Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

LỜI MỞ ĐÂU

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh tế. Đặc biệt trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế dưới 10%, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 4/2021 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2021- 2005) là nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 2015, tăng tỷ trọng nông lâm- ngư nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành dịch vụ 41- 42%. Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền kinh tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần khoảng 30-35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước, của ngành ngân hàng mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu… thì hiện nay chúng ta đang áp dụng loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.

Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2018, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng, thúc đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung tại Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước.

Do loại hình cho thuê còn mới mẻ nên việc nghiên cứu nội dung hoạt động, môi trường kinh doanh, cơ cấu tổ chức… và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động này tại Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là hết sức cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực tập tại Công ty em đã chọn đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

Chuyên đề gồm ba chương:

  • Chương I: Tiếp cận hoạt động cho thuê tại các Công ty Cho thuê Tài chính.
  • Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
  • Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty cho thuê tài chính I.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Ngành Tài Chính Ngân Hàng

Chương I: Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản.

Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra trong hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, đất ruộng…

Vào khoảng năm 1700 tr.C.N, vua Babilon là Hamnurabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có đưa ra những quy định về hoạt động cho thuê tài sản.

Trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp- La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay đã gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỉ trước.

Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.

Đầu thế kỉ XIX, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, giao dịch thuê mua đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kì. Nguyên nhân của sự phát triển này là do sự hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch.

Nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần (Net lease) hay thuê tài chính (Finance lease), thuê tư bản (Capital lease) đã được sáng tạo ra trước tiên ở Hoa Kì. Đó là sự ra đời của công ty tư nhân United States Leasing Corporation. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Sau đó nghiệp vụ leasing phát triển sang châu Âu và đã được ghi vào luật thuê mua của Pháp (năm 1960) với tên gọi “credit bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mua đầu tiên đã được thảo ra ở Anh có trị giá 18000USD

Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài sản, các hoạt động giao dịch thuê mua đã có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài sản, thiết bị và khối lượng giao dịch. Trong giao dịch thuê mua ngày nay, các công ty Leasing có thể cho thuê cả những nhà máy hoàn chỉnh theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về mặt chủng loại hoạt động cho thuê bao gồm từ thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới những toà nhà lớn, thậm chí cả những tổ hợp năng lượng nguyên tử. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 ước tính lên tới 107,9 tỷ $ và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành thuê mua thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% – 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm. Còn ở Anh, theo một công bố mới đây của hiệp hội tín dụng thuê mua thiết bị, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn tài trợ cho các hoạt động thuê mua và năm 2013 tổng giá trị ngành công nghiệp thuê mua đạt 49 tỷ USD.

Tín dụng thuê mua cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu á và nhiều khu vực khác kể từ đầu thập niên 70. Theo một thống kê gần đây cho thấy, ngành công nghiệp thuê mua thế giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng350 tỷ USD vào năm 2014 và đến năm 2018 con số này đã là 450 tỷ USD.

Việt Nam, trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn và mang tính cấp bách hơn bao giờ hết, thì sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính- một kênh dẫn vốn trung gian- đã bước đầu tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường. Cho đến nay, Việt Nam đã có 9 công ty cho thuê tài chính, với lượng vốn đầu tư khoảng 850 tỷ VNĐ/ năm. Tuy lượng vốn đầu tư này còn khá khiêm tốn so với nhu cầu vốn của nền kinh tế song phần nào đã đáp ứng cho việc cung cấp và cải thiện các loại máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản được thể hiện trước hết ở thoả thuận thuê tài sản là thoả thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người thuê trong một thời gian nhất định, được thoả thuận trước để nhận được những khoản tiền thuê. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Thời gian cho thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và không thể huỷ ngang theo ý muốn của một bên.

Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động cho thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuộc về người cho thuê, và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Phần lớn các chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.

Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý và các chi phí quản lý khác. Do đó, giống như hình thức tín dụng Ngân hàng, hoạt động cho thuê tài sản cũng mang tính hoàn trả, tính thời hạn và lãi suất. Như vậy về thực chất, hoạt động cho thuê tài sản (leasing) là một hình thức tài trợ nếu xét từ phương diện người cho thuê.

Như vậy, có thể định nghĩa hoạt động cho thuê tài sản dựa vào Nghị định số 16/2021/ NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính là “ Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Có thể nhận rõ hình thức này qua việc so sánh giữa cho thuê tài sản và thuê mua trả góp thông qua bảng so sánh sau:

Nếu chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thôi thì ta thấy rằng đã có rất nhiều vấn đề. Khái niệm này được chính thức đưa ra đầu tiên trong pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính với tên gọi là “tín dụng thuê mua” nhưng không có định nghĩa. Năm 2013, trong bản nghiên cứu của công ty tài chính quốc tế (IFC) đưa ra thuât ngữ “thuê mua” và “tài trợ thuê mua”. Nhìn chung từ đó đến nay, hai từ “thuê mua” và “tín dụng thuê mua” được dùng phổ biến. Tuy vậy, vẫn không có một định nghĩa đầy đủ được chấp nhận thống nhất. Nhiều người quan niệm thuê mua bao gồm cả cho thuê vận hành (quan niệm này dẫn đến mâu thuẫn trong chính thuật ngữ). Một số khác cho rằng thuê mua không bao gồm cho thuê vận hành và đưa ra khái niệm “thuê mua thuần” để phân biệt.

Nghị định số 16/ CP của chính phủ ngày 31/05/2021 đưa ra khái niệm “cho thuê tài chính” và như vậy dùng thay thế từ “tín dụng thuê mua”. Tuy nhiên, ngoài các văn bản có tính chất pháp lý ra thì trên thực tế từ này rất ít được sử dụng. Để đảm bảo tính thống nhất trong luận văn từ phần này trở về sau, em xin sử dụng thuật ngữ “cho thuê”.

1.2. Phương thức cho thuê Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Cho thuê là một phương thức tài trợ tín dụng trung, dài hạn không thể huỷ ngang bằng tài sản chứ không phải bằng tiền. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê. Tuỳ theo quy định của _ong quốc gia, nghiệp vụ này được coi là cho thuê tài sản khi thời hạn thuê mua thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và giá trị hiện tại ròng của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.

Thông thường một giao dịch cho thuê thường được chia thành ba phần như sau:

Thời hạn thuê cơ bản (Basic lease period): là thời hạn mà người thuê trả những khoản tiền thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong _ong giai đoạn này, người cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên số vốn đã tài trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia.

Thời hạn gia hạn tuỳ chọn (Optional renewal Period): Trong giai đoạn gia hạn thứ hai này, người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2 % tổng số vốn đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kỳ thanh toán.

Phần giá trị còn lại (Residual Value Share): Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao dịch cho thuê người cho thuê thường uỷ quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Người thuê được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng.

Khi thời hạn cho thuê căn bản đáo hạn, người thuê có quyền lựa chọn một trong những hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận đã được dự liệu trước trong hợp đồng – hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hoặc nhận làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Phương thức cho thuê được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 1.1 Phương thức cho thuê Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.2.1. Phân loại các phương thức cho thuê tài sản:

Nhằm so sánh những đặc điểm của các phương thức thuê tài sản với nhau để từ đó giúp các bên có liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức thuê nào để áp dụng các quy chế hạch toán, kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản lý chúng (đối với các cơ quan Nhà nước) theo những quy chế đã được Nhà nước quy định. Trong hình thức thuê tài sản có hai phương thức cho thuê vận hành và cho thuê tài chính hay còn gọi là thuê ngắn hạn và thuê dài hạn. Bởi cho thuê vận hành là hình thức cho thuê kiểu truyền thống, có thời hạn rất ngắn (khoảng 1- 5 năm) so với đời sống hữu ích của tài sản. Cho thuê dài hạn hay còn gọi là cho thuê tài chính có thời hạn cho thuê dài hơn (từ trên 1 năm đến 20 – 30 năm). Sự khác biệt có thể được xem xét trong bảng sau :

Bảng 1.2 So sánh cho thuê vận hành và cho thuê

Sự phân loại này được dựa trên hai căn cứ cơ bản là :

  • Những rủi ro và biện pháp bảo đảm cho giá trị còn lại của tài sản thuê do bên nào thực hiện.
  • Quyền sử dụng và hưởng dụng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có được chuyển giao cho người thuê hay không ?

Dựa trên những cơ sở này, Uỷ Ban Tiêu Chuẩn Kế Toán Quốc Tế (IASC) đã đề ra 4 tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các hợp đồng thuê tài sản thuộc phương thức nào:

Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng không ? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính còn không thì là thuê vận hành. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với giá tượng trưng không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, còn nếu không thì là thuê vận hành

Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê hay không? thoả mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính, các trường hợp còn lại thuộc thuê vận hành.

Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có tương đương hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, nếu không là thuê vận hành.

Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn này đều thuộc phương thức thuê tài chính. Những giao dịch còn lại thuộc thuê vận hành.

Sơ đồ 1.2 tóm tắt quy trình phân loại này

Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại theo IAS 17 của IASC, mỗi quốc gia đều có những quy định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên cơ sở những điều kiện của mỗi nước. Những quy định này có những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng không mâu thuẫn với IAS 17 và tuỳ theo mức độ những quy định này có thể chi tiết cụ thể hơn IAS 17.

1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê:

Tuỳ theo tính chất trong _ong giao dịch thuê mua mà có thể phân loại các thoả thuận thành nhiều loại hợp đồng khác nhau.

1.2.2.1. Hợp đồng cho thuê trực tiếp:

Trong loại hợp đồng này, người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp tài trợ cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính và cũng có thể là công ty Leasing, sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người thuê.

Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm do họ sản xuất ra .Mặt khác, nhờ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị nên các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp các loại máy móc mới ,hiện đại do họ chế tạo ra.

Sơ đồ 1.3 – Hợp đồng tài trợ trực tiếp. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.2.2.2. Hợp đồng cho thuê liên kết:

Loại hợp đồng này bao gồm nhiều bên tài trợ cho người thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều dọc hoặc chiều ngang tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính của các nhà tài trợ. Trường hợp tài sản có giá trị lớn nhiều định chế tài chính hay các nhà chế tạo cùng chia nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang. Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hoặc các nhà chế tạo lớn giao tài sản cho chi nhánh của họ (dealers) thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết theo chiều dọc ( Trust leases)

Các bước và đặc điểm trong giao dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có khác biệt lớn so với hình thức cho thuê thuần tuý hay điển hình.

1.2.2.3. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:

Hình thức này xuất hiện trong thời gian gần đây xuất phát từ thực tế các công ty cho thuê có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng . Hình thức này cho phép người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay nhiều người cho thuê nào đó ( Tuy nhiên,theo luật pháp của một số quốc gia khoản tiền vay này không được vượt quá 80% tổng giá trị tài sản dược tài trợ) .Hình thức này được tóm tắt trong bảng sau:

Sơ đồ 1.4 – Thoả thuận thuê mua bắc cầu.

Loại hình cho thuê này thường được sử dụng trong các giao dịch thuê mua đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn, chẳng hạn thuê một máy bay thương mại hoặc là một tàu trở hàng hoặc là một tổ hợp chuyên ngành lớn.

1.2.2.4. Hợp đồng bán và cho thuê lại: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Bán và cho thuê lại là một thoả thuận tài trợ tiêu _ong mà bên A (người thuê) bán một tài sản của chính họ cho bên B (người cho thuê). Đồng thời, ngay lúc đó một hợp đồng thuê mua được thảo ra với nội dung bên B đồng ý cho bên A thuê lại chính tài sản mà họ vừa bán.Trường hợp này xuất hiện khi các doanh nghiệp- nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ-gặp rất nhiều khó khăn về vốn lưu động. Mà vay vốn sẽ gặp nhiều thủ tục, điều kiện đăng ký khắt khe mà các doanh nghiệp này khó có thể thoả mãn. Đồng thời, trong trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu phải duy trì năng lực sản xuất nên không thể bán bớt tài sản cố định để chuyển thành tài sản lưu động. Do đó, hình thức bán và tái thuê có thể đáp ứng được nhu cầu này.

Điều đáng lưu ý là những tài sản được sử dụng vào giao dịch này là những tài sản còn giá trị sử dụng hữu ích. Giá mua của tài sản tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản trên thị trường vào thời điểm lập hợp đồng mua bán. Các loại thiết bị mới hay đă sử dụng đều có thể được bán và tái thuê, giá của thiết bị mới thường căn cứ vào hoá đơn của nhà cung cấp, còn giá của thiết bị đã qua sử dụng thì cần được định giá độc lập.

Những tiện ích của dịch vụ này là ngoài mục đích giải quyết nhu cầu vốn lưu động, những công ty muốn tạo ra lợi nhuận ghi sổ hay lợi nhuận tính thuế với điều kiện giá bán tài sản cao hơn phần khấu hao còn lại trong sổ sách cũng có thể áp dụng hình thức này.

Ngoài ra, hình thức này cũng còn được sử dụng để tái tài trợ trung, dài hạn đối với những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được _ong để giảm chi phí huy động vốn nếu hình thức này có mức lãi _ong thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác. Tại Hoa Kỳ, hình thức giao dịch này có sức cạnh tranh rất cao trong ngành kinh doanh bất động sản, còn trong các ngành sản xuất thì tuỳ thuộc vào chủng loại thiết bị mà chúng có sức cạnh tranh từ vừa đến cao. Tại Việt Nam hiện nay, hình thức này đang được áp dụng tại một số công ty cho thuê.

1.2.2.5. Hợp đồng cho thuê giáp lưng

Đây là phương thức tài trợ mà trong đó được sự thoả thuận của người cho thuê, người thuê thứ nhất cho người thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người thuê thứ nhất đã thuê từ người cho thuê.

Hình thức thoả thuận cho thuê này thường được thực hiện dưới dạng hợp đồng hoàn trả toàn bộ được ký kết giữa người cho thuê với người thứ nhất. Loại hợp đồng này là loại thoả thuận không thể huỷ ngang . Nhưng do người cho thuê thứ nhất sau khi thực hiện được một phần của hợp đồng không còn nhu cầu nữa hay vì một lý do nào đó nên phải tìm người thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng. Bởi nếu không còn cho thuê tiếp được thì dù không sử dụng tài sản vẫn phải trả tiền thuê.

Sơ đồ 1.6. Thoả thuận thuê mua giáp lưng

Nhìn chung, hợp đồng cho thuê diễn ra rất đa dạng và khó có thể phân biệt _ong loại thoả thuận cho thuê một cách rạch ròi. Các hình thức này đan xen vào nhau, nên việc xem xét, phân tích chúng đòi hỏi phải có sự đánh giá trên nhiều phương diện.

1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài sản Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.3.1 Về khía cạnh kinh tế:

  • Nhu cầu của doanh nghiệp:

Nghiệp vụ cho thuê ra đời và phát triển là do nhu cầu của các doanh nghiệp về tài trợ cho các thiết bị trong khi họ không có hoặc không muốn bỏ vốn ra mua sắm để tập trung nguồn vốn của họ vào các đối tượng thuộc vốn lưu động. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không có nhu cầu thuê tài sản thì nghiệp vụ cho thuê cũng không thực hiện được.

  • Khả năng của bên cho thuê:

Bên cho thuê là các tổ chức tài chính, tín dụng nên có thể huy động nguồn vốn bằng tiền hoặc tài sản trong nước và nước ngoài dễ dàng hơn các doanh nghiệp khác. Vì vậy họ có khả năng tài trợ thiết bị bằng nghiệp vụ cho thuê cho các doanh nghiệp có nhu cầu thuê tài sản.

1.3.2 Về khía cạnh pháp lý:

Nghiệp vụ cho thuê được thực hiện và phát triển dựa trên một môi trường pháp lý hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho thuê. Ngoài những luật cơ bản chung cho các hoạt đông của nền kinh tế, liên quan đến các hoạt động cho thuê còn có các luật như: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.3.2.1. Các chính sách về khuyến khích đầu tư và kinh doanh:

Hầu hết các luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh đều đều áp dụng hình thức miễn thuế hoặc giảm thuế hải quan đối với hàng nhập khẩu và tiêu dùng bao cấp. Do hoạt động cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước cho nên luật khuyến khích đầu tư nên áp dụng cho hoạt động này. Sự liên quan của các luật thuế đối với việc thúc đẩy nghiệp vụ cho thuê là ở chỗ: Liệu các luật này có phải là giải pháp trung hoà lợi ích giữa người chủ sở hữu và người sử dụng thiết bị cho thuê hay không , tức là pháp luật có công nhận rằng lợi ích kinh tế các thiết bị cho thuê cũng giống như lợi ích kinh tế có được của cùng thiết bị ấy nếu được mua đứt bán đoạn và do vậy phải được hưởng các khuyến khích bình đẳng như nhau hay không .

1.3.2.2. Pháp luật về bên cho thuê:

Sau khi xem xét các cơ sở pháp lý nêu trên thì còn cần phải xem xét nhiều vấn đề liên quan tới các qui chế chi phối người cho thuê và nghĩa vụ cho thuê, kể cả việc các công ty cho thuê có cần được Chính phủ cấp giấy phép và thanh tra đặc biệt không? Các vấn đề khác về mặt quy chế có thể là : Nguồn vốn và thời hạn vốn, yêu cầu về khả năng trả nợ, khả năng thanh toán, các quy định về thiết bị đủ tiêu chuẩn cho thuê và yêu cầu về kế toán.

1.3.2.3. Pháp luật về hợp đồng kinh tế và sở hữu tài sản:

Cần phải định nghĩa rõ ràng về bản chất của giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người thuê và người cho thuê (đồng thời cũng buộc họ phải thực hiện các nghĩa vụ). Đưa ra các phương thức cho thuê cần thiết , bởi có nhiều loại giao dịch cho thuê khác nhau, bao gồm từ loại mua đứt bán đoạn thiết bị với điều kiện là người mua hoàn thành các nghĩa vụ cụ thể (chủ yếu là thanh toán từng đợt theo thoả thuận) đến loại nghiệp vụ thuê tài sản mà trong đó người thuê tạm thời sử dụng tài sản nào đó nhưng không có ý định sẽ sở hữu nó sau này.

Nếu không phân biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ cho thuê với các giao dịch thương mại hoặc tài chính khác thì hoạt động cho thuê sẽ phải tuân thủ các điều khoản bất lợi trong các luật khác. Đồng thời các thủ tục pháp lý về chuyển nhượng tài sản và thoả thuận hợp đồng nên để ở mức tối thiểu cần thiết để thực hiện giao dịch này.

1.3.2.4. Pháp luật về thuế: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Luật thuế của một nước phải có các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế đối với các bên liên quan đến giao dịch cho thuê, kể cả phần khấu hao . Điều này cho phép bên thuê có thể đánh giá chi phí thuê so với các chi phí tài trợ thiết bị khác (như vay vốn ngân hàng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu…). Về phía người cho thuê chi phí của họ phải được ưu đãi tương đối mới có thể thúc đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này.

Bốn vấn đề pháp lý vừa được đề cập ở trên là rất cơ bản đối với việc phát triển dịch vụ cho thuê và chúng có tầm quan trọng thứ hai sau nhu cầu thực sự về tài trợ cho thiết bị của một tổ chức nói chung.

Kinh nghiệm cho thấy, nghiệp vụ cho thuê sẽ chỉ phát triển được khi các vấn đề pháp lý và toàn bộ cơ sở pháp luật cho phép nghiệp vụ cho thuê trở thành biện pháp tài trợ hiệu quả và cạnh tranh được về mặt chi phí. Có thể ban hành “Luật Cho thuê Tài chính” vì nó xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao dịch cũng như xác định chức năng quản lý của Chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động này. Nếu Chính phủ lần đầu tiên đưa ra hoạt động cho thuê thiết bị vào nền kinh tế và nếu cơ sở pháp lý cơ bản liên quan đến cho thuê không rõ ràng thì việc ban hành luật cho thuê tài chính sẽ rất có ích. Nhưng nếu đã có một cơ sở pháp lý lành mạnh hay có thể sửa đổi ngay được các luật không cần phải có luật cho thuê tài chính cụ thể.

1.4. Những ưu thế và bất lợi trong nghiệp vụ cho thuê :

Mặc dù hoạt động cho thuê có rất nhiều ưu điểm và cũng nhận thấy rằng cho thuê là hình thức tài trợ máy móc, thiết bị duy nhất cho các nghiệp vụ mà thị trường vốn còn chưa phát triển, mặt khác khi đó cần có sự phát triển của hệ thống ngân hàng- tài chính ở một trình độ nhất định. Song bên cạnh đó, hoạt động này cũng không thể dấu đi những hạn chế nảy sinh (do điều kiện khách quan hay chủ quan mang lại) cụ thể là:

1.4.1. Đối với bên đi thuê: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Ưu thế:

  • Hạn chế sự lạc hậu của máy móc và thiết bị

Do thời gian đi thuê ngắn hơn thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị, vì vậy, nghiệp vụ cho thuê có thể giúp các doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu và lỗi thời của máy móc, thiết bị trong sự phát triển không ngừng của công nghệ hiện nay.

  • Được tài trợ với tỷ lệ cao và đến mức tài trợ toàn bộ cho chi phí mua sắm máy móc thiết bị.

Việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bởi chính bản thân máy móc thiết bị cho thuê. Nghĩa là, nó cho phép người cho thuê dễ dàng lấy lại máy móc, thiết bị trong trường hợp hợp đồng bị vi phạm. Do vậy, doanh nghiệp thường không cần phải đặt tiền gửi hoặc thanh toán trước đối với tài sản đi thuê. Tuy nhiên, trong những trường hợp có mức độ rủi ro cao thì phải đặt cọc hoặc ký quỹ một khoản tiền. Nhưng những doanh nghiệp như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi xin vay với các hình thức cho vay khác. Nói chung, hình thức tài trợ thuê mua chiếm một tỷ lệ cao trong chi phí mua sắm thiết bị hơn các hình thức tài trợ khác.

Không hạn bị chế về hạn mức tín dụng:

Tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng nên không làm tăng số nợ của doanh nghiệp. Vì vậy không ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doanh nghiệp .

Không bị đọng vốn trong tài sản cố định:

Do không phải bỏ ngay ra một khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị nhưng doanh nghiệp vẫn có tài sản để sử dụng nên doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản cố định, tập trung được vốn tự có và vốn vay của ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu về vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Thu hút vốn nước ngoài: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Thông qua tín dụng thuê mua, các doanh nghiệp Việt Nam có thể huy động được vốn nước ngoài thông qua các công ty cho thuê quốc tế hoặc các công ty liên doanh cho thuê hoạt động ở Việt Nam. Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn quốc tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc, thiết bị của các công ty nước ngoài có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với lãi suất trên thị trường vốn Việt Nam bằng VND.

Đơn giản hơn các hình thức tài trợ khác trong khi xem xét uy tín doanh nghiệp cần được tài trợ và tài trợ một cách nhanh chóng.

Đối với các công ty nhỏ hoặc ít uy tín trên thị trường vốn thì tài trợ cho thuê được coi như là hình thức duy nhất để có thể sử dụng những thiết bị lớn trong thời gian dài. Do quyền sở hữu pháp lý thuộc về người cho thuê nên các công ty cho thuê có thể chấp nhận những người đi thuê không có uy tín lớn, hơn nữa các công ty nhỏ có thể không có mối quan hệ gần gũi với ngân hàng và các ngân hàng có thể lưỡng lự khi cho các công ty này vay các khoản vay có kỳ hạn.

Cho phép người thuê hoãn thuế

Các khoản tiền thuế phải nộp hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó. Khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và nhân với lãi suất cho vay của ngân hàng, sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế bởi thuê mua mang lại cho doanh nghiệp.

Ví dụ: Tổng số tiền thuế phải nộp của doanh nghiệp hàng năm là 50 triệu đồng, mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 32%, lãi suất ngân hàng là 12%. Khoản tiền tiết kiệm được do hoãn thuế là: 50 *[ 12% (1-0.32)] = 4.08 triệu

Như vậy, doanh nghiệp đã tiết kiệm được 4.08 triệu đồng do chậm nộp thuế lợi tức để sử dụng chúng vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh mà không phải đi vay và không phải trả lãi suất vay.

Thanh toán tiền thuê linh hoạt:

Tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và điều kiện lưu chuyển tiền tệ của mình , các doanh nghiệp đi thuê có thể lựa chọn phương thức trả tiền sao cho phù hợp nhất với tình hình thực tế kinh doanh của mình như trả tăng dần, giảm dần hay trả theo niên kim cố định… Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Cho thuê là hình thức tài trợ không làm thay đổi các hệ số phân tích tài chính:

Hầu hết các nước(trừ Mỹ, Mexico… ) kể cả Việt Nam đều coi hoạt động cho thuê là phương thức tài trợ ngoài bảng cân đối nên người thuê không phải hạch toán tài sản thuê vào bảng tổng kêt tài sản. Do đó, các hệ số phân tích tài chính của người thuê sẽ được biểu hiện tốt hơn của người mua tài sản bằng tiền đi vay tuy rằng về bản chất thực tế hoạt động kinh doanh về cơ bản là giống nhau

  • Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị cho thuê có lợi nhuận cao hơn sử dụng vốn vay thông thường do doanh nghiệp sẽ:
  • Sử dụng được tối đa công suất thiết bị.
  • Tránh được rủi ro mất giá do lạm phát.
  • Giảm được chi phí quản lý và chi phí nghiệp vụ.
  • Luôn được sử dụng các máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến phối hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng được thời cơ kinh tế.

Bất lợi:

  • Chịu chi phí thuê tài sản cao hơn lãi suất vay vốn của các hình thức tài trợ vốn khác trên cùng một thị trường vốn.

Do công ty cho thuê thu lợi nhuận trên các khoản tiền mà họ vay để tài trợ cho giao dịch cho thuê cho nên chi phí và thuế thường cao hơn chi phí vay vốn đầu tư mà doanh nghiệp phải trả.

  • Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt.

Vào giai đoạn cuối của hợp đồng cho thuê, dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng bên thuê vẫn không được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác.

  • Nếu tài sản được hoàn trả cho bên cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng, doanh nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản, bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phần tiền trả cho quyền chọn mua.
  • Doanh nghiệp không được hưởng những khoản miễn giảm thuế dành cho tài sản cho thuê, thiết bị dùng vào việc cho thuê thường được miễn giảm thuế nhập khẩu và bên cho thuê được hưởng khoản lợi này.

Là khách hàng đi thuê thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự tài trợ tín dụng của công ty cho thuê. Người thuê cũng là người có quyền sử dụng, hưởng dụng những lợi ích mà thiết bị mang lại và có trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thoả thuận. Do đó, sự thành công của một giao dịch cho thuê phụ thuộc nhiều vào năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và đạo đức của người thuê. Liên quan đến người thuê (và các trung gian trong hoạt động cho thuê) có thể kể tới một số rủi ro sau đây: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

  • Người thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê do tình hình tài chính quá khó khăn (do năng lực quản trị kém, nguồn nguyên liệu bị biến động hoặc nhu cầu thị trường biến động quá nhanh, ngành kinh doanh hoặc sản phẩm đang bị suy thoái).
  • Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý: Nhằm chiếm dụng vốn tài trợ thông qua các hình thức như :

Hoá đơn khống : Kẻ lừa đảo dùng một hoá đơn xuất hàng khống để lừa đảo nhà tài trợ nhưng trên thực tế không có tài sản nào cả.

  • Dùng một tài sản để được tài trợ nhiều lần, kẻ lừa đảo tạo ra nhiều hoá đơn giao hàng của một tài sản để nhận tài trợ từ nhiều người cho thuê. Mỗi hoá đơn được gửi đến cho một nhà tài trợ. Loại hoá đơn lừa đảo này rất khó phát hiện bởi mỗi nhà tài trợ đều nhận được hoá đơn gốc của nhà cung cấp.
  • Thổi phồng giá trị tài sản: Hình thức này thường xảy ra trong hình thức bán và tái thuê, hay trong trường hợp máy móc thiết bị cũ.

Nếu là thiết bị mới, kẻ lừa đảo thường tìm cách để có đầy đủ bảng báo giá và cataloge với giá cao hơn thực tế (Nhà tài trợ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của một chuyên gia về thiết bị để chống lại hình thức lừa đảo này).

  • Người thuê tự ý bán tài sản thuê.
  • Cung cấp sai lệch các thông tin tiêu dùng.
  • Rủi ro do trung gian: Thông qua hệ thống đại lý (cung cấp tài sản, bảo trì…) người cho thuê rất có thể không nhận được tiền thuê do sự cố ý hay vỡ nợ ….của các đại lý. Loại rủi ro này thường xuất hiện trong các giao dịch cho thuê giáp lưng.

1.4.2. Đối với bên cho thuê: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Ưu thế:

Cho thuê góp phần đa dạng hoá các phương thức đầu tư :

Nghiệp vụ này góp phần làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư của các tổ chức tài chính, tín dụng. Nó cũng phần nào thay thế các hình thức đầu tư khác phù hợp với khả năng và nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp ở từng thời kỳ khác nhau trong quá trình phát triển. Do vậy, thông qua hình thức cho thuê có thể mở rộng diện khách hàng tiếp cận với khu vực tài chính.

Cho thuê là hình thức tài trợ tương đối ít rủi ro:

Do người cho thuê luôn giữ quyền sở hữu về tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên người cho thuê có thể tránh được những mất mát, thiệt hại bằng cách thu hồi tài sản ngay khi người thuê có những biểu hiện không tốt hoặc bị phá sản mà không cần sự phán quyết của toà án. Vì vậy, việc thu hồi tài sản này thường là thuận lợi, ít tốn kém chi phí hơn so với việc thu hồi tài sản mà doanh nghiệp thế chấp khi doanh nghiệp vay vốn.

Tài trợ qua nghiệp vụ cho thuê đảm bảo việc sử dụng vốn đúng đắn và hiệu quả do người thuê tự chọn tài sản cần thuê để phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh của mình. Mặt khác, người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản thuê. Người cho thuê có nhiều khả năng thu hòi được khoản chênh lệch khi hết thời hạn hợp đồng mà người đi thuê trả lại máy móc, thiết bị. Bởi vì, thông thường thì thiết bị thu về có giá trị tái đầu tư cao hơn giá trị còn lại của thiết bị đã dự tính từ đầu.

Phương thức cho thuê giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh: Trong thời gian tài trợ, vốn của người cho thuê bỏ ra để mua máy móc thiết bị cho thuê sẽ được thu hồi dần, cho phép người cho thuê có thể sử dụng nguồn vốn này để tái đầu tư vào các hoạt động kinh doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động của mình.

Hồ sơ, thủ tục cho thuê đơn giản hơn nhiều so với hồ sơ xin vay vốn ngân hàng hoặc những thoả thuận tăng vốn cho doanh nghiệp .

Bất lợi: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Trong hoạt động cho thuê người cho thuê cũng có thể gặp phải một số rủi ro về:

  • Rủi ro về tài chính: Loại rủi ro này thường xuất phát từ những nguyên nhân như:
  • Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn.
  • Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc.

Rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê:

  • Tài sản cho thuê được thu hồi về không thể cho thuê tiếp hoặc không bán được chúng.
  • Tài sản do nhà cung ứng giao cho bên thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản không được phép kinh doanh.
  • Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý.

Rủi ro khách quan:

  • Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại : Do tình hình biến động xấu của nền kinh tế dẫn tới đình trệ sản xuất và làm giảm nhu cầu thuê thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất.
  • Rủi ro do thay đổi tỷ giá: Loại rủi ro này thường xảy ra theo hướng bất lợi cho người cho thuê đối với loại thiết bị nhập khẩu hay
  • Rủi ro do biến động lãi suất: Do sự biến động lãi suất trên thị trường vốn dẫn tới sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê.
  • Rủi ro do sự biến động của pháp luật.
  • Rủi ro bất khả kháng: Môi trường kinh tế vĩ mô không thuận lợi như: Không có luật quy định rõ ràng quyền về sở hữu hay không có thông tin mua bán máy móc , thiết bị cũ hoặc các quy chế xuất nhập khẩu, thuế…. không chặt chẽ thì nguy cơ bị đọng vốn, mất vốn, gây ra lỗ trong kinh doanh là điều rất dễ xảy ra.

1.4.3 . Đối với nền kinh tế.

Ưu thế: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Góp phần giải quyết vốn đầu tư :

Mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê thấp nên có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, cá nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho thuê giải quyết được sự khó khăn về vốn của các doanh nghiệp và nếu mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi một nước thì cho thuê còn cho phép nền kinh tế thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài qua máy móc, thiết bị cho thuê. Thông qua vai trò trung gian giữa người cung ứng thiết bị với người cần thuê thiết bị mà công ty cho thuê đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển và lưu thông vốn cho nền kinh tế.

Thúc đẩy đổi mới công nghệ cho sản xuất:

Thông qua nghiệp vụ cho thuê, các doanh nghiệp có thể nhận được các máy móc, thiết bị với công nghệ mới cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nên đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển.

Bất lợi:

Hiện nay, các nước phát triển đang có xu hướng muốn chuyển giao các công nghệ gây nhiễm môi trường, hao tốn nguyên- nhiên liệu, sử dụng nhiều lao động, điều kiện an toàn không đảm bảo, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng kém…, sang các nước đang phát triển. Do đó, nếu không có được chính sách Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đúng đắn, khoa học thì nghiệp vụ cho thuê sẽ làm tăng sự lãng phí nguồn ngoại tệ hiếm hoi của đất nước, biến đất nước thành “bãi thải các thiết bị công nghiệp”.

1.5. Sự phát triển của các công ty cho thuê trong nền kinh tế thị trường.

Do yếu tố đặc thù của nghĩa vụ cho thuê, là một hình thức của sự vay mượn nếu xét theo phương diện người thuê và nó cũng chính là hình thức tài trợ nếu xem xét từ phía người cho thuê. Đồng thời phương thức này cũng khác với hình thức bán hàng trả góp hay cho vay của các khách hàng. Vì thế, hoạt động cho thuê tài sản phải được thực hiện thông qua các công ty chuyên doanh cho thuê (Leasing company). Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Ở một số quốc gia, luật pháp qui định không cho các thể nhân, doanh nghiệp tư nhân hay các công ty phi tài chính hoặc các ngân hàng thương mại được tham gia hoạt động cho thuê tài sản ( Hàn Quốc, Anh, … ).

Tuy nhiên, đối với một số quốc gia khác, qui định về hoạt động này có được nới rộng hơn. Song, tựu trung lại, công ty cho thuê được coi là một công ty tài chính hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực cho thuê , và có thể phân chia các công ty chuyên doanh cho thuê ( Leasing ) thành ba loại:

Các công ty cho thuê phụ thuộc: Các công ty này thường là các công ty con của các tập đoàn công nghiệp lớn, chủ yếu cho thuê các tài sản do công ty mẹ sản xuất. * Các công ty cho thuê độc lập: Loại hình công ty này thường do các chuyên gia tài chính – những người có đầy đủ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu dự án, đánh giá giá trị tài sản … Các công ty này thường có phạm vi và qui mô hoạt động rộng lớn, có mạng lưới chi nhánh hoạt động rộng rãi và có khả năng khắc phục được tình trạng lạc hậu công nghệ của máy móc thiết bị. Loại công ty này thường tập trung chuyên môn hoá một số loại tài sản nhất định hay một số ngành công nghiệp nhất định.

Các công ty cho thuê thuộc sở hữu ngân hàng: Loại hình công ty này xuất hiện muộn hơn hai loại hình công ty cho thuê nêu trên. Các công ty cho thuê thuộc sở hữu ngân hàng có cách thức hoạt động kinh doanh khá đặc biệt, cho thuê những tài sản theo yêu cầu của khách hàng có nguồn vốn lớn,… đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về những tài sản có giá trị lớn, thời gian thuê kéo dài…

Nội dung hoạt động chủ yếu của các công ty cho thuê là cho thuê tài sản. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê có thể thực hiện một số các hoạt động khác như:

  • Tư vấn và bảo lãnh cho khách hàng trong các giao dịch có liên quan đến hoạt động cho thuê tài sản.
  • Cung cấp các dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa liên quan đến hoạt động cho thuê tài sản.
  • Cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản.

1.6. Sự phát triển của hoạt động cho thuê ở Việt Nam Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

1.6.1. Quá trình hình thành và phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Việt Nam:

Vốn xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là nông nghiệp lạc hậu, hình thành chủ yếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với các doanh nghiệp này, vốn và máy móc thiết bị còn rất hạn chế. Cho nên, nhu cầu thuê tài sản cho sản xuất kinh doanh lớn và cũng có một số người có tài sản nhàn rỗi để cho thuê. Do đó, hoạt động cho thuê cũng đã có từ rất lâu ở Việt Nam. Tuy nhiên, các hoạt động cho thuê tài sản trong thời gian trước đây còn ít và chưa được phổ biến do hoạt động sản xuất của người sản xuất còn nhỏ bé.

Mặc dù, nghiệp vụ cho thuê đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu á từ những năm 70 nhưng ở Việt Nam nghiệp vụ này còn rất mới mẻ. Phần lớn các hoạt động cho thuê và cho thuê tài sản ở Việt Nam đến nay mới chỉ là cho thuê vận hành. Nghiên cứu quá trình phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Việt Nam, có thể chia làm hai giai đoạn:

a) Giai đoạn trước năm 1986

Giai đoạn này áp dụng cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động cho thuê chủ yếu là cho thuê vận hành. Các doanh nghiệp cho thuê lẫn nhau các máy móc, thiết bị, nhà kho. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn này chưa được dùng tài sản để cho thuê mặc dù có tài sản cố định chưa dùng đến. Điều này đã gây lãng phí vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, còn có loại cho thuê không nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, đó là việc Nhà nước cho tư nhân thuê nhà ở. Đây là một dạng tài trợ bao cấp từ ngân sách Nhà nước để giải quyết nhu cầu khó khăn về nhà ở của cán bộ công nhân viên chức và nhân dân. Tiền thu được do thuê nhà ở rất thấp khó có thể tái tạo được tài sản khi nhà ở hết hạn sử dụng .

Như vậy, loại cho thuê vận hành nói trên chưa gắn với việc tài trợ vốn trung, dài hạn của các định chế tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại . Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

b ) Giai đoạn từ năm 1986 đến nay

Sau năm 1986, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế được tiến hành động thời với quá trình Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đã được công nhận và hoạt động kinh doanh của họ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong thời kì này, hoạt động cho thuê có sự phát triển cả về hình thức cho thuê, doanh số cho thuê và nhu cầu thuê tài sản cũng trở nên rộng rãi và phong phú hơn.

Do hậu quả của việc phân phối các tài sản không đồng bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước của cơ chế quản lý cũ để lại nên đã dẫn tới việc thừa thiếu máy móc thiết bị. Từ đó, các doanh nghiệp phải thuê lẫn nhau để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của họ, hoàn toàn mang tính tự phát. Hoạt động này chỉ được chính thức thừa nhận từ năm 2011 theo thông tư số 34/TC – DN ngày 31/7/2011 của Bộ tài chính. Thông tư này cho phép các doanh nghiệp dùng tài sản như nhà xưởng, máy móc, xe cộ chưa sử dụng đến có thể cho các tổ chức khác thuê. Mặt khác, nhu cầu đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại phát sinh mạnh mẽ do qui luật cạnh tranh của kinh tế thị trường thông qua chất lượng sản phẩm mà một số doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư lớn và cần phải có máy móc, thiết bị với công nghệ hiện đại mới có thể cung ứng được các sản phẩm và dịch vụ có tính cạnh tranh trong và ngoài nước như các doanh nghiệp thuộc ngành dầu khí, hàng không, vận tải biển… mà khả năng của họ và thị trường trong nước chưa thể đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp này phải thông qua Chính Phủ và các cơ quan chức năng của Việt Nam làm đại diện và bảo lãnh để thuê tài sản nước ngoài.

Ví dụ như : Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

  • Tổng công ty Vietfratch đã thuê và mua lại một số tàu biển theo phương thức cho thuê trả góp.
  • Tổng công ty hàng không Việt Nam thuê máy bay vận tải hành khách.

Ngoài việc các doanh nghiệp tự thuê lẫn nhau hay các doanh nghiệp Việt Nam thông qua đại diện là Chính Phủ và cơ quan chức năng thuê của các doanh nghiệp nước ngoài thì các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam cũng tham gia vào hoạt động này, theo hai hướng:

Một là, xuất phát từ các ngân hàng thương mại phải tiến hành xử lý tài sản thế chấp, cầm cố của các doanh nghiệp bằng cách bán đấu giá để thu hồi vốn cho vay. Tài sản mà các doanh nghiệp đem thế chấp cho Ngân hàng là các bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất… còn tài sản cầm cố là các động sản như thiết bị, phương tiện vận tải, … Việc bán đấu giá chúng là không dễ dàng bởi:

  • Các tài sản này thường là cũ và lạc hậu
  • Tâm lý người mua thường e ngại khi xem xét có nên mua hay không các tài sản bị đem bán đấu giá.
  • Ngoài các lý do trên, cũng có ít người hay doanh nghiệp có khả năng mua các tài sản có giá trị lớn.

Hai là, dùng vốn kinh doanh để liên doanh, liên kết xây dựng hoặc mua một số bất động sản như nhà kho, khu dân cư , … để bán hoặc cho thuê.

Như vậy, phần lớn các hoạt động cho thuê của các Ngân hàng thương mại nêu trên chỉ là giải quyết nợ tồn đọng trong các tài sản thế chấp, cầm cố mà Ngân hàng đã phải dùng vốn kinh doanh của mình để xiết nợ. Qui mô hoạt động đầu tư của các Ngân hàng thương mại trong lĩnh vực cho thuê chưa lớn song cũng đã một phần nào giải quyết dược việc thu hồi nợ khó đòi và cũng đã mang lại một số lợi ích sau khi bán hoặc cho thuê các tài sản mà họ đã góp vốn liên doanh hoặc mua nói trên.

Nghiên cứu nghiệp vụ phát triển cho thuê ở Việt Nam, người ta rút ra một số điều sau:

Nhu cầu thuê rất lớn, đa dạng, không chỉ ở những ngành mũi nhọn như dầu khí, hàng không, hàng hải … mà còn cả trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ các máy móc thiết bị cho sản xuất chế biến …

Tình trạng thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam là phổ biến, làm cản trở quá trình đổi mới công nghệ thiết bị. Nhiều máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã rất lạc hậu ( từ 5-:- 10 thế hệ so với máy mới ) cần được thay thế hoặc trang bị mới, nhằm nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm hàng hoá, giành được ưu thế cạnh tranh trên thị trường.

Chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam thể hiện đường lối Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, tạo điều kiện cho nền kinh tế – kinh tế Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới, tạo khả năng tiếp nhận và hoà nhập với cuộc cách mạng Khoa học – kỹ thuật trên thế giới. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, trước khi có quyết định số 149/QĐ – NH5 ngày 27/5/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành thể lệ tín dụng thuê mua và Nghị Định 16/CP ngày 02/5/2021 do Chính phủ ban hành về tổ chức và hoạt động của công ty Cho thuê tài chính Việt Nam, các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã nhận thức dược sự cần thiết phải thực hiện nghiệp vụ cho thuê nên đã tổ chức thành lập các công ty cho thuê như :

  • Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (LINCO) thành lập cuối năm 2014 sau đổi thành công ty cho thuê tài chính Ngân hàng ngoại thương Việt Nam .
  • Công ty cho thuê tài chính quốc tế (VILC) liên doanh giữa Ngân hàng công thương Việt Nam với công ty tài chính quốc tế (IFC) Ngân hàng tín dụng Nhật Bản (NCB), ngân hàng ngoại thương Pháp (BFCE), công ty cho thuê công nghiệp Hàn Quốc (KILC). Đây cũng là công ty cho thuê tài chính liên doanh quốc tế đầu tiên hoạt động ở Việt Nam, có thời hạn hoạt động 50 năm và vốn hoạt động là 5 triệu USD, trong đó phía Việt Nam góp 19%, IFC 15%, PFCF 17%, NCB 17%, KILC 32%. Công ty này đặc biệt chú trọng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam tiếp cận với những thiết bị và công nghệ phù hợp .
  • Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành lập năm 2015. Thực tế, từ khi thành lập tới năm 2018, công ty mới chỉ chuẩn bị cơ sở vật chất, đến 2018 mới thực tế hoạt động.
  • Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam): thành lập công ty thuê mua và tư vấn đầu tư theo quyết định số 130/QĐ – NHNN ngày 28/9/2014 của tổng giám đốc NHNo VN nhưng trên thực tế vẫn chưa hoạt động. Đến năm 2018 công ty này được đổi tên thành công ty cho thuê tài chính NHNo& PTNTVN với hai chi nhánh một ở Hà Nội một ở thành phố Hồ Chí Minh .
  • Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài ANZ -V-TRACT .
  • Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài đầu tiên được thành lập của Hàn Quốc KEXIM (KCLC).
  • Công ty cho thuê tài chính Việt Nam (VINALEASE): đây là công ty liên doanh giữa ngân hàng ngoại thương VN với hai đối tác nước ngoài là công ty cho thuê Nhật Bản (JLC) và ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản (LTCB).

1.6.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động cho thuê: Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

Thông qua một số văn bản pháp lý liên quan tới quá trình hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê như :

  • Quyết định số 507/TC ĐTXD ngày 22/7/1986 của bộ tài chính.
  • Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của hội đồng bộ trưởng
  • Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23/5/2014
  • Thể lệ tín dụng thuê mua ban hành kèm theo quyết định số 149/QD – NH5 ngày 27/5/2015.
  • Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam ban hành kèm theo nghị định số64/CP ngày 9/10/2015 của Chính phủ.
  • Thông tư số 03/TT – NH5 ngày 9/2/2016 hướng dẫn thực hiện qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam
  • Quyết định số 104/QĐ – NH5 ngày 2/5/2016 của ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành mẫu điều lệ công ty tài chính của tổng công ty Nhà nước.
  • Thông tư số 61TC/TTCP ngày 23/10/2016 của bộ tài chính hướng dẫn nghĩa vụ thuế của tổ chức và cá nhân nước ngoài có hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải tại Việt Nam.
  • Quyết định số 278/QĐ NH5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc huỷ bỏ quyết định 149/QĐ – NH5 ngày 27/5/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng thuê mua.
  • Nghị định số 16/2021/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 2/5/2021 ban hành thay thế nghị định 64/ CP của chính phủ về hoạt động cho thuê tài chính. Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng hoạt động cho thuê ở Agribank

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Phát triển hoạt động cho thuê tại Agribank […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993