cũng quy định cụ thể luôn trong trường hợp chủ thể tạo lập HKD là các thành viên trong hộ gia đình thì việc đăng ký thành lập HKD ủy quyền cho một thành viên trong hộ gia đình làm đại diện đại diện của hộ kinh doanh. Ngược lại nếu cá nhân đăng ký HKD thì người này phải là chủ hộ kinh doanh, là người được các thành viên trong hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh.
Ngoài ra khái niệm HKD trong Nghị định 01/2021/NĐ-CP đã bỏ quy định HKD “chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động”. Khái niệm chỉ bao hàm chủ thể xác lập HKD và trách nhiệm của họ đối với hoạt động của HKD được bảo đảm bằng toàn bộ tài sản của họ. Còn việc HKD được đăng ký kinh doanh tại một hay nhiều địa điểm và số lao động HKD được sử dụng là bao nhiêu đã được thay thế bằng hai điều luật mới.
Khoản 2 Điều 86 Nghị định 01/2021/NĐ-CP đã chính thức cho phép hộ kinh doanh hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm, cụ thể:
Một hộ kinh doanh có thể hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm nhưng phải chọn một địa điểm để đăng ký trụ sở hộ kinh doanh và phải thông báo cho Cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi tiến hành hoạt động kinh doanh đối với các địa điểm kinh doanh còn lại.
Dù hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm nhưng hộ kinh doanh phải lựa chọn một địa điểm để đăng ký trụ sở chính.
Theo Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP, hộ kinh doanh chỉ có tối đa 10 lao động. Nếu trên mức này, hộ kinh doanh bắt buộc phải chuyển đổi thành doanh nghiệp. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Tuy nhiên, khi Nghị định 01/2021 được ban hành đã không hề nhắc gì đến quy định giới hạn này.
Cụ thể, theo Điều 79, Nghị định 01/2021/NĐ-CP, hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ.
Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy, từ 04/01/2021, hộ kinh doanh không bị giới hạn số lượng lao động như trước đây.
Có thể thấy khái niệm hộ kinh doanh qua mỗi thời kì, mỗi văn bản pháp luật lại có cách phân tích, định nghĩa khác nhau. Nhưng dù được gọi tên hay việc đề cập thì khái niệm này cũng có những đặc trưng riêng, mang bản chất kinh tế của Việt Nam. Việc định nghĩa hộ kinh doanh mới nhất theo Nghị định 01/2021/NĐ-CP đã có sự mô tả chi tiết, các yêu cầu một cách đầy đủ và thống nhất so với các văn bản pháp luật, từ đó sẽ giúp cho người đăng kí, người nghiên cứu có sự nắm bắt, hiểu rõ về khái niệm này.
1.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh
1.2.1. Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân
Hộ kinh doanh do một cá nhân thành lập có bản chất là cá nhân kinh doanh, do đó không thể là pháp nhân. Trường hợp hộ kinh doanh được tạo lập bởi các thành viên hộ gia đình, thì hộ kinh doanh có bản chất là hộ gia đình kinh doanh. Do đó hộ kinh doanh cũng không phải là pháp nhân.
Khái niệm pháp nhân tại Bộ luật Dân sự 2015 của Quốc Hội thì một tổ chức được công nhận là một pháp nhân khi đáp ứng đủ bốn yếu tố: (i) Được thành lập theo theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan; (ii) có cơ cấu tổ chức theo điều 83 của Bộ luật Dân sự 2015; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (iv) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. [2]
Mặt khác, đối với hộ kinh doanh thì tài sản của chủ hộ kinh doanh và hộ kinh doanh là một, không có sự tách biệt rõ ràng, vì vậy hộ kinh đã không đáp ứng được yêu cầu để được công nhận là một pháp nhân.
Thực tế cho thấy hộ kinh doanh có những đặc điểm của một tổ chức nhưng vẫn chưa thể đáp ứng là một tổ chức bởi sự phân công, cơ cấu, phân bổ nhiệm vụ một cách rõ ràng mà chủ yếu được xác lập trên cơ sở hành vi của chủ hộ kinh doanh. Theo Nghị định 01/2021/NĐ-CP thì Chủ hộ kinh doanh có thể thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh.[21] Chủ hộ kinh doanh, các thành viên hộ gia đình tham gia đăng ký hộ kinh doanh chịu trách nhiệm đối với các hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. [21] Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Mặc dù theo khái niệm HKD mới nhất theo Nghị định 01 thì đã quy định rõ HKD có người làm đại diện là chủ hộ kinh doanh, (đối với trường hợp cá nhân tạo lập HKD) và là một thành viên HKD được các thành viên khác ủy quyền (đối với trường hợp các thành viên hộ gia đình tạo lập HKD) nên khi đặt địa vị của hộ kinh doanh trong quan hệ pháp luật thì chủ hộ kinh doanh bao gồm hai đối tượng này có thể nhân danh hộ kinh doanh tham gia các quan hệ pháp luật được . Vì khi tiến hành tham gia vào các quan hệ pháp luật thì “Chủ hộ kinh doanh đại diện cho hộ kinh doanh với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.[21] Vì vậy mặc dù thỏa mãn được điều kiện nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật nhưng các điều kiện còn lại chưa thỏa mãn nên HKD không có tư cách pháp nhân. Hộ kinh doanh do một cá nhân (là công dân Việt Nam) hoặc một hộ gia đình làm chủ cùng nhau quản lý, phát triển mô hình và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Đối với hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ thì cá nhân chủ hộ kinh doanh có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh. Đối với hộ kinh doanh do thành viên hộ gia đình làm chủ thì hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh do các thành viên trong hộ gia đình quyết định hộ gia đình cử một người đại diện cho hộ để tham gia các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, về chủ thể quá trình hoạt động hộ kinh doanh có những thuận lợi, như: dễ thành lập và vay vốn, quy mô gọn nhẹ phù hợp với cá nhân kinh doanh; quyết định các vấn đề kinh doanh nhanh gọn, dễ thay đổi ngành nghề; chế độ chứng từ sổ sách kế toán đơn giản, phù hợp với cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ và không phải kê khai thuế hàng tháng [15] nhưng so với doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác quy mô nhỏ lẻ có tính chất manh mún; lợi nhuận ít và dể rủi ro.
1.2.2. Chủ hộ kinh doanh, thành viên hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh
Cũng tại khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2020/NĐ-CP, “cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ”. Nói cách khác, khi phát sinh khoản nợ hay nghĩa vụ tài chính, cá nhân hoặc các thành viên phải chịu trách nhiệm trả hết nợ, không phụ thuộc vào số tài sản mà họ đang có và đưa vào kinh doanh; không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã chấm dứt thực hiện hoạt động kinh doanh.
Trách nhiệm của hộ kinh doanh là vô hạn, tức là hộ kinh doanh sẽ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ hộ kinh doanh, của thành viên hộ kinh doanh với kết quả kinh doanh của hộ kinh doanh hoặc với các giao dịch về kinh doanh, nghĩa vụ này không mất đi hộ kinh doanh giải thể mà sẽ gắn với chủ hộ kinh doanh cho đến khi giải quyết được các vấn đề của nghĩa vụ đó. “Nếu hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, thì người ta có thể qui kết ngay rằng cá nhân làm chủ đó phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh ngoài việc đưa tài sản kinh doanh ra để trả nợ, bởi trong trường hợp này hộ kinh doanh có bản chất là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân”[4]
Mặt khác khi nhìn nhận vào thực tế thì sẽ thấy việc kinh doanh của một số hộ kinh doanh có thể xảy ra những tình huống về số nợ lớn hơn các tài sản đưa vào kinh doanh của hộ gia đình thì các thành viên của hộ kinh doanh phải lấy cả những tài sản riêng của chính mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bởi vì, hộ kinh doanh không phải là một thực thể độc lập, tách biệt với chủ sở hữu nên về nguyên tắc chủ hộ kinh doanh phải có trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của hộ kinh doanh hay nói cách khác là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình kể cả các tài sản không đưa vào kinh doanh. Do đó, nếu phải thực hiện nghĩa vụ nợ, cá nhân là chủ HKD hay thành viên hộ gia đình sẽ phải dùng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ này và trong trường hợp này nếu chủ nợ yêu cầu cá nhân và các thành viên tham gia phải chịu trách nhiệm là đúng với quy định pháp luật. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Theo Khỏan 3, điều 81, Nghị định 01/2021/NĐ-CP: “Chủ hộ kinh doanh có thể thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Trong trường hợp này, chủ hộ kinh doanh, các thành viên hộ gia đình tham gia đăng ký hộ kinh doanh vẫn chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác phát sinh từ hoạt động kinh doanh”.
Như vậy, cũng giống như doanh nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh trong công ty hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn, nếu tài sản kinh doanh không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải lấy cả tài sản không đầu tư vào hộ kinh doanh để thực hiện. Tuy nhiên, khác với Doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm vô hạn của hộ kinh doanh có sự phân tán rủi ro cho nhiều thành viên, tất cả các thành viên phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của hộ kinh doanh (tương tự các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh).
1.2.3. Nghề nghiệp mang tính chất thường xuyên
Khoản 2 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP nêu rõ, Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương.
Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên, nghĩa là hộ kinh doanh hoạt động một cách chuyên nghiệp và các khoản thu nhập chính đều phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh này.
1.2.4. Hộ kinh doanh là một loại hình chủ thể kinh doanh nhưng không phải là một loại hình doanh nghiệp Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Theo Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (2016), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức: “chủ thể kinh doanh là những tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi kinh doanh, hay nói cụ thể là các hành vi vì mục đích sinh lợi, tìm kiếm lợi nhuận”. Có thể thấy hộ kinh doanh chính là một chủ thể kinh doanh vì hộ kinh doanh cũng được thành lập bởi chủ thể có đủ điều kiện, thực hiện các hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Hộ kinh doanh là một hình thức pháp lý của chủ thể kinh doanh. Hộ kinh doanh cùng với các loại hình doanh nghiệp, thương nhân, tổ chức kinh tế … là chủ thể trong kinh doanh.
Trong phiên họp sáng 17/6/2020, Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Theo đó, Quốc hội đã thống nhất không đưa hộ kinh doanh vào quy định trong Luật này để xây dựng một luật riêng. Về lý do không quy định hộ kinh doanh vào luật do xét về bản chất, hộ kinh doanh được coi là một hình thức kinh doanh khác biệt với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần. Việc quy định hộ kinh doanh vào dự thảo Luật sẽ dẫn đến phải mở rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cho một chủ thể mới. Bên cạnh đó, số lượng về đối tượng chịu tác động là hộ kinh doanh rất lớn, cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá thực tiễn và tham vấn để hoàn thiện khung khổ pháp luật, tương tự như các hợp tác xã quy định tại Luật Hợp tác xã.
Theo khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp sửa đổi bổ sung số 59/2020/QH14 thì “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Còn hộ kinh doanh cũng là đơn vị kinh doanh có đăng kí, có tên riêng nhưng phạm vi bảo hộ tên hiện nay chỉ ở cấp huyện so với phạm vi trên cả nước như doanh nghiệp. Khi nhìn nhận về mặt tổ chức thì có thể thấy hộ kinh doanh không đáp ứng các yếu tố là một tổ chức kinh tế độc lập, trong hộ kinh doanh thông thường chỉ do một người hoặc vài người là chủ hộ kinh doanh hoặc thành viên trong gia đình đứng ra quản lí hoạt động kinh doanh, việc sử dụng lao động thuê và phân công lao động mang tính đơn giản. Các hoạt động của hộ kinh doanh có sự lệ thuộc lớn bởi hành vi của chủ hộ bởi khi đứng thực hiện các hoạt động kinh doanh khó có sự phân định giữa cá nhân hay hộ kinh doanh mà thực hiện.
Hộ kinh doanh không có đủ tư cách pháp nhân, không có hình dấu tròn, không cần vốn pháp định, theo chế độ thuế khoán, không viết hóa đơn GTGT, không làm báo cáo tài chính cho sở thuế. Trong khi đó doanh nghiệp thì được pháp luật quy định rất rõ ràng và chặt chẽ về số vốn, chế độ thuế và dấu tròn doanh nghiệp và được ký kết các hợp đồng kinh tế.
Với những điểm nổi bật trên thì có thể thấy rằng hộ kinh doanh là một loại hình chủ thể kinh doanh nhưng không phải là một loại hình doanh nghiệp. Theo Nghị định mới thì hộ kinh doanh không còn là loại hình kinh doanh với quy mô nhỏ vì đã được quy định được hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm và không giới hạn số lượng sử dụng người lao động, hộ kinh doanh là một phần không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân, đem lại thu nhập không nhỏ cho người lao động.
1.3. Vai trò của hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Số hộ kinh doanh năm 2019 tiếp tục tăng về số lượng và duy trì xu hướng dịch chuyển từ ngành công nghiệp và xây dựng sang ngành thương mại, dịch vụ. Tại thời điểm 1/7/2019, có 5,4 triệu hộ kinh doanh trên phạm vi cả nước, tăng 3,5% so với cùng thời điểm năm 2018, trong đó số lượng hộ kinh doanh hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ chiếm 82,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,9%. Số lao động làm việc trong các hộ kinh doanh năm 2019 là 9 triệu lao động, tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm 2018, trong đó số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ chiếm 74,1%; số lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,9%. Lao động bình quân trong một hộ kinh doanh năm 2019 là 1,7 lao động, tương đương năm 2018.[25]
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay với sự hội nhập và phát triển của nhiều thành phần kinh tế đối với mỗi thành phần thì lại có những lợi thế để các chủ thể lựa chọn. Tuy nhiên nhìn nhận về bối cảnh lịch sử cũng như sự phát triển kinh tế của Việt Nam thì hộ kinh doanh đóng một vai trò không hề nhỏ, vốn có nguồn gốc lâu đời với sự hình thành của nhiều ngành nghề truyền thống và các ngành nghề hiện đại thì số lượng hộ kinh doanh hiện nay đang có một số lượng khá đông đảo mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ chuyển đổi sang các loại hình doanh nghiệp để thống nhất trong quản lý và pháp luật. Tuy nhiên số lượng hộ kinh doanh trong những năm qua vẫn đã và đang tăng chứng tỏ loại hình này vẫn mang lại những lợi thế để được người dân lựa chọn. Có thể thấy đối với hộ kinh doanh nắm giữ nhiều vai trò đối với các vấn đề kinh tế xã hội ở nước ta như
Thứ nhất, hộ kinh doanh giải quyết các vấn đề lao động việc làm: Theo Niên giám thống kê năm 2019 của Tổng cục thống kê thì số lao động làm việc trong khu vực HKD tăng nhanh theo thời gian, từ trên 7,9 triệu người năm 2015 tăng lên 9 triệu người năm 2019 (tăng 12,2%).Có thể thấy với số lượng lớn và quy mô nhỏ nhưng hộ kinh doanh đóng góp không nhỏ trong việc sử dụng nguồn nhân lực tại địa phương để phát triển nhằm tạo ra thu nhập cải thiện cuộc sống cho người dân.
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể thu hút được khá nhiều vốn nhàn rỗi trong nhân dân, do quy mô nhỏ nên các hộ kinh doanh có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các cá nhân đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Chính nhờ có những hộ kinh doanh này nên những người nghèo mới tiếp cận được với các hàng hoá dịch vụ sớm hơn, nhanh hơn và với giá bình dân hơn. Hơn nữa, khu vự này còn là nơi tiếp nhận những người lao động không đủ trình độ tiêu chuẩn làm việc trong khu vực doanh nghiệp, khu vự hành chính sự nghiệp chuyển đến.
Thứ hai, hộ kinh doanh giúp bảo tồn những ngành nghề truyền thống, những thương hiệu có yếu tố lịch sử lâu đời: đa số các hộ kinh doanh trong một số lĩnh vực như hàng thủ công mĩ nghệ, thực phẩm, ẩm thực… đều giữ nguyên mô hình kinh doanh là hộ kinh doanh thay vì việc chuyển đổi nhượng quyền để hình thành các chuỗi cửa hàng. Chính những yếu tố này đã tạo nên bản sắc riêng và sự đặc trưng của những thương hiệu này một phần đóng góp vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa nước nhà. Ngoài ra hộ kinh doanh còn tạo nên sự đa dạng các loại hàng hóa, mẫu mã và chất lượng.
Thứ ba, hộ kinh doanh đóng góp đối với nền kinh tế quốc dân Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy giảm tăng trưởng, thì hộ kinh doanh vẫn luôn giữ một vị thế quan trọng trong đóng góp phát triển kinh tế nói chung đặc biệt là trong những năm qua khi việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, hội nhập kinh tế, du lịch thì các hộ kinh doanh ở các lĩnh vực này đã tối ưu hóa được vai trò và vị thế của mình. Lượng vốn được đầu tư vào hộ kinh doanh, nhất là hộ kinh doanh ngành dịch vu vẫn tiếp tục duy trì vớ tỷ trọng cao. Qua đó có thể tin tưởng rằng, hộ kinh doanh vẫn là nơi huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân ở một số ngành, lĩnh vực và là một kênh đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế.
Thứ tư, Hộ kinh doanh có vai trò đáng kể trong tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vu cho xã hội, trực tiếp đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.HKD chỉ nắm giữ 3% tổng nguồn vốn kinh doanh, nhưng chiếm tới hơn 13% doanh thu của các tổ chức kinh doanh có đăng ký (gồm HKD và các DN chính thức). Trong một số ngành như bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ôtô, mô tô, xe máy và xe có động cơ… tỷ lệ này ở mức cao hơn, đạt trên 21%.[30]
Thứ năm, hiệu quả sử dụng các nguồn lực của HKD ngày càng nâng cao,tác động tích cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế. Hầu hết nguồn vốn sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh đến từ cá nhân hoặc gia đình của chủ hộ – tức vốn huy động trực tiếp từ người dân. Năm 2013, hộ kinh doanh sử dụng 1 đồng vốn kinh doanh để tạo ra trên 3 đồng doanh thu, cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp chính thức nói chung (0,7 đồng), DNNN (0, đồng), doanh nghiệp ngoài nhà nước (0,7 đồng), doanh nghiệp FDI (0,9 đồng)[3].
Thứ sáu, tạo nên sự đa dạng các loại hàng hóa, mẫu mã và chất lượng: vốn mang yếu tố truyền thống cộng với sự hội nhập và phát triển trên nền tảng lịch sử các hộ kinh doanh có thể phát triển của nhiều mặt hàng đa dạng và là một lợi thế mà các doanh nghiệp hiện đại khó mà có được. Bên cạnh đó khi tham gia vào các lĩnh vực trong thị trường thì hộ kinh doanh cũng đóng vai trò nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm tạo nên sự cải tiến và phát triển chất lượng sản phẩm.
Tiểu kết Chương 1 Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
Việt Nam đang trên đà hội nhập nên chịu rất nhiều sức ép từ các nền kinh tế bên ngoài vì thế Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong kinh doanh phát triển. Hộ kinh doanh được thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau ua các thời kỳ nhưng vẫn thể hiện được bản sắc vốn có của một thành phần kinh tế có nguồn gốc lâu đời và mang màu sắc rất riêng của Việt Nam.
Vì thế tại Chương 1, tác giả đã trình bày một cách tổng quan các khái niệm hộ kinh doanh dưới nhiều góc độ khác nhau thông qua các quy định pháp luật các thời kỳ ở Việt Nam. Từ đó làm rõ được các đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh. Đồng thời nhận thức về vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Hộ kinh doanh đã đóng góp cho nền kinh tế nói chung mà còn ghi nhận những đóng góp thầm lặng trong việc giải quyết việc làm nhàn rỗi cho người lao động góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Đắk Lắk […]