Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới đang diễn ra tại nhiều nước phát triển. Không thể phủ nhận một điều đó là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho nhân loại rất nhiều cơ hội để thay đổi nền kinh tế nhưng bên cạnh đó cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khôn lường. Chưa bao giờ trong lịch sử con người lại đứng trước cùng một lúc nhiều cơ hội và rủi ro đến vậy.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Đảng Cộng sản Việt Nam về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định mục tiêu: “…Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng….”, Nghị quyết cũng chỉ rõ: “…Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp…..”. Như vậy, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trong giai đoạn hiện nay góp phần rất lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Giáo dục hướng nghiệp có vai tr rất lớn giúp học sinh nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, chọn được nghề phù hợp với bản thân, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, góp phần vào việc phân luồng và sử dụng hợp lý nguồn lao động. Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của giáo dục toàn diện, cung cấp cho học sinh những thông tin về thị trường lao động, về tính chất của các ngành nghề trong xã hội. Nội dung chủ yếu của giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT là: Giáo dục thái độ lao động và ý thức đúng đắn về nghề nghiệp; tổ chức cho học sinh thực tập và làm quen với một số nghề chủ yếu trong xã hội và các nghề truyền thống của địa phương; tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để khuyến khích, hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất; đồng thời, động viên, hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nội dung cần lao động trẻ tuổi có văn hóa. Trên cơ sở hiểu biết này và hoàn cảnh, năng lực, sở trường, sức khỏe của bản thân học sinh để lựa chọn nghề. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Theo chương trình giáo dục phổ thông mới ban hành kèm theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì Hoạt động giáo dục hướng nghiệp hiện hành được thay bằng Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.
Nội dung Hoạt động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Giai đoạn giáo dục cơ bản: Ở cấp tiểu học, nội dung Hoạt động trải nghiệm tập trung vào các hoạt động khám phá bản thân, hoạt động rèn luyện bản thân, hoạt động phát triển quan hệ với bạn bè, thầy cô và người thân trong gia đình. Các hoạt động xã hội và tìm hiểu một số nghề nghiệp gần gũi với học sinh cũng được tổ chức thực hiện với nội dung, hình thức phù hợp với lứa tuổi. Ở cấp trung học cơ sở, nội dung Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp tập trung hơn vào các hoạt động xã hội, hoạt động hướng đến tự nhiên và hoạt động hướng nghiệp; đồng thời chú trọng phân luồng, hướng nghiệp định hướng xu hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Ngoài các hoạt động hướng đến cá nhân, xã hội, tự nhiên, nội dung Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp trung học phổ thông tập trung hơn vào hoạt động giáo dục hướng nghiệp nhằm phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp.
Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua đã triển khai nhiệm vụ hoạt động giáo dục hướng nghiệp (GDHN), tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng gặp một số khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ, tài liệu, nội dung chương trình giảng dạy. Đồng thời phụ huynh học sinh chưa nhận thức được vị trí vai trò, tác dụng của hoạt động GDHN, vì vậy hiệu quả của hoạt động GDHN trong thời gian qua còn chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu xã hội, nhiều học sinh rất lúng túng trong việc lựa chọn hướng đi của mình sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và không xác định được khả năng của mình để định hướng nghề nghiệp tương lai. Sự đổi mới trong quản lý, tổ chức giáo dục nói chung và hoạt động GDHN nói riêng ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ còn một số việc bất cập.
Với những khó khăn, hạn chế đề cập đến trong tình hình hiện nay, việc đầu tư phát triển ngành giáo dục nói chung, trong đó có việc định hướng cho học sinh THPT vào các lĩnh vực nghề nghiệp hoặc tiếp tục học lên các bậc học cao hơn, đã và đang trở thành một trong những yêu cầu cấp bách của ngành giáo dục để đáp ứng cho nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước về số lượng và chất lượng. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018” làm đề tài nghiên cứu thạc sỹ quản lý giáo dục.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và điều tra thực trạng về hoạt động GDHN và quản lý hoạt động GDHN, đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hoạt động GDHN ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông 2018.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động GDHN cấp trung học phổ thông tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ
3.2. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động GDHN cấp trung học phổ thông tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ
4. Câu hỏi nghiên cứu
Đứng trước những yêu cầu mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018, cần những biện pháp quản lý nào để chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đạt hiệu quả cao nhất?
5. Giả thuyết khoa học Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trong giai đoạn hiện nay, đứng trước những yêu cầu mới về chất lượng giáo dục, đặc biệt là thực hiện những yêu cầu đặt ra về giáo dục hướng nghiệp theo nội dung chương trình giáo dục phổ thông 2018 đòi hỏi nhà trường cần phải có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh cấp THPT tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ để khắc phục được những hạn chế và nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục hướng nghiệp và công tác quản lý hoạt động GDHN cho học sinh cấp THPT.
3.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ.
3.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ.
7. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh cấp THPT tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp
Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ theo chương trình giáo dục phổ thông mới (2018) Mẫu điều tra: 7 Cán bộ quản lý, 53 giáo viên, 250 học sinh và một số mẫu là lực lượng khác ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ. Cơ sở dữ liệu: Dữ liệu sử dụng là dữ liệu 3 năm học: 2017- 2018; 2018- 2019; 2019-2020.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã được tác giả sử dụng các nhóm nghiên cứu sau
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Gồm các phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa được sử dụng để xây dựng các vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Bao gồm phương pháp điều tra, thu thập thông tin, quan sát, tọa đàm, phỏng vấn, phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi…được sử dụng để tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh cấp THPT tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ
8.3. Nhóm phương pháp xử lý thông tin
Gồm các phương pháp phân tích số liệu, phương pháp thống kê toán học được xử dụng để xử lý các tài liệu thu thập được.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông 2018;
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ;
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT THEO CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THÔNG MỚI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới
Hướng nghiệp và GDHN đã xuất hiện từ rất lâu ở các quốc gia trên thế giới. Hầu hết, các công trình nghiên cứu về hướng nghiệp, GDHN đều khẳng định vai trò của hướng nghiệp đối với thanh niên, học sinh là giúp các em chọn được nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích, hứng thú của chính bản thân các em, khuyến khích kết hợp hướng nghiệp trong nhà trường với lao động sản xuất, tham quan, thực tập ở các nhà máy, xí nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh các cấp về nghề nghiệp.
Trong những thập niên gần đây do sự gia tăng dân số và nhu cầu giáo dục khiến giáo dục kỹ thuật nghề ở các quốc gia đã có nhiều thay đổi nhằm định hướng cho mọi người nghề nghiệp tương lai. Công nghệ và đào tạo hướng nghiệp trở thành nền tảng trong hệ thống giáo dục của mọi quốc gia trên thế giới. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng người học, giáo dục của phần lớn các nước đều có xu hướng phân thành 2 luồng chính: luồng hàn lâm phát triển theo hướng học lên đại học khoa học công nghệ và luồng nghề nghiệp phát triển theo hướng đào tạo kỹ thuật- nghề nghiệp ở các trình độ trung học, cao đẳng, đại học. Công tác hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học ở một số nước trên thế giới diễn ra như sau:
Nhật Bản: Nhật Bản là một trong số các quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới về giáo dục với tỷ lệ người mù chữ thực tế gần như bằng không và 74.1% (năm 2010) số học sinh của Nhật theo học lên đến bậc đại học, cao đẳng và trung cấp, một con số ngang hàng với Mỹ và vượt trội một số nước ở châu Âu. Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản có chính sách phát triển trường trung học kỹ thuật bậc cao và thành lập loại hình trường cao đẳng công nghệ đào tạo 5 năm với đối tượng là học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở. Trong một số chương trình, học sinh có thể tham gia vào các khóa đào tạo nghề thông qua liên kết giữa nhà trường và các nhà tuyển dụng địa phương. Sau trung học cơ sở, khoảng 70% học sinh học tiếp lên trung học phổ thông để vào đại học, cao đẳng; khoảng 30% học sinh c n lại đi theo hướng đào tạo nghề [47].
Trung Quốc: Trung Quốc đang ngày càng nỗ lực phát triển nền giáo dục để trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về giáo dục trên thế giới. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trung Quốc đã hình thành thể chế phân luồng giáo dục theo 3 tầng bậc là: phân luồng sau tốt nghiệp tiểu học, phân luồng sau tốt nghiệp sơ trung (trung học cơ sở) và phân luồng sau tốt nghiệp cao trung (trung học phổ thông), trong đó phân luồng sau sơ trung là chủ yếu. Mục tiêu phân luồng sau giáo dục bắt buộc ở Trung Quốc là hai luồng giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp đạt tỷ lệ 1:1 và phát triển theo hướng quy mô giáo dục nghề nghiệp trung cấp lớn hơn giáo dục phổ thông; giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông liên thông với nhau và phát triển hài hòa [47].
Singapore: Singapore được mệnh danh là con rồng của Châu Á vì sự vươn lên mạnh mẽ của mình trong kinh tế. Tuy là một đảo quốc nhỏ bé, nhưng Singapore luôn đặt giáo dục làm trọng tâm trong các chính sách của mình. Nền giáo dục của Singapore được xây dựng trên nền tảng lâu đời của Anh quốc, chính vì thế đã đạt được thành tựu khổng lồ, là quốc gia trong mơ của những ai đang có giấc mơ du học.
Hệ thống giáo dục tại Singapore được xây dựng và phát triển trên nền tảng: mỗi sinh viên đều có những năng khiếu đặc biệt và sở thích riêng biệt để phát triển tố chất cá nhân. Hệ thống giáo dục được áp dụng một cách linh hoạt để giúp học sinh thể hiện hết tài năng của bản thân một cách toàn diện nhất. Giáo dục phổ thông và đại học Singapore có rút ngắn thời gian, cụ thể là trung học phổ thông ở đây chỉ có 2 năm, đại học chỉ có 3 năm.
Công tác giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông ở Singapore được lồng ghép và tích hợp trong các hoạt động giáo dục phù hợp với lứa tuổi từ bậc trung học đến cả bậc học sau phổ thông. Giáo dục hướng nghiệp gồm 3 giai đoạn: Nhận thức nghề nghiệp; khám phá nghề nghiệp; kế hoạch thực thi nghề nghiệp. Quá trình này giúp cho mỗi người nhận ra bản sắc riêng của chính mình, khám phá ra khả năng ưu thế của bản thân, nhận thức những quyền lợi giá trị nghề nghiệp cần theo đuổi, từ đó có những kế hoạch khả thi để phát triển nghề nghiệp nhằm hướng tới xây dựng năng lực tình cảm xã hội giúp học sinh trở thành chủ động, linh hoạt và dễ thích nghi với môi trường sống [47]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Malaysia: Giáo dục Malaysia có lịch sử lâu đời, các trường học đầu tiên là những trường Mã Lai và các trường Hồi giáo. Trong và sau thời gian là thuộc địa của Anh, xuất hiện các trường đào tạo bằng tiếng Anh và hệ thống giáo dục chuyển đổi mạnh mẽ theo xu hướng Tây hóa, với các trường đào tạo bằng tiếng Anh và bằng tiếng Trung Quốc. Nền giáo dục Malaysia được điều hành bởi hai bộ: Bộ Giáo dục và Bộ Đại học và tại mỗi bang thì có sở giáo dục bang để quản lý, điều hành. Chính sách giáo dục được thực hiện theo bộ luật giáo dục được ban hành vào năm 1996. Học sinh có thể học ở trường công lập, miễn phí với các công dân Malaysia, hoặc trường tư, hoặc giáo dục từ gia đình. Theo luật pháp của Malaysia, giáo dục tiểu học là bắt buộc. Giống nhiều nước châu Á khác, các bài kiểm tra phải đạt chuẩn quốc gia.
Hệ thống giáo dục của Malaysia được thiết kế như sau: Nhà trẻ: từ 3-4 tuổi; Mẫu giáo: từ 4-6 tuổi; Tiểu học: từ 7- 12 tuổi; Trung học: từ 13- 18 hoặc 19 tuổi; Giáo dục bậc cao (cao đẳng/ đại học): ở nhiều độ tuổi khác nhau.
Công tác giáo dục hướng nghiệp hiệu quả từ 4 hoạt động sau: Giáo dục hướng nghiệp bắt đầu từ các giáo viên giảng dạy trong lớp học; các hướng dẫn nghề nghiệp ngay từ tiểu học; hướng dẫn nghề nghiệp thông qua các câu lạc bộ nghề nghiệp để học sinh có cơ hội thảo luận, tranh luận và hiểu sâu sắc cũng như tự tìm kiếm, khám phá, khai thác và đàm phán các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp tương lai; khuyến khích tự tạo việc làm [47].
Cộng hòa liên bang Đức: Cộng h a liên bang Đức là quốc gia có chế độ liên bang, giáo dục nằm trong thẩm quyền của mỗi bang. Việc tổ chức ngành giáo dục có những khác biệt giữa các bang, mỗi bang có bộ luật và hệ thống giáo dục riêng. Ở Đức, theo quy định của luật hiến pháp, toàn bộ ngành giáo dục –đào tạo phải chịu sự quản lý của nhà nước. Quyền thành lập các trường tư được đảm bảo thông qua những quy định đặc biệt.
Nghĩa vụ bắt buộc đến trường (giáo dục phổ cập) được quy định trong hiến pháp các bang. Có sự phân biệt giữa nghĩa vụ học phổ thông (toàn thời gian) và nghĩa vụ học nghề. Nghĩa vụ học phổ thông kéo dài đến khi kết thúc năm thứ 9 đến trường (ở 4 bang cho đến năm thứ 10). Khái niệm “năm đến trường” không được nhầm với khái niệm “bậc lớp” (ví dụ: với một học sinh ở lại lớp hai lần, nghĩa vụ đi học toàn thời gian kết thúc ở cuối lớp 7 hoặc lớp 8). Nghĩa vụ học nghề là 3 năm, bắt đầu sau khi kết thúc nghĩa vụ đi học phổ thông nếu không học tiếp THCS hay THPT tại một trường giáo dục phổ thông.
Đức, việc phân luồng rất sớm theo năng lực học sinh ngay sau trung học cơ sở. Nhà nước có rất nhiều các loại chính sách để khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phân luồng này. Luật pháp vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện cho khu vực tư nhân, khu vực phi chính phủ, các công ty/doanh nghiệp được/phải tham gia vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp và hệ thống tạo việc làm cho học sinh học nghề. Chính phủ không quản lý trực tiếp công tác dạy nghề, nhưng quản lý chất lượng đào tạo nhằm thống nhất chuẩn chất lượng và buộc các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề phải thực hiện theo chuẩn. Các cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp có quyền đưa các đặc điểm truyền thống, văn hóa, kinh tế xã hội của địa phương, nhu cầu và điều kiện của doanh nghiệp vào chương trình đào tạo. Do đó chương trình đào tạo thể hiện tính đa dạng và gắn kết chặt chẽ với thực tiễn địa phương, ngành nghề. Thông qua con đường này các bên liên quan đều được hưởng lợi, có hiệu quả kinh tế – xã hội cao [48]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Hoa Kỳ: Tích hợp giáo dục văn hóa và giáo dục nghề đang là xu hướng chính hiện nay ở bậc học trung học phổ thông Hoa Kỳ. Nhằm giúp học sinh xác định đúng nghề, đội ngũ giáo viên cố vấn (3-5 người) sẽ đồng hành cùng học sinh ngay từ đầu năm lớp 11 đến cuối năm lớp 12. Giáo viên cố vấn không giảng dạy bất cứ môn học nào khác. Hầu hết các trường, trung bình một tuần sẽ có một tiết học với giáo viên cố vấn. Ngoài ra, các giáo viên này c n liên hệ với các trường đại học, công ty,… để thông báo và tạo điều kiện cho học sinh đến tham dự các sự kiện giống như một thành viên chính thức của đơn vị đó. Những định hướng này đã giúp học sinh xác định được hướng đi và có sự chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai [48].
New Zealand: Giáo dục trung học được chia thành 4 chương trình khung cấp quốc gia và định hướng nghề nghiệp ở 13 lĩnh vực khác nhau. Có 39 tổ chức đào tạo nghiệp vụ nghề (ITO) tài trợ kinh phí cho hoạt động dạy nghề. Điểm đặc biệt là ITO tổ chức đào tạo, nhưng đồng thời đặt ra tiêu chuẩn chung dựa trên yêu cầu/quan điểm của các doanh nghiệp về kỹ năng cần thiết cho thị trường lao động. Việc đào tạo nghề chủ yếu thực hiện thông qua “hệ thống kép: học sinh học một phần ở trường dạy nghề, một phần thực tập tại công ty [50].
Trên cơ sở nghiên cứu về kinh nghiệm triển khai giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng học sinh phổ thông ở một số nước trên cho thấy: Việc phân luồng học sinh được thực hiện ngay sau cấp trung học cơ sở; công tác giáo dục hướng nghiệp được thực hiện trong chương trình giáo dục trong nhà trường ngay từ cấp Tiểu học; các giáo viên đều tham gia quá trình hướng nghiệp và đồng thời có đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản về tư vấn hướng nghiệp cho học sinh; nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phân luồng; các cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp tham gia sâu vào hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường.
1.1.2. Vấn đề giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Việt Nam giáo dục hướng nghiệp đã và đang được xếp ngang tầm quan trọng với các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân giáo dục hướng nghiệp lại rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, và thiếu rất nhiều về lực lượng giáo dục, thậm chí có lúc có nơi lại không mang tính chuyên nghiệp… Vì vậy, việc thực hiện giáo dục hướng nghiệp nhiều khi không mang lại nhiều hiệu quả. Vấn đề giáo dục hướng nghiệp chỉ thực sự trở thành vấn đề nóng và cấp bách, được xã hội quan tâm khi nền kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước với sự đa dạng của các ngành nghề và nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực để phát triển đất nước.
Về công tác nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên gia giáo dục thì ngành giáo dục hướng nghiệp Việt Nam bắt đầu có những bước phát triển mạnh mẽ vào những năm 1970, 1980 của thế kỷ XX.
Các nhà nghiên cứu như: Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh… là những người có những đóng góp rất lớn cho giáo dục hướng nghiệp Việt Nam, đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn cho giáo dục hướng nghiệp như xác định mục đích, ý nghĩa, vai tr của hướng nghiệp; hứng thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp… Theo các tác giả nghiên cứu về giáo dục hướng nghiệp, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, trong quá trình đó cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ theo xu hướng phát triển chung của toàn thế giới. Xu hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH.
Trong đó, các tác giả Nguyễn Trọng Bảo, Đoàn Chi, Nguyễn Danh Ánh, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Thế Quảng, Trần Kiểm… thời gian vừa qua đã đi sâu nghiên cứu việc tiến hành công tác GDHN trong các trường phổ thông và đề cập đến nhiều các hình thức GDHN, dạy nghề ở trong trường phổ thông và trung tâm KTTH-HN như: tổ chức lao động sản xuất cho HS; tư vấn nghề nghiệp cho HS, hướng cho HS lựa chọn nghề để học tập sau khi tốt nghiệp THPT…
Các luận văn, luận án của các tác giả Nguyễn Thị Kim Nhung (2012): “Biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông miền núi Tây Bắc”; Bùi Việt Phú (2014): “Tổ chức GDHN cho HS trung học phổ thông theo tinh thần xã hội hóa”; Huỳnh Thị Lam Thanh (2015): “Tổ chức hoạt động GDHN cho HS bổ túc trung học phổ thông tại các trung tâm giáo dục thường xuyên theo định hướng phát triển nhân lực”; Phạm Văn Khanh (2016): “GDHN trong dạy học các môn học khoa học tự nhiên ở trường trung học phổ thông KV Nam Trung Bộ”… đã tập trung nghiên cứu nhiều vấn đề về giáo dục hướng nghiệp dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể, sát với thực tiễn để nâng cao chất lượng GDHN trong nhà trường phổ thông theo các hướng khác nhau. Những công trình trên đều khái quát và chỉ ra được các con đường GDHN cho HS THPT và đã chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của các con đường GDHN sẽ mang lại hiệu quả trong công tác giáo dục hướng nghiệp lựa chọn nghề phù hợp cho HS THPT.
Trong những năm gần đây, khi mà tỷ lệ sinh viên ra trường không kiếm được việc làm, thất nghiệp ngày càng cao, thì công tác Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông được xã hội đặc biệt quan tâm. Công tác Hướng nghiệp đã góp phần quan trọng vào việc hướng học, hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp nhằm mục đích đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội và theo định hướng phát triển nhân lực Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động GDHN cho học sinh phổ thông còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Tón lại, các nhà khoa học giáo dục đã đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về hướng nghiệp và GDHN, đã khái quát mục tiêu, nội dung, con đường hướng nghiệp cho HS trong nhà trường phổ thông. Khẳng định vị trí và vai trò cấp thiết của hướng nghiệp và GDHN trong nhà trường THPT. Chính các nội dung nghiên cứu của các tác giả nêu trên là cơ sở lí luận, thực tiễn cho việc thực hiện GDHN trong nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay.
Tổng lược các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy vấn đề hướng nghiệp cho học sinh là vấn đề quan trọng trong định hướng nghề, giúp cho học sinh có hiểu được giá trị nghề nghiệp từ đó có những lựa chọn tốt trong tương lai, không chỉ Việt Nam mà cả trên thế giới, các quốc gia cũng rất quan tâm tới định hướng nghề nghiệp cho người học. Các nghiên cứu đã đưa ra được nhiều định nghĩa liên quan tới hướng nghiệp, phân luồng, nhiều nghiên cứu trường hợp cũng đã khẳng định được tính đúng đắn trong thực hiện hướng nghiệp cho học sinh, cũng nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước đã giải quyết được một số vấn đề về thực tiễn quản lý công tác này đối với khách thể là học sinh trung học phổ thông và học nghề.
Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa chất lượng cung và cầu cũng như cơ cấu lao động. Thị trường lao động sẽ phân hóa mạnh giữa nhóm lao động có kỹ năng nghề thấp và nhóm lao động có kỹ năng nghề cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới – kỹ năng sáng tạo.
Cũng như các nước đang phát triển trên thế giới, Việt Nam đang đứng trước những mâu thuẫn và áp lực lớn trong thị trường lao động. Giải quyết việc làm là một trong những khâu cực kỳ quan trọng nhằm phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đồng thời đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, trong đó đặc biệt là của lực lượng lao động trẻ – lực lượng lao động chính trong tương lai của đất nước. Chính vì vậy việc học tập kinh nghiệm về giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học sẽ là cơ sở cho việc thực hiện tốt tốt chủ trương phân luồng và hướng nghiệp đã được nêu trong Chỉ thị số 10-CT/TW của Bộ Chính trị và cũng là tiếp tục thực hiện tốt hơn nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong thời gian tới.
Ở tỉnh Phú Thọ chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề quản lý GDHN nhằm góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh cấp THPT ở trung tâm KTTH-HN, nơi mà việc học nghề và dạy nghề cho học sinh tương đối khác so với trường phổ thông và cũng chưa có công trình nghiên cứu về việc quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông theo chương trình phổ thông mới.. Trong khi đó sự phát triển kinh tế của tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây và sắp tới đ i hỏi phải kéo theo sự phát triển mạnh mẽ về số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực công nhân trí thức và thợ lành nghề có trình độ cao. Vì vậy, đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp tỉnh Phú Thọ theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018” là cấp thiết.
1.2. Một số khái niệm liên quan Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
1.2.1. Quản lý, Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1 Quản lý
Quản lý là khái niệm tồn tại và là yếu tố lịch sử của xã hội loài người từ xưa đến nay. Mọi hoạt động diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của con người trong xã hội đều cần tới quản lý.
Theo Harold Koontz – Cryric Odonnell – Heinz Wehrich, trong cuốn sách “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” cho rằng “Quản lý là hoạt động đảm bảo sự nỗ lực của từng cá nhân để đạt tới mục tiêu quan trọng: là điều kiện chi phí về thời gian, công sức, tài liệu, vật liệu ít nhất và đạt được kết quả cao nhất mong muốn” [48].
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Hoạt động của quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức [26].
Với quan điểm của đề tài quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.
1.2.1.2 Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục chính là việc thực hiện việc công tác quản lý trong lĩnh vực giáo dục. Để thực hiện mục tiêu giáo dục (nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài) đảm bảo sự ổn định và phát triển hệ thống giáo dục, người quản lý giáo dục phải thực hiện bốn chức năng cơ bản là; kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra một cách khoa học và hợp quy luật nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục – đào tạo mà xã hội đã đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo. Cũng có thể hiểu quản lý giáo dục đào tạo là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý sử dụng các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương. Hiện nay, sứ mệnh của giáo dục không chỉ dạy học trong khuôn khổ nhà trường cho thế hệ trẻ mà còn tạo môi trường học tập suốt đời cho mọi công dân. Vì thế, hoạt động quản lý giáo dục được hiểu một cách căn bản nhất là sự điều hành toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Từ các ý kiến của các nhà khoa học quản lý nêu trên ta có thể xem “quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý ở các cơ sở giáo dục khác nhau trong toàn bộ hệ thống giáo dục, nhằm phát triển quy mô cả về số lượng và chất lượng để đạt tới mục tiêu giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một trong những thiết chế đặc biệt của xã hội, là đơn vị cơ sở nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chức năng của nhà trường là đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực theo yêu cầu của xã hội, đào tạo ra các công dân cho đất nước tương lai. Trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục cơ sở vừa mang tính giáo dục phổ biến và mang tính xã hội rộng rãi.
Những tác động của chủ thể quản lý đến nhà trường là những tác động của công tác tổ chức sư phạm đến đối tượng quản lý nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục cấp bách nhất của nhà trường theo từng năm học. Đó là hệ thống tác động có phương hướng, có mục đích, có mối quan hệ qua lại lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất, dưới sự quản lý và điều hành của Nhà nước.
Quản lý nhà trường bắt buộc phải vận dụng tất cả những nguyên lý chung của quản lý giáo dục để tác động và đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo trong mục tiêu chung của giáo dục và đào tạo.
Như vậy, ta có thể hiểu quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục đó là nhà trường. “Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường thông qua các chức năng quản lý đến từng thành tố của hoạt động giáo dục giúp hoạt động giáo dục của nhà trường vận hành thông suốt nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra”[15].
1.2.2. Hướng nghiệp, giáo dục hướng nghiệp, quản lý giáo dục hướng nghiệp
1.2.2.1 Hướng nghiệp Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Theo UNESCO: “Hướng nghiệp là một quá trình cung cấp cho người học những thông tin về bản thân, về thị trường lao động và định hướng cho người học có những quyết định đúng đắn đối với sự lựa chọn nghề nghiệp của mình.”[50].
Ở tầm vĩ mô, hướng nghiệp là hệ thống biện pháp tác động của Nhà nước, tổ chức hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau trong xã hội, giúp cho con người lựa chọn và xác định được vị trí nghề nghiệp của mình trong cuộc sống.
Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách Giáo dục hướng nghiệp lớp 10 thì trong trường phổ thông:“hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội”.
Theo đề tài hướng nghiệp là một quá trình bộ phận của quá trình giáo dục nhằm điều chỉnh động cơ lựa chọn nghề của học sinh, điều chỉnh hứng thú với nghề nghiệp theo xu thế phân công lao động xã hội. Như vậy, hướng nghiệp góp phần thực hiện các mục đích giáo dục của nhà trường phổ thông: đó là đào tạo các em học sinh trở thành những người lao động có năng lực thích ứng với một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể trong xã hội.
1.2.2.2. Giáo dục hướng nghiệp
1.2.2.2.1. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp
Hiện nay, khái niệm Giáo dục hướng nghiệp thường được sử dụng trong các tài liệu tập huấn nhằm nhấn mạnh hơn công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Có thể hiểu rằng giáo dục hướng nghiệp là một quá trình thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, diễn ra trong toàn bộ quá trình phát triển nghề nghiệp của con người. Giáo dục hướng nghiệp chính là nhằm định hướng nghề nghiệp có trong xã hội cho học sinh. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Theo Đặng Danh Ánh (1982), giáo dục hướng nghiệp nói chung có 4 giai đoạn liên tiếp nhau: Định hướng nghề, Tư vấn nghề, Tuyển chọn nghề và Thích ứng nghề. Hai giai đoạn đầu diễn ra ở nhà trường phổ thông, hai giai đoạn sau diễn ra ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về GDHN của các nhà khoa học, dù ở khía cạnh nào thì các quan niệm trên cũng đã nhấn mạnh đến những vấn đề sau đây:
Trên cơ sở các quan niệm trên, theo chúng tôi: GDHN là việc nhà trường cung cấp tri thức, hình thành kĩ năng chọn nghề cho HS trên cơ sở đó HS lựa chọn nghề phù hợp với năng lực, tính cách, sở thích, giá trị của bản thân, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của gia đình và phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Như vậy, các quan niệm trên cho thấy GDHN được thực hiện thông qua rất nhiều hoạt động, nhiều con đường khác nhau, với các mục tiêu và nội dung khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là giúp HS chọn được nghề phù hợp. 1.2.2.2.2.Chức năng cơ bản của giáo dục hướng nghiệp
Lịch sử phát triển giáo dục cũng là lịch sử hình thành, phát triển, truyền bá, phát huy nền văn hóa nhân loại. Từ những bầy đàn, xã hội loài người dần được tổ chức lại và từng bước hình thành sự phân công lao động xã hội. Đến một lúc nào đó, sự phân công lao động tiến đến sự phân hóa công việc có tính chất chuyên sâu, đ i hỏi phải có những hiểu biết và những kỹ năng riêng biệt. Để tham gia vào sự phân công lao động, mỗi con người đều phải qua một giai đoạn huấn luyện. Như vậy, giáo dục hướng nghiệp phải đảm nhiệm 2 chức năng cơ bản là: xã hội hóa con người và nghề nghiệp hóa con người.
- Chức năng xã hội hóa con người.
Xã hội hóa con người là quá trình giúp thế hệ trẻ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của loài người và thông qua quá trình này, mỗi con người biến những kinh nghiệm của loài người thành kinh nghiệm của cá nhân, trên cơ sở đó, cá nhân có được những năng lực thể chất và năng lực tinh thần, những đặc điểm tâm lý riêng biệt, không lặp lại người khác.
- Chức năng nghề nghiệp hóa con người. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Nghề nghiệp hóa con người là quá trình giáo dục giúp cho con người có được những tri thức, kỹ năng thái độ cần thiết trong một hình thức lao động sản xuất cụ thể theo sự phân công lao động xã hội. Mục đích cuối cùng của quá trình nghề nghiệp hóa con người là đào tạo những người lao động có nghề, có năng lực sáng tạo trong nghề của mình, có năng suất lao động cao, góp phần vào việc cải thiện đời sống hàng ngày trước hết là của bản thân và gia đình, sau đó là đời sống của cộng đồng xã hội, nói rộng ra là của đất nước.
Ngày nay, vấn đề nghề nghiệp hóa con người không chỉ là việc giúp cho con người thích ứng liên tục trong một nghề, mà với điều kiện cụ thể của sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong xã hội, cơ cấu nghề nghiệp sẽ phải thay đổi theo, trong nhiều trường hợp, con người phải di động từ nghề này sang nghề khác. Xu hướng phát triển này đã làm thay đổi nhân sinh quan (sống với nghề và chết với nghề), gắn chặt con người vào một nghề. Sự thăng tiến nghề nghiệp cũng là một quan niệm mang tính mềm dẻo so với quan niệm cổ truyền về nghề, nhất là với nghề truyền thống.
1.2.2.3. Quản lý giáo dục hướng nghiệp
Như vậy, giáo dục hướng nghiệp không chỉ làm thay đổi nhận thức con người về nghề định trọn mà còn hiểu về nghề nghiệp, những giá trị của nghề nghiệp từ đó hình thành say mê, hứng thú với nghề nghiệp mà mình lựa chọn. Việc giáo dục hướng nghiệp giúp người học nhận thức về nghề, nghĩa vụ lao động, những giá trị mà nghề mang lại cho người lào động nhằm giúp người học lựa chọn được nghề mình yêu thích
Qua phân tích việc quản lý giáo dục và hướng nghiệp cho thấy: Quản lý giáo dục hướng nghiệp là việc nhà quản lý (chủ thể quản lý) thông qua các chức năng quản lý để thực hiện các tác động đến khách thể quản lý trong tổ chức giáo dục hướng nghiệp có định hướng, có chủ đích nhằm đạt được mục tiêu giáo dục hướng nghiệp đặt ra.
1.2.3. Hoạt động giáo dục, hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
1.2.3.1 Hoạt động giáo dục
Theo quan điểm lý thuyết về hoạt “là một tổ hợp các quá trình con người tiêu thỏa mãn một nhu cầu nhất định và hóa nhu cầu của chủ thể”. động, A.N.Leontiev cho rằng hoạt động ảnh hưởng vào đối tượng nhằm đạt mục chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Lý thuyết về hoạt động tập trung vai trò của chủ thể hoạt động. Chủ thể (con người) chủ động đơn vị, điều khiển các hoạt động (hành vi, tinh thần, trí tuệ, v.v.) tác động vào đối tượng (sự vật, tri thức, v.v.). Hoạt động của con người được phân biệt với hoạt động của loài vật ở tính mục đích của hoạt động.
Theo chương trình GDPT hiện hành, hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
1.2.3.2 Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông là một hoạt động giáo dục nằm trong chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục hướng nghiệp được thực hiện nhằm định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp gồm mục tiêu giáo dục hướng nghiệp, nội dung chương trình, phương pháp hình thức, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục hướng nghiệp….
- Mục tiêu giáo dục hướng nghiệp
Mục tiêu GDHN cho học sinh THPT phải dựa trên nền tảng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua các quan điểm chỉ đạo về đổi mới chương trình giáo dục THPT, gắn với việc dạy học phân hóa và dạy học tích hợp các môn học với các lĩnh vực kinh tế xã hội, thị trường lao động, trong đó coi trọng giáo dục nghề phổ thông, cung cấp những thông tin cần thiết và quan trọng về nhu cầu lao động cho học sinh trong xu thế phát triển chung của thế giới, của thực tiễn đất nước đặt ra, từ đó tạo tiền đề cho học sinh có định hướng nghề nghiệp ngay từ cấp học THPT để rèn luyện, khẳng định bản thân, định hướng và có khả năng giải quyết tốt đối với nhu cầu nghề nghiệp. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Sau cấp học THPT học sinh có khả năng học tiếp lên cấp học cao hơn hoặc có những định hướng học nghề để bảo đảm vừa đúng với sở thích của cá nhân và phù hợp với nhu cầu nghề nghiệp của địa phương. Từ đó, nhằm giúp cho học sinh bậc THPT có nhận thức tốt về định hướng tương lai lựa chọn nghề phù hợp với trình độ của mình, GDHN bảo đảm việc cung cấp đầy đủ kiến thức về lĩnh vực nghề nghiệp của xã hội, nghề nghiệp mà xã hội đang cần, thông tin rộng rãi về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của mỗi người thích ứng với từng lĩnh vực nghề nghiệp.
Mục tiêu của hoạt động GDHN cho học sinh bậc THPT cốt yếu để tìm ra điểm chung, mối tương quan giữa các yếu tố năng lực bản thân – Hoàn cảnh gia đình – Ngành nghề trong xã hội – Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế của địa phương. Đó là tìm ra điểm chung nhất trong mối quan hệ giữa các yêu tố trong chỉnh thể các thành phần có ảnh hưởng đến định hướng chọn nghề của các em HS. Sự phù hợp nghề ở đây chính là sự phù hợp của ba yếu tố: tôi thích (hứng thú) – tôi cần phải (nhu cầu xã hội) – tôi có thể (năng lực). Đối với học sinh THPT, ngoài ba yếu tố trên, cần phải tính đến những điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bản thân trong công việc tạo điều kiện cho các em theo đuổi nghề mình đã lựa chọn.
Sơ đồ: Điều kiện chọn nghề tối ưu
Chương trình giáo dục cấp THPT được ban hành theo Quyết định số 16/2006 QĐ – BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ngày 5/5/2006 đã xác định: ,sau khi tham gia GDHN ở THPT học sinh cần đạt được:
(1)Về kiến thức:
Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề), cao đẳng, đại học ở địa phương và cả nước.
- Về kĩ năng:
Tự đánh giá được năng lực của bản thân, truyền thống nghề nghiệp và hoàn cảnh gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Tìm kiếm được những thông tin nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề.
Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai của bản thân.
- Các hình thức tổ chức giáo dục hướng nghiệp
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (trước đây gọi là sinh hoạt hướng nghiệp) được chính thức đưa vào kế hoạch dạy học của các trường THPT với tư cách là một hoạt động giáo dục, có chương trình dạy học, bao gồm mục tiêu, nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và thái độ cho từng chủ đề hướng nghiệp của từng khối, lớp. Trước năm học 2009 – 2010, thời lượng dành cho HĐGDHN ở lớp 9 là tiết/năm học (4 tiết/tháng); ở lớp 10, lớp 11, lớp 12 là 27 tiết/ năm học/ lớp (3 tiết/ tháng/ lớp). Nhưng từ năm học 2009 – 2010 trở đi, thời lượng dành cho HĐGDHN rút xuống còn 9 tiết/ năm học/ lớp do có sự tích hợp một số chủ đề hướng nghiệp vào HĐNGLL và môn Công nghệ lớp 10.
Giáo dục huớng nghiệp cho HS phổ thông được thực hiện bằng các hình thức: Tích hợp nọi dung huớng nghiẹp vào các môn học, lao đọng sản xuất và học nghề phổ thông, hoạt đọng sinh hoạt huớng nghiẹp và các hoạt đọng ngoại khóa khác”.
Theo chuong trình giáo dục phổ thông hiẹn hành, có thể tóm tắt các hình thức huớng nghiẹp cho HS cấp trung học nhu sau:
(1) Hướng nghiệp qua các môn văn hóa
Các môn văn hóa là những môn học được đưa vào kế hoạch dạy học trong Chương trình giáo dục phổ thông và là các môn học chính khóa trong các trường THCS nhằm cung cấp cho HS những kiến thức, kĩ năng cơ bản, phổ thông và cần thiết nhất trong các lĩnh vực như Toán học, Văn học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, …. Thời lượng dành cho các môn văn hóa rất nhiều (khoảng 24- 25 tiết/ tuần). Do vậy, tích hợp GDHN vào các môn văn hóa là hình thức giáo dục hướng nghiệp có khả năng thực hiện lâu dài, thường xuyên và hiệu quả. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Qua các môn văn hóa, GV có thể giới thiệu cho HS các nghề cơ bản có liên quan trực tiếp tới môn học, những khả năng và thành tựu cũng như sự phát triển của một số ngành nghề chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và công nghệ thông tin. Cũng qua các môn văn hóa, GV có thể giúp cho HS biết được những yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của một số ngành nghề trong các lĩnh vực liên quan tới môn học như lĩnh vực sinh học, vật lý, hóa học, nghệ thuật, công nghệ… Từ đó, HS có thêm thông tin cơ sở để lập kế hoạch chọn nghề tương lai sao cho vừa phù hợp với khả năng, học lực của bản thân, vừa phù hợp với nhu cầu lao động của một số ngành nghề chính trong xã hội. Hình thức hướng nghiệp qua các môn văn hóa được thực hiện chủ yếu theo phương thức tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục hướng nghiệp vào môn học.
- Hướng nghiệp qua môn công nghệ
Với tư cách là một môn khoa học ứng dụng thực tiễn, bộ môn Công nghệ cung cấp cho các em học sinh những nguyên lý chung của các quá trình sản xuất chủ yếu, củng cố những nguyên lý khoa học và làm cho học sinh nắm bắt và hiểu được những ứng dụng của khoa học công nghệ vào trong sản xuất, trong các dạng nghề nghiệp khác nhau. Do đó giảng viên khi tham gia giảng dạy môn Công nghệ phải quán triệt tinh thần kỹ thuật tổng hợp có tác dụng hướng nghiệp cho thế hệ trẻ.
(3) Hoạt động giáo dục nghề phổ thông và lao động sản xuất
Nghề phổ thông (NPT) được hiểu là những nghề phổ biến và thông dụng đang cần phát triển ở địa phương. NPT có kĩ thuật khá đơn giản, quá trình dạy nghề không đ i hỏi phải có trang thiết bị phức tạp. Nguyên liệu dùng cho dạy nghề dễ kiếm, phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng đầu tư của địa phương, nhà trường. Thời gian học nghề ngắn.
Mục đích chủ yếu của dạy NPT là trang bị cho HS những kiến thức, kĩ năng lao động cần thiết và tạo cơ hội cho HS củng cố nội dung lí thuyết, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở môn Công nghệ vào thực tiễn đời sống và sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và tin học. Qua đó, giúp HS làm quen với hoạt động lao động nghề nghiệp, chuẩn bị tích cực cho HS bước vào cuộc sống lao động và định hướng nghề nghiệp cho các em.
Nghề phổ thông được đưa vào các trung tâm kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp (TT KTTH – HN) và một số trường phổ thông cấp trung học từ những năm 80 theo phương thức HS tự nguyện đăng kí học, không bắt buộc. Khi đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông (năm 2000), NPT được đổi tên thành hoạt động giáo dục nghề phổ thông (HĐGDNPT) và được đưa vào kế hoạch dạy học lớp 11 THPT với thời lượng 3 tiết/tuần (105 tiết/nghề/năm học). Trong chương trình HĐGDNPT có 11 nghề thuộc các lĩnh vực công nghiệp (4 nghề), nông nghiệp (3 nghề), dịch vụ (3 nghề) và tin học (1 nghề). Mỗi HS được chọn học một nghề theo phương thức bắt buộc. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Qua tham gia HĐGDNPT và lao động sản xuất, HS không những có cơ hội để thử sức mình trong một hoạt động lao động nghề nghiệp cụ thể mà còn có điều kiện khám phá khả năng, sở thích, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân, nâng cao các kĩ năng thiết yếu, nâng cao nhận thức nghề nghiệp và ý thức, thái độ lao động, từ đó đưa ra quyết định chọn nghề tương lai sao cho phù hợp.
(4) Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa, tham quan
Ngoại khóa là hoạt động được tổ chức cho HS học tập ngoài giờ học chính khóa. Hoạt động này được tiến hành theo một kế hoạch nhất định dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV nhằm phát hiện, bồi dưỡng, phát triển hứng thú, năng khiếu và khả năng sáng tạo của HS trong một lĩnh vực nào đó như khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật hoặc tin học…
Qua tham gia hoạt động ngoại khóa, HS có cơ hội để khám phá khả năng, sở thích, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân. Trong các trường THPT, tùy điều kiện và khả năng, có thể tổ chức các lớp, tổ ngoại khóa về công nghệ (làm vườn, trồng cây cảnh, điện tử, vẽ kĩ thuật, cơ khí…), tin học, nghệ thuật, hoạt động xã hội… để những HS có xu hướng và năng khiếu trong từng lĩnh vực trên tham gia hoạt động.
Việc tổ chức cho HS tham quan các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề… nhằm tạo điều kiện cho HS được tận mắt quan sát cơ chế vận hành máy móc trong sản xuất, các hoạt động của người lao động và các sản phẩm của quá trình lao động. Nhờ đó, HS hiểu rõ hơn đối tượng lao động, yêu cầu lao động của ngành nghề mà HS mới chỉ biết qua sách vở, đồng thời khơi dậy trong các em hứng thú đối với nghề nghiệp.
Ngoài những tiết sinh hoạt hướng nghiệp chính khóa thì hoạt động ngoại khóa cũng có tác dụng hết sức tích cực, được thể hiện như sau:
- Xây dựng các tổ nhóm hướng nghiệp với các em có cùng hứng thú, sở thích đang theo học cùng nghề phổ thông để các em phát huy khả năng của mình, các em sẽ sáng tạo và nâng cao tay nghề.
- Tổ chức cho HS tham quan thực tập tại các nơi trực tiếp sản xuất, kết hợp giữa học lý thuyết gắn với thực hành, HS nâng cao hiểu biết về quy trình sản xuất, qua thực tế, HS tìm hiểu nghề và chọn nghề, tự tin và hứng thú phát triển nghề nghiệp tương lai.
- Thông qua sinh hoạt câu lạc bộ với các buổi tọa đàm nghề nghiệp với các nhà tư vấn hướng nghiệp, với HS và các bậc cha mẹ HS sẽ tạo ra mối quan hệ kết hợp tốt giữa các bên trong việc hướng dẫn HS lựa chọn nghề nghiệp của mình.
1.2.4. Chương trình GDPT, chương trình GDPT 2018, GDHN trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
1.2.4.1 Chương trình giáo dục phổ thông
Chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo là văn bản thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, quy định các yêu cầu cần đạt được về phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, làm căn cứ quan trọng để quản lí chất lượng giáo dục phổ thông; đồng thời là cam kết của Nhà nước nhằm bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục phổ thông trong toàn quốc.
Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.
Chương trình giáo dục phổ thông phải bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học trong hệ thống giáo dục với nhau và đảm bảo sự liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học.
Chương trình giáo dục trung học phổ thông trực tiếp giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới.
1.2.4.2 Chương trình giáo dục phổ thông 2018
Điểm khác của chương trình Giáo dục phổ thông 2018 là phân biệt rõ hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 – lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 – lớp 12).
Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số môn học trong chương trình hiện hành để tạo thành môn học tích hợp, thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lý số môn học; đồng thời thiết kế một số môn học (tin học và công nghệ, tin học, công nghệ, giáo dục thể chất, hoạt động trải nghiệm, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp) theo các chủ đề, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những chủ đề phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên đề học tập phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của mình.
Chương trình Giáo dục phổ thông mới có những điểm khác biệt là chương trình được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng.
Về cơ bản, chương trình GDPT mới tiếp tục kế thừa mục tiêu giáo dục mà chương trình hiện hành đã đặt ra là giáo dục con người toàn diện, giúp học sinh hài hòa về đức, trí, thể, mỹ.
Nội dung giáo dục của chương trình phổ thông mới có cập nhật để phù hợp với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ của nhân loại và định hướng mới của chương trình, kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình GDPT mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa và phát triển từ chương trình Giáo dục phổ thông hiện hành, nhưng được tổ chức lại khoa học, hợp lý để từ đó giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách hiệu quả và tối ưu hơn.
Về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số môn học và hoạt động giáo dục mới hoặc mang tên mới là: Tin học và công nghệ, Ngoại ngữ, hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Lịch sử và Địa lý, Khoa học tự nhiên ở cấp THCS; Âm nhạc, Mỹ thuật, Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp THPT; hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở các cấp THCS, THPT.
1.2.4.3 Giáo dục hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông 2018
Theo chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: “Giáo dục hướng nghiệp bao gồm toàn bộ các hoạt động của nhà trường phối hợp với gia đình và xã hội nhằm trang bị kiến thức, hình thành năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh, từ đó giúp học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, tính cách, sở thích, quan niệm về giá trị của bản thân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của gia đình và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Giáo dục hướng nghiệp có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và sau trung học phổ thông”[8].
Giáo dục hướng nghiệp trong chương trình GDPT 2018 được xây dựng trên cơ sở kế thừa ưu điểm của chương trình giáo dục hướng nghiệp hiện hành; bám sát nội dung Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”, ban hành theo Quyết định số 522/QĐ-TTg, ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
Giáo dục hướng nghiệp trong chương trình GDPT bao gồm toàn bộ các hoạt động của nhà trường phối hợp với gia đình và xã hội nhằm cung cấp tri thức về nghề nghiệp và thị trường lao động cho học sinh, giúp học sinh tự đánh giá sở trường, nguyên vọng, quan niệm về giá trị và điều kiện của bản thân, từ đó lựa chọn định hướng nghề nghiệp phù hợp và có ý thức chuẩn bị cho việc thực hiện sự lựa chọn đó. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Chương trình GDPT phân biệt rõ hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Nội dung giáo dục hướng nghiệp được lồng ghép, tích hợp vào các môn học, hoạt động giáo dục. Trong đó, có ưu thế và thể hiện vai tr rõ ràng về giáo dục hướng nghiệp là các môn Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật, Giáo dục công dân và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.
Giáo dục hướng nghiệp trong chương trình GDPT mới được thực hiện chủ yếu ở các năm học cuối của trung học cơ sở và toàn bộ giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp với những môn học, chuyên đề học tập phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Nội dung giáo dục hướng nghiệp trong chương trình mới cũng phản ánh được xu hướng dịch chuyển ngành nghề trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp, Chương trình tổng thể xác định rõ năng lực định hướng nghề nghiệp cũng như các yêu cầu cần đạt cho năng lực này ở từng cấp học. Trên cơ sở đó, các môn học, hoạt động giáo dục xác định cơ hội vả nêu yêu cầu cần đạt cụ thể về giáo dục hướng nghiệp trong môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với đặc điểm, tính chất của môn học để thực hiện thống nhất trong cả nước.
1.3. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới
1.3.1. Ý nghĩa của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Ý nghĩa giáo dục: Lịch sử phát triển xã hội gắn liền với sản xuất và sự phân công lao động. Giáo dục hướng nghiệp đóng góp một phần quan trọng vào quá trình đó. Kinh nghiệm trong và ngoài nước đã khẳng định việc chọn ngành nghề một cách thiếu định hướng sẽ có tác động tiêu cực làm chậm sự phát triển kinh tế xã hội, mất cân đối cơ cấu ngành nghề và làm sai lệch nhu cầu lao động. Hướng nghiệp sẽ giúp điều chỉnh xu hướng chọn nghề cho HS và xu thế phân công lao động xã hội. Do đó, giáo dục có ý nghĩa rất lớn, tác động đến quá trình hướng nghiệp, làm cho mỗi học sinh tự giác điều chỉnh hướng đi, hướng chọn nghề phù hợp với năng lực, sở trường bản thân và nhu cầu nghề nghiệp trong xã hội một cách tối ưu nhất.
Giáo dục hướng nghiệp tác động vào nội dung và cụ thể hóa mục tiêu đào tạo ở trường phổ thông. Trong suốt thời kỳ học cấp phổ thông, đặc biệt là sau THCS và THPT, học sinh được tiếp cận các môn học tích hợp nghề nghiệp và thông qua các giờ GDHN đã trang bị cho HS các kiến thức về các ngành nghề trong xã hội, đặc biệt là được học các lớp DNPT góp phần định hướng chọn nghề tương lai cho học sinh. Như vậy quá trình hướng nghiệp trong các trường trung học phổ thông một mặt giáo dục ý thức lao động nghề nghiệp mà c n hướng để HS khẳng định nghề nghiệp tương lai.
Ý nghĩa chính trị: Công tác giáo dục hướng nghiệp có chức năng đặc biệt quan trọng là thực hiện đường lối giáo dục của đảng và Nhà nước. Trong GDHN, việc tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội luôn được xem là vấn đề trọng tâm để HS được tiếp cận và tiền đề quyết định con đường sự nghiệp tương lai. Nghiên cứu các nước, sự phát triển kinh tế đều phụ thuộc vào nguồn lao động phong phú, chất lượng cao nhờ công tác đào tạo người lao động được chú trọng, đào tạo đội ngũ thợ lành nghề, và những cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao đáp ứng nền công nghiệp hiện đại. Hoạt động GDHN có hiệu quả sẽ tạo ra những thế hệ có phẩm chất và năng lực xây dựng đất nước, đồng thời có ý nghĩa về chiến lược con người, chiến lược kinh tế, chính hướng nghiệp đã tạo ra những con người lao động mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Ý nghĩa xã hội: Thông qua hoạt động giáo dục hướng nghiệp, học sinh được làm quen với những ngành, nghề cơ bản trong xã hội, những nghề đóng vị trí then chốt, quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, những nghề cần thiết để phát triển ở địa phương, cơ sở. Đồng thời học sinh cần biết yêu cầu tâm lý từng ngành nghề, những điều kiện cần thiết chọn nghề. Việc chọn nghề đúng đắn sẽ không lãng phí trong đào tạo nguồn nhân lực, góp phần phát triển đất nước. Hướng nghiệp có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo sự cân bằng nguồn nhân lực trong đời sống xã hội, khắc phục tình trạng một bộ phận thanh niên không có việc làm hoặc có việc làm không ổn định gây ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Ý nghĩa kinh tế: Lao động trẻ luôn là tiềm năng và là vốn lao động quý báu của xã hội. Việc giúp HS phát huy được năng lực, sở trường bản thân, hứng thú và có nhận thức chọn nghề một cách đúng đắn là việc làm hết sức quan trọng và có nghĩa đối với hướng nghiệp. Để bảo đảm ý nghĩa kinh tế của hướng nghiệp, nhà trường phải gắn mục tiêu đào tạo với mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước và của địa phương. Sự phân công lao động hợp lý sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hướng nghiệp có vai tr lớn tạo nguồn nhân lực thích hợp cung cấp cho xã hội, hướng nghiệp tốt cũng đồng nghĩa với việc cung cấp nguồn nhân lực vừa cân đối vừa có chất lượng phục vụ kinh tế phát triển.
Hướng nghiệp tốt sẽ tạo động lực và tạo cơ hội cho người học chọn nghề phù hợp, từ đó đem hết năng lực để phát triển ngành nghề đã chọn, sáng tạo trong công việc, chất lượng và hiệu quả công việc được nâng cao, dẫn đến kinh tế phát triển vững chắc.
1.3.2. Mục tiêu giáo dục hướng nghiệp
Chương trình Giáo dục phổ thông mới có những điểm khác biệt là chương trình được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng. Cụ thể, mục tiêu đối với học sinh trung học phổ thông (lớp 10, 11, 12) sau khi tham gia các hoạt động giáo dục hướng nghiệp là:
Về kiến thức: hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai; biết cách tìm hiểu bản thân, tìm hiểu nghề nghiệp, thông tin thị trường lao động và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân; biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước và khu vực.
Về kỹ năng: tự đánh giá được sở thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp; tìm kiếm được thông tin nghề, thông tin thị trường tuyển dụng lao động và các cơ sở đào tạo cần thiết; lựa chọn và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân.
Về thái độ: chủ động, tích cực tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường để tăng thêm nhận thức về bản thân, nhận thức nghề nghiệp; tự tin thực hiện kế hoạch nghề nghiệp của bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
1.3.3. Nội dung giáo dục hướng nghiệp trong chương trình phổ thông mới 2018 Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho HSPT được tích hợp trong một số môn học, hoạt động giáo dục. Cụ thể:
1.3.3.1. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Công nghệ
Được thể hiện trước hết qua việc mô tả yêu cầu cần đạt về định hướng nghề nghiệp trong năng lực tìm hiểu công nghệ, năng lực thành phần của năng lực công nghệ.
Biểu hiện cụ thể của giáo dục hướng nghiệp trong môn Công nghệ bao gồm các cấp độ: (1) mạch nội dung về hướng nghiệp; (2) yêu cầu cần đạt về ngành nghề thuộc các lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ; (3) trải nghiệm ngành nghề thông qua các mô đun kỹ thuật, công nghệ tự chọn. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Công nghệ được triển khai chủ yếu ở các lớp cuối cấp trung học cơ sở và toàn bộ giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Lao động và phương pháp lựa chọn nghề nghiệp. Đây là nội dung cơ sở để triển khai các hoạt động hướng nghiệp trong hoạt động trải nghiệm. Cũng trong lớp 9, học sinh được lựa chọn theo học một mô đun có tính nghề về kĩ thuật, công nghệ thuộc ba lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Qua đó, học sinh được trải nghiệm kĩ thuật, công nghệ gắn với yếu tố nghề nghiệp, hình thành phẩm chất, năng lực tương ứng, đánh giá được mức độ phù hợp, hứng thú của bản thân về các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ tương ứng.
Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, với tinh thần học để chuẩn bị, học để thích ứng với lĩnh vực nghề nghiệp học sinh lựa chọn sau khi tốt nghiệp, môn Công nghệ có vai tr trang bị cho học sinh tri thức nền tảng và các năng lực cốt lõi phù hợp với ngành nghề kĩ thuật, công nghệ học sinh lựa chọn sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông thuộc một trong hai định hướng Công nghiệp hoặc Nông nghiệp.
1.3.3.2. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Tin học Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0, có nhiều ngành nghề và việc làm mới xuất hiện đi hỏi kiến thức, kỹ năng tin học chuyên sâu. Môn Tin học có cơ hội góp phần giúp học sinh định hướng nghề nghiệp tương lai hoặc ra đời khởi nghiệp, lập nghiệp trong lĩnh vực tin học. Do vậy, Chương trình môn Tin học rất coi trọng giáo dục hướng nghiệp, thể hiện thông qua các cấp độ: (i) chủ đề hướng nghiệp với tin học; (ii) tích hợp giáo dục hướng nghiệp qua các chủ đề, chuyên đề học tập; (iii) qua các dự án học tập và tạo sản phẩm số.
Chương trình dành từ 6% đến 10% cho các chủ đề hướng nghiệp với tin học. Đồng thời, tích hợp giáo dục hướng nghiệp thông qua việc giới thiệu cho học sinh một số nghề nghiệp liên quan tới ứng dụng tin học, mạng máy tính và Internet, một số chủ đề hiện đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hướng dẫn học sinh thực hiện các dự án học tập, tạo sản phẩm số.
1.3.3.3. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Giáo dục công dân
Giáo dục hướng nghiệp cũng thể hiện rõ trong môn Giáo dục công dân, Giáo dục kinh tế và pháp luật.
Ở cấp THPT, Chương trình môn Giáo dục kinh tế và pháp luật yêu cầu học sinh bước đầu biết tạo lập, xây dựng ý tưởng cho một hoạt động kinh doanh nhỏ; lựa chọn được mô hình hoạt động kinh tế thích hợp trong tương lai đối với bản thân; xác định được hướng phát triển phù hợp của bản thân sau THPT. Chương trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu những chủ đề và chuyên đề học tập làm nền tảng cho định hướng nghề nghiệp như: Nền kinh tế và các chủ thể của nền kinh tế, Thị trường và cơ chế thị trường, Sản xuất kinh doanh và các mô hình sản xuất kinh doanh, Mô hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ (lớp 10); Lạm phát, thất nghiệp, Thị trường lao động, Việc làm, Ý tưởng, cơ hội kinh doanh và các năng lực cần thiết của người kinh doanh, Đạo đức kinh doanh, Một số vấn đề về luật pháp lao động (lớp 11); Hội nhập kinh tế quốc tế, Lập kế hoạch kinh doanh, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Một số quyền và nghĩa vụ của công dân về kinh tế, Một số vấn đề về Luật Doanh nghiệp.
1.3.3.4. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Nghệ thuật
Môn Nghệ thuật là một môn học ghép, gồm hai môn là Âm nhạc và Mỹ thuật.
- Âm nhạc
Chương trình môn Âm nhạc góp phần định hướng nghề nghiệp cho những học sinh có năng khiếu và nguyện vọng được làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến âm nhạc. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, Chương trình môn Âm nhạc giúp học sinh nâng cao năng lực tiếp nhận âm nhạc và kĩ năng thực hành, mở rộng hiểu biết về âm nhạc trong mối quan hệ tương quan với các yếu tố lịch sử, văn hoá và xã hội; giúp học sinh phát huy tiềm năng hoạt động âm nhạc, có định hướng nghề nghiệp phù hợp với khả năng của bản thân…
Nội dung dạy học trọng tâm bao gồm những kiến thức và kĩ năng âm nhạc mở rộng, nâng cao về hát, chơi nhạc cụ, nghe nhạc, đọc nhạc, lí thuyết âm nhạc, thưởng thức âm nhạc (thời lượng học tập là 70 tiết/năm). Bên cạnh đó, những học sinh có sở thích và năng khiếu âm nhạc có thể chọn các chuyên đề học tập (35 tiết/năm học) về kĩ năng biểu diễn âm nhạc, phương pháp soạn đệm cơ bản, sử dụng một số phần mềm âm nhạc để phát triển kĩ năng, kiến thức có thể chuẩn bị cho những nghề nghiệp liên quan đến âm nhạc trong tương lai.
- Mỹ thuật Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trong môn Mỹ thuật, nội dung giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua mạch Mỹ thuật ứng dụng. Ở cấp tiểu học, chương trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu và làm các sản phẩm thủ công, như đồ chơi, đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân, đồ lưu niệm, đồ gia dụng, đồ trang trí nội thất bằng vật liệu sẵn có; thông qua đó, giúp học sinh làm quen với các nghề thủ công phổ biến ở địa phương, góp phần giáo dục hướng nghiệp.
Ở cấp THPT, chương trình gồm nhiều nội dung lựa chọn gắn với các ngành nghề liên quan đến mỹ thuật và có tính ứng dụng cao trong thực tiễn, như: Thiết kế đồ họa, Thiết kế thời trang, Lý luận và lịch sử mĩ thuật, Hội họa, Đồ họa; trong đó có một số ngành nghề có ưu thế tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như: Thiết kế công nghiệp, Thiết kế mỹ thuật đa phương tiện, Thiết kế mỹ thuật sân khấu, điện ảnh…
1.3.3.5. Hướng nghiệp trong hoạt động trải nghiệm
Hoạt động hướng nghiệp là một trong bốn mạch nội dung hoạt động chính và được thực hiện trong cả hai giai đoạn giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp, giúp học sinh hiểu biết về nghề nghiệp và những phẩm chất liên quan tới nghề nghiệp, có khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với sự tư vấn của thầy cô và gia đình, biết lập và thực hiện kế hoạch học tập đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp.
Nội dung hoạt động hướng nghiệp gồm:
Tìm hiểu nghề nghiệp (Ý nghĩa, đặc điểm và yêu cầu của nghề. Tìm hiểu yêu cầu về an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp. Tìm hiểu thị trường lao động trong và ngoài nước…);
Hoạt động rèn luyện phẩm chất, năng lực phù hợp với định hướng nghề nghiệp (Tự đánh giá sự phù hợp của bản thân với định hướng nghề nghiệp. Rèn luyện phẩm chất và năng lực phù hợp với định hướng nghề nghiệp);
Hoạt động lựa chọn hướng nghề nghiệp và lập kế hoạch học tập theo định hướng nghề nghiệp (Tìm hiểu hệ thống trường trung cấp, cao đẳng, đại học và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khác của địa phương, Trung ương. Tham vấn ý kiến của thầy cô, người thân và chuyên gia về định hướng nghề nghiệp. Lựa chọn cơ sở đào tạo trong tương lai và lập kế hoạch học tập phù hợp với định hướng nghề nghiệp). Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
1.3.4. Phương thức giáo dục hướng nghiệp
Phương thức giáo dục hướng nghiệp được hiểu bao gồm phương pháp và hình thức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT.
Các phương pháp giáo dục hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay theo hướng tạo môi tường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân. Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp thực hiện phương châm giáo dục phân hóa, đảm bảo học sinh được tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.
Phương pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh thường được tiến hành thông qua 4 giai đoạn: giáo dục nghề, tư vấn nghề, tuyển chọn nghề, thích ứng nghề. Trách nhiệm chính ở 2 giai đoạn đầu là của các nhà trường phổ thông, còn giai đoạn cuối là trách nhiệm của các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH) và các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, để công tác giáo dục hướng nghiệp đạt hiệu quả cao, các trường dạy nghề, THCN, CĐ, ĐH và các đơn vị sử dụng nhân lực và toàn xã hội phải có trách nhiệm phối hợp với ngành giáo dục và đào tạo nói chung, với các trường phổ thông nói riêng cùng nhau làm công tác giáo dục hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Hiện nay, hoạt động giáo dục hướng nghiệp đang được thực hiện theo bốn hình thức là:
Giáo dục hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các môn văn hóa. Thật vậy, môn học nào cũng có khả năng hướng nghiệp của nó. Điều quan trọng là người thầy phải biết kết nối những nội dung giảng dạy với một số nghề cụ thể nào đó nhằm giúp học sinh có cái nhìn tổng quát về nghề, ươm mầm đam mê nghề nghiệp cho học sinh. Quá trình giảng dạy các môn văn hóa cũng là quá trình phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, dẫn dắt sự phát triển năng khiếu của học sinh, từ đó, người thầy có thể định hướng cho học sinh có năng khiếu, cho các em những lời khuyên chọn nghề.
Giáo dục hướng nghiệp qua hoạt động dạy nghề phổ thông và dạy môn công nghệ. Có thể nói môn công nghệ và dạy nghề phổ thông có khả năng hướng nghiệp rất lớn. Mặc dù học sinh chưa đi sâu vào kỹ thuật nghề nghiệp nhưng qua việc tìm hiểu một số ngành nghề chủ yếu (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), học sinh có điều kiện hiểu về những ngành nghề trong xã hội. Đặc biệt, với hoạt động dạy nghề phổ thông (tin học, điện dân dụng, chụp ảnh, nấu ăn,…), học sinh có điều kiện được thực hành một cách nghiêm túc, đầy đủ, được thử sức mình với hoạt động kỹ thuật cụ thể, nhờ đó, các em phát hiện và đánh giá đúng hơn năng lực kỹ thuật của bản thân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Giáo dục hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Có nhiều cách tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp như giao lưu với người thành đạt trong nghề; tìm hiểu các ngành nghề đang cần nhân lực, nhất là những ngành nghề nằm trong dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương; tìm hiểu hệ thống các cơ sở đào tạo; tổ chức các buổi tọa đàm, diễn đàn về nghề nghiệp tương lai… tất cả đều nhằm mục đích giáo dục thái độ yêu lao động cũng như cung cấp cho học sinh một cái nhìn toàn cảnh về các ngành nghề trong xã hội, các “luồng” mà học sinh có thể đi tiếp sau khi tốt nghiệp cũng như nhu cầu về nhân lực của quốc gia và địa phương.
Giáo dục hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan ngoại khóa. Các hoạt động này có khả năng hướng nghiệp to lớn bởi chúng thúc đẩy sự phân hóa năng lực, sự phát triển năng khiếu diễn ra càng mạnh mẽ, nói cách khác, sự nảy sinh hứng thú, thiên hướng, năng lực của học sinh thường xuất hiện trong các hoạt động ngoại khóa.
Các hình thức (ii), (iii) đã được các cơ sở giáo dục trong toàn quốc triển khai thực hiện tương đối nền nếp nhưng kết quả cho thấy còn rất nhiều hạn chế. Riêng hình thức (i), (iiii) do nhiều nguyên nhân tác động nên việc thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, hình thức và kết quả chưa cao như kỳ vọng. Đặc biệt, hầu hết các hình thức giáo dục hướng nghiệp kể trên chủ yếu được thực hiện theo hướng tuyên truyền, áp đặt, một chiều có nghĩa là GV, các trường Đào tạo,… giáo dục, tuyên truyền về các loại ngành nghề khác nhau mà chưa thực sự biết được những ước mơ, nguyện vọng, năng lực của bản thân học sinh, hoàn cảnh gia đình học sinh để tư vấn cho các em lựa chọn con nghề nghiệp thích hợp nhất. Do vậy, cần tăng cường đổi mới công tác GDHN cho học sinh đặc biệt là đổi mới quản lý công tác GDHN theo chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay. Hướng nghiệp thông qua tham quan thực tế tại các đơn vị sử dụng lao động nói chung, các doanh nghiệp, các nhà máy, các cơ sở sản xuất, cơ quan văn hóa,…; tổ chức học tập thông qua các dự án học tập triển khai tại phòng thí nghệm, phòng học bộ môn, các cơ quan nghiên cứu, đơn vị sản xuất kinh doanh được khuyến khích thực hiện. Với một cách diễn đạt cụ thể hơn, bốn hình thức giáo dục hướng nghiệp nêu trên được chia nhỏ ra thành mười hình thức giáo dục hướng nghiệp chi tiết sau đây:
- 1/ Giáo dục hướng nghiệp qua dạy chương trình hướng nghiệp chính khóa;
- 2/ Giáo dục hướng nghiệp qua dạy các môn khoa học cơ bản;
- 3/ Giáo dục hướng nghiệp qua dạy môn công nghệ;
- 4/ Giáo dục hướng nghiệp qua chương trình dạy nghề phổ thông;
- 5/ Giáo dục hướng nghiệp qua tham quan cơ sở sản xuất;
- 6/ Giáo dục hướng nghiệp qua việc mời các chuyên gia nói chuyện;
- 7/ Giáo dục hướng nghiệp qua hội thảo, tranh luận theo chủ đề;
- 8/ Giáo dục hướng nghiệp qua tham quan các cơ sở đào tạo nghề;
- 9/ Giáo dục hướng nghiệp qua tư vấn hướng nghiệp;
- 10/ Giáo dục hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa khác.
1.3.5. Lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Chương trình giáo dục phổ thông mới khuyến khích tăng cường hợp tác trong và ngoài nhà trường trong thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt đối với giáo dục hướng nghiệp.
Các lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp bao gồm nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội ngoài nhà trường: Chính quyền địa phương, các doanh nghiệp các trường đại học, cao đẳng…
Nhà trường là nơi thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh vì vậy cần xây dựng kế hoạch cụ thể, đẩy mạnh công tác hướng nghiệp cho học sinh, trong đó đội ngũ giáo viên và cán bộ phụ trách công tác hướng nghiệp là những người trực tiếp thực hiện các nội dung hướng nghiệp cần nhận thức rõ bản chất của hoạt động này, các nội dung hướng nghiệp, các yêu cầu cần đạt được và cách thức tổ chức, các con đường hướng nghiệp cho học sinh.
Cha mẹ học sinh và bản thân học sinh là những người cuối cùng quyết trong việc lựa chọn nghề, Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, vì vậy cha mẹ học sinh cần nhận thức rõ ý nghĩa của việc hướng nghiệp đối với sự thành đạt nghề nghiệp của con em họ sau này.
Chính quyền địa phương và các lực lượng trong toàn xã hội, các trường đại học, cao đẳng cần tham gia tích cực vào công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, tích cực tham gia giúp đỡ nhà trường trong công tác này. Cung câp cho nhà trường các thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn, các thông tin tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng để nhà trường cung cấp cho học sinh. Chính quyền địa phương phải thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với các cơ sở sản xuất để giúp học sinh có thể đi tham quan, thực tập tay nghề ở các cơ sở này và vận động họ giúp đỡ về cơ sở vật chất- kỹ thuật, về đội ngũ cán bộ kỹ thuật có tay nghề để giúp nhà trường giới thiệu nghề và dạy nghề cho học sinh, giúp học sinh có hướng đi phù hợp sau khi tốt nghiệp
1.3.6. Các điều kiện đảm bảo thực hiện giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
- Điều kiện về quản lý:
Cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường phổ thông, vai tr thúc đẩy và hỗ trợ của cán bộ quản lý hướng nghiệp rất quan trọng. Nếu làm tốt vai trò quản lý các hoạt động hướng nghiệp sẽ làm cho các hoạt động giáo dục hướng nghiệp đi đúng hướng, huy động và sử được các nguồn lực cho giáo dục hướng nghiệp một cách hợp lý. Từ đó, thúc đẩy các công việc hướng nghiệp tiến triển một cách thuận lợi và tạo động lực cho các giáo viên làm nhiệm vụ hướng nghiệp đạt hiệu quả. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Khi quản lý hướng nghiệp, trước hết cán bộ quản lý hướng nghiệp cần nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng, mục đích, nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp và sự cần thiết phải thực hiện đầy đủ cá hình thức hướng nghiệp, có tâm huyết với giáo dục hướng nghiệp. Đồng thời, cần được trang bị đầy đủ các kiến thức cần thiết về hướng nghiệp, quản lý giáo dục hướng nghiệp, có kĩ năng thực hiện các chức năng quản lý (kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, giám sát và đánh giá) và chủ động vận dụng các kiến thức, kĩ năng đó vào thực tiễn quản ký giáo dục hướng nghiệp.
- (2) Điều kiện về giáo viên
Trong giáo dục hướng nghiệp, các giáo viên làm nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp là những người trực tiếp biến mục tiêu giáo dục hướng nghiệp thành hiện thực. Họ là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục hướng nghiệp. Vì vậy, điều kiện tiên quyết để thực hiện được các mục tiêu giáo dục hướng nghiệp là các giáo viên làm nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp phải được trang bị đầy đủ các kiến thức và kĩ năng về hướng nghiệp để có năng lực cần thiết thực hiện các nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp.
- Điều kiện về tài liệu và nguồn thông tin
Nội dung của các hình thức giáo dục hướng nghiệp liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội, đ i hỏi phải có thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Hơn nữa, nhiều nội dung trong các chủ đề như định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước; thế giới nghề nghiệp; hệ thống các trường TCCN, đào tạo nghề, CĐ, ĐH,… luôn có sự biến động theo sự phát triển nhanh chóng của kinh tế – xã hội. Do vậy, cùng với việc có đủ sách giáo khoa và sách giáo viên, các cơ sở giáo dục cần phải có nguồn tài liệu tham khảo và nguồn thông tin hướng nghiệp được cập nhật thường xuyên để cung cấp cho giáo viên và học sinh để họ thực hiện thuận lợi các hình thức hướng nghiệp. Điều này đ i hỏi cán bộ và giáo viên phải có kiến thức cơ bản về hướng nghiệp, đồng thời biết sử dụng, khai thác và thường xuyên bổ sung, cập nhật các thông tin trên hệ thống internet, phương tiện thông tin đại chúng và các tài liệu tham khảo. Ngoài ra, cán bộ và giáo viên cần phải xác định được nguồn thông tin đáng tin cậy và phù hợp để sử dụng vào từng hình thức hướng nghiệp.
- (4) Điều kiện về thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học:
Thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học là công cụ để giáo viên tiến hành các phương pháp khi tổ chức thực hiện các hình thức hướng nghiệp. Hiệu quả của việc sử dụng các PPDH phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện này. Do vậy, muốn tổ chức các hoạt động hướng nghiệp đạt kết quả, đặc biệt là HĐGDHN và HĐGDNPT, các trường cần phải có các trang thiết bị, đồ dùng dạy học như:
Tranh ảnh, video clip về nghề, máy tính nối mạng internet, máy chiếu, các bản mô tả nghề, các trắc nghiệm; các thông tin dữ liệu về hướng nghiệp…; Có tương đối đầy đủ máy móc, thiết bị , nguyên vật liệu để dạy và tổ chức cho học sinh thực hành NPT.
Cùng với các điều kiện cơ bản trên, việc thực hiện các hình thức giáo dục hướng nghiệp còn đi hỏi phải có nguồn kinh phí nhất định để mua sắm trang thiết bị kĩ thuật, băng đĩa hình về hướng nghiệp, xây dựng góc hướng nghiệp, tổ chức cho học sinh tham quan, ngoại khóa ngoài nhà trường; Có cơ chế chính sách phù hợp, có khen thưởng, đãi ngộ xứng đáng để động viên và khuyến khích giáo viên phụ trách hướng nghiệp. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Các điều kiện nêu trên được hiểu là các điều kiện tối ưu, nhưng điều kiện quan trọng nhất vẫn là tâm huyết của các cán bộ quản lý và giáo viên hướng nghiệp đối với nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp. Tùy theo điều kiện, các cơ sở giáo dục có thể xác định các hoạt động hướng nghiệp, các dịch vụ hướng nghiệp phù hợp với cơ sở mình để đảm bảo học sinh được hướng nghiệp một cách có hệ thống.
Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục phổ thông cân đáp ứng các hoạt động giáo dục trong đó có giáo dục hướng nghiệp.
1.4. Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
1.4.1. Quản lý mục tiêu giáo dục hướng nghiệp
Chương trình GDPT mới, quản lý GDHN có vai trò quan trọng trong hình thành năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh
Quản lý mục tiêu giáo dục hướng nghiệp chính là việc nhà quản lý thực hiện việc quản lý của mình thông qua các chức năng quản lý nhằm đảm bảo được mục tiêu giáo dục hướng nghiệp được thực hiện xuyên suốt, đầy đủ trong suốt quá trình giáo dục hướng nghiệp. Nhà quản lý phải thực hiện đôn đốc, giám sát thực hiện mục tiêu giáo dục hướng nghiệp theo quy định của Bộ GD&ĐT.
Việc quản lý mục tiêu giáo dục hướng nghiệp được nhà quản lý quan tâm thực hiện ngay từ khâu lập kế hoạch giáo dục hướng nghiệp đến tổ chức chỉ đạo thực hiện giáo dục hướng nghiệp hướng nghiệp, kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Quá trình quản lý này nhằm bám sát mục tiêu giáo dục hướng nghiệp nhằm hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cho người học.
1.4.2. Quản lý nội dung giáo dục hướng nghiệp
Quản lý nội dung hoạt động hướng nghiệp chính là việc nhà quản lý thực hiện việc quản lý thông qua các chức năng quản lý nhằm chỉ đạo thực hiện nội dụng giáo dục các nội dung hướng nghiệp khối THPT được thực hiện theo quy định của Bộ GD&ĐT và đảm bảo phù hợp với điều kiện của nhà trường cũng như điều kiện phát triển KT-XH
Chỉ đạo giáo viên, tổ chuyên môn bám sát chương trình GD theo quy định của quy định của Bộ GD&ĐT trên cơ sở đó mở rộng các chương trình hợp tác nhằm tăng cường năng lực học tập cho người học
Kiểm tra đánh giá việc thực hiện nội dung giáo dục hướng nghiệp chính là việc xác định các nội dung giáo dục có phù hợp, đúng với kế hoạch đề ra không, đánh giá đối chiếu với các mức độ thực hiện mục tiêu giáo dục, so sánh kết quả học tập của học sinh với mục tiêu đề ra có đạt hay không
1.4.3. Quản lý phương thức giáo dục hướng nghiệp
Quản lý phương thức giáo dục hướng nghiệp được hiểu bao gồm quản lý phương pháp và hình thức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT Quản lý phương thức giáo dục hướng nghiệp chính là việc nhà quản lý thực hiện tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong đó bao gồm chỉ đạo phương pháp và hình thức thực hiện hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên lựa chọn các phương pháp, hình thức giáo dục hướng nghiệp phù hợp với điều kiện của nhà trường và đặc điểm học sinh cũng như các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Việc sử dụng phương pháp, hình thức giáo dục nào được thể hiện ngay trong kế hoạch giáo dục hướng nghiệp học sinh.
Tổ chức thực hiện các phương pháp, hình thức giáo dục phù hợp với điều kiện của nhà trường, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên của nhà trường cũng như đặc điểm đặc trưng của học sinh.. Phương pháp, hình thức giáo dục hướng nghiệp hiện nay được các nhà trường thực hiện khá linh động với sự hợp tác công tư, đặc biệt tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp. Tuy nhiên, với mức độ hợp tác càng lớn, sự phong phú trong hoạt động giáo dục hướng nghiệp càng cao thì việc quản lý mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục càng phải được bám sát. Bên cạnh đó, nhà quản lý thường xuyên đôn đốc giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp trong quá trình giáo dục.
Ngoài ra, nhà quản lý phải thường xuyên kiểm tra việc lựa chọn phương pháp, hình thức giáo dục của giáo viên đã phù hợp chưa, đánh giá tác động việc ứng dụng các phương pháp hình thức đến hoạt động giáo dục từ đó có điều chỉnh phù hợp.
1.4.4. Quản lý các lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp
Các lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp bao gồm nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội ngoài nhà trường: Chính quyền địa phương, các doanh nghiệp các trường đại học, cao đẳng…
Nhà trường là nơi thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh vì vậy cần xây dựng kế hoạch cụ thể, đẩy mạnh công tác hướng nghiệp cho học sinh, trong đó đội ngũ giáo viên và cán bộ phụ trách công tác hướng nghiệp là những người trực tiếp thực hiện các nội dung hướng nghiệp cần nhận thức rõ bản chất của hoạt động này, các nội dung hướng nghiệp, các yêu cầu cần đạt được và cách thức tổ chức, các con đường hướng nghiệp cho học sinh.
Cha mẹ học sinh và bản thân học sinh là những người cuối cùng quyết trong việc lựa chọn nghề, Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, vì vậy cha mẹ học sinh cần nhận thức rõ ý nghĩa của việc hướng nghiệp đối với sự thành đạt nghề nghiệp của con em họ sau này. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Chính quyền địa phương và các lực lượng trong toàn xã hội, các trường đại học, cao đẳng cần tham gia tích cực vào công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, tích cực tham gia giúp đỡ nhà trường trong công tác này. Cung câp cho nhà trường các thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn, các thông tin tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng để nhà trường cung cấp cho học sinh..
Nhà quản lý thông qua các chức năng quản lý để tác động đến các lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp này.
Việc quản lý các lực lượng tham gia thể hiện trong bản kế hoạch giáo dục hướng nghiệp hoặc trong bản kế hoạch tham gia của các lực lượng như: Nhà trường, gia đình và xã hội trong đó cụ thể vai trò của từng nhóm liên quan.
Tổ chức chỉ đạo sự tham gia của các lực lượng thông qua việc phân vai, phân quyền, phân công các lực lượng tham gia; Tổ chức khai thác cơ sở vật chất nguồn lực; Tổ chức huy động các lực lượng hỗ trợ trong đó có các doanh nghiệp.
Hướng dẫn, động viên cán bộ quản lý, giáo viên, các lực lượng tham gia hoàn thành mục tiêu giáo dục giáo dục hướng nghiệp với vị trí vai trò của mình.
Giám sát các lực lượng tham gia, đánh giá mức độ tác động của các lực lượng đến hoạt động giáo dục hướng nghiệp để có sự điều chỉnh phù hợp.
1.4.5. Quản lý các điều kiện đảm bảo thực hiện giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
- Điều kiện về quản lý
Việc làm tốt vai trò quản lý các hoạt động hướng nghiệp sẽ làm cho các hoạt động giáo dục hướng nghiệp đi đúng hướng, huy động và sử được các nguồn lực cho giáo dục hướng nghiệp một cách hợp lý. Từ đó, thúc đẩy các công việc hướng nghiệp tiến triển một cách thuận lợi và tạo động lực cho các giáo viên làm nhiệm vụ hướng nghiệp đạt hiệu quả.
Cán bộ quản lý hướng nghiệp phải nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng, mục đích, nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp và sự cần thiết phải thực hiện đầy đủ cá hình thức hướng nghiệp, có tâm huyết với giáo dục hướng nghiệp. Bên cạnh đó, người cán bộ quản lý giáo dục hướng nghiệp cần được trang bị đầy đủ các kiến thức cần thiết về hướng nghiệp, quản lý giáo dục hướng nghiệp, có kĩ năng thực hiện các chức năng quản lý (kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, giám sát và đánh giá) và chủ động vận dụng các kiến thức, kĩ năng đó vào thực tiễn quản ký giáo dục hướng nghiệp.
- (2) Điều kiện về giáo viên
Giáo viên tham gia giáo dục hướng nghiệp là những người đóng vai tr quan trọng trong biến mục tiêu giáo dục hướng nghiệp thành kết quả đầu ra của quá trình giáo dục hướng nghiệp do đó cần quan tâm tới nâng cao nhận thức đội ngũ giáo viên này cũng như việc đánh giá đúng năng lực từ đó có kế hoạch bồi dưỡng phát triển đội ngũ giáo viên.
Bên cạnh đó, giáo dục hướng nghiệp trong chương trình phổ thông mới với mục tiêu phát triển năng lực cho người học do đó giáo viên phải được đào tạo để hướng nghiệp theo chương trình phổ thông mới đáp ứng yêu cầu đầu ra
- Điều kiện về tài liệu và nguồn thông tin Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Nguồn thông tin về thế giới nghề nghiệp, nhu cầu nhân lực góp phần quan trọng trong giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông đo đó cần có nhiều thông tin khác nhau về phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước; thế giới nghề nghiệp; hệ thống các trường TCCN, đào tạo nghề, CĐ, ĐH,….
Tuy nhiên, với công nghệ khoa học kỹ thuật hiện nay và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học thì việc tiếp nhận thông tin đa chiều không quá khó tuy nhiên để chắt lọc, để đảm bảo nguồn thông tin đó là chính xác và chính thống có thể đưa vào giáo dục học sinh thì người quản lý đóng vai trò quan trọng. Quản lý các điều kiện về tài liệu và nguồn thông tin không chỉ có nghĩa là đảm bảo nguồn thông tin, tài liệu phong phú để đưa vào giảng dạy mà phải đảm bảo được mức độ chính xác, an toàn và đầy đủ của các thông tin do đó nhà quản lý phải quản lý, chỉ đạo việc khai thác thông tin và hỗ trợ khai thác thông tin đưa vào giáo dục hướng nghiệp.
- (4) Điều kiện về thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học:
Thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học là công cụ để giáo viên tiến hành các phương pháp khi tổ chức thực hiện các hình thức hướng nghiệp. Hiệu quả của việc sử dụng các PPDH phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện này. Do vậy, muốn tổ chức các hoạt động hướng nghiệp đạt kết quả, đặc biệt là HĐGDHN và HĐGDNPT, các trường cần phải có các trang thiết bị, đồ dùng dạy học như: Tranh ảnh, video clip về nghề, máy tính nối mạng internet, máy chiếu, các bản mô tả nghề, các trắc nghiệm; các thông tin dữ liệu về hướng nghiệp…; Có tương đối đầy đủ máy móc, thiết bị , nguyên vật liệu để dạy và tổ chức cho học sinh thực hành NPT.
Quản lý các điều kiện đảm bảo trong đó có quản lý trang thiết bị, máy móc và đồ dùng dạy học chính là việc nhà quản lý thực hiện lập kế hoạch, phân bổ, tổ chức khai thác trang thiết bị, máy móc, đồ dung dạy học và tổ chức tu sửa, trang bị mới nhằm đảm bảo các điều kiện tối thiểu để tiến hành giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
1.4.6. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Kiểm tra, đánh giá là một khâu, một công cụ quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục nói chung và GDHN nói riêng. Kiểm tra, đánh giá không chỉ ở thời điểm cuối cùng của mỗi giai đoạn giáo dục hướng nghiệp mà nó là đánh giá, kiểm tra trong cả quá trình giáo dục hướng nghiệp. Đánh giá và kiểm tra ở những thời điểm cuối mỗi giai đoạn giáo dục hướng nghiệp sẽ trở thành vấn đề khởi điểm của một giai đoạn giáo dục hướng nghiệp tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục hướng nghiệp cho HS PTTH.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên, việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của hoạt động GDHN mà các cơ sở giáo dục đã đề ra. Như vậy, muốn hoạt động GDHN có hiệu quả cao thì nhà quản lý trước hết phải xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra đánh giá hoạt động GDHN; đánh giá hoạt động GDHN một cách thường xuyên và theo định kỳ; thông qua đánh giá của GV tham gia hoạt động GDHN; phối hợp các phương pháp đánh giá hoạt động GDHN.
Xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra đánh giá hoạt động GDHN bằng cách các thành viên trong Ban hướng nghiệp tổng kết sổ đầu bài, các bảng theo dõi về nề nếp, hoạt động dạy và học của GV, HS theo hằng tuần, báo cáo lãnh đạo trường hằng tuần để có ý kiến chỉ đạo kịp thời. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Đánh giá hoạt động GDHN một cách thường xuyên và theo định kỳ: Hoạt động GDHN phải được đánh giá một cách thường xuyên như đánh giá hàng tuần hoặc hàng tháng để rút kinh nghiệm về những gì đã, sẽ và chưa làm được để phát huy hiệu quả cho hoạt động này.
Thông qua đánh giá của GV tham gia hoạt động GDHN: Giáo viên là một lực lượng quan trọng vì chính họ là người tổ chức, là người tư vấn và cũng chính lực lượng này rất gần gũi với các em. Họ hiểu được nguyện vọng và nhu cầu về nghề nghiệp của các em học sinh.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý hoạt động GDHN cho học sinh
1.5.1. Yếu tố tâm lí – xã hội và nhận thức
Yếu tố tâm lý lứa tuổi có tác động lớn đến sự lựa chọn con đường học vấn của học sinh. Học sinh THPT là lứa tuổi 15-18. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là các em đã đạt đến sự trưởng thành về mặt cơ thể, có sức lực dồi dào và hệ thần kinh khỏe mạnh. Việc lựa chọn nghề đối với các em học sinh THPT có ý nghĩa nghiêm túc và cấp bách. Các em bắt đầu hiểu rõ cuộc sống trong tương lai của bản thân phụ thuộc vào sự lựa chọn nghề nghiệp có đúng không.
Vì vậy, cần tư vấn hướng nghiệp cho các em. Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường và xã hội để giúp các em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tâm hồn, có những định hướng đúng đắn cho tương lai.
Yêu tố chủ quan chính là sự tự xác định của học sinh về việc lựa chọn con đường học vấn của mình. Các em quyết định lựa chọn dựa trên các yếu tố như tình cảm (có hứng thú không?), động cơ (có lợi không?), năng lực (mình có khả năng không?). Thầy cô giáo có vai trò quan trọng trong việc giúp các em định hướng đúng con đường lựa chọn của mình.
Yếu tố khách quan bao gồm các yếu tố như gia đình, bạn bè,…giáo dục hướng nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, sự lựa chọn con đường học vấn của học sinh còn chịu tác động bởi các giá trị xã hội. Chẳng hạn trong bối cảnh xã hội cần nguồn nhân lực của một số lĩnh vực khoa học như: Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh học, Tài chính, Ngân hàng…những ngành này mang lại nguồn thu nhập cao, thì các em có xu hướng lựa chọn những ngành nghề này.
Bên cạnh đó, các em còn chịu có sự tác động của bạn bè. Tình bạn ở trung học được các em rất coi trọng, các em tin tưởng vào bạn bè. Các em thích tâm sự với bạn bè hơn là tâm sự với những người thân trong gia đình, thường hành động theo sở thích giống nhau và cho đó là một cách thể hiện tình bạn thân thiết. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi những nhóm học sinh chơi thân với nhau sẽ lựa chọn con đường học vấn giống nhau để được gần gũi và giúp đỡ nhau.
Như vậy, có rất nhiều yếu tố tác động đến sự lựa chọn con đường học vấn của mỗi học sinh. Các yếu tố này không tồn tại rời rạc mà có sự tác động qua lại lẫn nhau, mỗi học sinh có thể lựa chọn con đường học vấn của mình dựa trên năng lực, sở thích của bản thân, định hướng của gia đình và hoành cảnh cụ thể của mình.
1.5.2. Yếu tố việc làm Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Ngoài tâm lý đã ăn sâu trong nếp nghĩ và chưa nhìn nhận đúng về đào tạo nghề của học sinh, phụ huynh thì các nguyên nhân xã hội khác cũng ảnh hưởng không nhỏ như không coi trọng đào tạo nghề. Ngoài ra các trường đào tạo TCCN hay trung cấp nghề cũng chưa thật sự có nhiều chính sách, quan tâm đúng mức để thu hút học viên. Cùng với đó là các em theo học ở các trường TCCN, trung cấp nghề vẫn chưa tìm được công việc phù hợp sau khi ra trường khi mà xã hội hiện có quá nhiều cử nhân…
Điều quan trọng nhất chính là việc tạo được cơ hội và điều kiện việc làm cho người tốt nghiệp. Học sinh sẽ không quay lưng với hệ TCCN, hệ nghề nếu sau khi tốt nghiệp các hệ đào tạo này các em chắc chắn tìm được việc làm với mức lương phù hợp. Muốn thế, cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với người sử dụng lao động. Đào tạo nghề là phải nhắm tới thị trường việc làm ở đầu ra. Hiện sự gắn kết này chưa thật sự được thiết lập khiến người lao động sau khi học xong không có việc làm phù hợp. Ngoài ra, chế độ lương, đãi ngộ đối với những người tốt nghiệp TCCN và học nghề c n rất bấp bênh, tương lai nghề nghiệp không rõ ràng khiến bản thân HS cũng như gia đình không mặn mà với việc rẽ sang học nghề.
Hơn nữa, tâm lý của xã hội nói chung ai cũng muốn cho con mình học ĐH dù biết rằng khi học xong chưa chắc tìm được việc làm đã gây cản trở rất lớn đến việc giáo dục định hướng giá trị nghề nghiệp cho học sinh. Thực tế sử dụng lao động hiện nay cũng gây ảnh hưởng không tốt đến việc định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh. Không ít cử nhân tốt nghiệp ĐH không tìm được việc làm, lại đi làm việc đơn giản của người công nhân. Việc sử dụng người chưa đúng vị trí, đúng ngành nghề và trình độ đào tạo đã gây ảnh hưởng đến thị trường việc làm của người tốt nghiệp hệ nghề.
1.5.3. Yếu tố tác động của bản thân hệ thống giáo dục
Hệ thống giáo dục phổ thông là hệ thống con trong hệ thống giáo dục quốc dân và bản thân nó có ảnh hưởng nhiều đến công tác phân luồng. Tình trạng mất cân đối giữa ba bộ phận chính của hệ thống giáo dục quốc dân là giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đã cản trở không nhỏ đến công tác phân luồng.
Học sinh tốt nghiệp THCS có thể đi theo 4 luồng là THPT, bổ túc THPT, học nghề, TCCN và không tiếp tục học nữa. Quy mô phát triển của các cấp học sẽ ảnh hưởng chủ yếu đến dùng chảy của học sinh đi theo các luồng khác nhau. Ngoài ra, sự liên thông với giáo dục sau trung học cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phân luồng học sinh sau THCS. Đối với phân luồng sau THPT, quy mô phát triển giáo dục ĐH và cơ hội việc làm sẽ mang tính quyết định.
Tiểu kết chương 1 Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
Trong chương này ngoài việc tổng quan một số công trình nghiên cứu về hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp ở trong và ngoài nước luận văn đã khái quát và làm rõ một số khái niệm cơ bản như: Quản lý, quản lý giáo dục, hướng nghiệp, GDHN cho học sinh THPT, Hoạt động GDHN cho học sinh THPT.
Ngoài ra luận văn đã làm rõ được nội dung giáo dục hướng nghiệp theo chương trình giáo dục phổ thông mới, một số đặc thù trong chương trình giáo dục phổ thông mới, quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới bao gồm: quản lý mục tiêu giáo dục, quản lý nội dung chương trình giáo dục, quản lý phương pháp hình thức tổ chức, quản lý lực lượng tham gia giáo dục, những vấn đề liên quan đến công tác giáo dục hướng nghiệp, tổ chức thực hiện giáo dục hướng nghiệp, kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã đưa ra được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục hướng nghiệp để có thêm căn cứ xây dựng cơ sỏ lý luận của đề tài.
Cuối cùng, khung lý thuyết về quản lý giáo dục hướng nghiệp tại trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp được đưa ra làm căn cứ khoa học để tiến hành các nghiên cứu về thực trạng cũng như đề xuất giải pháp. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh […]