Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hoạt động KĐCLGD tại các cơ sở GDĐH trong cả nước nói chung, các học viện, đại học, các TSQ quân đội nói riêng được thực hiện bởi tổ chức chuyên nghiệp thành lập hội đồng đánh giá (tiến hành đánh giá ngoài) trên cơ sở hội đồng tự đánh giá do thủ trưởng cơ sở GDĐH thành lập (tiến hành đánh giá trong) nhằm xác định mức độ đạt chuẩn chất lượng trường, chương trình đào tạo của trường theo các tiêu chuẩn, tiêu chí theo quy định, hướng dẫn của BGD – ĐT, BQP, của TSQ.

Cho đến nay, hoạt động KĐCLGD nói chung và quản lý hoạt động KĐCLGD tại các TSQ càng trở nên cấp thiết bởi những lý do sau:

Kiểm định chất lượng giáo dục là một biện pháp quản lý giáo dục nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo nhân lực chất lượng cao theo các tiêu chí, tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, qua đó phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng về chất lượng sản phẩm của mình, đồng thời tạo điều kiện cho Nhà nước và xã hội giám sát chất lượng đào tạo ở mỗi nhà trường; Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã có chủ trương xã hội hóa giáo dục đào tạo nói chung, đào tạo đại học và cao đẳng nói riêng. Thực hiện tốt công tác kiểm định chất lượng giáo dục ở từng trường đại học, cao đẳng sẽ góp phần bảo đảm chất lượng đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Chất lượng giáo dục, các hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục nói chung, kiểm định chất lượng giáo dục nói riêng ở các trường sỹ quan quân đội luôn là vấn đề được Bộ Quốc phòng quan tâm đặc biệt, tổ chực thực hiện nghiêm túc vì tầm quan trọng hàng đầu của nó đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại bảo vệ Tổ quốc. Quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ là yêu cầu cấp thiết của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng BQP về đổi mới và nâng cao chất lượng GD – ĐT trong các trường đáp ứng yêu cầu mới của Quân đội.

Quán triệt quan điểm của Đảng, thực hiện Luật Giáo dục, Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng BQP đã chỉ đạo Tổng Tham mưu trưởng ra Quyết định số 1736/QĐ-TM ngày 27/10/2009 về việc thành lập Phòng KT&ĐBCLGD – ĐT thuộc Cục Nhà trường/Bộ Tổng Tham mưu và Quyết định số 1737/QĐ-TM ngày 27/10/2009 về việc thành lập Phòng (Ban) KT&ĐBCLGD – ĐT Khảo thí thuộc học viện, TSQ quân đội nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở GDĐH theo đúng yêu cầu của Luật Giáo dục và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đây là thời điểm quan trọng đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan quản lý về đảm bảo chất lượng, trong đó có nhiệm vụ tham mưu đề xuất giúp Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng nhà trường về quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội.

Kể từ khi được thành lập đến nay gần 4 năm, công tác tham mưu đề xuất của các phòng (ban) KT& ĐBCLGD – ĐT giúp thủ trưởng các cấp quản lý có hiệu quả hoạt động KĐCLGD các TSQ đã đạt được kết quả bước đầu, song cũng tồn tại không ít những khó khăn, bất cập làm giảm sút chất lượng, hiệu quả công tác quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ nói riêng, các trường trong quân đội nói chung. Cụ thể là: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Hoạt động KĐCLGD đã đi vào nền nếp, từng bước đáp ứng yêu cầu của BQP, BGD – ĐT. Được sự chỉ đạo của BQP, BGD&ĐT, 100% các TSQ đã có Ban KT& ĐBCLGD – ĐT; 100% đã ra quyết định thành lập hội đồng tự đánh giá; xây dựng kế hoạch tự đánh giá; thành lập tổ thư ký; các nhóm chuyên trách; thu thập minh chứng; viết phiếu đánh giá tiêu chí và từng bước hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Cho đến nay, đã có 07/12 trường (chiếm tỷ lệ 58,3%) hoàn thành báo cáo tự đánh giá.

Tuy nhiện vấn đề quản lý các hoạt động KĐCLGD còn mới mẻ, chưa phát huy được những hiệu quả như mong muốn, còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập là: Đội ngũ cán bộ KĐCLGD các TSQ chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của hoạt động KĐCLGD; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất từ BQP đến các TSQ; chất lượng cán bộ chuyên trách thuộc các Ban KT& ĐBCLGD – ĐT còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm công tác KĐCLGD. Báo cáo tự đánh giá của các trường chất lượng chưa cao, mang tính hình thức. Bố trí kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu.

Tình hình trên đã đặt ra vấn đề cần nghiên cứu về: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay với tư cách là đề tài luận văn thạc sỹ.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Mô hình hoạt động quản lý KĐCLGD của một số nước trên thế giới và tại Việt Nam

Vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD xuất hiện lần đầu ở Mỹ vào năm 1905 do một tổ chức tư nhân lập ra nhằm đánh giá chất lượng các trường phổ thông trung học theo các tiêu chuẩn, tiêu chí đề ra nhằm tư vấn cho phụ huynh học sinh cho học sinh nhập học vào trường và sau đó được hình thành và phát triển tại một số nước Châu Âu và Úc. Kể từ đó đến nay, trải qua hơn 100 năm, hệ thống KĐCLGD đã được phổ cập và triển khai tại 213 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ở Việt Nam, tháng 01/2002, Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại học và Sau đại học (nay là Vụ Giáo dục đại học) ra đời, KĐCLGD đã chính thức đi vào hoạt động, sau đó phát triển thành Cục Khảo thí và KĐCLGD thuộc BGD&ĐT đánh dấu một thời kỳ mới của sự hình thành và phát triển hoạt động KĐCLGD và quản lý KĐCLGD ở Việt Nam [11- tr.14].

Để nắm được hoạt động KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD cần lược khảo hoạt động một số nước trên thế giới và ở Việt Nam như sau:

Tại Mỹ, KĐCLGD được ra đời đầu tiên ở Mỹ xuất phát từ phục vụ lợi ích của công chúng trước sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục về quy mô, số lượng đào tạo. Khác với hầu hết các nước Châu Âu, Bộ Giáo dục Liên bang Mỹ không trực tiếp KĐCLGD mà chỉ công nhận hiện trạng chất lượng do các tổ chức hệ thống KĐCLGD của Mỹ tiến hành kiểm định. Hệ thống tổ chức cơ quan KĐCLGD tại Mỹ là các tổ chức tư nhân phân bố trên phạm vi 50 bang của Mỹ và các quốc gia khác, hoạt động độc lập theo các vùng lãnh thổ, liên hiệp các trường. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Ủy ban Giáo dục Đại học khu vực Trung Mỹ (CIHE) thực hiện KĐCLGD các trường cao đẳng, trường học khu vực Trung Mỹ và một số nước trên thế giới: 6 bang của Anh, 02 cơ sở giáo dục của Hy Lạp, 03 ở Thụy sỹ;… trong đó Ủy ban các cơ sở Giáo dục Đại học (CIHE) thuộc Hiệp hội các Nhà trường và Cao đẳng New England được phân cấp KĐCL 6 bang của Anh. Ủy ban Giáo dục Đại học (HCL) cùng với Hiệp Hội các trường Cao đẳng và nhà trường Bắc Mỹ (NCA) KĐCLGD các trường trung cấp cấp bằng ở Bắc Mỹ. Ủy ban các Trường Cao đẳng và Đại học Tây Bắc (NWCCU) KĐCLGD các cơ sở giáo dục đại học cấp bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ ở khu vực Tây Bắc Mỹ. Ủy ban các Trường Cao đẳng thuộc Hiệp hội các trường cao đẳng và Đại học Nam Mỹ KĐCLGD các cơ sở giáo dục đại học cấp bằng thuộc Nam Mỹ. Ủy ban các Trường Cao đẳng Cộng đồng (ACCJC) thuộc Hiệp Hội các trường Cao đẳng và Nhà trường Tây Mỹ (WASC) KĐCLGD các cơ sở giáo dục cấp bằng ở Tây Mỹ. Ủy ban Kiểm định các trường cao đẳng, đại học Mỹ (WASC-ASSCU) thuộc Hiệp Hội các trường Cao đẳng và Nhà trường Tây Mỹ KĐCLGD các cơ sở giáo dục đại học, cao học vùng Tây Mỹ.

Chức năng, nhiệm vụ của các Ủy ban là KĐCLGD toàn bộ các trường ở các cấp học được cấp bằng theo phạm vi các bang và vùng lãnh thổ. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; kiểm định chương trình đào tạo. Các tổ chức KĐCLGD ở Mỹ được tài trợ chủ yếu bằng các nguồn kinh phí hàng năm từ các trường và từ chương trình kiểm định. Kiểm định trường và chương trình có thể thực hiện theo chu kỳ vài năm đến 10 năm. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do các tổ chức quy định. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Tại Ô-xtơ-rây-lia, sự phát triển mạnh mẽ hệ thống GDĐH vào cuối những năm 1970 với sự gia tăng về số lượng sinh viên và chuyên ngành đào tạo đã đặt ra vấn đề cần thiết phải có những hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo. Những năm 70, số lượng sinh viên đại học tăng gấp đôi, đến thập kỷ 80, số sinh viên đại học một lần nữa tăng gấp đôi với nhiều chương trình, phương thức đào tạo khác nhau. Điều đó đã đòi hỏi Chính phủ cần có phương tiện xem xét đánh giá chất lượng đào tạo. Tháng 11 năm 1992, Chính phủ đã đề xuất thành lập Ủy ban Đảm bảo chất lượng GDĐH (The Committee for Quality Assurance in Higher Education- CQAHE) để kiểm soát chất lượng đào tạo. Ủy ban này chi phối Hội đồng Bộ trưởng về Giáo dục, Việc làm và Quan hệ công việc (trực tiếp là Hội đồng các Bộ trưởng Giáo dục và Việc làm của 6 bang; 02 lãnh thổ- gọi tắt là MCTEE). Sau đó, MCTEE thành lập Cơ quan chất lượng các trường đại học Ô-xtơ-rây-lia (AUQA); AUQA là cơ quan quốc gia đầu não có nhiệm thúc đẩy đánh giá và báo cáo về KĐCLGD đối với MCTEE. AUQA hoạt động độc lập với chính quyền bang và ngành giáo dục đại học dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc gồm 12 người, 11 Giám đốc được đề cử bởi các nhóm khác nhau và được MCTEE bổ nhiệm, người thứ 12 là Giám đốc điều hành được bầu bởi Ban Giám đốc. Hiện nay, AUQA đã đánh giá được 59 trường đại học và tương đương đại học của Liên bang. Kinh phí hoạt động của AUQA gồm: 40% của Chính phủ Liên bang, 25% từ chính quyền bang và lãnh thổ; 25% từ các cơ sở giáo dục đại học khi AUQA đến đánh giá; 10% doanh thu qua tư vấn. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do AUQA quy định.

Ở Ấn Độ, việc tiến hành KĐCLGD được xuất phát từ sự tăng nhanh quy mô, số lượng sinh viên đào tạo từ những năm 80 của thế kỷ XX. Hiện nay, Ấn Độ có hơn 400 trường đại học, 17.000 trường cao đẳng với hơn 10 triệu sinh viên chính quy, 2 triệu sinh viên theo học các chương trình đào tạo từ xa với nhiều loại hình trường khác nhau. Điều đó đã đòi hỏi Quốc hội thành lập Ủy ban Tài trợ các trường đại học (UGC). Ủy ban này thành lập Hội đồng Đánh giá và Kiểm định quốc gia (NAAC) để đánh giá chất lượng; Hội đồng Đánh giá và Kiểm định quốc gia chỉ đạo các Hội đồng ngành KĐCLGD các trường đại. Các Hội đồng ngành KĐCLGD chương trình đào tạo, KĐCLGD các trường đại học. Hình thức KĐCLGD gồm: kiểm định trường đại học; chương trình đào tạo. UGC chịu trách nhiệm điều hành, quyết định, chỉ đạo Hội đồng ngành, các trường tiêu chuẩn kiểm định. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do UGC quy định. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Hàn Quốc, đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác KĐCLGD đại học. Hệ thống cơ quan KĐCLGD của Hàn Quốc gồm: Ủy ban KĐCLGD đại học (Committee for University Accreditaition); Hội đồng Giáo dục đại học Hàn Quốc (Korean Council for University Education- KCUE); Ủy ban Điều hành KĐCLGD đại học; Nhóm Kiểm định; Ủy ban Trọng tài. Ủy ban KĐCLGD đại học quyết định các hướng đi cơ bản và phân loại công việc trong hoạt động KĐCLGD và chịu sự quản lý và giám sát của KCUE. KCUE chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động liên quan đến đánh giá chất lượng GDĐH, đào tạo cán bộ cho công tác kiểm định. Ủy ban Điều hành KĐCLGD đại học đưa ra các chiến lược KĐCLGD, các quyết định ban đầu về kết quả đánh giá chất lượng một trường đại học. Nhóm Kiểm định tiến hành đánh giá trực tiếp các trường thông qua báo cáo tự đánh giá của các trường. Ủy ban Trọng tài được thành lập tạm thời trong trường hợp có một trường học yêu cầu xem xét lại kết quả kiểm định được đánh giá. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương trình đào tạo. Các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định được Ủy ban KĐCLGD đại học ban hành. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do KCUE quy định.

Trung Quốc, ngay từ những thập kỷ 80 của Thế kỷ XX, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học trước sự gia tăng mạnh mẽ của số lượng sinh viên. Chính phủ thành lập Ủy ban Kiểm định và đề ra các tiêu chuẩn kiểm định đối với các trường đại học. Một trường đại học được thành lập hay tạm ngừng hoạt động nếu không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng thông qua vài lần kiểm định của Chính phủ và Ủy ban Kiểm định. Các cơ quan chịu trách nhiệm duy trì chất lượng giáo dục tại Trung Quốc gồm các tổ chức bên ngoài và bên trong ngành giáo dục. Các tổ chức bên ngoài: Ủy ban Kiểm định phê chuẩn thành lập các trường đại học; Ủy ban thẩm định bằng cấp; cơ quan kiểm toán chất lượng các chương trình đào tạo có cấp bằng; Ủy ban Chuyên đề: Chịu trách nhiệm hướng dẫn nội dung về chất lượng giảng dạy; Các tổ chức xã hội đánh giá về giáo dục; các cơ quan kiểm định dự án và phân bổ kinh phí nghiên cứu khoa học. Các tổ chức bên trong: Ủy ban Giáo dục chịu trách nhiệm lập kế hoạch, ra quyết định đánh giá chất lượng giảng dạy và nghiên cứu tại các trường đại học; Cơ quan thẩm định học hàm của giảng viên có quyền quyết định học hàm của giảng viên dựa trên hoạt động chuyên môn của họ; Ủy ban giám sát và đánh giá giảng dạy; Ủy ban quản lý và giám sát các dự án nghiên cứu khoa học. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương trình đào tạo; bằng cấp; chất lượng giảng dạy; học hàm nhà giáo; nghiên cứu khoa học; thành lập và giải thể trường đại học. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Ủy ban Kiểm định quy định.

KĐCLGD tại Phi-líp-pin, xuất phát từ quy mô GDĐH tương đối lớn đòi hỏi đi đôi với cơ chế đánh giá chất lượng. Điều đó đã hình thành cơ quan quản lý về KĐCL. Hiện Phi-líp-pin có 14.023 trường đại học, trong đó chiếm 83,61% là đại học dân lập, còn lại là công lập. Phi-líp-pin là nước có truyền thống khá lâu dài về KĐCLGD. Tháng 5 năm 1994, Chính phủ ra quyết định thành lập Ủy ban Giáo dục đại học hoạt động độc lập với Bộ Giáo dục, Văn hóa và Thể thao có trách nhiệm quản lý chất lượng GDĐH, trong đó có KĐCLGD. Hiện nay, tại Phi-líp-pin có 3 cơ quan KĐCLGD đang hoạt động là: Cơ quan kiểm định các trường cao đẳng và đại học hiến chương hoàng gia (AACCUP); Hiệp hội kiểm định các trường trung học, cao đẳng và đại học (PAASCU); Hiệp hội kiểm định các trường cao dẳng và đại học Phi-líp-pin. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương trình đào tạo. Các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định được các cơ quan KĐCLGD ban hành. Kinh phí đảm bảo cho KĐCLGD do Chính phủ  (qua Ủy ban Giáo dục đại học) hỗ trợ khoảng 10%, còn lại do các trường đảm bảo. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Ủy ban Giáo dục đại học quy định. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Thái Lan, Bộ Giáo dục có vai trò quan trọng trong thúc đẩy hệ thống KĐCLGD tại các trường (hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong). Đảm bảo chất lượng bên ngoài được tiến hành bởi Cơ quan Tiêu chuẩn Giáo dục quốc gia và Đánh giá Chất lượng (ONESQA) là tổ chức công được thành lập vào năm 2000. ONESQA phê chuẩn thành lập Ủy ban Chấp hành cơ quan, Ủy ban phát triển Hệ thống đánh giá giáo dục cơ bản, Ủy ban Phát triển Hệ thống đánh giá giáo dục đại học. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương trình đào tạo. Các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định được nội các Chính phủ phê chuẩn. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do ONESQA quy định.

Việt Nam, vấn đề KĐCLGD được quan tâm từ năm 1995 bằng việc thành lập Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển giáo dục (nay là Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là trung tâm mang tính chất nghiên cứu và tư vấn cho Giám đốc Đại học Quốc gia. Tháng 01/2002, Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại học và Sau đại học (nay là Vụ Giáo dục đại học) ra đời. Tháng 3/2003 Cục Khảo thí và KĐCLGD thuộc BGD&ĐT được thành lập với tư cách là cơ quan tham mưu đề xuất giúp Bộ trưởng BGD&ĐT, hướng dẫn, chỉ đạo các trường về hoạt động KĐCLGD. Sự ra đời của Cục Khảo thí và KĐCLGD  đánh dấu một thời kỳ mới về sự phát triển hoạt động KĐCLGD ở Việt Nam.

KĐCLGD đại học ở Việt Nam hình thành được xuất phát từ nhu cầu của quy mô phát triển giáo dục đại học gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Theo thống kê của BGD&ĐT, năm học 2010- 2011, cả nước có 189 trường đại học, học viện, trường đại học (chưa kể 28 trường đại học thành viên của các đại học) và 223 trường cao đẳng, trong đó có 50 trường đại học và 30 trường cao đẳng ngoài công lập. Số trường đại học, cao đẳng đã tăng gấp 2,17 lần so với năm học 2000 – 2001. Quy mô đào tạo tăng nhanh. Năm học 2010- 2011, cả nước có 2.162.106 sinh viên đại học và 726.219 sinh viên cao đẳng tăng 31% so với năm học 2000- 2001 [19- tr.1,2]. Hệ thống cơ quan KĐCLGD của Việt Nam hiện nay gồm: Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục; các cơ quan (bộ phận) chuyên trách tại các Bộ, ngành, các sở giáo dục và đào tạo, các trường đại học.

Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng BGD&ĐT quản lý Nhà nước về KĐCLGD có nhiệm vụ xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về KĐCLGD; ra quyết định thành lập các tổ chức KĐCLGD tiến hành KĐCLGD các trường đại học, cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Các cơ quan các cơ quan (bộ phận) chuyên trách tại các Bộ, ngành, các sở giáo dục và đào tạo có nhiệm vụ làm tham mưu giúp lãnh đạo các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố KĐCLGD đối với các trường thuộc quyền quản lý. Các cơ quan (bộ phận) chuyên trách tại các trường có nhiệm vụ làm tham mưu giúp lãnh đạo nhà trường tiến hành KĐCLGD thuộc trường (tự đánh giá) theo các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí BGD&ĐT đã ban hành. Tính đến tháng 10/2010 đã có 149/150 học viện, trường đại học thành lập đơn vị (bộ phận) chuyên trách về đảm bảo chất lượng; có 100 trường đại học trong cả nước hoàn thành báo cáo tự đánh giá, trong đó 40 trường đại học đã được đánh giá ngoài [3- tr.8]. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Tóm lại, thông qua lược khảo mô hình hoạt động quản lý KĐCLGD của một số nước trên thế giới và tại Việt Nam có thể đi tới một số kết luận sau:

  • KĐCLGD các cơ sở GDĐH do tổ chức KĐCLGD độc lập của Chính phủ (hoặc phi Chính phủ), quốc hội, hiệp hội thành lập để tiến hành đánh giá ngoài đối với cơ sở GDĐH, chương trình đào tạo đạt hay không đạt theo bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đề ra.
  • Đánh giá ngoài có 02 dạng: Đánh giá trường; Đánh giá chương trình đào tạo.
  • Bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Chính phủ (hoặc phi Chính phủ), quốc hội, hiệp hội ban hành làm cơ sở pháp lý để các cơ sở GDĐH triển khai thực hiện.
  • Tại các cơ sở GDĐH, xây dựng báo cáo tự đánh giá báo cáo cấp có thẩm quyền để được KĐCLGD.
  • Kết quả báo cáo tự đánh giá làm cơ sở để trường xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng, đề ra các biện pháp đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo.

Công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Bên cạnh đó vấn đề quản lý hoạt động KĐCLGD đã được đề cập bởi nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Có thể kể đến như: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Các tác giả ngoài nước: Mạng lưới các trường đại học ASEAN và châu Âu trong phạm vi bảo đảm chất lượng (QA), Tiến sĩ Ton Vroeijenstijn tiến hành khảo sát và tiến hành hội thảo tại các trường đại học thành viên của AUN ở 9 quốc gia ASEAN.  Phó Giáo sư, tiến sĩ Piniti Ratananukul Giám đốc điều hành của AUN, Tiến sĩ Namtana Gajaseni, Phó giám đốc điều hành của AUN. Tại khu vực ASEAN để góp phần vào việc phát triển một hệ thống đảm bảo chất lượng. “AUN – QA sổ tay thực hiện các hướng dẫn đảm bảo chất lượng trong mạng lưới các trường đại học đông nam á, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội”.

Các tác giả trong nước: PGS. TS Nguyễn Đức Chính với công trình: Kiểm định chất lượng trong giáo dục. Nâng cao không ngừng chất lượng giáo dục đại học là vấn đề cần được quan tâm và là yếu tố cấp bách của tất cả chúng ta, những nhà quản lý giáo dục đại hoc, cán bộ giảng dạy, sinh viên, và cũng là của toàn xà hội. Đây cũng là giải pháp duy nhất giúp giáo dục đại học Việt Nam làm tròn sứ mạng lịch sử của mình: Cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vươn ngang tầm khu vực, tiến tới trình độ giáo dục đại học thế giới; PGS. TS Nguyễn Phương Nga với công trình: Giáo dục đại học, đảm bảo, đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam; TS Phạm Xuân Thanh với công trình: Phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục Việt Nam. Đảm bảo chất lượng giáo dục là những vấn đề còn khá mới ở Việt Nam. Trong mấy năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để hình thành hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục trong cả nước. Trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa, chủ đề này đang được quan tâm và thúc đẩy phát triển. Sau 7 năm chính thức triển khai thực hiện, hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung và kiểm định chất lượng giáo dục nói riêng đã phủ khắp các cấp học và được triển khai trong cả nước.

Trong quân đội, việc nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng các nhà trường quân đội đã được quan tâm từ khá sớm. Tập thể các tác giả: Trần Đình Tuấn, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Các… đã quan tâm nghiên cứu và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng các trường đại học trong Quân đội từ những năm 2003 -2004. Đây là cơ sở để thực hiện cho hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các trường sĩ quan quân đội. Bên cạnh đó vấn đề KĐCLGD và quản lý KĐCLGD ở đại học quân sự đã được quan tâm đưa vào trong chương trình giảng dạy cho các lớp đào tạo giáo viên chuyên ngành giáo dục học, các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tại Học viện Chính trị từ những năm 2004 đến nay. Đồng thời các nhà khoa học thuộc tập thể Khoa Sư phạm quân sự đã biên soạn nhiều tài liệu, giáo trình về quản lý giáo dục ở đại học quân sự, trong đó KĐCLGD được coi là một trong những nội dung, nhiệm vụ cơ bản của quá trình quản lý giáo dục ở đại học quân sự. Nghiên cứu về vấn đề KĐCLGD trong quân đội, tác giả Phạm Đức Tú với công trình: Phát triển hệ thống kiểm định chất lượng đáp ứng quân đội thời kỳ mới (đề tài cấp Cục Nhà trường năm 2011) đã đề cập tới những vấn đề chung của quản lý hoạt động bảo đảm chất lượng, về xây dựng, phát triển bộ máy KĐCLGD trong quân đội, tuy nhiên chưa đi sâu vào quản lý hoạt động KĐCLGD đối với TSQ quân đội.

Có thể thấy, KĐCLGD và quản lý KĐCLGD trong quân đội còn là vấn đề mới, song đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cũng như của lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Đây chính là những cơ sở lý luận, thực tiễn rất quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động KĐCLGD ở các nhà trường quân đội nói chung, các trường sĩ quan quân đội nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động KĐCLGD đối với các trường sĩ quan quân đội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động KĐCLGD; Đề xuất các biện pháp cơ bản trong quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

  • Làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận quản lý hoạt động KĐCLGD ở trường đại học.
  • Điều tra, khảo sát và phân tích thực trạng quản lý hoạt động KĐCLGD ở  các TSQ quân đội hiện nay.
  • Đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay.

4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

  • Khách thể nghiên cứu của đề tài:
  • Hoạt động KĐCLGD trong các TSQ quân đội.
  • Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
  • Quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội.
  • Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Các số liệu khảo sát, điều tra được tiến hành trong thời gian từ năm 2009 đến nay tại các TSQ quân đội.

5. Giả thuyết khoa học

Kết quả của hoạt động KĐCLGD chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quản lý hoạt động KĐCLGD giữ vị trí, vai trò rất quan trọng. Nếu trong quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội  thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu như: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng liên quan tiến hành hoạt động KĐCLGD; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy cho quản lý KĐCLGD; Xây dựng cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT có số lượng đủ, chất lượng cao; Tổ chức hoạt động KĐCLGD có nề nếp, nghiêm túc tại các trường thì quản lý hoạt động KĐCLGD sẽ đạt chất lượng, hiệu quả cao góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các nhà trường.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Phương pháp luận của đề tài

Đề tài tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD – ĐT, về quản lý giáo dục, về KĐCLGD; đồng thời dựa trên các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu khoa học như: Quan điểm hệ thống – cấu trúc; quan điểm lịch sử – lôgic; quan điểm thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài.

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục: bao gồm:

Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá một số tác phẩm kinh điển Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, của Quân đội về GD – ĐT; giáo trình, sách chuyên khảo, các công trình khoa học, bài báo khoa học có liên quan đã được công bố và đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học.

Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Khảo sát hoạt động KĐCLGD ở một số TSQ; tọa đàm, trao đổi với cán bộ quản lý giáo dục, nhất là cán bộ ở các ban KT&ĐBCLGD – ĐT, đội ngũ giảng viên, học viên về các vấn đề có liên quan.

Điều tra xã hội học với 400 cán bộ quản lý và giảng viên, 200 học viên, làm cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân. Nghiên cứu một số sản phẩm như: Báo cáo tổng kết của các nhà trường; của Cục Nhà trường/Bộ Tổng tham mưu; Xin ý kiến chuyên gia của một số nhà khoa học, nhà sư phạm về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ đó rút ra những vấn đề có giá trị khoa học làm cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay.

7. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Góp phần bổ sung lý luận về KĐCLGD trong các nhà trường quân đội.

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho quá trình giảng dạy, nghiên cứu và làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường vận dụng trong chỉ đạo hoạt động KĐCLGD ở nhà trường.

8. Kết cấu của đề tài:

Kết cấu đề tài luận văn gồm: phần mở đầu; Phần nội dung với 2 chương, 4 tiết; Phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục kèm theo.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN – THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ  HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

1.1. Quan niệm về quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay

1.1.1 Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục

Để có quan niệm chính xác, toàn diện về các vấn đề cơ bản của KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội, cần tìm hiểu các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về KĐCLGD. Các quan điểm đó là cơ sở pháp lý, tư tưởng, khoa học cho việc nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD nói chung, quản lý hoạt động KĐCLGD trong các TSQ quân đội nói riêng. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về KĐCLGD thời kỳ mới được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Luật giáo dục, Luật Giáo dục Đại học, các văn bản pháp quy của Quốc Hội, Chính phủ, BGD&ĐT. Tựu chung lại, có những quan điểm cơ bản sau: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Thứ nhất, KĐCLGD chịu sự quản lý của Nhà nước tuân theo quy định của pháp luật.

KĐCLGD là một lĩnh vực, một hoạt động đặt dưới sự quản lý, điều hành của Nhà nước. KĐCLGD là một hoạt động liên quan trực tiếp đến vấn đề bảo đảm CLGD cũng như thương hiệu của các cơ sở giáo dục, do đó đòi hỏi hoạt động KĐCLGD phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước, tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Luật giáo dục năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định những nội dung về quản lý Nhà nước; nguyên tắc hoạt động; điều kiện thành lập, giải thể; ra quyết định thành lập tổ chức KĐCLGD. Những quan điểm đó có tính chất chỉ đạo cho việc xây dựng và tiến hành các hoạt động KĐCLG, cũng như cho quản lý hoạt động KĐCLGD hiện nay. Theo đó, có các quan điểm chính: Về nội dung quản lý Nhà nước về KĐCLGD, được Điều 110a, Luật Giáo dục chỉ rõ: Ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá CLGD; quy trình và chu kỳ KĐCLGD ở từng cấp học và trình độ đào tạo; nguyên tắc hoạt động, điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân hoạt động KĐCLGD; cấp phép hoạt động KĐCLGD; cấp, thu hồi giấy chứng nhận KĐCLGD. Quản lý hoạt động kiểm định chương trình giáo dục và kiểm định cơ sở giáo dục. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân và cơ sở giáo dục thực hiện đánh giá, KĐCLGD. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định về KĐCLGD. Về nguyên tắc KĐCLGD, Điều 110b chỉ rõ: phải bảo đảm các nguyên tắc: Độc lập, khách quan, đúng pháp luật. Trung thực, công khai, minh bạch. Bình đẳng, bắt buộc, định kỳ. Về tổ chức, Điều 110c chỉ rõ: Tổ chức KĐCLGD bao gồm: Tổ chức KĐCLGD do Nhà nước thành lập. Tổ chức KĐCLGD do tổ chức, cá nhân thành lập. Bộ trưởng BGD&ĐT quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập tổ chức KĐCLGD; quy định điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức KĐCLGD” [27; tr. 93- 96]. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Thứ hai, KĐCLGD là quá trình hình thành, củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức KĐCLGD độc lập nhằm đảm bảo không ngừng củng cố và nâng cao CLGD.

Đây là quan điểm cơ bản, có vai trò chỉ đạo, chi phối tới việc hoạt động KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD của đất nước nói chung, của KĐCLGD quân đội nói riêng. Đồng thời quan điểm đã chỉ rõ việc quản lý hoạt động KĐCLGD là một quá trình xây dựng, củng cố, hoàn thiện bộ máy, cơ chế hoạt động của hệ thống KĐCLGD.

Hệ thống KĐCLGD là tổng thể các tổ chức của cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức KĐCLGD hoạt động chuyên nghiệp về KĐCLGD dựa trên cơ sở hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước về KĐCLGD, tham mưu đề xuất giúp thủ trưởng các cấp đánh giá CLGD tại các cơ sở giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Hệ thống KĐCLGD gồm: Cơ quan quản lý Nhà nước về KĐCLGD; cơ quan KĐCLGD tại các cơ sở đào tạo; các tổ chức KĐCLGD độc lập. Theo đó, phát triển hệ thống KĐCLGD là quá trình phát hiện và giải quyết mâu thuẫn nhằm xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy, cơ chế hoạt động, tạo động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức của hệ thống KĐCLGD đáp ứng yêu cầu đề ra của Chính phủ, BGD&ĐT về KĐCLGD. Như vậy, phát triển hệ thống KĐCLGD là quá trình củng cố, kiện toàn, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cơ chế hoạt động bảo đảm cho hệ thống KĐCLGD hoạt động có hiệu quả cao nhất, phát huy tốt nhất vị trí, vai trò, chức năng của hệ thống đó trong những điều kiện nhất định. Đề án xây dựng và phát triển hệ thống KĐCLGD đối với GDĐH và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011- 2020 do Bộ trưởng BGD&ĐT phê duyệt đã chỉ rõ: Hệ thống KĐCLGD đối với GDĐH – TCCN ở Việt Nam bao gồm: Cơ quan quản lý Nhà nước về KĐCLGD là BGD&ĐT; Các tổ chức KĐCLGD.

Tổ chức KĐCLGD do Nhà nước thành lập là tổ chức KĐCLGD đại học và tổ chức KĐCLGD trường trung cấp chuyên nghiệp do Bộ trưởng BGD&ĐT thành lập và định kỳ cấp phép hoạt động để kiểm định các cơ sở giáo dục, chương trình GDĐH, trung cấp chuyên nghiệp thuộc các khối công lập và ngoài công lập.

Tổ chức KĐCLGD do tổ chức, cá nhân thành lập: Tổ chức KĐCLGD do hiệp hội, cơ quan chuyên môn có nhu cầu thành lập được Bộ trưởng BGD&ĐT cho phép thành lập và định kỳ cấp phép hoạt động để KĐCLGD trong những lĩnh vực cụ thể. Tổ chức KĐCLGD do cá nhân có nhu cầu thành lập được Bộ trưởng BGD&ĐT cho phép thành lập và định kỳ cấp phép hoạt động để KĐCLGD trong những lĩnh vực cụ thể. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Trong giai đoạn 2011-2015, để thống nhất quy trình đánh giá, đảm bảo sự khách quan, công bằng về kết quả đánh giá chỉ nên thành lập tổ chức KĐCLGD của Nhà nước (do BGD&ĐT thành lập) độc lập với các đơn vị, giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về GD – ĐT. Giai đoạn 2016- 2020 có thể hình thành các tổ chức KĐCLGD do tổ chức, cá nhân thành lập. Tổ chức KĐCLGD là một đơn vị chuyên trách, có thể là một cơ quan, văn phòng, trung tâm hay công ty có đủ tư cách pháp nhân; có Hội đồng KĐCLGD do cơ quan chủ quản của tổ chức đó thành lập; có đội ngũ chuyên gia đánh giá để triển khai các hoạt động KĐCLGD. Tổ chức KĐCLGD được quyền độc lập trong việc đưa ra quyết định công nhận hoặc không công nhận cơ sở giáo dục hoặc chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục.

Thứ ba, KĐCLGD là công cụ quan trọng góp phần đổi mới công tác quản lý GD – ĐT.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo” [… tr. 217, 218]. Quan điểm của Đảng đã chỉ rõ: KĐCLGD là một trong những biện pháp góp phần đổi mới cơ chế quản lý GD – ĐT cùng với các giải pháp phân cấp quản lý phát huy quyền tự chủ của cơ sở đào tạo, đổi mới quy họach, kế hoạch phát triển, đổi mới cơ chế tài chính.

Như vậy, các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về KĐCLGD đã chỉ rõ mô hình tổ chức, phương thức quản lý, điều kiện đảm bảo KĐCLGD. Đây là những cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc quản lý hoạt động KĐCLGD, cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội.

1.1.2 Các khái niệm cơ bản

Chất lượng giáo dục:

CLGD là một phạm trù đa cấp, đa diện được tiếp cận dưới nhiều bình diện khác nhau, nó là tổng hoà các yếu tố cấu thành và tác động lên nó. Nhìn chung, khi xem xét CLGD ta có thể xem xét, đánh giá từ những yếu tố cấu thành nên nó, mà những yếu tố này ít trừu tượng hơn. Ví như, có thể đánh giá CLGD thông qua việc đánh giá chất lượng đầu vào; đánh giá chất lượng đầu ra, đánh giá bằng giá trị gia tăng, chất lượng của việc xác định nội dung, chương trình và phương thức tổ chức quá trình đào tạo; chất lượng của đội ngũ giáo viên, chất lượng dạy và học, chất lượng của hệ thống giảng đường, thư viện, bãi tập, phòng thí nghiệm, chất lượng của các phương tiện dạy học v.v… Có thể nhận thấy, CLGD được thể hiện ở khía cạnh chính là: mức độ hoàn hảo, tối ưu của toàn bộ quá trình giáo dục; Sự tổng hoà hữu cơ chất lượng của các hoạt động, các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục; Mức độ đạt được mục tiêu giáo dục đã được xác định; Sự biến đổi về chất của người học sau quá trình giáo dục.

Từ cách tiếp cận trên, đề tài cho rằng: CLGD là kết quả của quá trình đào tạo tuân theo các tiêu chuẩn đã quy định, phù hợp với nhu cầu sử dụng, khớp với mục tiêu đào taọ. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Quản lý chất lượng giáo dục:

Để thực hiện được CLGD cần phải tiến hành đồng bộ nhiều hoạt động, nhiều biện pháp, trong đó quản lý CLGD hiện nay đang và đã được đặt ra như là một vấn đề trọng tâm. Cho đến nay quan niệm về quản lý CLGD vẫn còn có nhiều ý kiến đề cập khác nhau. Dưới đây, tổng thuật lại một số quan niệm chính là:

Dưới cách tiếp cận về chất lượng sản phẩm, quản lý CLGD được hiểu đó là quá trình thiết kế các tiêu chuẩn và duy trì các cơ chế để sản phẩm CLGD đạt được các tiêu chuẩn xác định.

Tiếp cận dưới góc độ các thủ pháp và quy trình bảo đảm chất lượng, quản lý CLGD được sử dụng để miêu tả các thủ pháp hoặc quy trình được tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá xem các sản phẩm giáo dục có bảo đảm được các tiêu chuẩn, các thông số chất lượng đã được xác định sẵn hay không.

Tích hợp cả hai cách tiếp cận trên đây, chúng tôi quan niệm, quản lý CLGD là quá trình tổ chức thực hiện có hệ thống các biện pháp quản lý đến toàn bộ quá trình giáo dục nhằm đảm bảo và không ngừng nâng cao CLGD.

Theo đó, quản lý CLGD bao gồm cả vấn đề thiết kế các tiêu chuẩn và duy trì cơ chế để sản phẩm đạt được các tiêu chuấn xác định; Đồng thời nó còn bao gồm cả quy trình, biện pháp nhằm đảm bảo cho sản phẩm giáo dục được bảo đảm.

Đảm bảo chất lượng giáo dục: ĐBCLGD là quá trình xảy ra trước và trong khi thực hiện, sự kết hợp giữa việc quản lý bên trong và quản lý bên ngoài cơ sở giáo dục đại học và  được xác định như các hệ thống, chính sách, thủ tục, qui trình, hành động và thái độ được xác định từ trước nhằm đạt được, duy trì, giám sát và củng cố chất lượng giáo dục ở mức chuẩn cho phép nhất định và tìm ra những giải pháp để không ngừng nâng cao chất lượng giáo duc, đảm bảo để nhà trường hoàn thành  sứ mạng.

ĐBCLGD được tiến hành thông qua việc thực hiện 04 chức năng cơ bản của đảm bảo chất lượng: xác lập chuẩn; xây dựng quy trình; xác định các tiêu chí đánh gia; vận hành, đo lường, đánh giá, thu thập và xử lí số liệu.

Kiểm định chất lượng giáo dục: Theo nghĩa chung nhất, KĐCLGD được hiểu là là một trong những hoạt động đảm bảo chất lượng bên ngoài cơ sở đào tạo. Quá trình kiểm định chất lượng giáo dục nhằm mục tiêu đưa ra các quyết định công nhận về mức độ tiến bộ và đảm bảo chất lượng giáo dục tại các trường cao đẳng, đại học…, là hệ thống tổ chức và giải pháp để đánh giá, công nhận CLGD của cơ sở giáo dục theo các tiêu chuẩn được quy định.

Như vậy, KĐCLGD là hoạt động đánh giá của các tổ chức chuyên nghiệp, độc lập với các cơ sở giáo dục nhằm công nhận mức độ đạt tiêu chuẩn chất lượng của cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo của cơ sở theo các tiêu chuẩn, tiêu chí của BGD&ĐT đề ra. Hệ thống KĐCLGD là tổng thể các tổ chức của cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức KĐCLGD hoạt động chuyên nghiệp về KĐCLGD dựa trên cơ sở hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước về KĐCLGD, tham mưu đề xuất giúp Thủ trưởng các cấp đánh giá CLGD tại các cơ sở giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Hệ thống KĐCLGD gồm: Cơ quan quản lý Nhà nước về KĐCLGD; cơ quan KĐCLGD tại các cơ sở đào tạo; các tổ chức KĐCLGD độc lập [18- tr. 5]. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Như vậy, KĐCLGD và ĐBCLGD có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

ĐBCLGD là cái chung tổng thể. Còn KĐCLGD là cái riêng, là một trong những hoạt động của ĐBCLGD nhằm: đảm bảo với những đối tượng tham gia vào công tác giáo dục rằng một chương trình đào tạo, hay một trường, khoa nào đó đã đạt hay vượt những chuẩn mực nhất định về chất lượng; hỗ trợ trường liên tục cải tiến chất lượng.

Hoạt động KĐCLGD: là quy trình KĐCLGD, được tiến hành như sau:

Bước 1: Trường đăng ký KĐCLGD với Bộ Giáo Dục và Đào tạo, tiến hành tự đánh giá và gửi báo cáo đánh giá cho Bộ Giáo Dục và Đào tạo.

Bước 2:  Đoàn chuyên gia đánh giá ngoài nghiên cứu báo cáo tự đánh giá, khảo sát, viết báo cáo đánh giá ngoài, gửi cho trường được đánh giá, cho Bộ Giáo dục và Đạo tạo để chuẩn bị thẩm định kết quả đánh giá chất lượng giáo dục.Trong trường hợp cần thiết theo quy định tại Điều 14 của Quy đinh nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đánh giá lại kết quả đánh giá ngoài.

Bước 3: Hội đồng quốc gia KĐCLGD tiến hành thẩm định kết quả đánh giá CLGD, đề nghị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận hoặc không công nhận trường đạt chuẩn CLGD.

Bước 4: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định công nhận hoặc không công nhận trường đạt tiêu chuẩn CLGD.

Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường sỹ quan quân đội

Để bảo đảm cho hoạt động KĐCLGD có nề nếp, khoa học, có chất lượng cao, đáp ứng tốt yêu cầu của việc bảo đảm và nâng cao CLGD hiện nay, cần phải thực hiện quản lý hoạt động KĐCLGD. Kế thừa các quan niệm có liên quan, nhất là quan niệm về quản lý giáo dục, về hoạt động KĐCLGD, chúng tôi cho rằng: Quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể nhằm quản lý chặt chẽ, khoa học, có hiệu quả, đúng pháp lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội, qua đó góp phần tích cực cho việc đảm bảo và nâng cao CLGD của các TSQ quân đội, góp phần thiết thực trong nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ cho quân đội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Mục đích quản lý hoạt động KĐCLGD là nhằm đảm bảo cho hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội được tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, đúng pháp lý, có tác dụng thiết thực trong việc đánh giá chính xác và công nhận chất lượng giáo dục ở các TSQ quân đội. Qua đó, giúp Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng nhà trường đánh giá đúng chất lượng, xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng, đưa ra các giải pháp chiến lược, các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GD – ĐT.

Chủ thể của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội bao gồm nhiều lực lượng, tổ chức và cá nhân, có quyền hạn, trách nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ và phạm vi phân cấp đúng với quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học và quy định của Điều lệnh, Điều lệ Quân đội nhân dân Việt Nam. Các chủ thể quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ.

Trên góc độ toàn quân, Quân uỷ Trung ương và Thủ trưởng BQP là chủ thể quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt hoạt động của các học viện, TSQ quân đội, trong đó có quản lý hoạt động KĐCLGD ở các nhà trường. Theo tinh thần đó, toàn bộ quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương, sự chỉ huy, điều hành thống nhất cuả Thủ trưởng BQP.

Các cơ quan chức năng của BQP và các cơ quan chức năng của BGD&ĐT, là những cơ quan chuyên môn có trách nhiệm tham mưu, giúp Quân uỷ Trung ương, Thủ trưởng BQP, BGD&ĐT theo dõi, chỉ đạo, định hướng cho các nhà trường quân đội về mọi hoạt động, trong đó có hoạt động KĐCLGD. Như vậy, các cơ quan đó có trách nhiệm giúp Quân uỷ Trung ương, Thủ trưởng BQP, BGD&ĐT quản lý toàn bộ hoạt động KĐCLGD trong quân đội theo phạm vi, thẩm quyền và chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, từng lực lượng. Trong đó Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan trực tiếp theo dõi, chỉ đạo quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Trên góc độ của từng trường, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu của các nhà trường là chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, điều hành toàn bộ quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD của nhà trường. Cơ quan chức năng giúp việc cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu của các nhà trường là Ban KT&CLGD – ĐT. Các cơ quan đó có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung; đề xuất thành lập các tổ chuyên gia để kiểm định, đánh giá CLGD báo cáo trình Hiệu trưởng phê duyệt và tổ chức điều hành hoạt động KĐCLGD của nhà trường theo đúng tiến trình, kế hoạch… Tổng hợp kết quả kiểm định, báo cáo trình Thủ trưởng Ban Giám hiệu xem xét…; Đồng thời báo cáo Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu, BQP, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, BGD&ĐT. Ngoài ra, các chủ thể của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ còn bao gồm đông đảo các lực lượng khác như các cơ quan chuyên môn, các khoa giáo viên, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục…

Đối tượng của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội bao gồm nhiều vấn đề: các văn bản pháp quy; Bộ máy (tổ chức, cá nhân) tiến hành KĐCLGD; Nội dung của hoạt động KĐCLGD; Cơ sở vật chất, phương tiện, vật  tư tài chính cho hoạt động KĐCLGD…

Nội dung của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội bao gồm nhiều vấn đề, trong phạm vi đề tài, chúng tôi cho rằng có các vấn đề chính là:

Thứ nhất, quản lý việc ban hành các chính sách, văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

Văn bản pháp quy của hoạt động KĐCLGD chính là công cụ pháp lý cho quản lý toàn bộ hoạt động KĐCLGD. Do đó, đây là nội dung quản lý hết sức quan trọng và cần thiết cho hoạt động KĐCLGD hiện nay. Do KĐCLGD trong phạm vi cả nước nói chung và trong phạm vi quân đội nói riêng còn đang là vấn đề khá mới, phức tạp, chúng ta chưa có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này, vì vậy, quản lý hoạt động ban hành các chính sách, văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay đang là đòi hỏi hết sức quan trọng. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Thứ hai, quản lý việc xác định kế hoạch, nội dung, quy trình, phương thức tiến hành KĐCLGD ở các TSQ.

Đây là một trong những nội dung chủ yếu của quản lý hoạt động KĐCLGD. Theo đó có các nội dung cụ thể là:

Về nội dung KĐCLGD, có hai nội dung chính đó là: Kiểm định trường và kiểm định chương trình đào tạo. Hai loại này có một số điểm khác nhau, nhưng giữa chúng có liên quan mật thiết với nhau. Kiểm định trường trọng tâm chú ý về kiểm định các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo và hệ thống quản lý chất lượng của nhà trường. Lúc này, chương trình đào tạo được xem như là một bộ phận cơ hữu trong kiểm định chất lượng nhà trường. Còn kiểm định chương trình đào tạo là kiểm định việc đảm bảo chất lượng của chương trình đào tạo, nghĩa là xem xét các yếu tố cấu thành của chương trình đào tạo có bảo đảm được hay không? Việc tổ chức quá trình đào tạo có bảo đảm đúng như cam kết hay không…

Về quy trình, phương thức tiến hành KĐCLGD ở các TSQ được thực hiện theo quy trình:

Nhà trường đăng ký KĐCLGD với BQP (qua Cục Nhà Trường, Bộ Tổng Tham mưu), BGD&ĐT, tiến hành tự đánh giá và gửi báo cáo tự đánh giá cho BQP (qua Cục Nhà trường) và BGD&ĐT.

Đoàn chuyên gia đánh giá ngoài nghiên cứu báo cáo tự đánh giá, khảo sát, viết báo cáo đánh giá ngoài, gửi cho trường được đánh giá cho BQP, BGD&ĐT để chuẩn bị thẩm định kết quả đánh giá CLGD. Trong trường hợp cần thiết BGD&ĐT tổ chức đánh giá lại kết quả đánh giá ngoài. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Hội đồng quốc gia KĐCLGD tiến hành thẩm định kết quả đánh giá chất lượng giáo dục, đề nghị Bộ trưởng BGD&ĐT công nhận trường đạt tiêu chuẩn CLGD. Bộ trưởng BGD&ĐT ra quyết định công nhận hoặc không công nhận trường đạt tiêu chuẩn CLGD.

Chu kỳ KĐCLGD của các TSQ quân đội là 5 năm /lần.

Thứ ba, quản lý hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình KĐCLGD ở các TSQ.

Đây là nội dung cơ bản, cốt lõi của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Quản lý giáo dục, quản lý hoạt động KĐCLGD là vấn đề phức tạp, lực lượng, cá nhân đảm nhiệm chuyên trách nhiệm vụ này chưa nhiều, trình độ chuyên môn chưa cao, chưa thật chuyên nghiệp. Vì vậy quản lý hoạt động của các chủ thể tham gia vào hoạt động KĐCLGD là vấn đề hết sức cần thiết. Mặt khác, trong tương lai, có thể xuất hiện các cá nhân, tổ chức KĐCLGD độc lập, ngoài công lập, thì việc quản lý hoạt động của các lực lượng này là hết sức quan trọng. Điều này đặt ra cho việc xác định cơ chế quản lý phải hết sức khoa học, chặt chẽ…

Biện pháp quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội: Là tập hợp những cách thức, thủ pháp mà chủ thể quản lý sử dụng nhằm đảm bảo cho quản lý hoạt động KĐCLGD đạt được kết quả cao nhất. Nói cách khác, chính là đảm bảo cho toàn bộ hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội diễn ra nhịp nhàng, chặt chẽ, có hiệu quả cao; tuân thủ đúng Pháp luật của Nhà nước, các quy định của BGD&ĐT, Điều lệnh, Điều lệ quân đội, quy trình, phương thức tiến hành KĐCLGD… Như vậy, quản lý hoạt động KĐCLGD bao gồm nhiều biện pháp, có thể đề cập đến một số biện pháp chính là: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể quản lý hoạt động KĐCLGD; Ban hành, hoàn thiện các văn bản pháp quy cho hoạt động KĐCLGD; Xây dựng đội ngũ cán bộ KĐCLGD và cơ quan KĐCLGD vững mạnh có phẩm chất, năng lực tốt..; Tổ chức tốt hoạt động KĐCLGD trong thực tiễn và tăng cường công tác thanh, kiểm tra hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội…

1.1.3 Đặc điểm, yếu tố tác động đến quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường sĩ quan quân đội Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

1.1.3.1. Đặc điểm quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội

Hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội vừa tuân thủ theo quy định của các trường đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân, vừa phải chịu sự tác động bởi đặc điểm của một tổ chức quân sự. Do đó, để bảo đảm cho quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện mục tiêu quản lý đã xác định, cần nắm vững các đặc điểm của quản lý hoạt động KĐCLGD. Đó là:

Thứ nhất, quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội diễn ra trong một tổ chức có tính đặc thù, trong một thiết chế giáo dục quân sự. Nói cách khác các TSQ vừa là tổ chức GD – ĐT, vừa là tổ chức quân sự. Đặc điểm này chi phối tới toàn bộ quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội ta hiện nay. Theo tinh thần đó, hoạt động KĐCLGD bị chi phối bởi đặc điểm của một tổ chức quân sự. Điều này vừa tạo ra điều kiện thuận lợi cũng như vừa đặt ra khó khăn cho quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD. Mặt thuận lợi ở chỗ, toàn bộ các vấn đề cơ bản về KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD sẽ được quán triệt, tổ chức thực hiện hết sức chặt chẽ, nghiêm túc, nhanh chóng theo đúng yêu cầu của kỷ luật quân sự và phong cách quân sự. Tuy nhiên mặt khó khăn là ở chỗ có nhiều lĩnh vực hoạt động của các TSQ quân đội thuộc về bí mật quân sự không được phép tiết lộ, vì vậy cần có cơ chế thích hợp để hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD được tiến hành xác đáng, vừa đảm bảo được các yêu cầu bảo mật, vừa đảm bảo cho việc kiểm định, đánh giá chính xác, khách quan về CLGD và những điều kiện đảm bảo CLGD.

Thứ hai, KĐCLGD trong quân đội hiện còn là vấn đề mới, do đó việc quản lý hoạt động này cũng đang trong quá trình nghiên cứu, điều chỉnh và hoàn thiện. Do đặc điểm và yêu cầu của hoạt động quân sự, việc KĐCLGD ở các nhà trường quân đội so với các trường ngoài quân đội trong hệ thống giáo dục quốc dân còn là vấn đề mới. Nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn của hoạt động KĐCLGD cũng như vấn đề quản lý chất lượng giáo dục, quản lý hoạt động KĐCLGD ở các nhà trường quân đội chúng ta chưa được làm sáng tỏ. Đến năm 2009, Tổng Tham mưu trưởng đã ra Quyết định số 1736/QĐ-TM và Quyết định số 1737/QĐ-TM ngày 27/10/2009 về việc thành lập Phòng KT&ĐBCLGD – ĐT thuộc Cục Nhà trường/Bộ Tổng Tham mưu và các Phòng KT&ĐBCLGD – ĐT thuộc học viện, trường quân đội nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở GDĐH theo đúng yêu cầu của Luật Giáo dục và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết định đó, các cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT đã được thành lập tại Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu và 23 học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng. Như vậy, cho đến nay các cơ quan chuyên trách về KĐCLGD trong quân đội mới đi vào hoạt động được gẩn 4 năm, do đó còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, điều chỉnh và hoàn thiện. Đây là thách thức lớn cho quản lý hoạt động KĐCLGD ở các nhà trường quân đội nói chung, các TSQ nói riêng. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ chuyên trách cho hoạt động KĐCLGD là các cán bộ, sĩ quan quân đội, phần lớn chưa được đào tạo về KĐCLGD. Đặc điểm này chỉ rõ những khó khăn, thách thức đòi hỏi cần phải có biện pháp phù hợp, khả thi để nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Như chúng ta đã biết, các cán bộ được điều động về cơ quan chuyên trách của KĐCLGD quân đội về cơ bản là chưa được đào tạo về quản lý giáo dục, về quản lý chất lượng giáo dục, về KĐCLGD. Do đó quá trình tổ chức triển khai các vấn đề về KĐCLGD là còn lúng túng, chưa bài bản…Điều này đòi hỏi quản lý hoạt động này cần phải hết sức chú ý đến bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ kiểm định viên đáp ứng yêu cầu của hoạt động KĐCLGD.

1.1.3.2. Yếu tố tác động đến quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

KĐCLGD là một hoạt động có tính khoa học, tính thực tiễn rất cao, điều đó đặt ra cho quản lý hoạt động này cũng phải được tiến hành hết sức chặt chẽ, khoa học sát với thực tiễn quá trình GD – ĐT ở các nhà trường quân đội. Hiệu quả, chất lượng của quản lý hoạt động KĐCLGD phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nghiên cứu nắm vững các yếu tố tác động, tìm ra các biện pháp khoa học để thúc đẩy các yếu tố đó vận động đúng quy luật là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chúng tôi cho rằng quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội chịu sự tác động của một số yếu tố cơ bản, chủ yếu sau:

Một là, nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể và đối tượng quản lý về quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

Quản lý hoạt động KĐCLGD phụ thuộc trực tiếp vào nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể và của bản thân đối tượng được quản lý ở các nhà trường nói chung, ở các TSQ quân đội nói riêng. Thực tiễn cho thấy, chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng đắn, trách nhiệm cao và sự nỗ lực, quyết tâm lớn của các chủ thể quản lý mới có thể thực hiện có hiệu quả quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD. Nhận thức, trách nhiệm cao với hoạt động KĐCLGD sẽ là động lực thúc đẩy để các chủ thể và đối tượng được quản lý tìm ra được các biện pháp hữu hiệu, khả thi nhất bảo đảm cho hoạt động KĐCLGD đạt được kết quả như mong muốn. Do đó, cần phải nỗ lực tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho tất cả các chủ thể quản lý và cả đối tượng được quản lý trong hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Hai là, sự đồng bộ, khoa học, khả thi của các văn bản pháp quy cho quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

Quản lý hoạt động KĐCLGD là một bộ phận của khoa học quản lý giáo dục, do đó nó chịu sự tác động của các yếu tố cơ bản cấu thành hoạt động quản lý giáo dục. Trong các yếu tố cấu thành hoạt động quản lý giáo dục thì các văn bản pháp quy chính là công cụ để thực hiện các tác động quản lý, do đó hiệu quả của công tác quản lý phụ thuộc khá nhiều vào tính pháp lý, khoa học, khả thi của các văn bản pháp quy đó. Quản lý hoạt động KĐCLGD cũng không nằm ngoài vấn đề trên. Thực tế cho thấy, nhiều khi kết quả của hoạt động không phải chủ yếu do các chủ thể chi phối quyết định; có lúc, kết quả của hoạt động lại phần lớn phụ thuộc vào các quy định, các chế tài đặt ra. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản một cách khoa học, đồng bộ, khả thi cho quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

Ba là, hiệu quả và chất lượng hoạt động của các lực lưọng trong quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội.

Đây là yếu tố tác động chủ yếu và trực tiếp nhất đến quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ hiện nay. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy trong mọi hoạt động của con người nói chung, hoạt động quản lý giáo dục và KĐCLGD nói riêng đều phụ thuộc chủ yếu vào con người với tư cách là chủ thể của quá trình hoạt động đó. Cụ thể là phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực, thái độ, động cơ, trách nhiệm đối với hoạt động của các chủ thể. Tuy nhiên, cần nhận thấy ở đây yếu tố tác động trực tiếp nhất chính là chất lượng, hiệu quả của các hoạt động quản lý KĐCLGD của các chủ thể. Đó là chất lượng và hiệu quả của việc kế hoạch hoá hoạt động KĐCLGD; chất lượng hiệu quả của hoạt động xây dựng, hoàn thiện bộ máy, có chế cho hoạt động KĐCLGD; chất lượng hiệu quả của việc ra các quyết định và điều chỉnh các quyết định trong quá trình KĐCLGD; chất lượng, hiệu quả của hoạt động thanh, kiểm tra, giám sát quá trình KĐCLGD…. Mặt khác, cần nhận thấy KĐCLGD là hoạt động liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức do đó cần thấy rằng sự đồng bộ, nhịp nhàng trong toàn bộ quá trình KĐCLGD giữa các cá nhân, các tổ chức, giữa cấp trên với cấp dưới là yếu tố hết sức quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu quản lý hoạt động KĐCLGD đã đề ra.

Bốn là, cơ chế, chính sách, điều kiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính bảo đảm cho quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Đây là yếu tố rất quan trọng tác động đến quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội. Cơ chế, chính sách, điều kiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính bảo đảm là nguồn lực hết sức quan trọng cho quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD. Do KĐCLGD là một hoạt động mới, nên rất cần có sự đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và hỗ trợ về chuyên gia, tài chính.

Trong những năm gần đây, một số dự án, đề án đã dành một phần kinh phí đáng kể để triển khai các hoạt động KĐCLGD. Mặc dù các hoạt động này còn thiếu đồng bộ, chưa có tính hệ thống nhưng sự hỗ trợ của các dự án trong thời gian qua đã góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai các hoạt động KĐCLGD. Tuy nhiên, để thực hiện tốt quản lý hoạt động KĐCLGD của các TSQ quân đội thời kỳ cần tăng cường đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, ngân sách, tài chính cho hoạt động KĐCLGD quân đội. Muốn vậy, cần thống nhất nhận thức về ưu tiên đầu tư cho việc phát triển hệ thống KĐCLGD quân đội. Có kế hoạch trong đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và bảo đảm ngân sách cho các cơ quan KĐCLGD quân đội hoạt động. Tăng cường đầu tư ngân sách, cơ sở trang thiết bị cho việc nâng cao trình độ đội ngũ kiểm định viên.

1.2. Thực trạng quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường sĩ quan quân đội

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra và thống kê ở 10 học viện, 12 TSQ quân đội với 600 khách thể điều tra; đồng thời chúng tôi đã tiến hành phân tích các báo cáo về vấn đề kiểm định, đánh giá CLGD của các nhà trường, kết hợp với việc quan sát, đánh giá hoạt động của các nhà trường, xin ý kiến của một số lãnh đạo, chuyên gia giáo dục… từ đó cho phép rút ra những nhận định về thực trạng quản lý hoạt động KĐCLGD trên những nội dung chính sau:

1.2.1 Về nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các TSQ quân đội

Cùng với sự chuyển biến chung trong nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của GD – ĐT, của hoạt động quản lý giáo dục nói chung của vấn đề đảm bảo chất lượng giáo dục nói riêng. Những năm qua, nhận thức về sự cần thiết, tầm quan trọng và những vấn đề cơ bản của quản lý hoạt động KĐCLGD của xã hội của quân đội ngày càng được nâng lên. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong chủ trương xây dựng, kiện toàn, phát triển cơ quan và đội ngũ cán bộ KĐCLGD của đất nước cũng như của quân đội. Ở tầm vĩ mô, Quân uỷ Trung ương và Thủ trưởng BQP cũng rất quan tâm chăm lo tới việc nâng cao chất lượng đào tạo của các nhà trường quân đội, trong đó có việc đảm bảo và nâng cao CLGD…Nhận thức của Ban Giám hiệu và cán bộ, giảng viên, học viên các trường đã có sự chuyển biến tích cực về KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD. Qua điều tra, khảo sát cho thấy có 80,50% ý kiến cho rằng việc KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay là cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên (Phụ lục 2). Mặt khác, các nhà trường đã tích cực tổ chức các hoạt động tự đánh giá của trường, cho đến nay đã có 07 trường hoàn thành báo cáo tự đánh giá và đang làm thủ tục tổ chức đánh giá ngoài để công nhận CLGD của các trường. Các cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT ở các nhà trường tuy mới thành lập song đã rất tích cực, chủ động trong thực hiện các nhiệm vụ, trong đó có vấn đề KĐCLGD.

Bên cạnh những chuyển biến tích cực về nhận thức đối với vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD, thì việc chuyển biến nhận thức đó còn chậm, chưa triệt để, cá biệt có một số ý kiến chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động KĐCLGD cũng như của quản lý hoạt động này, do đó còn có biểu hiện thiếu tích cực, coi nhẹ hoạt động KĐCLGD. Qua điều tra, khảo sát cho thấy còn có 20% chưa nhận thức rõ tầm quan trọng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

1.2.2 Về hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục và quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục của các trường trong thời gian qua

1.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức, biên chế, chất lượng đội ngũ cán bộ KĐCLGD

Về cơ quan chuyên trách của hoạt động KĐCLGD:

Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo điều hành, quản lý, chỉ huy của Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, hệ thống các trường quân đội không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Cho đến nay, toàn quân có 138 cơ sở đào tạo, trong đó có 23 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng (10 học viện; 12 trường sĩ quan, đại học, cao đẳng). Lưu lượng học viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo đại học ngày càng tăng. Nếu tính trong vòng 10 năm trở lại đây (2000- 2010) số lượng học viên năm 2010 so với năm 2000 tăng 10,5 lần, trong đó: đào tạo trình độ đại học tăng 1,7 lần; sau đại học tăng 2,2 lần; đào tạo khác (cấp trung, sư đoàn, cấp chiến dịch, chiến lược) tăng 13,78 lần. Số lượng học viên, sinh viên hiện có tại các cơ sở giáo dục đại học khoảng 14 vạn người với khoảng 150 chuyên ngành đào tạo khác nhau (TS: 81; Th.S: 45; ĐH: 91). Thực tiễn trên đã đặt ra cho các trường quân đội trong xu thế hòa nhập hệ thống KĐLLGD trong cả nước cần phát triển hệ thống KĐCLGD trong quân đội.

Thực hiện Quyết định số 1736/QĐ-TM và Quyết định số 1737/QĐ-TM ngày 27/10/2009 của Tổng Tham mưu trưởng về việc thành lập Phòng KT&ĐBCLGD – ĐT thuộc Cục Nhà trường/Bộ Tổng Tham mưu và học viện, trường quân đội, hệ thống các cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT đã được thành lập tại Cục Nhà trường Bộ Tổng Tham mưu và 24 học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng. Cho đến nay, tất cả các TSQ quân đội đều có Ban KT&ĐBCLGD – ĐT đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ nhà trường và sự chỉ huy, quản lý, điều hành của Ban Giám hiệu ở các trường. Các phòng, ban KT&ĐBCLGD – ĐT có chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức cụ thể. Trong đó, KĐCLGD của nhà trường là một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này.

Về đội ngũ cán bộ KĐCLGD: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Qua điều tra, khảo sát, thống kê số, chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT của 24 cơ sở trong quân đội và của 12 TSQ với 450 cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên của các TSQ quân đội. Chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

Về số lượng: Theo biên chế, cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT đã vượt so với biên chế khoảng 11,6% (Biên chế là 137; ta có 159; có nơi vượt so với biên chế là 100% như: HVKTQS và HVPKKQ, biên chế là 6, hiện có 12). Nhìn vào số lượng cơ hữu như vậy, có cảm tưởng là cán bộ nhân viên của cơ quan đã vượt biên chế, nhưng thực chất do khối lượng công việc nhiều, kinh nghiệm chuyên môn còn ít, hơn nữa lần đầu tiên ta mới thành lập bộ phận này do vậy chưa tính toán được hết công việc để xác định biểu biên chế cho thoả đáng. Vì vậy, chưa thể khẳng định chắc chắn là số lượng đã vượt so với biên chế.

Về chất lượng:  Thống kê tại 24 cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT của quân đội cho thấy kết quả như sau: Về trình độ học vấn: có 5,03% có trình độ tiến sĩ; 49,68% có trình độ thạc sĩ; 37,1% có trình độ đại học; 8,17% có trình độ trung cấp. Về trải nghiệm thực tiễn hoạt động GD – ĐT: có 67, 92% đã qua giáo viên; có 84,9% đã qua các cương vị của cán bộ quản lý giáo dục. Số được tập huấn chuyên môn về KĐCLGD có 16,98%.,

Để tiếp tục khảo sát về chất lượng của đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên môn của cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT, chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát với 450 cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên, giáo viên của 12 nhà trường (gồm các học viện, trường đại học, trường cao đẳng trong quân đội), kết quả thu được như sau: Đánh giá về năng lực tham mưu cho các hoạt động tự đánh giá chất lượng trường của cơ quan cho thấy: 26% ý kiến cho rằng năng lực tham mưu tốt; 57% cho rằng khá; 15% cho là bình thường; 2% cho rằng không đạt yêu cầu. Đánh giá về năng lực của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 22% cho rằng năng lực tốt; 55% cho rằng năng lực khá; 22% cho rằng năng lực đáp ứng được yêu cầu; 1% cho rằng năng lực không đáp ứng được yêu cầu. Đánh giá về trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 27% cho rằng trình độ tốt; 46% cho rằng trình độ  khá; 24% cho rằng trình độ đáp ứng được yêu cầu; 3% cho rằng trình độ không đáp ứng được yêu cầu. Đánh giá về kinh nghiệm của hoạt động KĐCLGD của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 21% cho rằng có kinh nghiệm tốt; 49% cho rằng kinh nghiệm khá; 26% cho rằng kinh nghiệm đáp ứng được yêu cầu; 4% cho rằng kinh nghiệm không đáp ứng được yêu cầu.

Các ý kiến đề xuất: 47% ý kiến cho rằng cần tập trung nâng cao trình độ học vấn; 65% ý kiến cho rằng cần tập trung nâng cao trình độ chuyên môn; 58% ý kiến cho rằng cần tập trung nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý giáo dục cho đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT. Các ý kiến cũng đề xuất nên mở lớp đào tạo chuyên gia đánh giá ngoài cho cán bộ quân đội với 41% ý kiến đựợc hỏi đề nghị. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Từ những kết quả trên có thể nhận thấy thực trạng đội ngũ cán bộ KĐCLGD quân đội nói chung, các TSQ nói riêng có những mạnh, yếu sau:

Ưu điểm: Mặc dù mới đựợc thành lập, song được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội, đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan KĐCLGD quân đội đã được điều động, củng cố, kiện toàn có số lượng đủ so với biên chế và có chất lượng khá. Nhìn chung cán bộ, nhân viên của cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của ĐCSVN, với sự nghiệp cách mạng XHCN, tin tưởng tuyệt đối và yên tâm với nhiệm vụ được giao. Có phẩm chất đạo đức tốt, giữ vững nguyên tắc, có phương pháp, tác phong công tác tốt, đều nhiệt tình, trách nhiệm trong công việc. Chất lượng đội ngũ cán bộ tương đối tốt. Nhiệt tình, trách nhiệm trong công việc. Tỷ lệ cán bộ có trình độ sau đại học khá cao chiếm 54% (trong đó có 01 PGS, TS; 7 TS); đại học chiếm 38,6%; đã qua giảng dạy 67%; qua cương vị lãnh đạo, chỉ huy, quản lý giáo dục chiếm 83,5%; đa số đã có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Số được tập huấn chuyên môn về KĐCLGD có 16,98%, đa số đã có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Đánh giá về năng lực tham mưu cho các hoạt động tự đánh giá chất lượng trường của cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT cho thấy có 83% ý kiến cho rằng năng lực tham mưu khá và tốt. Cơ bản đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT đều có năng lực khá, tốt với 77% ý kiến dược hỏi đều đồng tình với nhận định này. Đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT tuy được điều động từ các nơi khác về nhưng cơ bản đều có trình độ, kinh nghiệm quản lý giáo dục, 70% cho rằng kinh nghiệm của cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT quân đội là khá và tốt.

Hạn chế: Trước yêu cầu của hoạt động KĐCLGD quân đội, trước sự phát triển của thực tiễn GD – ĐT và yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay thì chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ thuộc cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT quân đội còn bộc lộ nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Về số lượng, tuy đã có biểu biên chế về tổ chức bộ máy, số lượng cán bộ, nhân viên của cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT, nhưng biểu biên chế đó chưa thật sự hợp lý, cần phải tiếp tục nghiên cứu và kiện toàn cho phù hợp.

Về chất lượng đội ngũ: Vẫn còn một bộ phận cán bộ, nhân viên chưa thật yên tâm với nhiệm vụ. Chất lượng không đồng đều vì được thuyên chuyển từ nhiều bộ phận khác đến. Đặc biệt là sự non yếu về trình độ nghiệp vụ chuyên môn, do vấn đề KĐCLGD là một vấn đề mới, phức tạp, cán bộ chưa qua đào tạo hoặc được bổ túc, tập huấn. Do đó có 15% ý kiến được hỏi cho rằng năng lực tham mưu cho các hoạt động tự đánh giá chất lượng trường của cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT ở mức bình thường; 2% cho rằng không đạt yêu cầu. Về năng lực của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 22% cho rằng năng lực đáp ứng được yêu cầu; 1% cho rằng năng lực không đáp ứng được yêu cầu. Đánh giá về trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 24% cho rằng trình độ đáp ứng được yêu cầu; 3% cho rằng trình độ không đáp ứng được yêu cầu. Đánh giá về kinh nghiệm của hoạt động KĐCLGD của đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT: có 26% cho rằng kinh nghiệm đáp ứng được yêu cầu; 4% cho rằng kinh nghiệm không đáp ứng được yêu cầu. Từ đó đã có: 47% ý kiến đề xuất cần tập trung nâng cao trình độ học vấn; 65% ý kiến cho rằng cần tập trung nâng cao trình độ chuyên môn; 58% ý kiến cho rằng cần tập trung nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý giáo dục cho đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT. Các ý kiến cũng đề xuất nên mở lớp đào tạo chuyên gia đánh giá ngoài cho cán bộ quân đội với 41% ý kiến đồng ý. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

1.2.2.2. Về hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD

Công tác tham mưu, đề xuất ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các phòng (ban) KT&ĐBCLGD – ĐT trong quân đội.

Thực hiện các quyết định, thông tư, công văn hướng dẫn của BGD&ĐT, các phòng (ban) KT&ĐBCLGD – ĐT trong quân đội đã từng bước, triển khai thực hiện theo các văn bản như sau: Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý GDĐH giai đoạn 2010- 2012. Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT ngày 5/8/2008 của Bộ trưởng BGD&ĐT về tăng cường công tác đánh giá và KĐCLGD. Quyết định số 76/2007/QĐ-BGDĐT ngày 14/12/2007 của Bộ trưởng BGD&ĐT ban hành quy định về quy trình và chu kỳ KĐCLGD trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp. Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng BGD&ĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học. Quyết định số 66/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng BGD&ĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chất lượng trường cao đẳng.

Trên cơ sở Quyết định 1736/QĐ-TM của Tổng Tham mưu trưởng, Phòng KT&ĐBCLGD-ĐT thuộc Cục Nhà trường đã tham mưu để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Phòng làm cơ sở phân công công việc, phối hợp, hiệp đồng với các phòng, ban thuộc Cục. Theo đó, chức năng của Phòng là: Khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục- đào tạo. Phòng có nhiệm vụ: Khảo thí: Hướng dẫn, chỉ đạo thi, kiểm tra kết thúc học phần, môn học (Khảo thí có 3 hình thức: tuyển sinh; thi, kiểm tra kết thúc học phần, môn học; thi tốt nghiệp quốc gia). Đảm bảo chất lượng: Hướng dẫn, chỉ đạo đo lường các yếu tố tác động chất lượng giáo dục- đào tạo (chất lượng giảng dạy của giáo viên; chất lượng học tập của học viên, sinh viên trong quá trình học, tốt nghiệp, sau khi tốt nghiệp…) để đề xuất các biện pháp cải tiến chất lượng và KĐCLGD. Bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD-ĐT. Phối hợp với các cơ quan liên quan và các nhà trường chỉ đạo hướng dẫn  xây dựng hệ thống cơ quan KT&ĐBCLGD – ĐT tại các trường. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Trên cơ sở Quyết định 1737/QĐ-TM của Tổng Tham mưu trưởng, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đã phân định chức năng, nhiệm vụ của Ban KT&ĐBCLGD – ĐT để làm cơ sở phân công công việc, phối hợp, hiệp đồng với các đơn vị thuộc trường. Ban KT&ĐBCLGD – ĐT có chức năng chủ yếu là: Kiểm tra chấp hành quy chế, chế độ, nền nếp tổ chức huấn luyện, đào tạo;  khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục- đào tạo. Thực hiện chức năng đó, các ban có các nhiệm vụ cụ thể: Kiểm tra huấn luyện; Khảo thí: Chủ trì tham mưu đề xuất với Ban Giám hiệu xây dựng quy định, hướng dẫn thi, kiểm tra kết thúc học phần, môn học như: Ra đề; lưu giữ, bảo quản đề; chọn đề; in sao đề; bàn giao đề; tổ chức kiểm tra chấp hành quy chế coi thi, chấm thi; vào điểm; lưu giữ điểm và chuyển kết quả điểm thi cho học viên, sinh viên và các đơn vị có liên quan. Đảm bảo chất lượng: Một số trường chủ trì xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng giảng viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi; lấy ý kiến phản hồi của học viên, sinh viên về chất lượng giảng dạy của giảng viên; khảo sát chất lượng học viên, sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường để đề xuất các biện pháp cải tiến chất lượng đào tạo. Kiểm định chất lượng: Trên cơ sở hướng dẫn của Cục Nhà trường về công tác tự đánh giá, các trường đã ra quyết định thành lập hội đồng tự đánh giá; xây dựng kế hoạch; phân công các nhóm chuyên trách; tiến hành thu thập minh chứng; tiến hành viết các tiêu chí, tiêu chuẩn và từng bước hoàn thiện báo cáo tự đánh giá.

Như vậy chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, các cơ quan KT&ĐBCLGD-ĐT ở các cấp đã kịp thòi kiện toàn tổ chức, biên chế, tiến hành rà soát các văn bản pháp quy, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, ra các hướng dẫn phục vụ cho các hoạt động nói chung cho KĐCLGD nói riêng, đây là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động KĐCLGD đạt được kết quả như mong muốn.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm được, công tác tham mưu, đề xuất ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các phòng (ban) KT&ĐBCLGD – ĐT trong quân đội còn bộc lộ nhiều hạn chế như: tính chủ động trong việc nghiên cứu, ban hành các văn bản chưa cao, kết quả khảo sát cho thấy còn có 25% ý kiến cho rằng năng lực tham mưu, đề xuất và xây dựng các văn bản pháp quy cho hoạt động KĐCLGD hiện nay còn hạn chế. Hiện nay còn thiếu khá nhiều các văn bản pháp quy tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động KĐCLGD như: việc xây dựng, ban hành các tiêu chí để đánh giá, đo lường CLGD trong quân đội nói chung, cho các nhà trường nói riêng chưa thực hiện được…

Các hoạt động KĐCLGD:

Về công tác khảo thí: do chưa có văn bản hướng dẫn của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (thực tế Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục tập trung thi tuyển sinh đại học; thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế); các trường tập trung vào hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động xây dựng ngân hàng câu hỏi thi, đề thi; lưu giữ đề; chọn đề; in sao đề; kiểm tra coi thi; chấm thi; vào điểm; lưu giữ và công bố điểm thi. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Về công tác đảm bảo chất lượng: hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn các trường về đo lường và đánh giá chất lượng giáo dục. Nhiều trường đã chủ động tiến hành các hoạt động: Lấy ý kiến phản hồi của người học; xây dựng tiêu chí đánh giá giảng viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi; điều tra bằng phiếu đối với học viên tót nghiệp; khảo sát các đơn vị đánh giá chất lượng học viên sau khi tốt nghiệp…

Về công tác KĐCLGD: Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, các trường đã ra quyết định thành lập hội đồng tự đánh giá; xây dựng kế hoạch tự đánh giá; thành lập tổ thư ký; các nhóm chuyên trách; thu thập minh chứng; viết phiếu đánh giá tiêu chí và từng bước hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Cho đến nay, đã có 07/12 trường (chiếm tỷ lệ 58,3%) hoàn thành báo cáo tự đánh giá: So với mục tiêu của BGD&ĐT đề ra là 100% các trường hoàn thành báo cáo tự đánh giá vào năm 2011 thì các TSQ chưa đạt yêu cầu. Những bất cập trong công tác tự đánh giá của các trường là: Nhận thức của các trường về vai trò, vị trí của công tác KT&ĐBCLGD-ĐT chưa tốt, do đó chưa có sư chỉ đạo quyết liệt trong công tác KĐCLGD. Đội ngũ cán bộ KT&ĐBCLGD – ĐT hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm công tác KT&ĐBCLGD – ĐT. Đây là lĩnh vực có nhiều kiến thức mới, đòi hỏi có kinh nghiệm quản lý giáo dục, giảng dạy. Bố trí kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu.

Về tập huấn cán bộ ngành KT&ĐBCLGD – ĐT. Các trường đã chủ động, tích cực phối hợp với Cục Nhà trường/ Bộ Tổng Tham mưu trong việc cử cán bộ đi tập huấn và tổ chức các lớp tập huấn ở trường mình. Cho đến nay đã tổ chức được 03 lớp tập huấn và 03 lớp đào tạo chuyên gia đánh giá ngoài ở cấp toàn quân với gẩn 700 cán bộ kiểm định viên. Cùng với đó, các trường đã tổ chức nhiều đợt tập huấn trong các năm học cho đội ngũ giảng viên, các tổ chuyên gia trong thực hiện nhiệm vụ tự đánh giá…

Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động KĐCLGD của các TSQ quân đội tuy còn mới mẻ nhưng đã dần đi vào nề nếp, khẳng định được tính tất yếu cần phải có hoạt động KĐCLGD, qua đó đã tạo ra được sự thống nhất về nhận thức của các lực lượng. Đồng thời một số nhà trường đã triển khai khá tích cực hoạt động KĐCL trường; đội ngũ cán bộ KĐCLGD đã từng bước được bổ sung, bồi dưỡng cả về phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác. Đây là cơ sở để có thể tiếp tục nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD ở các nhà trường quân đội nói chung và TSQ nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ còn bộc lộ nhiều hạn chế trên các mặt cả trong nhận thức và trong tổ chức thực hiện các tác động quản lý hoạt động KĐCLGD.

1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Nguyên nhân của những ưu điểm

Thứ nhất, về mặt khách quan, sự phát triển của khoa học giáo dục, khoa học quản lý giáo dục đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD. Mặt khác, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách quy định tương đối rõ ràng, thống nhất về vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động GD – ĐT. Các cơ quan hữu quan của BGD&ĐT đã tích cực, chủ động giúp đỡ quân đội trong thực hiện nhiệm vụ triển khai hoạt động KĐCLGD trong quân đội.

Thứ hai, về mặt chủ quan: Có sự lãnh đạo đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời, sâu sắc của Quân uỷ Trung ương, Thủ trưởng BQP, các cơ quan chức năng của BQP… và nhất là của lãnh đạo, chỉ huy các TSQ quân đội; sự nỗ lực của tất cả các lực lượng quản lý ở các nhà trường. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự thành công trong quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua Đảng uỷ, Ban giám hiệu các nhà trường quân đội đã nhận thức đúng tầm quan trọng của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ. Trong nghị quyết lãnh đạo hàng năm, học kỳ, các nhà trường đều có nội dung lãnh đạo cụ thể, sát đúng về vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD; lãnh đạo, chỉ huy các trường đã từng bước bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về KĐCLGD…, kịp thời định hướng, giải quyết những vướng mắc, khó khăn, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ KĐCLGD và cơ quan chuyên môn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch KĐCLGD  đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, các khoa giáo viên và các đơn vị trong chỉ đạo, phân công lực lượng cụ thể thực hiện hoạt động KĐCLGD.

Bên cạnh đó, sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ đội ngũ cán bộ KĐCLGD và cơ quan chuyên môn là sức mạnh nội lực bên trong trực tiếp góp phần thực hiện tốt vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội hiện nay. Đội ngũ cán bộ KĐCLGD  ở các nhà trường nhìn chung đ­ược tuyển chọn, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực, có nhiệt tình, trách nhiệm cao, tích cực học tập, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm…

Nguyên nhân của hạn chế Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Trước hết, về mặt khách quan: Trước những tác động phức tạp của tình hình kinh tế – xã hội trong nước, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường như sự phân hóa giàu nghèo, sự gia tăng các tệ nạn xã hội, nạn tham nhũng, buôn lậu…, đã tác động ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng của mỗi cán bộ KĐCLGD trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.

Mặt khác, đổi mới công tác GD – ĐT của đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi trình độ năng lực của các nhà trường, của đội ngũ cán bộ KĐCLGD ngày càng phải được nâng lên mới đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. KĐCLGD đang còn là vấn đề mới, phức tạp đối với quân đội, do đó quá trình tổ chức thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Đội ngũ cán bộ KĐCLGD của các nhà trường được đào tạo ở nhiều cương vị khác nhau, phần lớn có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động GD – ĐT, song trình độ, năng lực về KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD còn hạn chế nhất định. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính bảo đảm phục vụ cho KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD còn hạn chế, thiếu và chưa đồng bộ.

Thứ hai, về mặt chủ quan:

Nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội còn chưa thật sâu sắc, cá biệt còn có bộ phận nhận thức chưa đúng, mục đích, ý nghĩa, vai trò của hoạt động KĐCLGD hiện nay.

Năng lực tham mưu, định hướng, chỉ đạo, giúp đỡ của cơ quan cấp trên về KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD còn nhiều hạn chế.

Năng lực cụ thể hoá, quán triệt, tổ chức thực hiện các hướng dẫn của trên và chủ động xây dựng kế hoạch trong thực hiện các vấn đề về KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD của cơ quan chuyên môn ở các nhà trường còn hạn chế. Sự gắn kết trong chỉ đạo, điều hành KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD có lúc chưa được nhịp nhàng, ăn khớp. Công tác chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc có lúc còn chưa chặt chẽ, kịp thời. Việc tổ chức rút kinh nghiệm mang tính chuyên đề về KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD còn ít. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

Bên cạnh đó một số cán bộ KĐCLGD trình độ lý luận, khả năng còn hạn chế, chưa thật sự tích cực chủ động trong tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao tình độ chuyên môn của mình.

Từ việc phân tích thực trạng của quản lý hoạt động KĐCLGD ở các trường sĩ quan trong thời gian qua cho thấy, vấn đề này còn đang khá mới đối với các nhà trường quân đội, trong tổ chức thực hiện mặc dù đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, song vẫn còn bộc lộ các hạn chế, cần phải được khắc phục, để bảo đảm cho hoạt động KĐCLGD đi vào nề nếp, có chất lượng, hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các nhà trường quân đội nói chung, các trường sĩ quan nói riêng.

Sự phát triển của giáo dục học hiện đại đặt ra yêu cầu thiết yếu của vấn đề KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD. Hoạt động KĐCLGD của Việt Nam tuy mới hình thành, phát triển ở giai đoạn đầu tiên nhưng đã phát huy được vai trò tích cực cho việc đảm bảo và nâng cao CLGD. Tuy nhiên trước yêu cầu mới của phát triển giáo dục và của bản thân lý luận – thực tiễn về quản lý hoạt động KĐCLGD, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả KĐCLGD của đất nước, của quân đội cần được tiếp tục đầu tư, nghiên cứu xác đáng hơn. Quá trình này cần bám sát các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước đã được xác nhận trong Văn kiện Nghị quyết đại hội XI, ĐCSVN, trong Luật Giáo dục năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Luật Giáo dục Đại học năm 2012, có hiệu lực năm 2013  và các văn bản pháp lý khác.

Quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội là một quá trình có mục đích, được tổ chức chặt chẽ, là tổng hợp các tác động có kế hoạch của các chủ thể nhằm quản lý chặt chẽ, khoa học, có hiệu quả, đúng pháp lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội, qua đó góp phần tích cực cho việc đảm bảo và nâng cao CLGD của các TSQ quân đội, góp phần thiết thực trong nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ cho quân đội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Thực tiễn hoạt động KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD của quân đội nói chung, của các TSQ quân đội nói riêng đã từng bước đi vào hoạt động và đã được những kết quả bước đầu, đóng góp cho việc giữ vững và nâng cao chất lượng đào tạo của các nhà trường. Tuy nhiên đây là vấn đề còn khá mới mẻ, phức tạp, do đó còn có những hạn chế, cần được khắc phục. đặc biệt là việc nghiên cứu tìm ra được các biện pháp khoa học, khả thi cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả quá trình quản lý hoạt động KĐCLGD ở các TSQ quân đội là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này sẽ được luận giải ở chương 2 của luận văn. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý kiểm định chất lượng giáo dục

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993