Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Hiện nay học sinh phổ thông (HSPT) chưa có ý thức chọn nghề đúng đắn, chủ yếu các em chọn trường, chọn nghề theo cảm tính mà ít có sự hiểu biết nhất định về nghề nghiệp. Hậu quả là khi vào học trong trường chuyên nghiệp các em thiếu ý thức vươn lên trong nghề, thậm chí có một số học sinh (HS) bỏ nghề, đổi nghề dẫn đến chất lượng đào tạo thấp gây lãng phí thời gian, kinh tế không chỉ cho Nhà nước mà cho cả gia đình nữa. Do vậy giáo dục hướng nghiệp (GDHN) cho Học sinh phổ thông đang là vấn đề nổi cộm, bức xúc được toàn ngành giáo dục, toàn xã hội và Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm lo lắng. Vì thế Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “… coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương…” [13, tr9]

Để khắc phục tình trạng trên dưới ánh sáng nghị quyết 40/2000/QH –X của Quốc hội, chỉ thị 14/2001/CT-TTg của thủ tướng chính phủ, từ năm 2000 đến năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho xây dựng chương trình khung và viết sách giáo khoa (SGK) và tập huấn giáo viên (GV) cho tất cả các môn học trong đó có môn Giáo dục hướng nghiệp. Sau khi thí điểm ở 22 trường Trung học phổ thông, năm học 2008 – 2009 môn Giáo dục hướng nghiệp được triển khai dạy đại trà trong các trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông trên toàn quốc. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Tuy nhiên việc triển khai vào thực tế dạy môn Giáo dục hướng nghiệp vào các trường Trung học phổ thông trong đó có trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, gặp không ít khó khăn về mọi mặt như: thiếu sách giáo khoa (SGK), thiếu cơ sở vật chất (CSVC) thậm chí là không có, phương tiện kỹ thuật cho dạy Giáo dục hướng nghiệp, đặc biệt không có đội ngũ Giáo viên chuyên trách và có tính chuyên nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp không được cán bộ quản lý (CBQL), Giáo viên và Học sinh của trường coi trọng như các môn khác mà thông thường các em chỉ nghĩ là học nghề để được cộng thêm điểm vào điểm thi tốt nghiệp. Công tác quản lý Giáo dục hướng nghiệp của trường không được quan tâm đúng mức, thiếu kiểm tra, kiểm soát, thiếu đôn đốc thường xuyên. Hậu quả là chương trình dạy bị cắt xén, thời gian dạy bị rút ngắn hoặc không dạy. Việc dạy Giáo dục hướng nghiệp bị rơi vào hình thức, thiếu thực chất, cho nên chất lượng Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông vô cùng thấp kém. Từ đây xuất hiện một số câu hỏi:

Thực trạng về nhận thức: Cán bộ quản lý và Giáo viên của trường chưa thực sự coi trọng công tác Giáo dục hướng nghiệp. Ví dụ Giáo viên dạy qua loa, đại khái, chương trình bị rút ngắn, Cán bộ quản lý để Giáo viên tự do cắt xén giờ dạy, phụ huynh không quan tâm đến những giờ học hướng nghiệp của con mình. Điều đó chứng tỏ là họ không hiểu về hướng nghiệp nên không coi trọng công tác hướng nghiệp. Vậy câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh và học sinh của trường thấy được tầm quan trọng của Giáo dục hướng nghiệp?

Hiện nay các trường gặp nhiều khó khăn như: thiếu SGK, thiếu cơ sở vật chất (CSVC), thiếu Giáo viên chuyên trách và chuyên nghiệp. Vậy làm thế nào để giúp nhà trường khắc phục được những khó khăn này nâng cao chất lượng hoạt động Giáo dục hướng nghiệp.

Hiện nay thời gian dạy Giáo dục hướng nghiệp cho một lớp học sinh Trung học phổ thông trong một tháng bị rút ngắn hai phần ba so với chương trình Bộ đã duyệt năm 2006. Nghĩa là từ 27 tiết /năm xuống còn 9 tiết/năm, từ 3 tiết/tháng xuống còn 1 tiết/tháng cho một chủ đề. Vậy làm thế nào để giúp giáo viên dạy trong thời gian tối thiểu (1 tiết) lại thu được kiến thưc tối đa của 3 tiết? Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Để khắc phục tình trạng ít thời gian, cần phải dạy tích hợp và đa dạng hóa các hình thức Giáo dục hướng nghiệp, nhưng giáo viên chưa quen dạy tích hợp.Vậy bằng cách nào có thể giúp giáo viên có kỹ năng dạy tích hợp môn Giáo dục hướng nghiệp?

Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.”

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Giả thuyết nghiên cứu:

Hiện nay hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các trường Trung học phổ thông nói chung và Trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu nói riêng đang gặp nhiều khó khăn như thiếu giáo viên chuyên nghiệp và chuyên trách, thiếu cơ sở vật chất…, trong khi đó công tác quản lý còn nhiều hạn chế, thiếu kiểm tra kiểm soát, để giáo viên tự ý đổi giờ, bỏ giờ, cắt xén giờ. Do đó công tác quản lý Giáo dục hướng nghiệp rơi vào chủ nghĩa hình thức. Nếu tìm được những biện pháp thích hợp để khắc phục những yếu kém này thì sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

3. Mục đích nghiên cứu:

Trên những cơ sở lý luận và tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động Giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.

4.2. Khách thể nghiên cứu:

Hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội

5. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

  • Đánh giá thực trạng hoạt động Giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp trong giai đoạn 2012 – 2015. Do hạn hẹp về thời gian chúng tôi chỉ đi sâu vào việc thực hiện chương trình Giáo dục hướng nghiệp do Sở GD – ĐT yêu cầu.
  • Việc đánh giá này được thực hiện ở hai khối lớp 11 và 12 của trường THPT Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu:

  • Nghiên cứu cơ sở lý luận của  Giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt  động Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.
  • Đánh giá thực trạng hoạt động Giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
  • Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông ở trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

7. Phương pháp nghiên cứu:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:

Thu thập các tài liệu liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, đặc biệt về quản lí các hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường; phân tích, phân loại, xác định các khái niệm cơ bản; đọc sách, tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan để hình thành cơ sở lý luận cho đề tài. Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức liên quan đến đề tài.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

7.2.1 Điều tra bằng phiếu hỏi:

Mục đích:

  • Thu thập ý kiến của Cán bộ quản lý và Giáo viên về công tác quản lý trong trường.
  • Tìm hiểu nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh của trường.
  • Đánh giá thực trạng của hoạt động Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh của trường.
  • Tìm hiểu mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh của trường. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Cách điều tra:

Qua phiếu hỏi được gửi cho Cán bộ quản lý và Giáo viên trong trường.

7.2.2 Phương pháp quan sát:

Mục đích: Quan sát các hoạt động quản lý và Giáo viên trong trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu. Quan sát, dự giờ sinh hoạt thực tiễn, sinh hoạt hướng nghiệp.

7.2.3 Phương pháp phân tích:

Phân tích các kết quả hoạt động, đồng thời cũng là kết quả của công tác quản lý trong trường.

7.2.4 Phương pháp kiểm chứng:

Chọn một vài biện pháp quản lý điển hình để thử nghiệm rồi so sánh và kết luận.

7.2.5 Xử lý các số liệu bằng toán thống kê và diễn giải bằng đồ thị:

8. Những đóng góp của đề tài về lý luận và thực tiễn:

8.1. Về mặt lý luận:

Khái quát được một số lý luận cơ bản về Giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở trường Trung học phổ thông Việt Nam hiện nay. Đã lồng ghép các chủ đề Giáo dục hướng nghiệp do Sở GD – ĐT cung cấp vào phần lập kế hoạch trong chương lý luận

8.2. Về mặt thực tiễn:

Tác giả đã đề xuất với nhà trường một số biện pháp có thể ứng dụng vào quá trình giảng dạy và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp nhằm khắc phục những yếu kém đã phạm phải và phát huy những mặt tích cực mà nhà trường đã đạt được trong thời gian vừa qua, từ đó định hướng và giúp Học sinh của nhà trường chọn nghề trên cơ sở khoa học. Ngoài 4 hình thức Giáo dục hướng nghiệp đã có, qua thực tiễn, tác giả đã bổ sung thêm 6 hình thức Giáo dục hướng nghiệp mới (xem trang 33 – 35).

9. Cấu trúc đề tài:

Nội dung: Gồm 3 chương: Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
  • Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu giai đoạn 2012 – 2015.
  • Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoàng Diệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG Giáo dục hướng nghiệp

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:

1.1.1 Ngoài nước:

Trên thế giới đã có nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu về hướng nghiệp. Năm 1848, ở Pháp xuất bản cuốn “Hướng dẫn chọn nghề” đầu tiên. Nội dung đề cập đến vấn đề phát triển đa dạng của nghề nghiệp, sự phát triển công nghiệp và việc nhất thiết phải giúp đỡ thanh niên trong việc lựa chọn nghề nghiệp.

Các công trình nghiên cứu đề cập đến các hình thức, phương thức hướng nghiệp trong nhà trường bao gồm:

Năm 1986, các tác giả H.Frankiewiez; Bernd Rothe; U. Viets; B.Germer,D.. Marschneider đã đưa ra các phương thức: “phối hợp, cộng tác chặt chẽ giữa trung tâm ký thuật tổng hợp và các trường phổ thông trong việc lập kế hoạch thực tập cho Học sinh phổ thông”

Các tác giả R.Oberliesen, H.Keim, M.Schumann, G.Duismann đã có những công trình nghiên cứu về phương thức tổ chức cho Học sinh phổ thông thực tập ở các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ, họ đã khẳng định: “Hoạt động dạy học, lao động – kỹ thuật – kinh tế không chỉ mang tính quan trọng đối với các môn khoa học khác, mà còn là bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục Trung học phổ thông… bởi vì nó đã tạo điều kiện cho học sinh phát triển thành những con người trưởng thành trong cuộc sống lao động – xã hội. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Năm 1996, tác giả Schmidt,J.J và năm 1998, Roger D. Herring khuyến khích các giáo viên phối hợp định hướng nghề cho Học sinh phổ thông qua những bài giảng hàng ngày trên lớp; Tổ chức hoạt động tập thể hoặc các sự kiện đặc biệt như đi dã ngoại, lựa chọn sách, phim, ảnh, clip, và các phương tiện khác. Với học sinh trung học, có nhiều chương trình sự kiện về nghề sẽ giúp học sinh hiểu được mối tương tác giữa những trải nghiệm của bản thân, với những ước mơ, khát vọng thành công trong tương lai. Các tác giả này đã khái quát mục tiêu hướng nghiệp cho từng cấp học và những cách thức để tiến hành những mục tiêu đó, đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa định hướng nghề và tham vấn nghề, các thành phần tạo nên mô hình Giáo dục hướng nghiệp hiệu quả.

Các tác giả Morgan và Hart nhấn mạnh vai trò của Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường đã khẳng định Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường cần phải khuyến khích Học sinh suy nghĩ về bản thân mình và về thế giới nghề nghiệp; yêu cầu Học sinh có kiến thức, hiểu biết và kĩ năng trong quá trình chọn nghề.

Trong tác phẩm của Các Mác đã nhấn mạnh: … khả năng lựa chọn nghề nghiệp là mặt ưu việt của con người trước những tồn tại khác của thế giới, nhưng đồng thời việc lựa chọn ấy lại là một hành động tiêu diệt cuộc sống của họ, làm tiêu tan mọi dự định của họ và làm cho họ bất hạn. Do vậy, việc lựa chọn này cần phải đắn đo, suy nghĩ, đó là trách nhiệm đầu tiên của thanh niên khi bước vào đời… ( xem bài của PGS.TS Đặng Danh Ánh tại Hội thảo: “Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp – nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

1.1.2 Trong nước:

Việt Nam từ năm 1975 – 1980 Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam do Phạm Tất Dong dẫn đầu cùng các cộng sự là Đoàn Chi, Phạm Huy Thu… đã thực nghiệm để đưa công tác hướng nghiệp vào trường phổ thông. Nhóm tác giả đã phác thảo được 12 họa đồ nghề và tiến hành tư vấn nghề cho hơn 300 thương binh, chế tạo một số thiết bị phương tiện tư vấn nghề đơn giản, ví dụ thiết bị đo độ rung bằng tay pin, trắc nghiệm đo tưởng tượng không gian… Dựa trên kết quả bước đầu đó, bắt kịp được yêu cầu cải cách giáo dục, Ban tâm lý học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã đưa công tác hướng nghiệp trong đó có nội dung tư vấn hướng nghiệp vào chương trình cải cách của các trường phổ thông.

Năm 1980 Viện khoa học dạy nghề có một nhóm do Đặng Danh Ánh đứng đầu cùng các cộng sự Phạm Đức Quang, Phan Ngọc Anh, Phạm Thị Mùi, Nguyễn Thị Hòa đã nghiên cứu về hứng thú nghề, thích ứng nghề của Học sinh trong trường nghề và xuất bản sách Tuổi trẻ và nghề nghiệp tập 1, tập 2 gồm 60 nghề . Những sản phẩm nghiên cứu hai Viện là cơ sở để ngày 19/3/1981, thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 126/CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và sử dụng hợp lý học sinh tốt nghiệp ra trường”. Tiếp đó, Bộ Giáo dục đã ban hành Thông tư số 31/TT hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về công tác hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông. Từ khi có nghị quyết 126/CP, Giáo dục hướng nghiệp phát triển rất mạnh mẽ ở hầu hết các trường cấp 2, cấp 3.

Sau thời gian đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác hướng nghiệp bị lu mờ dần, nhường chỗ cho việc dạy thêm, học thêm, tạo thành cuộc chạy đua vào các trường Đại học, kéo theo biết bao tiêu cực.

Những năm sau đó có một số tác giả: Phạm Văn Hộ, Hà Thế Truyền, Trần Mai Thu, Nguyễn Hùng… đã nghiên cứu Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông, đặc biệt tháng 3/1991, trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn Giáo dục hướng nghiệp, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập trung tâm Lao động – Hướng nghiệp trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở Ban Giáo dục hướng nghiệp. Bên cạnh đó, một số trường ĐH, Viện nghiên cứu cùng Trung tâm lao động – Hướng nghiệp đã khôi phục việc nghiên cứu hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn xuất bản được một số tài liệu như: “ Các nội dung, hình thức , phương pháp Giáo dục hướng nghiệp và Tư vấn nghề cho Học sinh phổ thông”…

1.2 Một số khái niệm cơ bản. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

1.2.1  Hướng nghiệp, Giáo dục hướng nghiệp và hoạt động Giáo dục hướng nghiệp

1.2.1.1 Hướng nghiệp:

Về phương diện kinh tế học, hướng nghiệp được hiểu là hệ thống những biện pháp dẫn dắt, tổ chức thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp nhằm sử dụng hợp lý tiềm năng lao động tuổi trẻ của đất nước, hướng nghiệp góp phần tích cực vào quá trình phấn đấu nâng cao năng xuất lao động xã hội.

Theo các nhà giáo dục học: “hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy học của Giáo viên, vừa là hoạt động của Học sinh và kết quả cuối cùng của quá trình hướng nghiệp là sự tự quyết định của Học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai”.

Xét về mặt xã hội, hướng nghiệp được hiểu trong phạm vi rộng hơn, không phải là công việc chỉ làm một lần trong cuộc đời mỗi con người, đó là hoạt động có tính lặp lại: xuất phát từ việc định hướng để lựa chọn một nghề, thích ứng với nghề đó và kết quả là sự phù hợp trong quá trình hành nghề. Tuy nhiên, do tác động của xã hội cũng như nhu cầu, hoàn cảnh của mỗi cá nhân, mỗi con người đều có thể và cần phải thực hiện lại việc hướng nghiệp cho bản thân trong mỗi bước ngoặt trong cuộc đời nghề nghiệp của mình.

Theo tác giả Phạm Tất Dong: “ Hướng nghiệp như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân”.

Còn theo tác giả Đặng Danh Ánh: “ Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước, nhà trường, gia đình và toàn xã hội nhằm giúp cho con người lựa chọn và xác định được vị trí nghề nghiệp của mình trong cuộc sống trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường, năng lực của các cá nhân với nhu cầu nhân lực của các thành phần kinh tế …”[ 4,tr128]

Rõ ràng là dưới góc độ khác nhau, khi đề cập đến Giáo dục hướng nghiệp có rất nhiều quan điểm. Nhưng qua nghiên cứu các tài liệu lý luận chúng tôi cho rằng: Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Hướng nghiệp là toàn bộ những tác động để giúp con người định hướng đến một nghề hay một số nghề nhất định nhằm bảo đảm được sự phù hợp giữa khả năng, yêu cầu của cá nhân với yêu cầu của xã hội”.

“Hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông là hệ thống biện pháp giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tư tưởng, tâm lý, ý thức, kỹ năng, để họ có thể đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân”.

Hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là công việc của tất cả các tập thể sư phạm (của hiệu trưởng, hiệu phó, đoàn thanh niên, cán bộ giáo viên trong nhà trường…). Là hoạt động dạy của thầy, học của trò, nhằm giúp các em lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, ở từng địa phương, từ đó giúp các em có kỹ năng tự đối chiếu những năng lực phẩm chất, những đặc điểm tâm sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề nghiệp trong xã hội, ở từng địa phương từ đó giúp các em có kỹ năng tự đối chiếu những năng lực phẩm chất, những đặc điểm tâm sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề nghiệp đang đặt ra cho người lao động. Hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông cần được thống nhất chặt chẽ với hoạt động hướng nghiệp trong xã hội, hai bộ phận này quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau mới đem lại hiệu quả cao cho hoạt động hướng nghiệp.

1.2.1.2 Giáo dục hướng nghiệp

Như trên đã trình bày hướng nghiệp là hoạt động phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xẫ hội, trong đó tập thể sư phạm nhà trường giữ vai trò quyết định nhằm giúp Học sinh chọn nghề trên cơ sở khoa học. Khi ấy, tập thể sư phạm phải sử dụng các biện pháp giáo dục mang tính chất hướng dẫn, tính thuyết phục cao, không áp đặt, bảo đảm nguyên tắc hình thành hứng thú, điều chỉnh, uốn nắn động cơ chọn nghề của thế hệ trẻ sao cho có sự nhất trí cao giữa nguyện vọng của cá nhân với yêu cầu nhân lực của các thành phần kinh tế; giữa năng lực cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với đòi hỏi của nghề. Trong mối quan hệ phức hợp từng cặp một giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân và nghề phải được giải quyết bằng những biện pháp giáo dục đồng bộ, nếu coi nhẹ một cặp quan hệ nào đó sẽ dẫn tới tình trạng thừa lao động ở nơi này, thiếu ở nơi khác, hoặc năng xuất lao động không cao vì không có sự phù hợp nghề. Rõ ràng là hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông phải gắn với công tác giáo dục tư tưởng, chính trị và đạo đức nhằm giúp Học sinh giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực, giữa cái muốn, cái có thể và cái cần phải làm để luôn luôn biết điều chỉnh hài hòa giữa lợi ích của xã hội và lợi ích của bản thân. Với ý nghĩa đó, Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường PT không quyết định nghề cho mỗi cá nhân mà là giáo dục cho thế hệ trẻ thái độ đúng đắn với lao động và từ đó giáo dục thái độ đúng đắn với nghề nghiệp. Vì thế hướng nghiệp được coi là bộ phận cấu thành của chương trình GD – ĐT trong hệ thống nhà trường. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp bắt nguồn từ đó mà ra [4, tr122]

Mục tiêu chủ yếu của Giáo dục hướng nghiệp là phát hiện, bồi dưỡng tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân, giúp họ hiểu mình và hiểu yêu cầu của nghề, định hướng họ đi vào những nghề mà các thành phần kinh tế đang cần nhân lực. [4, tr123] Để đạt được điều này, Bộ giáo dục đã ban hành Thông tư số 31/TT hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP trong đó chỉ rõ: Công tác hướng nghiệp trong trường PT được thực hiện qua 4 con đường cơ bản: Hướng nghiệp qua dạy các môn văn hóa; hướng nghiệp qua dạy các môn kỹ thuật (nay là các môn công nghệ, nghề phổ thông) và qua hoạt động lao động sản xuất; hướng nghiệp qua các buổi “ sinh hoạt hướng nghiệp” theo chương trình giáo dục phổ thông; hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa ở trong và ngoài nhà trường.

1.2.1.3 Hoạt động giáo dục hướng nghiệp Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là giúp cho Học sinh những hiểu biết thông thường về thế giới nghề nghiệp, để có thể định hướng phát triển, lựa chọn nghề phù hợp với hứng thú cá nhân, năng lực bản thân và nhu cầu xã hộị. Trên cơ sở đó, các em tiếp tục học tập, rèn luyện để có thể phát triển trong hoạt động nghề nghiệp tương lai.

Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông giúp Học sinh hiểu được những điều kiện cơ bản về thế giới nghề nghiệp, những kỹ năng lao động cần thiết để thực hiện việc lựa chọn nghề nghiệp, việc chuyển dịch nghề nghiệp khi cần.

Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện; góp phần vào việc phân luồng Học sinh phổ thông cấp Trung học, là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực cho xã hội.

1.2.2 Quản lý, quản lý nhà trường và quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp

1.2.2.1 Quản lý

Từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng bắt đầu hình thành. Từ thời nguyên thủy đến thời kỳ đồ đá, đồ đồng; từ khi xã hội loài người sống bằng săn bắn hái lượm, đến khi nền văn minh lúa nước xuất hiện. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất cổ truyền đến văn minh hiện đại làm cho trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng cao, phát triển theo các đòi hỏi ngày càng cao như một tất yếu lịch sử khách quan.

Mọi hoạt động xã hội đều cần đến những tác động quản lý. Có rất nhiều quan niệm về quản lý:

Theo F. Taylor: “Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.

Koontz thì khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những lỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm”.

Kozlova O.V. và Kuzenlov I.N cho rằng: “Quản lý là sự tác động có mục đích đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất”. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Theo GS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là một động từ chứ không phải là một danh từ; quản lý là một khái niệm có tính tình huống cụ thể. Phải xem quản lý là hoạt động lôi cuối tất cả các thành viên trong nhà trường (tổ chức) cùng tham gia, từ cán bộ có địa vị cao, cho đến tập thể cán bộ công nhân viên, giáo viên trong nhà trường, thậm chí cả học sinh, sinh viên nữa. Quản lý có nghĩa là tiến hành một công việc, là làm cho một sự kiện nảy sinh, là quá trình lôi cuốn tất cả mọi người vào hoạt động của họ trong tổ chức. Quản lý là một hoạt động chung của toàn bộ tổ chức”[16].

Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động ( chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức thực hiện, lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá, và trong suốt quá trình đó không thể thiếu khâu thu thập và xử lý thông tin.

Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải dựa vào sự lỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn ở tầm quốc gia đều phải thừa nhận vì chịu sự quản lý nào đó.

Ngày nay, thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất. GS. TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã định nghĩa: “Quản lý là quá trình tác động qua lại giữa chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách có chủ đích, có định hướng để đạt được mục tiêu nhất định [16].

Từ khái niệm quản lý tác giả đã đưa ra khái niệm: Quản lý giáo dục là quá trình tác động qua lại giữa chủ thể quản lý giáo dục đến đối tượng quản lý về giáo dục để đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.

1.2.2.2 Quản lý nhà trường

Nhà trường là cơ sở giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và đào tạo thanh thiếu niên theo mục tiêu giáo dục nhà trường đã đề ra. Nhà trường là thiết chế xã hội chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì của xã hội. Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội thực hiện chức năng giáo dục và đào tạo cho người học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục nhà nước đề ra. Quản lý nhà trường là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục.

Theo GS.TSKH Phạm Minh Hạc: “ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành Giáo dục, với thế hệ trẻ, với từng học sinh”.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu ( cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, Học sinh và các cán bộ khác nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Trường học là thành tố của hệ thống giáo dục, nên quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của quản lý giáo dục.

1.2.2.3 Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp

Quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp là nhiệm vụ của nhà quản lý giáo dục trong các trường phổ thông. Người quản lý phải xác định chính xác, mục tiêu, nhiệm vụ, hình thức của Giáo dục hướng nghiệp.

Để quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, người quản lý phải xây dựng: Kế hoạch hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, tổ chức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, chỉ đạo hoạt động Giáo dục hướng nghiệp và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện hoạt động Giáo dục hướng nghiệp. Sau một chu kỳ quản lý, người quản lý phải tổng kết, rút kinh nghiệm để tổ chức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ngày càng tốt hơn.

Ngoài ra, người cán bộ làm công tác quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp còn phải nắm vững chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, phương hướng phát triển kinh tế của địa phương mình, nắm được yêu cầu nghề nghiệp của xã hội, phải biết được thị trường lao động cần gì để từ đó thiết kế các hoạt động cụ thể, có chương trình hành động thích hợp cho học sinh của mình.

Vậy quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp chính là những tác động của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) về mục đích, nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, quản lý hoạt động của thầy và của trò.

Quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp là các hoạt động nối tiếp các hoạt động cả trên lớp cả trên lớp lẫn ngoài xã hội, được tổ chức ngoài các buổi học chính khóa theo quy định mỗi năm 9 tiết từ lớp 10 đến lớp 12 đối với hoạt động Giáo dục hướng nghiệp theo chủ đề hàng tháng.

Quản lý hoạt động đa mục tiêu, nội dung phong phú vì số nghề luôn thay đổi. Đó là quản lý hoạt động của người học, thông qua các hoạt động này người học nắm được những thông tin về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, nhu cầu nguồn nhân lực, tình hình phát triển kinh tế của địa phương và đất nước, thông qua hoạt động đó người học được rèn luyện kĩ năng nghề và được tư vấn giúp cho việc chọn nghề nghiệp sau này. Phương pháp giảng dạy phong phú đa dạng 9 (tập trung vào tọa đàm và giao lưu kết hợp thăm quan, dã ngoại…), hình thức tổ chức không gò bó (có thể tổ chức theo khối, lớp, nhóm…)

Các chức năng của quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện như sau:

Xây dựng kế hoạch cho hoạt động Giáo dục hướng nghiệp được xác định trên cơ sở nhiệm vụ Giáo dục hướng nghiệp của đơn vị; căn cứ vào những Chỉ thị, các văn bản hướng dẫn đầu năm của Bộ và của Sở giáo dục – đào tạo; căn cứ vào những kết quả đã đạt được trong năm học trước, và căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị.

Tổ chức thực hiện hoạt động Giáo dục hướng nghiệp được giao cho một bộ phận chức năng của Trường, thông thường là giao cho phó hiệu trưởng phụ trách; thông qua các môn học nghề tại trung tâm; thông qua các giờ tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp.

Chỉ đạo việc tổ chức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp được tiến hành theo lớp học nghề, chỉ đạo theo đúng chương trình của Bộ giáo dục – đào tạo. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Kiểm tra đánh giá kết quả được tiến hành thường xuyên, đánh giá kết quả cuối năm và cả khóa học thông qua thi tốt nghiệp nghề và việc nhận biết thông tin nghề nghiệp thông qua hoạt động Giáo dục hướng nghiệp.

Quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp phải thúc đẩy và đảm bảo cho người thầy hoàn thành tốt các nhiệm vụ sau:

Cung cấp cho Học sinh phổ thông những tri thức, kiến thức, kĩ năng kĩ thuật tổng hợp và kĩ năng cơ bản trong lao động nghề nghiệp, tạo điều kiện cho Học sinh vận dụng tri thức trong hoạt động nghề nghiệp tương lai, qua đó củng cố, mở rộng và khắc sâu tri thức, hình thành thói quen kết hợp lao động trí óc và lao động chân tay, thói quen lao động và tư duy ngay trong quá trình học tập ở nhà trường.

Hình thành kĩ năng và một số thói quen thực hiện một số nhiệm vụ sản xuất cụ thể ( một số công đoạn trong lao động nghề nghiệp) thuộc về những nghề cơ bản, phổ biến trong sản xuất và trong sinh hoạt. Đó là những cơ sở ban đầu để hình thành kĩ năng lao động của một nghề cụ thể liên quan đến các ngành, nghề đang phát triển ở địa phương; phát triển tính độc lập, sáng tạo, nhạy bén trong lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tiếp tục học tại các trường chuyên nghiệp

Định hướng chú ý Học sinh vào những ngành, nghề Nhà nước và địa phương đang cần phát triển, tìm hiểu thị trường lao động, có nhu cầu nhân lực, giúp Học sinh có thêm kiến thức để lựa chọn nghề tương lai.

Bô dưỡng Học sinh ý thức, thái độ và niềm tin đối với lao động; đạo đức nghề nghiệp và phẩm chất của người lao động. Đồng thời chống những biểu hiện tiêu cực, dối trá trong lao động, thiếu lương tâm nghề nghiệp.

Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp tại trường không chỉ là một quá trình dạy học lý thuyết, mà còn bao gồm cả quá trình thực hành hay thực tập, thăm quan tại một cơ sở sản xuất kinh doanh, thông qua dạy nghề phổ thông còn thực hiện chức năng hướng nghiệp nghề cho Học sinh, ngoài ra còn tổ chức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp với các chủ đề quy định của Bộ với thời lượng 9 tiết/ năm (lớp 10, 11, 12).

1.3 Tam giác hướng nghiệp và các giai đoạn hướng nghiệp

1.3.1 Tam giác hướng nghiệp Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Việc chọn nghề quan trọng và khó khăn phức tạp, nên về phía cá nhân mỗi người chọn nghề cần phải có sự lựa chọn một cách tự giác, có suy nghĩ chin chắn; về phía xã hội cần có sự hướng dẫn, định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu niên, sao kết hợp được cả ba yếu tố: Nguyện vọng, năng lực của cá nhân; những đòi hỏi của nghề nghiệp và những yêu cầu của xã hội.

Khi phân tích nhiệm vụ, nội dung và các hình thức của hướng nghiệp, GS K.K.Platonop đã nêu ra “tam giác hướng nghiệp”. Theo ông HN phải nhằm làm cho học sinh thấy rõ được 3 mặt sau:

Sơ đồ 1.1. Tam giác hướng nghiệp

  • Cạnh thứ nhất của tam giác HN là yêu cầu của nghề đề ra cho mỗi người, những yêu cầu này là những yêu cầu về tâm sinh lý và những điều cấm kị về y học.
  • Cạnh thứ hai là thị trường lao động, ở đây phản ánh nhu cầu nguồn nhân lực đang thiếu hụt.
  • Cạnh thứ ba là đặc điểm nhân cách, trước hết là năng lực sở trường của học sinh cần được hướng dẫn để chọn nghề.
  • Góc đỉnh của tam giác là định hướng nghề, phải tuyên truyền thật hấp dẫn để lôi cuốn các em đi học nghề.
  • Góc tiếp theo là tư vấn, giúp các em chọn nghề phù hợp với sở trường, năng lực của bản thân và nhu cầu nhân lực của các thành phần kinh tế.
  • Góc cuối cùng là tuyển chọn vào nghề, đảm bảo cho người học nghề phù hợp với nghề định học.

Tam giác HN chính là cơ sở khoa học để giúp Học sinh chọn nghề. Ba mặt tam giác đó cũng chính là nội dung của hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, và để thực hiện được các nội dung đó, hoạt động Giáo dục hướng nghiệp có các giai đoạn như sau:

1.3.2 Các giai đoạn hướng nghiệp

1.3.2.1 Giai đoạn 1.Giáo dục và tuyên truyền nghề ( Định hướng nghề) Định hướng nghề bao gồm cả việc tuyên truyền nghề nghiệp, lôi cuốn sự chú ý của thanh niên đến các nghề mà xã hội và Nhà nước đang cần, trong đó đề cập đến sự thiếu hụt cán bộ. Giáo dục nghề nghiệp còn bao gồm cả sự hình thành hứng thú và khuynh hướng nghề nghiệp của Học sinh.

Như vậy, định hướng nghề nghiệp được hiểu là một quá trình hoạt động được chủ thể tổ chức chặt chẽ theo một logic hợp lý về không gian, thời gian, về nguồn lực tương ứng với những gì mà mà chủ thể có được nhằm đạt tới những yêu cầu đặt ra cho một kính vực nghề nghiệp hoặc cụ thể hơn là của một nghề nào đó. Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này, các lực lượng sư phạm trong nhà trường cần hiểu rõ định hướng nghề của học sinh với các yếu tố tạo thành như nhận thức nghề, thái độ nghề, lựa chọn nghề và quyết định nghề. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

1.3.2.2 Giai đoạn thứ hai của hướng nghiệp là tư vấn nghề

Tư vấn nghề là một hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo dục học để phát hiện và đánh giá những năng lực về nhiều mặt của thiếu niên, nhằm giúp các em chọn nghề có cơ sở vững chắc. Mục đích của tư vấn nghề nghiệp sẽ đạt được bằng các nghiên cứu những năng lực của một cá nhân cụ thể.

Trong hoạt động tư vấn, ngoài sự tham gia chính của chủ thể tư vấn Người tư vấn) và đối tượng tư vấn 9 người được tư vấn), chúng ta còn thấy sự có mặt của những phương tiện hỗ trợ như phim, video, clip, tranh ảnh, đôi khi có cả những chuyến tham quan thực tế để đối tượng được mắt thấy, tai nghe nhằm sang tỏ những nhận định của bản thân. Hiện nay, đã có thêm phần nềm trắc nghiệm, hỗ trợ tư vấn nên đã tăng thêm độ chính xác, đó là cơ sở để tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia tư vấn đưa ra những lời khuyên tốt nhất cho người được tư vấn.

Kết quả tư vấn được được biểu thị qua mức độ thông hiểu, chấp nhận hay không chấp nhận những thông tin và lời khuyên có liên quan tới nhu cầu do đối tượng đặt ra của chủ thể tư vấn, có thể là sự chuyển biến về nhận thức và cũng có thể là sự thay đổi quyết định lớn của cuộc sống. Song, nếu thông tin thiếu toàn diện, ứng xử của chủ thể chưa thấu tình đạt lý, có thể dẫn đến đối tượng tư vấn tới những nhận thức hoặc việc làm vô bổ – sự cải biến diễn ra theo chiều hướng xấu, kém hiệu quả. Về phía chủ thể, thông qua hoạt động tư vấn, họ sẽ thu được nhiều thông tin bổ ích về nhu cầu đa dạng của nhiều loại đối tượng tư vấn, tìm được những kinh nghiệm trong giao tiếp với đối tượng trong những hoàn cảnh cụ thể, để từ đó nâng cao khả năng và hiệu quả tư vấn.

Hiểu theo nghĩa rông: Tư vấn là một hoạt động dựa vào những biện pháp tâm lý, giáo dục và y học, nhằm đánh giá toàn diện năng lực, thể chất, trí tuệ của thanh thiếu niên và người lao động trên cơ sở đối chiếu với những yêu cầu của nghề, có tính đến nhu cầu của các thành phần kinh tế, của địa phương và xã hội, từ đó cho họ những lời khuyên phù hợp.

1.3.2.3 Giai đoạn thứ ba của hướng nghiệp là tuyển chọn nghề Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Tuyển chọn nghề chính là quá trình đánh giá sự phù hợp ban đầu về phẩm chất, nhân cách, năng lực của cá nhân đối với những yêu cầu do nghề đặt ra. Ở đây, phẩm chất, năng lực, trình độ nhận thức, kỹ năng lao động… của học sinh trở thành đối tượng xem xét của quá trình tuyển chọn nghề. Tuyển chọn nghề được tiến hành thông qua quá trình người lao động tham gia vào làm việc tại các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy. Thông qua đó, người lao động có thể tự quyết định nghề tương lai của mình. Sự phù hợp nghề nghiệp được hiểu cả theo nghĩa những yêu cầu của thị trường lao động.

1.3.2.4 Giai đoạn thứ tư của hướng nghiệp là thích ứng nghề

Đây là giai đoạn đưa dần con người vào lao động nghề nghiệp mà điều này diễn ra chủ yếu ở các trường chuyên nghiệp, đại học và thời gian đầu tại các cơ sở kinh doanh.

Vậy phải hiểu sự thích ứng nghề là gì?

Đó là mối quan hệ tương xứng lẫn nhau giữa một bên là các yêu cầu của nghề và bên kia là các phẩm chất tâm sinh lý củ con người cụ thể với một nghề cụ thể.

Các tiêu chí về mặt sinh lý để xác định sự thích ứng nghề trước hết phải kể đến thể lực, sau đến linh hoạt và độ bền vững của hệ thần kinh, phản ứng đáp lại tức thời của các hành động, động tác.

Các tiêu chí về mặt tâm lý, để xác định sự thích ứng nghề bao gồm năng lực tiếp thu và vận dụng các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đã học vào thực tiễn hoạt động nghề nghiệp; năng lực tập trung, di chuyển, phản ứng nhanh nhạy, sự chính xác của trí nhớ, của tư duy trong lao động đúng đắn đối với nghề.

Các yếu tố trên hợp thành sự thích ứng nghề. Song cần nhớ rằng, chỉ có một số ít nghề đòi hỏi phải có “sự thích ứng nghề tuyệt đối”, còn lại chỉ cần “sự thích ứng nghề tương đối” là được. Khi đề cập tới sự thích ứng nghề người ta không nhắc tới năng lực chuyên biệt – những phẩm chất tâm lý quan trọng đối với nghề. Sự thích ứng nghề ấy không phải là bẩm sinh mà chủ yếu nó được hình thành và phát triển trong quá trình học nghề và hành nghề.

Như vậy, các giai đoạn hướng nghiệp nêu trên, gắn bó chặt chẽ với nhau, kế tiếp nhau, tạo nên một quá trình thống nhất, tác động vào toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nghề nghiệp của con người.

1.4 Nội dung và hình thức hoạt động Giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

1.4.1 Ý nghĩa và tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh phổ thông

GDHN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội, nó luôn được gắn liền với giáo dục phổ thông, nó được thể hiện rõ nét ở bốn mặt; Giáo dục, kinh tế, chính trị và xã hội.

1.4.1.1 Về mặt giáo dục:

GDHN là một bộ phận của giáo dục. Giáo dục hướng nghiệp giúp Học sinh có hiểu biết về thế giới nghề nghiệp; hình thành nhân cách nghề nghiệp cho Học sinh; giáo dục thái độ đúng đắn với lao động; tạo ra sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp.

Đây là việc điều chỉnh động cơ chọn nghề của Học sinh, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp cho các em theo xu thế của nhu cầu xã hội và phân công lao động xã hội. Thực tế đã cho chúng ta thấy: sự lựa chọn nghề nghiệp một cách tự phát của thanh thiếu niên ít khi phù hợp với hướng sản xuất, nhu cầu lao động xã hội nên mới xảy ra tình trạng mất cân đối như hiện nay (người có trình độ đại học thì có quá nhiều trong khi đó công nhân, kỹ thuật thợ lành nghề thì lại thiếu). Từ đó mới sảy ra tình trạng làm việc trái ngành nghề được đào tạo, kỹ sư có trình độ đại học đi làm công nhân… Do vậy tác dụng của Giáo dục hướng nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của xã hội. Kết quả của Giáo dục hướng nghiệp chính là giúp Học sinh tự đánh giá năng lực của bản than để lựa chọn nghề phù hợp, có điều kiện phát triển tiềm năng của mỗi em, như vậy chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực sẽ cao hơn. Giáo dục hướng nghiệp giúp học sinh tự giác chọn nghề trên cơ sở biết điều hòa lợi ích tập thể, lợi ích của xã hội, sao cho phù hợp với nguyện vọng của bản thân.

Giáo dục hướng nghiệp còn góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của trường phổ thông. Như chúng ta đã biết hiện nay nhà trường phổ thông có vai trò là đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động trong những lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, sau khi tốt nghiệp phổ thông Học sinh phải có năng lực tham gia một nghề ở địa phương hoặc tiếp tục học để sau này làm tốt một nghề. Như vậy hoạt động Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông không chỉ dừng lại ở việc ý thức lao động chung chung mà phải hướng các em đi vào lao động cụ thể.

1.4.1.2 Về mặt kinh tế

GDHN góp phần phân luồng Học sinh phổ thông tốt nghiệp các cấp, giảm ách tắc giao thông; góp phần bố trí hợp lý 3 nguồn lao động dự trữ đảm bảo sự phù hợp nghề; giảm tai nạn lao động; giảm sự thuyên chuyển nghề, đổi nghề; là phương tiện quản lý công tác kế hoạch hóa phát triển kinh tế, xã hội trên cơ sở khoa học.

GDHN luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao động của tuổi trẻ đất nước từ đó nâng cao năng xuất lao động xã hội, đồng thời đưa thanh thiếu niên vào đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy hết năng lực sở trường lao động. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa trong công tác giáo dục hướng nghiệp. từ đó biến nghề nghiệp không chỉ là nơi kiếm sống đơn thuần mà còn là nơi giúp cá nhân thể hiện nhân cách, phát triển tài năng, hết mình cống hiến sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây dựng đất nước. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Tuy nhiên để đảm bảo ý nghĩa kinh tế của Giáo dục hướng nghiệp thì trong trường phổ thông phải gắn mục tiêu đào tạo, với những mục tiêu kinh tế xã hội của địa phương và đất nước đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển kinh tế của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đi vào phân công lao động trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Chính vì vậy hướng nghiệp có nhiệm vụ quan trọng bởi thông qua đó hướng nghiệp là một trong những yếu tố làm đồng bộ hóa đội ngũ lao động nghề nghiệp. phân bố lại lực lượng lao động trong xã hội, chuyên môn hóa tiềm năng lao động tuổi trẻ.

1.4.1.3 Về mặt chính trị

GDHN có tác dụng góp phần cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của trường phổ thông, điều đó có ý nghĩa là hoạt động Giáo dục hướng nghiệp có chức năng thực hiện hóa đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, thự hiện hóa đường lối giáo dục trong đời sống xã hội. Ngày nay, cuộc chạy đua giữa các nước về khoa học – kỹ thuật là cuộc chạy đua về sản xuất diễn ra rất mãnh liệt. trong cuộc chạy đua này, những nước tụt hậu phần lớn là không làm tốt công tác đào tạo người lao động, đào tạo một đội ngũ thợ lành nghề và những cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, hay nói khác đi là những nước chưa làm tốt Giáo dục hướng nghiệp.

GDHN phải được coi là điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục. Giáo dục hướng nghiệp sẽ tạo nên những yếu tố mới trong con người lao động – yếu tố cơ bản của việc tăng năng xuất lao động xã hội. Làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp sẽ có những lớp người mới đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tóm lại Giáo dục hướng nghiệp có ý nghĩa có ý nghĩa đối với sự triển khai chiến lược con người – một bộ phận của chiến lược kinh tế và khoa học – kỹ thuật.

1.4.1.4 Về mặt xã hội

GDHN giúp Học sinh tự giác đi học nghề; khi có nghề sẽ tự tìm việc làm; giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, giảm tội phạm; và góp phần ổn định xã hội.

GDHN có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo ra sự cân bằng trong việc phân bố lực lượng dân cư. Khi xã hội gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công ăn việc làm cho thanh niên, hướng nghiệp kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất và dạy nghề sẽ có tác dụng giúp ổn định đời sống xã hội góp phần tạo điều kiện cho xã hội sử dụng hết lực lượng Học sinh phổ thông ra trường trong mọi lĩnh vực kinh tế. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Chúng ta biết rằng để thanh thiếu niên đứng ngoài lao động nghề nghiệp sẽ gây lên nhiều tác hại phức tạp về mặt xã hội. bởi vậy cần hướng dẫn thanh niên chọn nghề cho mình sao cho phù hợp đồng thời có thái độ sẵn sang tham gia vào lao động sản xuất và hoạt động nghề nghiệp nhằm góp phần sức lực, trí tuệ cho công cuộc xây dựng đất nước. Qua đó tạo nên ý thức xã hội và xây dựng vị trí chỗ đứng trong xã hội của thế hệ trẻ.

1.4.2 Mục tiêu của giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông.

Mục tiêu của Giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông là giúp Học sinh hiểu được đối tượng lao động, công cụ lao động, nội dung lao động của nghề và biết tự đánh giá khả năng của bản thân so với yêu cầu của nghề, Học sinh có hiểu biết đầy đủ về ngành nghề, trường thi, từ đó chọn cho mình một nghề vừa phù hợp với năng lực sở trường, nguyện vọng của bản thân, vừa phù hợp với nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực mà xã hội đang cần.

Hiện nay cả nước đang hướng tới mục tiêu là từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hôi nhập quốc tế nhằm đưa đất nước từ một nước công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp văn minh hiện đại. Để từng bước thực hiện mục tiêu này trong nghị quyết hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục – đào tạo, phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” đồng thời Đảng ta cũng xác định: cần tăng cường hơn nữa giáo dục hướng nghiệp, mở rộng và phát triển dạy nghề…..

Vì vậy mà trong báo cáo chính trị của đại hội Đảng lần thứ IX cũng đã khẳng định rằng: “Ở mọi cấp học, bậc học kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành, gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, nhà trường và cơ sở đào tạo phối hợp với các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật truyền bá tri thức sản xuất, chuyển giao công nghệ cho nhân dân. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh Trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề phù hợp với chuyển dịch kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng tỷ lệ được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề tư thục và dân lập trang bị cho thanh thiếu niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ mới để tạo việc làm, chủ động tìm cơ hội lập thân, lập nghiệp” [13].

1.4.3 Nhiệm  vụ giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông

Nhiệm vụ thứ nhất: Tổ chức cho học sinh làm quen với một số ngành nghề của nền kinh tế quốc dân và các loại thông tin sau:

  • Thông tin về thế giới nghề nghiệp theo phân loại nghề
  • Thông tin về một số nghề cụ thể ở địa phương và cả nước theo mô tả nghề
  • Thông tin về hệ thống trường đào tạo
  • Thông tin về thị trường lao động
  • Thông tin về tình hình kinh tế ở trung ương và địa phương
  • Thông tin về học sinh

Yêu cầu đạt được khi thông tin tuyên truyền nghề là:

  • Tạo được dư luận xã hội tích cực đối với các nghề trong các lĩnh vực Công nghiệp, Nông – Lâm –Ngư nghiệp, Giao thông vận tải, dịch vụ y tế, Văn hóa và Giáo dục, tác động vào tình cảm học sinh, làm cho các em thích thú muốn vào học một ngành nghề cụ thể sau khi tốt nghiệp phổ thông. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.
  • Tạo cho học sinh ấn tượng sâu sắc về nghề.
  • Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế dưới ánh sáng văn kiện đại hội IX của Đảng. Nhiệm vụ thứ hai: Tổ chức các hoạt động nhằm hình thành hứng thú nghề, khuynh hướng nghề, năng lực nghề ở học sinh giúp học sinh có ý thức chọn nghề.

Chúng ta vẫn coi Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục đào tạo, là một trong những nhiệm vụ hoạt động của nhà trường phổ thông. Song để đạt được kết quả tốt trong công tác này đòi hỏi Cán bộ quản lý nhà trường cùng các thầy cô giáo phải biết tổ chức nhiều mặt hoạt động đồng bộ tác động vào Học sinh nhằm hình thành “nhân cách nghề nghiệp” cho các em. Qua thực tiễn hoạt động, có thể nêu lên 4 hình thức họat động chính sau đây:

  • Thực hiện chương trình hướng nghiệp ngoại khóa
  • Hướng nghiệp qua dạy các môn học cơ bản
  • Hướng nghiệp qua dạy các môn công nghệ
  • Hướng nghiệp qua dạy nghề phổ thông

Tóm lại, có thể tổ chức nhiều hoạt động cho Học sinh chuẩn bị chọn nghề. Chính các hoạt động này là điều kiện, là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động Giáo dục hướng nghiệp, đồng thời cũng là những chiếc nôi gieo mầm hứng thú và khuynh hướng nghề nghiệp cho Học sinh.

Sơ đồ 1.2. Nhiệm vụ tổng quát của giáo viên PT trong hoạt động Giáo dục hướng nghiệp

Nhiệm vụ thứ ba: Tư vấn nghề cho học sinh

Tư vấn chọn nghề được hiểu là hệ thống các biện pháp tâm lý – giáo dục – y học nhằm phát hiện và đánh giá toàn diện năng lực của thanh thiếu niên với mục đích giúp các em chọn nghề trên cơ sở khoa học. Tư vấn nghề thực chất là điều chỉnh động cơ chọn nghề của học sinh phổ thông. Vì nhà trường phổ thông chưa làm tốt công tác này nên đã “góp phần” gây ra hiện tượng “ quá tải” trong các kỳ thi đại học hằng năm.

Tuy nhiên nếu nhà trường phổ thông làm tốt công tác tư vấn nghề sẽ góp phần phân luồng học sinh, góp phần mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho nhà nước mà còn cho cả gia đình học sinh.

Tư vấn chọn nghề cho học sinh có hai mức độ:

Tư vấn sơ bộ: Loại này đơn giản, các thầy cô giáo có thể thực hiện trong trường phổ thông. Ở đây, thầy, cô giáo chủ nhiệm, Giáo viên bộ môn hoặc đoàn thanh niên có thể đóng vai trò “ nhà tư vấn” cho các em một lời khuyên nên học nghề gì và học ở đâu, nếu học lên thì nên học trường nào. Để đạt được hiệu quả tư vấn, yêu cầu các nhà tư vấn cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một số trường hoặc địa phương, về nhu cầu nhân lực, về năng lực của Học sinh, từ đó đưa ra lời khuyên cho các em. Hoặc qua những điều giảng dạy Giáo viên để Học sinh trả lời được 3 câu hỏi: Em có muốn học nghề đó không? Em có khả năng làm nghề đó không? Và xã hội địa phương có cần nghề đó không?

Tư vấn chuyên sâu: Loại này phức tạp hơn vì việc tư vấn được tiến hành trên cơ sở khoa học, đảm bảo tính chính xác cao nhờ một số máy móc hiện đại (ví dụ: máy đo độ chính xác các cử động, sự khéo léo vận động của tay, đo cảm giác, thị giác…), trắc nghiệm thần kinh, khí chất và các chỉ số thông minh khác. Điều kiện để có loại tư vấn chuyên sâu là phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn có tay nghề cao; sử dụng các phương pháp điều tra, đánh giá; sử dụng các thiết bị, phương tiện kỹ thuật tư vấn hướng nghiệp từ đơn giản đến phức tạp. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Yêu cầu đối với nhà tư vấn ở mức độ chuyên sâu là:

  • Có kiến thức về thế giới nghề nghiệp và các yêu cầu của nghề.
  • Có kiến thức về nhân cách, trước hết là về động cơ, hứng thú, khuynh hướng và năng lực nghề nghiệp của Học sinh.
  • Có kiến thức về kinh tế, về nhu cầu phát triển nhân lực của các ngành kinh tế quốc dân ở địa phương.

Đồng thời các chuyên gia còn phải biết: phương pháp điều tra, đánh giá để điều tra nhân cách, điều tra trí tuệ và điều tra hệ tâm lý vận động. Đi cùng các phương pháp này là các thiết bị, các phương tiện kỹ thuật có thể đơn giản và cũng có thể phức tạp và tốn kém. Vì vậy, khi có điều kiện mỗi địa phương nên có một phòng tư vấn chuyên sâu.

Nhiệm vụ thứ tư: Nghiên cứu học sinh

Nhiệm vụ này chiếm vị trí đặc biệt trong thành phần cấu trúc của hướng nghiệp là tìm hiểu, nghiên cứu học sinh trước hết là nhân cách nghề nghiệp của các em. Trong nhân cách nghề nghiệp các thành tố có liên quan đến chọn nghề là: Động cơ chọn nghề; Hứng thú nghề; Khuynh hướng nghề; và năng lực nghề.

Có thể đánh giá năng lực Học sinh dưa trên:

Sự thành công lâu dài và trội hơn của học sinh về hoạt động trí óc, chân tay, nghệ thuật mà hướng dẫn Học sinh đi vào những loại hình hoạt động phù hợp nhất với sự phát triển của cá nhân. Như vậy, tổ chức Giáo dục hướng nghiệp bao gồm hai chức năng cơ bản là phát triển và bồi dưỡng năng lực cá nhân Học sinh.

Sự quan sát, phân tích kết quả học tập các môn khác nhau, với mục đích đánh giá khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Phân tích bài làm của học sinh, các sản phẩm mà các em đã làm ra qua các giờ dạy lao động kỹ thuật. theo dõi sự phát triển tính cách, các phẩm chất ý chí, trạng thái xúc cảm, khả năng tập trung chú ý, tính kiên trì theo đuổi mục đích đã đặt ra, quan sát mối quan hệ với các bạn trong tập thể. Kết quả của sự quan sát phải được Giáo viên ghi lại thường xuyên để cuối cùng có một “bức tranh” chung về phát triển nhân cách Học sinh, chuẩn bị cho các em biết chọn nghề phù hợp.

Nhiệm vụ thứ năm: Giáo dục cho Học sinh có thái độ đúng đắn đối với lao động nghề nghiệp.

Thái độ này được biểu hiện ở chỗ luôn luôn kính trọng người lao động dù họ ở cương vị công tác nào; không được phân biệt nghề “cao sang” nghề “thấp hèn” mà phải thấy rằng trong một đất nước một khi nhân dân được làm chủ thì hết thảy những ngành nghề có ích cho nhân dân đều là cao quý, đều đáng kính trọng; thành công hay không chẳng phải quyết định bởi bản thân của ngành nghề nào đó mà là ở chỗ người đó có tình yêu đối với nghề hay không và thái độ với nghề ra sao. Phải làm cho Học sinh thấy rằng, lao động là vinh quang, là cần thiết, không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn là loại hình quan trọng để mỗi quốc gia tồn tại và phát triển.

Sơ đồ1.3 Tóm tắt quy trình tư vấn hướng nghiệp Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Các nhiệm vụ nêu trên chính là vấn đề cơ bản rất quan trọng của công tác tổ chức lại Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, phản ánh liên tục của các giai đoạn hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông đều phải tham gia vào hướng nghiệp cho học sinh.

1.4.4 Các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp

Người ta thường nói Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua 4 con đường (4 hình thức), nhưng qua thực tế ngoài 4 con đường đó chúng tôi bổ sung thêm như sau:

  1. Hướng nghiệp qua chương trình học chính khóa
  2. Hướng nghiệp qua dạy các môn khoa học cơ bản
  3. Hướng nghiệp qua dạy môn công nghệ
  4. Hướng nghiệp qua dạy nghề phổ thông
  5. Hướng nghiệp qua tham quan cơ sở sản xuất
  6. Hướng nghiệp qua việc mời các chuyên gia nói chuyện
  7. Hướng nghiệp qua hội thảo, tranh luận, theo chủ đề
  8. Hướng nghiệp qua tham quan các cơ sở đào tạo nghề .
  9. Hướng nghiệp qua tư vấn hướng nghiệp
  10. Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa khác.

Qua thực tiễn ở các trường PT còn có nhiều hình thức hướng nghiệp khác rất phong phú, đa dạng nhưng đều hướng tới mục tiêu giúp Học sinh lựa chọn nghề phù hợp.

1.4.5 Các mối quan hệ giữa các hình thức giáo dục hướng nghiệp

Mười hình thức nêu trên, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất cùng tác động lên học sinh. Trong 10 hình thức đó thì hình thức 1 (chương trình Giáo dục hướng nghiệp) giữ vai trò chủ đạo, vì chỉ trên nền của nội dung chương trình thì các hình thức 2 (dạy qua các môn cơ bản), 3 ( qua môn công nghệ), 4 ( qua dạy nghề phổ thông), mới có cơ sở định hướng liên hệ với những nghề cần phải dạy; các hình thức 5 (tham quan cơ sở sản xuất), 6 (nghe nói chuyện), 7 (thảo luận theo chủ đề) là hình thức hỗ trợ, giúp đỡ học sinh củng cố những kiến thức về nghề, về nhân cách ( tự đánh giá bản thân) mà các em đã tiếp thu được qua các hình thức 1,2,3,4; hình thức 8 (tham quan cơ sở đào tạo) giúp các em trả lời câu hỏi: học ở đâu để có được tay nghề, nghĩa là chỉ cho học sinh con đường vào nghề; sau khi biết được bản thân, biết được nhóm nghề, biết được khối trường thì hình thức 9 (tư vấn hướng nghiệp) sẽ giúp các em trả lời câu hỏi: Vào trường nào? Học nghề nào? Thì phù hợp với sở trường, năng lực bản thân và với nhu cầu của xã hội.

1.5 Nội dung quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp tại trường Trung học phổ thông: Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Giáo dục phổ thông bao gồm: Giáo dục Tiểu học, giáo dục Trung học cơ sở, giáo dục Trung học phổ thông. Trong Luật giáo dục cũng nêu rõ: “Giáo dục Trung học phổ thông, nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn PT và có những hiểu biết về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học cao đẳng, Trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Học sinh cuối cấp Trung học cơ sở là Học sinh lớp 9 với lứa tuổi 14 – 15 tuổi, các em cần được Giáo dục hướng nghiệp để có thể học tiếp lên Trung học phổ thông hoặc chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường và năng lực nếu em đó học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất. Học sinh Trung học phổ thông lớp cuối cấp là lớp 12 ở lứa tuổi 17 – 18 tuổi, các em rất cần được giáo dục hướng nghiệp để đảm bảo cho các em có được kiến thức, kĩ năng, thái độ đối với nghề nghiệp tương lai.Qua đó giúp các em chon nghề phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp.

Để đáp ứng yêu cầu trên công tác quản lý hoạt động giáo dục ở trường THPT cần qua 3 bước như sau:

1.5.1 Lập kế hoạch

Mục tiêu của Giáo dục hướng nghiệp được xác định trên cơ sở nhiệm vụ Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường PT và được cụ thể hóa theo đặc điểm của từng địa phương và đặc điểm lứa tuổi, cấp học. Việc thiết kế các công việc cần làm đề thực hiện các mục tiêu hướng nghiệp căn cứ vào các hoạt động ngoại khóa khác nhau của từng trường mà “ Viết ra những gì cần làm”.

Căn cứ vào kế hoạch dạy môn Giáo dục hướng nghiệp theo chương trình chính khóa của Sở GD – ĐT đối với học sinh Trung học phổ thông phải học 9 tiết/năm.

  • Với Học sinh lớp 10, học 3 buổi mỗi buổi 3 tiết

Buổi 1:

  • Lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
  • Năng lực bản thân và truyền thống gia đình
  • Tìm hiểu nghề dạy học

Buổi 2:

  • Giới tính với nghề nghiệp
  • Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp và ngành y dược.

Buổi 3:

  • Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành xây dựng
  • Nghề tương lai của tôi (thực hiện về ước mơ nghề nghiệp tương lai và những cố gắng để thực hiện ước mơ đó).

Với Học sinh lớp 11, học 3 buổi mỗi buổi 3 tiết Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

  • Buổi 1:

Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Giao thông – Địa chất, một số nghề thuộc lĩnh vực Kinh doanh- Dịch vụ, một số nghề thuộc ngành Năng lượng – Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin.

  • Buổi 2:

Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực An ninh – Quốc phòng. Nghe giới thiệu về nhu cầu của thị trường lao động địa phương. -Buổi 3:

Thảo luận về sự phù hợp nghề

Với Học sinh lớp 12, học 3 buổi mỗi buổi 3 tiết

Buổi 1: Một số định hướng phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta trong qua trình CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.

  • Nhu cầu lao động của địa phương và đất nước Những điều kiện để thành đạt trong nghề Các hướng đi sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông.
  • Tìm hiểu hệ thống đào tạo trung cấp và dạy nghề của trung ương và địa phương.

Buổi 2:

  • Tìm hiểu hệ thống đào tạo Đại học, Caoo đẳng.
  • Tư vấn nghề
  • Hướng dẫn Học sinh chọn nghề và làm hồ sơ tuyển sinh -Buổi 3:
  • Thanh niên lập thân, lập nghiệp
  • Tọa đàm trao đổi về các điều kiện để lạp thân, lập nghiệp.

1.5.2 Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch:

Phần này là: “ Làm đúng những gì đã viết” Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Đây là nhiệm vụ quan trọng của người quản lý trường Trung học phổ thông. Kế hoạch có xây dựng tốt đến đâu mà không có quá trình quản lý, chỉ đạo sát sao việc thực hiện thì cũng không mang lại kết quả như mong muốn. Trong quản lý, việc tổ chức thực hiện kế hoạch hướng nghiệp cần tập trung vào nội dung cụ thể là tìm hiểu nhu cầu hướng nghiệp và học nghề PT để lên lịch học và thống nhất trong BGH để tiến hành giảng dạy theo kế hoạch cho mỗi học kỳ, năm học hoặc cả khóa học dựa theo chương trình của Bộ GD – ĐT và phương hướng chỉ đạo của Sở GD – ĐT. Trong kế hoạch giảng dạy cần nêu rõ nội dung từng buổi học, các yêu cầu về dụng cụ, vật tư, nguyên, nhiên liệu cần thiết và phần theo dõi thực hiện kế hoạch. Kế hoạch này Hiệu trưởng xem xét phê duyệt. Từ kế hoạch giảng dạy, bộ phận thiết bị thí nghiệm trong nhà trường phải chuẩn bị mua sắm theo kế hoạch hàng tháng, học kỳ, và năm học cho từng khối lớp, từng môn học và trong quá trình học.

Trong quản lý, việc tổ chức thực hiện kế hoạch hướng nghiệp cần tập trung vào một số nội dung chính sau:

Tuyển sinh luôn là một nhiệm vụ quan trọng nhất mà kết quả của nó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động khác trong nhà trường, đến việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Vì vậy, muốn hoàn thành nhiệm vụ, Cán bộ quản lý phải quan tâm đến công tác tuyển sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ công tác này, từ khâu đầu là khảo sát nhu cầu, lập kế hoạch đến chỉ đạo thực hiện đều cần được tiến hành tỉ mỉ, cẩn trọng cho bộ phận tuyển sinh dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hiệu trưởng.

Trong khâu khảo sát và lập kế hoạch, cán bộ phải đến từng lớp để tìm hiểu việc học hướng nghiệp, học nghề phổ thông theo nhu cầu và nguyện vọng đăng ký, tỉ lệ giữa Học sinh nam và Học sinh nữ… rồi sau đó phải dự kiến lịch của từng lớp để thống nhất với BGH nhà trường. Tiến hành công tác tuyển sinh, ngoài nhu cầu đăng ký theo nguyện vọng của học sinh, người làm tuyển sinh khéo vận động để hướng học sinh đăng ký học theo điều kiện và yêu cầu của xã hội, bởi vì hiện tại, việc học hướng nghiệp trong trường phổ thông vẫn còn mới mẻ.

Cán bộ quản lý yêu cầu các tổ Giáo viên lập các kế hoạch giảng dạy cho mỗi học kỳ, năm học hoặc cả khóa học dựa theo chương trình của Bộ GD – ĐT và phương hướng chỉ đạo của Sở GD – ĐT. Trong kế hoạch giảng dạy cần nêu rõ nội dung của từng buổi học, các yêu cầu về dụng cụ, vật tư, nguyên, nhiên liệu cần thiết và phần theo dõi thực hiện kế hoạch.

Trong quá trình triển khai dạy hướng nghiệp, các Giáo viên phải chuẩn bị giáo án đúng với kế hoạch giảng dạy, các vật tư dụng cụ đồ dùng dạy học chu đáo theo yêu cầu từng bài. Thông qua Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn chỉ đạo sát sao việc dự giờ theo lịch thường xuyên và đột xuất để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của từng Giáo viên, kịp thời có điều chỉnh, uốn nắn. Đồng thời Cán bộ quản lý phải dành thời gian thỏa đáng để đi thăm lớp, dự giờ trực tiếp nắm tình hình. Nếu không quá bận, Cán bộ quản lý cũng nên tham gia giảng dạy một số tiết để sát thực tiễn trong công tác quản lý chỉ đạo.

Hoạt động tổ, nhóm chuyên môn phải được duy trì thường xuyên để bàn và giải quyết phần lớn các công việc chuyên môn của tổ như: giảng bài khó, vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá Học sinh, thông qua giáo án cho Giáo viên. Tổ chuyên môn cũng là nơi trực tiếp tổ chức các phong trào, các đợt thi đua do nhà trường tổ chức phát động như: dạy tốt, làm đồ dùng dạy học,…Vì vậy cần phải chọn và bổ nhiệm tổ trưởng chuyên môn là Giáo viên giỏi, nhiệt tình, có uy tín và có khả năng quản lý. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Sau mỗi thời gian định kỳ hàng tháng hay học kỳ, các tổ chuyên môn phải tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện về nhà trường. Bên cạnh giáo án, các loại hồ sơ khác của giáo viên cũng phải thực hiện nghiêm túc như sổ ghi điểm và điểm danh, sổ đầu bài, sổ học tập, hội họp, kế hoạch giảng dạy, sổ dự giờ. Dựa trên các yêu cầu công việc của giáo viên và bộ phận nghiệp vụ cần xây dựng thành tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành công việc từng người trong nhà trường làm cơ sở để bình xét thi đua cuối năm.

Một yêu cầu nữa người quản lý cần lưu ý là phải khách quan, công tâm trong đánh giá, đồng thời khen chê kịp thời, dùng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích, động viên người hoàn thành tốt cũng như nhắc nhở người chưa hoàn thành tốt. Trong tổng kết cần chi ra nguyên nhân dẫn tới kết quả tốt và chưa tốt với từng mặt công tác, từng tổ và từng cá nhân trong đơn vị.

1.5.3 Kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch

Quản lý công tác kiểm tra đánh giá là yếu tố quan trọng trong quá trình triển khai hướng nghiệp trong nhà trường nhằm đánh giá kết quả đạt được, những mặt hạn chế, phê bình và khuyến khích các bộ phận tham gia hướng nghiệp theo mục tiêu đã đề ra. Do vậy công tác kiểm tra, đánh giá phải thực hiện có hiệu quả và minh bạch đối với từng cán bộ, giáo viên, các bộ phận trong nhà trường.

Người quản lý phải đảm bảo 5 bước trong kiểm tra đánh giá là:

  • Bước 1: Thiết lập hệ thống quản lý kiểm tra, đánh giá công tác hướng nghiệp.
  • Bước 2: Xác định chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận tham gia hướng nghiệp.
  • Bước 3: Tập hợp số liệu kiểm tra, đánh giá công tác hướng nghiệp.
  • Bước 4: Phân tích kết quả thực hiện hướng nghiệp của các bộ phận trong nhà trường.
  • Bước 5: Sử dụng kết quả thực hiện hướng nghiệp để so sánh với kết quả dự kiên ầu năm học và tuân thủ theo đúng kế hoạch đã đặt ra. Đó là: “Viết lại những gì đã làm theo đúng những gì đã viết”.

1.5.4 Các lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp

GDHN là một trong những vấn đề quan trọng của đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam được thảo luận tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Đảng. Ở tầm vĩ mô, nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, dưới góc độ hội nhập quốc tế và khu vực thì chúng ta còn rất thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, chính xác là lao động có tay nghề cao. Để hòa mình vào tiến trình cải cách căn bản và toàn diện nền giáo dục của toàn ngành cũng như góp phần cung ứng ra thị trường đủ số lượng và chất lượng những lao động kỹ thuật có tay nghề cao thì Giáo dục hướng nghiệp phải được toàn xã hội vào cuộc, từ những chỉ thị của Đảng, Chính phủ đến Bộ GD- ĐT và sự chỉ hưởng ứng của các bộ ban ngành. Vì Giáo dục hướng nghiệp không chỉ là công cụ gián tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế có hiệu quả bền vững mà còn là công cụ góp phần điều chỉnh cơ cấu phân luồng Học sinh sau trung học, giảm tải cuộc chạy đua vào Đại học của các em. Nhờ đó tiết kiệm kinh phí không chỉ của Nhà nước mà của các gia đình. Giáo dục hướng nghiệp thông qua cơ cấu phân luồng, làm cho cơ cấu nguồn nhân lực, đảm bảo tính hợp lý, năng suất lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Ở các trường Trung học phổ thông thì Giáo dục hướng nghiệp phải được tham gia chỉ đạo từ Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng đến các tổ chuyên môn, Giáo viên chủ nhiệm, đoàn thanh niên và tất cả các cán bộ Giáo viên, nhân viên tư vấn.

1.6 Các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục hướng nghiệp Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

Quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của quản lý giáo dục và là một khâu rất quan trọng trong quá trình đào tạo. Trong các trường Trung học phổ thông có nhiều yếu tố tác động đến quản lý Giáo dục hướng nghiệp, nhưng các yếu tố sau ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý:

Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở các trường Trung học phổ thông còn nhiều hạn chế, bất cập và các cấp quản lý thiếu sự quan tâm đến hoạt động Giáo dục hướng nghiệp. Do nhận thức của các Cán bộ quản lý các cấp và của Giáo viên về hướng nghiệp chưa đầy đủ, nên hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông chưa làm tròn nhiệm vụ của mình.

Trường gặp nhiều khó khăn về Cơ sở vật chất, SGK, và thiếu Giáo viên chuyên trách.

Thời gian dạy Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh quá ngắn.

Trong thực tế hoạt động Giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông thường bị coi nhẹ, Cán bộ quản lý và Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Giáo dục hướng nghiệp.

Tổng kết chương 1

Trong chương này chúng tôi đã sơ bộ nêu lên tổng quan vấn đề nghiên cứu, đã phân tích hệ thống hóa những khái niệm cơ bản và chủ yếu cảu các khái niệm: Hướng nghiệp; Giáo dục hướng nghiệp; quản lý, quản lý giáo dục; quản lý nhà trường, quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp; ý nghĩa và tầm quan trọng của Giáo dục hướng nghiệp; mục tiêu, nội dung quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp và các yếu tố tác động đến quản lý Giáo dục hướng nghiệp. Điều quan trọng là các chủ đề Giáo dục hướng nghiệp ở lớp 11, 12 đã được chúng tôi lồng ghép vào 3 khâu: lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động Giáo dục hướng nghiệp. Đây là những vấn đề rất cơ bản từ đó có cơ sở để nghiên cứu, đưa ra thực trạng về nhận thức của các Cán bộ quản lý, Giáo viên, cha mẹ Học sinh và Học sinh của trường và từ đó đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động Giáo dục hướng nghiệp của trường. Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Quản lý giáo dục hướng nghiệp học sinh trung học […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993