Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong 6 năm đầu đời không phải là khoảng thời gian dài so với cuộc đời của con người nhưng 6 năm đầu lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển nhân cách sau này. Giáo dục trẻ em giai đoạn này được ví như đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng nhân cách sau này cho cuộc đời của mỗi con người. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đầu tư cho trẻ em tức là đầu tư cho tương lai của nước nhà. Chính vì vậy, mục tiêu của giáo dục mầm non (GDMN) là giúp trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, ngôn ngữ, thẩm mỹ; hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1, xây dựng thế hệ mới vừa hồng vừa chuyên cho đất nước.

Muốn thực hiện được mục tiêu đó, cần phải có một chương trình giáo dục phù hợp. Đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý (CBQL) có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý. Sự thay đổi của ngành giáo dục trước hết là phải tăng cường quản lý giáo dục (QLGD) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển toàn diện ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay, đồng thời phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Để các mục tiêu giáo dục bậc học MN đạt hiệu quả Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình Giáo dục mầm non kèm Thông tư số 17/2009/TTBGDĐT ngày 25 tháng 07 năm 2009, chương trình Giáo dục mầm non bao gồm: mục tiêu, các yêu cầu về nội dung, phương pháp, các điều kiện thực hiện chương trình GDMN; chương trình giáo dục nhà trẻ; chương trình giáo dục mẫu giáo. Đây là chương trình mang tính chất khung phải được thực hiện theo trình tự, chuẩn các chi tiết bao gồm cả nội dung, phương pháp, hình thức và cách tổ chức thực hiện. Theo thông tư 17/2009/TTBGDĐT “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời” [1, tr 2]. Qua quá trình triển khai thực hiện các nội dung của chương trình để hoàn thành mục tiêu đã nhận thấy những điểm tồn tại của chương trình đối với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội trong và ngoài nước, và nhằm để nâng cao chất lượng GDĐT cũng như đi trước sự phát triển của trẻ để kéo theo sự phát triển. Do đó, ngày 30 tháng 12 năm 2016 Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Thông tư số 28/2016/TTBGDĐT về sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong chương trình GDMN kèm theo Thông tư số 17/2009/TTBGDĐT. Thực tế, chương trình mầm non (MN) sửa đổi có nhiều thay đổi tiến bộ khác biệt so với chương trình cũ về mục tiêu của từng độ tuổi ( mục tiêu chung không thay đổi) cũng như các nội dung thực hiện cho cả hai lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo. Trong đó, mục tiêu của chương trình GDMN theo TT28/2016 vẫn không sửa đổi nhưng nội dung thực hiện đã có nhiều chỉnh sửa để phù hợp với xu thế phát triển phù hợp với xã hội hiện đại “Chương trình là những nội dung cốt lõi, cơ bản, phù hợp với độ tuổi; chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương [1, tr 5]. Không còn cứng ngắc, rập khuôn có sự linh hoạt để phù hợp với đặc điểm địa lý, tình hình kinh tế xã hội của địa phương, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện chương trình GDMN đạt được mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, trong quá triển khai thực hiện vẫn còn nhiều bất cập chưa đồng bộ thống nhất từ các cấp nên công tác quản lý giáo viên (GV) thực hiện chương trình chưa đạt, bản thân GV còn lúng túng, chưa đủ sức “tải” đủ các lĩnh vực nội dung giáo dục và chưa có sự tác động dạy học tích cực cho trẻ khi thực hiện chương trình nên không đạt được mục tiêu và ý nghĩa mà chương trình đã đề ra và cần đạt được trong mỗi độ tuổi. Vì vậy, Hiệu trưởng trường mầm non gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý thực hiện chương trình. Thêm vào đó, xu thế hiện nay việc tiếp cận chương trình chăm sóc giáo dục rất quan trọng. Làm thế nào để việc thực hiện chương trình có hiệu quả, đặc biệt là việc thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ 5-6 tuổi như thế nào là điều rất cần thiết. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Tại thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương, việc thực hiện chương trình GDMN cũng như công tác quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm ở các trường mầm non trên địa bàn thị xã cũng đã được chú ý nhiều. Được sự chỉ đạo của Sở GD – ĐT, trong những năm qua các trường mầm non trên địa bàn thị xã Bến Cát đã có sự những đổi mới nhất định về quản lý công tác thực hiện chương trình GDMN với nhiều biện pháp xây dựng và duy trì nền nếp, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh (HS). Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện HS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập và tồn tại. Một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của CBQL đối với công tác quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm. Mặt khác, các biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với công tác thực hiện chương trình chưa thật hợp lý trong bối cảnh xã hội nước nhà.

Vấn đề thực hiện chương trình GDMN cũng như công tác quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm ở các trường MN trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Chính vì vậy, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương”.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý thực hiện chương trình giáo dục cho trẻ MN, khảo sát thực trạng quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm tại thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương. Từ đó, đề xuất một số biện pháp quản lý đối với ban giám hiệu trường MN đối với công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ ở các trường MN của địa phương.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1 Khách thể nghiên cứu

Công tác quản lý thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.

3.2. Đối tượng nghiên cứu Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Biện pháp quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ trẻ mẫu giáo tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Giả thuyết khoa học

Việc quản lý thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm ở các trường mầm non trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương trong những năm qua đã đạt được những thành tích trên những nội dung công tác như: lập kế hoạch; tổ chức thực hiện đồng thời còn hạn chế ở những nội dung công tác như: chỉ đạo thực hiện; kiểm tra, đánh giá công tác quản lý hoạt động đổi mới phương pháp giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên về tầm quan trọng của thực hiện chương trình GDMN ở trường MN, công tác phối hợp với các bậc cha mẹ học sinh nhằm huy động nguồn lực xã hội hóa chưa được coi trọng…

Nguyên nhân của thực trạng này có thể từ nhiều phía, trong đó công tác quản lý việc thực hiện chương trình còn dàn trải, chưa nắm bắt được những đổi mới về nội dung cũng như chưa đưa ra những hình thức mới vào hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ chưa được quan tâm đúng mức, chưa huy động đông đảo GV thực hiện đổi mới PPGD, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kế hoạch theo dạng mở, cũng như chỉ đạo kiểm tra còn mang nặng tính hình thức chưa đi sâu vào thực tiễn, tình hình đặc điểm của địa phương.

Nếu khảo sát, đánh giá đúng thực trạng và xác định được nguyên nhân của thực trạng quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm trong các nhà trường thì có thể đề xuất được các biện pháp quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm đảm bảo tính cần thiết và khả thi cao.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.

Khảo sát thực trạng thực hiện chương trình GDMN và công tác quản lý việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo tại các trường MN công lập tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương;

Đề xuất một số biện pháp quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại các trường MN công lập tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện HS.

6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

 Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ 5 – 6 tuổi tại các trường MN công lập trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương dưới sự lãnh đạo, điều hành của hiệu trưởng nhà trường.

  • Về thời gian: Đề tài khảo sát thực trạng trong thời gian từ năm học 2015 – 2016 đến nay.
  • Về địa bàn: Đề tài khảo sát thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ 5 – 6 tuổi tại các trường MN công lập trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp luận

7.1.1. Quan điểm lịch sử – logic

Tiếp cận theo quan điểm lịch sử – logic cho phép người nghiên cứu nhìn nhận khách quan và toàn diện các hiện tượng giáo dục, thấy được mối quan hệ của hệ thống với các hiện tượng khác trong hệ thống lớn, từ đó xác định được các con đường tổng hợp tối ưu để nâng cao chất lượng giáo dục. Quan điểm này giúp người nghiên cứu tiếp cận các sự kiện lịch sử để minh họa chứng minh làm sáng tỏ các luận điểm khoa học, các nguyên lý khoa học hay kết quả các công trình nghiên cứu. Dựa trên quan điểm này giúp người nghiên cứu thiết kế mô hình các biện pháp quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ 5 – 6 tuổi thiết thực, hiệu quả.

7.1.2. Quan điểm cấu trúc – hệ thống

Khi nghiên cứu các hiện tượng giáo dục phải xem xét một các toàn diện, nhiều mặt, nhiều mối liên hệ trong trạng thái vận động và phát triển với việc phân tích những điều kiện nhất định để tìm ra bản chất và quy luật vận động của đối tượng. Tiếp cận quan điểm này giúp người nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận về quản lý công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm và việc thiết kế bảng hỏi cũng như bình luận thực trạng cũng được tiến hành trên cấu trúc đã được thiết lập.

7.1.3. Quan điểm thực tiễn Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN và quản lý công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho mẫu giáo gắn với thực tiễn ở trường MN. Việc nghiên cứu theo hướng tiếp cận thực tiễn giúp cho người nghiên cứu xem xét mọi vấn đề, mọi họat động xuất phát từ người học, người dạy, CBQL giáo dục những người có liên quan trực tiếp đến quá trình giáo dục HS.

7.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Mục đích: Thu thập tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề lý luận của đề tài cần nghiên cứu.

Nội dung và cách tiến hành: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai và nghiên cứu thực tiễn.

7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.2.1. Phương pháp quan sát

Mục đích: Nhằm kết hợp với các phương pháp khác để thu thập thêm thông tin từ phía GV, trẻ mẫu giáo trong quá trình thực hiện chương trình GDMN trong các trường MN tại thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.

Nội dung và cách tiến hành: Tham gia dự giờ một số hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ của GV để quan sát, ghi chép cách tổ chức thực hiện chương trình GD cho trẻ mẫu giáo như: đón trẻ, thể dục sáng – điểm danh, hoạt động ngoài trời, hoạt động chung, hoạt động vui chơi, giờ ăn. Qua đó, làm cơ sở để xây dựng phiếu hỏi, đánh giá một cách khách quan, đầy đủ mức độ thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm qua đó xây dựng bảng khảo sát, đánh giá mức độ thực hiện.

7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Mục đích: Nhằm kết hợp với phương pháp chính để thu thập thêm thông tin từ phía CBQL, GV mầm non về những vấn đề liên quan đến đề tài. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Nội dung và cách tiến hành: Trao đổi, trò chuyện CBQL là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng quản lý chuyên môn, GV mầm non để thu thập những thông tin cần thiết xoay quanh vấn đề nghiên cứu.

7.2.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích: Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài. Phương pháp được sử dụng nhằm mục đích khảo sát thực trạng thực hiện chương trình GDMN và thực trạng quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo tại các trường MN công lập trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Nội dung và cách tiến hành: Xây dựng hệ thống câu hỏi dưới dạng phiếu thăm dò ý kiến gồm:

  • Bảng hỏi 1: Dành cho hiệu trưởng, phó hiệu trưởng quản lý chuyên môn về quản lý thực hiện chương trình GDMN và những biện pháp quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo.
  • Bảng hỏi 2: Dành cho GV mầm non thực hiện chương trình giáo dục MN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mẫu giáo.

7.2.2.4. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động

Mục đích: Nhằm kết hợp với các phương pháp khác để thu thập thêm thông tin về những vấn đề liên quan đến đề tài thông qua các sản phẩm hoạt động mà người cán bộ quản lý, giáo viên tạo ra (sổ sách, bài soạn, sản phẩm lao động…).

Nội dung và cách tiến hành: Thông qua các sản phẩm hoạt động (sổ sách, bài soạn, sản phẩm lao động…) mà người CBQL, GV tạo ra, người nghiên cứu có thể nhận ra được tư tưởng, tình cảm, ý chí cũng như năng lực của họ.

7.2.3. Phương pháp thống kê toán học

Mục đích: Nhằm xử lý số liệu điều tra, từ đó làm cơ sở đưa ra những nhận định khách quan về thực trạng công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN và thực trạng các biện pháp quản lý công tác tổ chức thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ 5 – 6 tuổi.

Nội dung và cách tiến hành: Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý và phân tích các số liệu từ các bảng hỏi thu thập được.

8. Cấu trúc luận văn Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị. Phụ lục tài liệu tham khảo, bảng phân tích số liệu thống kê luận văn gồm 3 chương sau:

  • Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.
  • Chương II: Thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
  • Chương III: Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm trong các trường mầm non công lập tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Bương.

Chương 1 CƠ SỞ  LÝ  LUẬN VỀ QUẢN  Ý THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON CHO TRẺ MẪU GIÁO THEO QUAN ĐIỂM LẤY TRẺ  LÀM TRUNG TÂM

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới

GDMN là giai đoạn bản lề cần thiết cho trẻ bước vào cuộc sống tương lai. Vấn đề về quản lý việc thực hiện chương trình giáo dục đã được nhà nghiên cứu giáo dục Nga M.I.Kondakop khẳng định rằng kết quả toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý các hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên [29].

Giai đoạn chuyển tiếp từ MN lên tiểu học (5-6 tuổi) đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời đứa trẻ. Đây là khoảng thời gian trẻ phải đối mặt với nhiều thay đổi và thách thức, đặc biệt những trẻ có hoàn cảnh khó khăn [2], [7].

Giai đoạn chuyển tiếp này được cho là điểm khởi đầu cho việc học tập có chủ đích. Sự khởi đầu thành công ở trường học có mối liên hệ chặt chẽ với kết quả học tập và nhận thức xã hội trong tương lai của trẻ. Những trải nghiệm của trẻ trong giai đoạn này sẽ có tác động lâu dài đến khả năng thích nghi đối với sự thay đổi của trẻ. Việc hiểu cặn kẽ về giai đoạn chuyển tiếp giúp nhà trường và gia đình có thể hỗ trợ trẻ vượt qua giai đoạn này một cách nhẹ nhàng và hiệu quả [25], [26].

GDMN là mục tiêu quan trọng của giáo dục và được các nhà nghiên cứu không ngừng quan tâm phát triển tìm các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Trong hệ thống giáo dục của một số nước phát triển phương Tây, nhiều trường MN đã tiến hành tự túc xây dựng chương trình giáo dục phù hợp và tiên tiến, GV được phép chọn nội dung, cách thức và sự đánh giá phù hợp với trẻ của mình. Trong đó có quan điểm của Spodek (1990), nhà giáo dục người Mỹ cho rằng chương trình học cho MN là không thể khiên cưỡng, người lớn chúng ta không thể quyết định dạy trẻ cái gì mà phải căn cứ hài hòa vào các yếu tố sẵn có để tạo nên chương trình phù hợp. Nội dung chương trình, các quá trình học, các chiến lược giảng dạy, môi trường và các chiến lược đánh giá là những vấn đề qua lại và tạo nên chương trình GDMN (Brekdekamp, 1992) [ 32 ]

New Zealand là một trong những nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Mục tiêu lớn của GDMN là giúp trẻ tự tin vào bản thân khỏe mạnh về thể chất và tâm hồn, có khả năng giao tiếp và tôn trọng tri thức. Trẻ MN ở New Zealand có những kỹ năng học như được tự tìm điều mình quan tâm; biết chuyên tâm vào công việc của mình; biết đối mặt với khó khăn và tìm cách giải quyết ở mức độ nhất định; trẻ cần học cách thể hiện ý tưởng và chịu trách nhiệm với ý tưởng và chịu trách nhiệm với ý tưởng của mình. [33]

Châu Á, thế kỉ 21 trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, là điều kiện để các quốc gia tiến hành cải thiện chất lượng GDMN bằng cách cải tiến các phương thức đào tạo GV mầm non và giới thiệu những hình thức nuôi dạy trẻ tốt nhất đã được quốc tế thừa nhận mà vẫn phù hợp với văn hóa từng nước.

Một số nước như Singapore, Malaysia, Thái Lan đã áp dụng những phương pháp giáo dục của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc và họ đưa các chương trình vào nhà trẻ và trường mẫu giáo.

Lời mở đầu trong kế hoạch quốc gia về “Đổi mới hệ thống GDMN” từ năm 1997 của Hàn Quốc cũng đã ghi nhận rằng môi trường giáo chuyển tiếp lên tiểu học đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng nền tảng phát triển tổng thể của con người. Với ý nghĩa ấy, GDMN có thể được coi là lĩnh vực cần đầu tư tốt nhất và hàng tháng các nhà trẻ tại đây đều được thanh tra về mọi mặt từ giảng dạy, thiết bị, bếp ăn, vệ sinh… một cách nghiêm ngặt.

Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu ở nước ngoài nào tập trung và sâu về công tác tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ từ 5 đến 6 tuổi một cách bài bản. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài này được xem như một nghiên cứu khả thi có nhiều nét mới.

1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. [20, tr.5]

Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. [20, tr.7]

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nhân cách con người. Giáo dục mầm non đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là tiền đề quan trọng để nhà trường mầm non phát huy tầm ảnh hưởng của mình đến với cộng đồng. Chất lượng chăm sóc giáo dục của nhà trường có đảm bảo, trẻ em có khỏe mạnh và phát triển tốt thì vai trò của nhà trường mới được phụ huynh và cộng đồng thừa nhận. Vì vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ phải là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các cơ sở giáo dục mầm non. Nói đến nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tức là nói đến nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục trẻ. Chương trình GDMN bao gồm việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi, giáo dục về thể chất, tình cảm nhận thức, ngôn ngữ trên cơ sở thông qua các hoạt động để phát triển toàn diện nhân cách học sinh.

Hiện nay GDMN ngày càng được nhận sự quan tâm của xã hội, của ban lãnh đạo các cấp từ trung ương đến địa phương. Nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu, nhiều bài viết liên quan đến việc phát triển GDMN đã ra đời không nằm ngoài tâm huyết phát triển giáo dục mầm non nước nhà. Có thể kể đến như: Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

  • Tài liệu tập huấn nâng cao năng lực quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non thí điểm (2009), Bộ Giáo dục và Đào tạo – Học viện quản lý giáo dục, Hà Nội.
  • “Một số giải pháp quản lý công tác bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên mầm non Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh” 2013, luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Duyên Hồng, Đại học Vinh.

Tuy nhiên, các tài liệu trên chưa đi sâu vào nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non tại các trường mầm non, có tài liệu chỉ dừng ở mức độ bồi dưỡng kiến thức về quản lý thực hiện chương trình.

Bước vào thế kỷ 21, trước những yêu cầu mới của đất nước và của giáo dục mầm non, chương trình chăm sóc – giáo dục mẫu giáo ở Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế bất cập về mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc – giáo dục trẻ. Điều đó đòi hỏi chương trình cần có những cải tiến, đổi mới. Tại phiên họp Chính phủ tháng 11 năm 2005, Chính phủ đã quyết định về Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015, trong đó có nội dung đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục mầm non. [tr.14, 30] Đây là tiền đề cho việc triển khai thực hiện thí điểm chương trình Giáo dục mầm non mới trong ngành giáo dục mầm non từ năm 2006.

Ngày 25 tháng 7 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục mầm non, kèm theo ký Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT. [tr.1, 5]

Hơn nữa, tỉnh Bình Dương đã từng bước triển khai thực hiện chương trình Giáo dục mầm non mới với số lượng trường lớp tăng dần lên theo từng năm học. Đầu tiên, chương trình Giáo dục mầm non mới được thực hiện thí điểm tại một số trường trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường trọng điểm của từng huyện, thị. Đến năm học 2007 – 2008 mở rộng thêm đối tượng là các trường đạt danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc, năm học 2008 – 2009 mở rộng thêm các trường đạt danh hiệu Tập thể Lao động tiên tiến và từ năm học 2009 – 2010 được thực hiện đại trà trong toàn tỉnh. Hiện nay thì chương trình giáo dục đã chính thức thực hiện trên toàn quốc. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và nhận thấy tầm quan trọng của bậc học Mầm non cùng những nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học trong và ngoài nước ngày 30 tháng 12 năm 2016 Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Thông tư số 28/2016/TTBGDĐT về sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong chương trình GDMN kèm theo Thông tư số 17/2009/TTBGDĐT Sửa đổi bổ sung một số điều của chương trình GDMN: Sửa đổi bổ sung nhu cầu khuyến nghị năng lượng cho trẻ/ ngày cập nhật theo quy định của bộ y tế; Sửa đổi bổ sung một số từ ngữ diễn đạt tránh nhầm lẫn giữa nội dung và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo dục phát triển thẩm mỹ; Sửa đổi bổ sung đánh giá sự phát triển của trẻ, làm rõ mục đích, nội dung, phương pháp, lưu hồ sơ về sự đánh giá sự phát triển của trẻ; Hướng dẫn thực hiện chương trình để làm rõ tính chất của chương trình khung quốc gia, các CSGDMN phát triển chương trình giáo dục phù hợp với văn hóa, điều kiện của địa phương, của nhà trường và khả năng của trẻ.

Vì vậy trong giai đoạn hiện nay, công tác quản lý việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non thật sự là vấn đề bức xúc rất cần được nghiên cứu, thảo luận để việc thực hiện chương trình đi vào chiều sâu. Do đó, các nhà nghiên cứu giáo dục cần phải nghiên cứu việc quản lý thực hiện chương trình Giáo dục mầm non đặc biệt là chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm nhằm tìm ra các biện pháp chỉ đạo có hiệu quả nhất để góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chương trình, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non, góp phần phát triển giáo dục mầm non nước nhà.

1.2 Một số khái niệm cơ bản về quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

1.2.1. Quản lý

1.2.1.1. Quan điểm về quản lý

Quản lý là một hoạt động đặc biệt của đời sống xã hội loài người, nó xuất phát từ những nhu cầu khách quan của cuộc sống con người, nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của một xã hội. Theo Frederich, W.Taylor tác giả của học thuyết quản lý theo khoa học thì: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.

Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì: “Quản lý hành chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.

Theo tập thể tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc định nghĩa kinh điển và đơn giản nhất: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [2, tr 17]

Theo cách hiểu trên, quản lý tồn tại với tư cách như là một hệ thống bao gồm những thành tố cấu trúc cơ bản sau:

Chủ thể quản lý: trọng tâm thực hiện những tác động hướng đích, có chủ định đến các đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý có thể tồn tại với tư cách là cá thể nhưng cũng có thể là một tập thể.

Đối tượng quản lý: những đối tượng tiếp nhận tác động hướng đích của chủ thể quản lý và được biến đổi dưới những tác động này. Đối tượng quản lý rất đa dạng, từ giới vô sinh đến vật nuôi, cây trồng và con người cùng các tổ chức cũng như hành vi của nó.

Mục tiêu quản lý: trạng thái đầu ra cần và có thể có của tổ chức. Mục tiêu chỉ đạt trong tương lai mà mọi hoạt động của tổ chức sẽ hướng đến để đạt được. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Cơ chế quản lý: Phương thức vận động hợp quy luật của hệ thống quản lý. Cơ chế quản lý bao gồm tập hợp những quy định có tác dụng điều khiển, điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.

Sơ đồ 1.1. Mô tả hệ thống cấu trúc hệ thống quản lý

Như vậy, quản lý một tổ chức là sự tác động có ý thức, có chủ đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (những người bị quản lý) nhằm huy động và điều phối mọi nguồn lực cho các hoạt động của tổ chức để đạt tới mục tiêu quản lý trong một môi trường luôn luôn thay đổi.

1.2.1.2. Chức năng của quản lý

Chức năng của quản lý là hình thức thể hiện sự tác động có chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Đó là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý, gồm:

  • Chức năng kế hoạch hóa

Kế hoạch hóa là quá trình thiết lập các mục tiêu của hệ thống, các hoạt động và các điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó [16]

Kế hoạch hóa là nền tảng của quản lí, bao gồm các hoạt động cụ thể sau:

  • Xác định chức năng, nhiệm vụ và các công việc của đơn vị;
  • Dự báo, đánh giá triển vọng;
  • Lập kế hoạch mục tiêu, chương trình;
  • Lập kế hoạch chương trình;
  • Nghiên cứu xác định tiến độ;
  • Xác định ngân sách;
  • Xây dựng các nguyên tắc tiêu chuẩn;
  • Xây dựng các thể thức thực hiện.

Chức năng tổ chức

Tổ chức là một thuật ngữ có tính đa nghĩa, được sử dụng rất linh hoạt.

  • Thứ nhất, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục đích chung.
  • Thứ hai, tổ chức là quá trình triển khai các kế hoạch, bao gồm xây dựng những hình thức cơ cấu tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đối với kế hoạch.
  • Thứ ba, tổ chức là một chức năng của quá trình quản lý. Đó là các hoạt động được tiến hành sau khi kế hoạch đã được xây dựng nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra.

Chức năng tổ chức là hoạt động quản lý nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận sao cho các cá nhân và bộ phận đó có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu chiến lược của tổ chức [16]

Vai trò của chức năng tổ chức: Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

  • Chức năng tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt, tổ chức là nhân tố sinh thành ra hệ toàn vẹn, gọi là hiệu ứng tổ chức như Lênin nói: “Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần”.
  • Thành tựu của khâu tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý. Nhờ tổ chức có hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Nhờ có tổ chức mà kỷ cương, nề nếp, tác phong làm việc khoa học, sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức được đảm bảo; năng lực, sở trường của mỗi người và mỗi bộ phận được phát huy.

Chức năng chỉ đạo

Chức năng chỉ đạo là quá trình chủ thể sử dụng quyền lực quản lý của mình để tác động lên hành vi của các phần tử trong tổ chức một cách có chủ đích để tổ chức đi đến mục tiêu. Ở chức năng này, chủ thể điều khiển phải thực hiện nhiệm vụ chính là ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó. Các học giả còn gọi chức năng này là chức năng lãnh đạo, chỉ đạo. [16]

Theo nghĩa này, chức năng lãnh đạo, chỉ đạo được hiểu như sau:

  • Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức, bao gồm các hoạt động chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phối hợp ra lệnh và đi trước của người quản lý đối với các cá nhân, bộ phận thừa hành trong tổ chức.
  • Chỉ đạo là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức; theo sát hoạt động của bộ máy, hướng dẫn, điều chỉnh công việc nhịp nhàng, động viên, khuyến khích, khen thưởng người lao động nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
  • Chỉ đạo, lãnh đạo là quá trình tác động đến các thành viên của tổ chức, làm cho họ nhiệt tình, tự giác nỗ lực phấn đấu đạt các mục tiêu của tổ chức, bao gồm: Kích thích động viên; Thông tin hai chiều; Bảo đảm sự hợp tác trong thực tế.

Chức năng kiểm tra

Kiểm tra là việc giúp nhà quản lý phát hiện các sai sót, các ách tắc của tổ chức trong quá trình hoạt động để có giải pháp xử lý, điều chỉnh, tận dụng các nguồn lực để sớm đưa tổ chức đạt đến mục tiêu. Chức năng kiểm tra là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý.

Vai trò của chức năng kiểm tra:

  • Kiểm tra có vai trò quan trọng trong quá trình quản lý, là nhu cầu cơ bản để hoàn thành các quyết định quản lý.
  • Kiểm tra giúp hoàn thiện các quyết định quản lý về nhiều mặt, khẳng định sự đúng sai của đường lối, chính sách, mục tiêu, cơ cấu, cơ chế của tổ chức.
  • Chủ động ngăn chặn các nhầm lẫn, sai phạm có thể xảy ra trong quá trình quản lý để đảm bảo cho các kế hoạch được thực hiện với hiệu quả cao.
  • Là nhu cầu khách quan của mọi thành viên để tránh sự đổ lỗi về trách nhiệm, đồng thời đảm bảo thực thi quyền lực quản lý của người lãnh đạo. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
  • Giúp tổ chức theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi trường (quan hệ cạnh tranh, hợp tác…), xác định chỗ đứng của tổ chức hiện tại, tạo tiền đề cho quá trình hoàn thiện, đổi mới, tìm ra chỗ đứng mới để hướng tới. Có thể nói rằng “không có kiểm tra là không có quản lý”.

Các chức năng quản lý có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi thực hiện chức năng này thường liên quan đến các chức năng khác ở mức độ khác nhau. Có thể mô tả mối quan hệ giữa các chức năng của quản lý theo sơ đồ sau:

Sơ đồ:1.2. Mô tả mối quan hệ giữa các chức năng quản lý

1.2.2. Quản lý giáo dục

  • Khái niệm

Nhà nước quản lý mọi hoạt động của xã hội trong đó có giáo dục. Nhà nước quản lý giáo dục thông qua tập hợp các tác động hợp quy luật được thể chế hóa bằng pháp luật của chủ thể quản lý, nhằm tác động đến phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.

Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung nên cũng có nhiều quan niệm về quản lý giáo dục (QLGD):

Theo M.I. Mônđacốp: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của sự giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em.

Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ, đưa giáo dục tiến đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.

Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khái quát, QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Trong hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động. Con người vừa là chủ thể,vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động giáo dục và QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Bởi vậy con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.

  • Đặc điểm của QLGD bao giờ cũng có những đặc điểm chung và đặc riêng của lĩnh vực QLGD.

Đặc điểm chung của quản lý: Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể và đối tượng của quản lý; quản lý bao giờ cũng liên quan đến trao đổi thông tin và đều có mối liên hệ ngược; quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi; quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật; quản lý gắn liền với quyền lực, lợi ích và danh tiếng;

Đặc điểm riêng của lĩnh vực QLGD:

  • QLGD gắn liền với quá trình giáo dục và đào tạo con người, đặc biệt là lao động sư phạm của các nhà giáo;
  • QLGD gắn liền với quyền lực của nhà nước trong việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, thông qua việc xây dựng, ban hành và chấp hành các văn bản như luật, điều lệ, các quy trình, quy chế chuyên môn sư phạm;
  • Sản phẩm của giáo dục có tính chất đặc thù là hình thành và phát triển nhân cách cho người học, nên QLGD phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được tạo ra những “phế phẩm” trong giáo dục.

1.2.3. Quản lý nhà trường Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

  • Khái niệm nhà trường:

Nhà trường là một thiết chế riêng biệt của xã hội, thực hiện chức năng kiến tạo những kinh nghiệm xã hội cần thiết cho mọi nhóm dân cư của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên đạt được mục đích xã hội đó đặt ra cho các nhóm dân cư, được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội đó.

Quá trình sư phạm là quá trình kiến tạo các điều kiện và cơ hội để các cá nhân lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, thực hiện xã hội hóa nhân cách của mình. Nhà trường kiến tạo các kinh nghiệm xã hội thông qua quá trình sư phạm, hay nói cách khác nhà trường là thiết chế chủ yếu để thực hiện quá trình sư phạm.

Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân có ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, được cung ứng những nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện những chức năng của mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được.

  • Quản lý nhà trường:

Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy – học, tức là làm sao đưa được hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục.

Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý nhà trường là những tập hợp tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác. Nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, xã hội đóng góp, do lao động xây dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường, mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và có kế hoạch đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.

Theo Phạm Viết Vượng: Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường.

  • Quản lý nhà trường bao gồm hai tác động sau: Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường: Đó là tác động quản lý của cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, hoặc những chỉ dẫn, những quyết định của các thực thế bên ngoài nhà trường, nhưng có liên quan trực tiếp đến hoạt động của nhà trường, như cộng đồng được đại diện dưới hình thức hội đồng giáo dục, nhằm định hướng cho sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó;

Tác động của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường: Bao gồm các hoạt động quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý mối quan hệ giữa trường học và cộng đồng.

Như vậy quản lý nhà trường chính là QLGD trong một phạm vi xác định đó là nhà trường (đơn vị quản lý giáo dục). Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Vì vậy quản lý nhà trường cần vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.

Tóm lại, nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục, nên quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất của quản lý nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động trong nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam.

1.2.4. Chương trình giáo dục

Theo Bobbitt (1924), chương trình giáo dục có thể được định nghĩa theo hai hướng: Đó là một loạt các hoạt động nhằm phát hiện khả năng của mỗi người học; hoặc là một loạt các hoạt động có chủ định nhằm hoàn thiện người học.

Dựa trên định nghĩa của Bobbit, năm 1935, Hollis và Doak Campbell cho rằng chương trình giáo dục “bao gồm tất cả những hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được sự hướng dẫn của nhà trường”. [8], [11]

Đến giữa những năm 50 của thế kỉ trước, ảnh hưởng của xã hội tới nhà trường ngày càng rõ hơn, và HS không chỉ học được những gì có trong trường học, mà còn tiếp nhận nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống xã hội. Do vậy, định nghĩa về chương trình giáo dục được mở rộng hơn, không chỉ đơn thuần là những nội dung học được trong nhà trường “Chương trình giáo dục là tất cả các hoạt động học tập của người học và được kế hoạch hoá bởi trường học nhằm đạt được những mục đích của giáo dục. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Tới những năm 90 của thế kỉ XX và kéo dài đến những năm đầu của thế kỷ XXI, những quan niệm về chương trình giáo dục có những thay đổi to lớn. Ví dụ, William Doll Jr (1993) cho rằng một hệ thống giáo dục theo trình tự tuyến tính và định lượng như hiện nay sẽ nhường chỗ cho một hệ thống giáo dục đa dạng và phức tạp hơn, ít có tính ổn định hơn. Một hệ thống như vậy, như chính cuộc sống, sẽ luôn vận động và thay đổi [8].

Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa về chương trình giáo dục.

  • Từ điển bách khoa quốc tế về Giáo dục (Oxfofd) đã thống kê 9 định nghĩa khác nhau về chương trình giáo dục [31].
  • Theo K.Frey, chương trình giáo dục được định nghĩa như sau: “Chương trình giáo dục là sự trình bày, diễn tả có hệ thống việc dạy – học được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm của sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị, thực hiện và đánh giá một cách tối ưu việc dạy – học”. Đây là định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu và thực hành quan tâm [11].

Ngày nay, quan niệm về các thành tố của chương trình đã bỏ qua quan niệm truyền thống. Chương trình không chỉ là việc trình bày mục tiêu cuối cùng và bảng danh mục các nội dung giảng dạy. Cụ thể hơn và bao quát hơn chương trình, theo quan niệm hiện đại. là một phức hợp gồm các bộ phận cấu thành: Mục tiêu học tập; Phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập; Các phương pháp, hình thức tổ chức học tập; Đánh giá kết quả học tập. Như vậy, cấu trúc của chương trình bao gồm hai khía cạnh chính: sự hình dung trước những kết quả mà học sinh sẽ đạt được sau một thời gian học

Theo lập luận trên, kết luận rằng, Chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ chức học tập, cách đánh giá kết quả học tập v.v… nhằm đạt được các mục tiêu học tập đề ra. (Nguyễn Hữu Chí, Viện KHGD năm 2002).

1.3. ý luận về thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

1.3.1. Đặc điểm trường Mầm non

Trường MN là đơn vị cơ sở của bậc giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân, là đơn vị giáo dục đặc biệt với đội ngũ GV hầu hết là nữ và đối tượng giáo dục là những cháu bé từ 0 – 6 tuổi [4], [19].

Trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em nhằm giúp trẻ em hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp Một. Trường mầm non có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng.

1.3.2. Vị trí, vai trò của GDMN trong hệ thống giáo dục quốc dân

Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Giáo dục bao gồm việc dạy và học, đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.

GDMN là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. GDMN có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt. [10] Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Chương trình GDMN là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó thể hiện các mục tiêu mà người học cần đạt được đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ, nội dung, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ chức học tập và cách thức đánh giá kết quả học tập nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

GDMN không phải là dạy trẻ thơ đọc chữ, học kiến thức khoa học. Đây là loại hình giáo dục đặc biệt, là sự chuẩn bị cho trẻ thơ những tiền đề quan trọng trước khi bước vào trường phổ thông, thông qua sự chăm sóc ân cần, đúng phương pháp khoa học, phù hợp với sự phát triển tâm-sinh lý của trẻ, để nuôi dưỡng thể chất và tâm hồn cho trẻ. Các yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc tới chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ thơ bao gồm: chủ trương, chính sách vĩ mô, sự vận dụng và thực hiện của ngành học và các cấp quản lý, kiến thức khoa học và sự nỗ lực của những người công tác tại các cơ sở giáo dục mầm non. Những yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ, cùng hướng tới mục tiêu giúp cho trẻ thơ thực sự thụ hưởng những thành quả tốt nhất của chế độ xã hội. Cơ sở vật chất của giáo dục mầm non công lập tại các khu đô thị, các thành phố lớn đã được nâng cấp đáng kể; với chương trình kiên cố hóa, xây dựng trường chuẩn quốc gia, nhiều cơ sở giáo dục mầm non đang dần tiến tới hiện đại hóa, chuẩn hóa”. [10]

GDMN là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Nhiệm vụ thu hút trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ tạo thành một quá trình giáo dục thống nhất và liên tục. GDMN có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục con người vì:

  • Trẻ sẽ nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục một cách khoa học điều độ tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt nhất về mọi mặt.
  • Tạo môi trường hoạt động và vui chơi để cho trẻ có thể phát triển những nét tính cách cơ bản trong nhân phẩm của trẻ.

Lý luận về chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) nằm trong khung quy định nội dung GDMN, tuy nhiên đối với lứa tuổi 5 – 6 thì nội dung giáo dục mang tính bản lề, là giai đoạn chuyển tiếp cho trẻ vào lớp một. Ở độ tuổi này, trẻ đã hình thành và tư duy bắt đầu phát triển, mức độ tiếp nhận tri thức cũng lớn hơn so với mẫu giáo nhỏ. Vì vậy, căn cứ xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp cho trẻ mẫu giáo lớn cần dựa trên cơ sở nội dung GDMN [4], [19], [22].

1.3.3. Mục tiêu chương trình giáo dục mầm non Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

  • Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một
  • Phát triển giáo dục mầm non là nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người, phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phổ cập tiểu học và trung học cơ sở của thế kỷ XXI. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh lợi ích của việc can thiệp vào lứa tuổi mầm non là rất to lớn và lâu dài. Việc chăm sóc sức khỏe của trẻ một cách khoa học từ khi trẻ còn nhỏ sẽ giảm đáng kể nguy cơ trẻ bị suy dinh dưỡng, bảo đảm sự phát triển bền vững của thể chất. Mặt khác, trí tuệ, tích cách, hành vi xã hội của đứa trẻ được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời. [Chương 2 Điều 23,24 Luật giáo dục năm 2005] .
  • GDMN theo hướng đa dạng hóa các loại hình để đảm bảo cho số trẻ đều được hưởng sự chăm sóc giáo dục theo khao học. Đồng thời đa dạng hóa các loại hình nhằm thu hút thêm các nguồn lực đầu tư cho giáo dục mầm non. Giáo dục mầm non còn được thực hiện thông qua việc tuyên truyền phổ biến kiến thức cho các bậc cha mẹ.
  • Không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế – xã hội đối với giáo dục và đào tạo trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục mầm non có chất lượng cao sẽ là phương tiện tuyên truyền tốt nhất cho vị trí tác dụng của ngành, từ đó có thể huy động được sự đầu tư, đóng góp của xã hội cho giáo dục mầm non.

Mục tiêu giáo dục được đưa vào chương bao gồm mục tiêu giáo dục cho trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo. Mục tiêu giáo dục được xây dựng theo các lình vực phát triển (bốn lĩnh vực phát triển đối với nhà trẻ và năm lĩnh vực phát triển đối với mẫu giáo) gồm: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm –xã hội , thẩm mĩ nhằm hình thành, phát triển tối đa tiềm năng vốn có ở trẻ và hình thành những giá trị, những kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng,xã hội,chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đọan sau.

1.3.4. Nội dung và phương pháp giáo dục mầm non cho trẻ 5-6 tuổi

Nội dung GDMN phải bảo đảm tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát triển từ dễ đến khó; đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi, giữa nhà trẻ, mẫu giáo và cấp tiểu học; thống nhất giữa nội dung giáo dục với cuộc sống hiện thực, gắn với cuộc sống và kinh nghiệm của trẻ, chuẩn bị cho trẻ từng bước hào nhập vào cuộc sống

Phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo và người trên; yêu kính anh, chị, em, bạn bè, thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học [2].

Nội dung giáo dục trẻ được đổi mới theo hướng đảm bảo tính tích hợp giữa nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe với giáo dục phát triển, nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ trong trường mầm non hiện nay.

Bổ sung một số nội dung thiết thực đảm bảo giáo dục toàn diện và gắn với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ.

Nội dung giáo dục được xây dựng và cấu trúc theo các lĩnh vực: phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ; phát triển tình cảm – xã hội và phát triển thẩm mĩ. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Các lĩnh vực nội dung giáo dục sẽ được tổ chức theo hướng tích hợp chủ đề. Các chủ đề được xây dựng mở rộng dần từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa, từ bản thân trẻ đến gia đình, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội gần gũi với trẻ.

Nội dung GDMN theo hướng đổi mới cơ bản như sau:

Nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe đã chú trong, nhấn mạnh hơn so với chương trình hiện hành các yêu cầu về tổ chức thực hiện nội dung chăm sóc ăn, ngủ, vệ sinh, chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh, an toàn cho trẻ. Đặc biệt đưa ra các nhiệm vụ cần thiết nhất mà người GV, người chăm sóc trẻ cần phải thực hiện trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe phù hợp với trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo.

Nội dung giáo dục: Chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản phù hợp với độ tuổi; chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể phù hợp với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương. Nội dung giáo dục trẻ nhà trẻ từ 3 – 36 tháng và trẻ mẫu giáo 3 – 6 tuổi được cấu trúc theo các lĩnh vực: Phát triển thể chất; phát triển ngôn ngữ; phát triển nhận thức; phát triển tình cảm xã hội. Nội dung phát triển thẩm mĩ được lồng ghép trong nội dung phát triển tình cảm – xã hội đối với trẻ nhà trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo, nội dung phát triển thẩm mĩ là một lĩnh vực giáo dục riêng [4].

1.3.5. Yêu cầu về phương pháp, hình thức giáo dục cho trẻ 5 – 6 tuổi theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Phương pháp chủ yếu trong giáo dục mầm non là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng dạy trẻ phương pháp học, chú trọng trẻ “ học như thế nào” hơn là “học cái gì”; coi trọng quá trình hoạt động hơn là kết quả hoạt động; học một cách tích cực qua tìm hiểu, trải nghiệm; học thông qua giao tiếp, sự gắn bó, hợp tác giữa trẻ với người lớn và giữa trẻ với trẻ; Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc giáo dục trẻ; chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng độ tuổi; Vận dụng phương pháp với nhiều hình thức đa dạng phong phú đáp ứng nhu cầu hứng thú và phát huy tính tích cực ở trẻ; chú trọng việc nêu gương, động viên, khích lệ.

Coi trọng việc tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động: tạo môi trường GD an toàn về thể chất lẫn tinh thần; thân thiện, khuyến khích trẻ tương tác với giáo viên, bạn bè, với các học liệu, đồ chơi, với môi trường xung quanh phù hợp nội dung chương trình GDMN; Xây dựng các khu vực hoạt động, tạo môi trường kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo phù hợp với độ tuổi và từng cá nhân trẻ; Tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh sẵn có ở địa phương, sử dụng các nguyên liệu, vật liệu sẵn có ở các khu vực, các góc họat động,…một cách phong phú đa dạng. Tạo điều kiện cho trẻ gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống gia đình, tăng cường sự giao tiếp của trẻ với nôi trường tự nhiên, môi trường xã hội.

Các họat động tổ chức với các hình thức đa dạng, phong phú, đáp ứng các nhu cầu, hứng thú họat động của trẻ.

Các phương pháp được sử dụng, phối hợp một cách hợp lí nhằm phát huy ở trẻ tính chủ động, tích cực họat động để phát triển, đảm bảo trẻ “học bằng chơi, chơi mà học” [3], [7].

1.3.6. Nghiệp vụ quản lý trường Mầm non Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Nghiệp vụ quản lý trường mầm non mà người quản lý cần biết là: Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch; Quản lý số lượng trẻ trong trường mầm non; Quản lý các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.

Nội dung quản lý các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ chính là quản lý việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non. Nói cách khác, quản lý thực hiện chương trình Giáo dục mầm non tốt chính là đã thực hiện tốt quản lý các hoạt động chăm sóc- nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Bởi vì chương trình Giáo dục mầm non bao gồm cả nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.

Quản lý việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non không thể không xem xét đến việc quản lý việc xây dựng kế hoạch, quản lý số lượng trẻ, quản lý đội ngũ Cán bộ – Giáo viên – Công nhân viên, quản lý tài chính và cơ sở vật chất trong trường mầm non, quản lý công tác hành chính trong trường mầm non, quản lý thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục, quản lý công tác kiểm tra nội bộ và quản lý việc tổ chức khoa học lao động quản lý trong trường mầm non. Tất cả những nội dung trên đều gắn bó chặt chẽ, là những hoạt động quản lý cơ bản trong trường mầm non, làm tốt tất cả các hoạt động quản lý trên tức là đã làm tốt công tác quản lý việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non nói riêng và công tác quản lý nhà trường nói chung [16].

1.3.7. Chương trình Giáo dục mầm non

Giáo dục trẻ là nhằm mục đích thực hiện các yêu cầu của sự phát triển. Quá trình giáo dục thực hiện các nhiệm vụ hình thành và phát triển ở trẻ những tri thức, sự hiểu biết và những khả năng, kỹ năng hành động, sự hiểu biết về những chuẩn mực, quy tắc, hành vi, ứng xử, những giá trị của nhân cách… Việc lựa chọn những nội dung giáo dục cần thiết phải đảm bảo đạt được những mục tiêu giáo dục đã đề ra. Trong sự tương tác với trẻ, người giáo viên mầm non cần lựa chọn và sử dụng những phương pháp, những cách thức khác nhau để tổ chức các hoạt động cho trẻ, dựa trên sự hiểu biết về những nguyên tắc cơ bản của quá trình giáo dục, về những đặc điểm phát triển tâm – sinh lý của trẻ ở các độ tuổi khác nhau và đặc điểm riêng biệt của mọi cá nhân trẻ. Trong chương trình giáo dục, mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung hình thức, phương pháp – biện pháp giáo dục trẻ cần được xác định một cách cụ thể, phù hợp với điều kiện giáo dục. Điều này giúp cho quá trình giáo dục được chuẩn bị và thực hiện một cách có tổ chức nhất và đem lại hiệu quả cao, đồng thời cũng làm tăng vai trò hướng dẫn của người giáo viên trong quá trình giáo dục trẻ. Chương trình giáo dục sẽ trở thành kim chỉ nam, định hướng cho hoạt động giáo dục nếu nó được xây dựng một cách cụ thể và thiết thực với thực tiễn. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Quá trình thực hiện chương trình Giáo dục mầm non từ năm 1990 đến nay diễn ra trong các giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định 55 “Quy định mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trẻ – trường mẫu giáo” và năm 1994, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.

Chương trình đã góp phần thu hút trẻ đến trường, nâng cao chất lượng chăm sóc-giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu của xã hội những năm cuối thế kỷ XX.

Giai đoạn 2: Với những hạn chế của chương trình chăm sóc giáo dục trẻ năm 1994 và cùng với những quan điểm, luận điểm khoa học tiến bộ hơn về sự học của trẻ mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra văn bản quyết định số 5205/QĐ – BGDĐT ngày 19 tháng 09 năm 2006 về việc ban hành chương trình thí điểm giáo dục mầm non, được thực hiện thí điểm kể từ năm học 2006 – 2007 (với danh sách 20 tỉnh, thành phố ban hành kèm theo quyết định, trong đó có tỉnh Bình Dương).

Giai đoạn 3: Ngày 25 tháng 7 năm 2009 Chương trình Giáo dục mầm non chính thức được ban hành kèm thông tư số 17/2009/TT – BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và được sửa đổi bổ sung theo Thông tư số 28/2016/TT – BGDĐT là chương trình cấp quốc gia mang tính chất khung. Chương trình gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản, phù hợp với độ tuổi; chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương.

Hiện nay chương trình GDMN đều có những bổ sung định kỳ theo thời gian để hoàn thiện thể chế và chú trong công tác quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ [4].

1.4. ý luận về quản lý thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Mô hình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đang là “Kim chỉ nam” được nhiều giáo viên mầm non quan tâm, ứng dụng vào trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ nhằm kích thích hứng thú, tính chủ động, tích cực ở trẻ khi tham gia vào các hoạt động; giúp trẻ có sự trao đổi, chia sẻ và biết cách phối hợp cùng nhau để giải quyết các nhiệm vụ, các tình huống của yêu cầu học tập đặt ra. Do đó, việc quản lý việc thực hiện nội dung chương trình giáo dục là người QL phải có những tác động, những biện pháp phù hợp nhằm giúp đội ngũ GV thực hiện tốt nội dung chương trình GDMN tại nhóm lớp. Quản lý chương trình dạy học theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là nhiệm vụ của CBQL, GV trường MN. Trong đó, hiệu trưởng là người lãnh đạo, chịu trách nhiệm cao nhất về chuyên môn trong nhà trường [12]. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Trong quản lý thực hiện chương trình giáo dục thì việc QL hoạt động dạy là trọng tâm nhất. Nội dung hoạt động dạy bao gồm nhiều hoạt động, quan hệ đến nhiều đối tượng, đến nhiều mặt, đến nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực, rất đa dạng và rất phong phú. Nói một cách khái quát là mọi hoạt động của nhà trường đều nhằm tạo điều kiện tốt nhất để hoạt động dạy và học đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất. Có thể nói việc QL thực hiện chương trình giáo dục trong nhà trường là vấn đề cốt lõi, quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc giáo dục đào tạo.

Theo Lê Thị Ánh Tuyết: “Hiện nay, quan niệm đầy đủ về chương trình giáo dục, đào tạo nói chung gồm các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, các điều kiện thực hiện và cuối cùng là cách đánh giá kết quả. Với quan niệm trên chương trình giáo dục là một bản thiết kế tổng thể cho biết toàn bộ nội dung, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học, phác họa quy trình hoạt động cần thiết để thực hiện nội dung, phương pháp, tổ chức hoạt động, cách đánh giá kết quả ở người học”. Như vậy, người QL việc thực hiện chương trình giáo dục tức là QL việc thực hiện các thành tố của chương trình giáo dục. Đó là QL việc thực hiện mục tiêu giáo dục, QL về nội dung giáo dục, về phương pháp giáo dục, QL các điều kiện thực hiện chương trình và QL việc kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện chương trình giáo dục. [14]

Nội dung QL thực hiện chương trình GDMN: Trong công tác QL việc thực hiện chương trình GDMN giai đoạn hiện nay, để xác định những nội dung người QL cần căn cứ các văn bản sau: Thứ nhất là “Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015”; Thứ hai là Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo; Thứ ba là Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo; Thứ tư là tài liệu “Những định hướng đổi mới chương trình giáo dục mầm non hiện nay” của Vụ Giáo dục mầm non”. Từ những căn cứ trên, có thể nói muốn QL tốt việc thực hiện chương trình GDMN thì CBQL cần QL tốt các nội dung sau:

Nắm rõ một số quan điểm xây dựng chương trình giáo dục mầm non theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm; Mục tiêu chương trình GDMN theo lứa tuổi; Chương trình hướng đến sự phát triển của trẻ; tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục; đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền, các đối tượng trẻ.

Quản lý thời gian thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, phân phối thời gian cụ thể rõ ràng cho các hoạt động trong ngày và phù hợp với nhu cầu, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.

Quản lý việc xây dựng nội dung giáo dục dựa trên mục tiêu giáo dục theo từng độ tuổi ( Nhà trẻ: 3- 12 tháng, 12-24 tháng, 24-36 tháng, Mẫu giáo:3-4 tuổi, 4- 5 tuổi, 5-6 tuổi)

Quản lý thực hiện tổ chức đánh giá sự phát triển của trẻ hằng ngày, theo giai đoạn của trẻ trong từng độ tuổi khác nhau.

CBQL, hiệu trưởng phải nắm vững chương trình, hướng dẫn cho GV có ý thức cao trong việc thực hiện chương trình, không được tùy tiện thay đổi, thêm bớt hoặc làm sai lệch nội dung chương trình dạy học.

1.4.1. Quản lý mục tiêu chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Quản lý theo mục tiêu chương trình là dùng mục tiêu để điều hành tổ chức và đánh giá kết quả, lấy mục tiêu để thống nhất các thành tố quản lý chương trình và cũng là để liên kết các hoạt động quản lý chương trình. Đây chính là quản lý theo công việc và hiệu quả về mặt con số và trực quan. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi; Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.

Quản lý việc thực hiện mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non là CBQL phải có những tác động, những biện pháp phù hợp nhằm giúp đội ngũ giáo viên thực hiện tốt các yêu cầu về mục tiêu giáo dục mầm non tại nhóm lớp. Mọi chi phí, mọi cố gắng sẽ trở nên vô ích khi cả hệ thống đi chệch hướng, không vận động được đến mục tiêu đã định.

1.4.2. Quản lý thời gian thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Thời gian thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo phải đảm bảo dựa trên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi cụ thể cho từng hoạt động của trẻ tại trường, đảm bảo chế độ sinh hoạt, thời gian cho việc tham gia học tập, thư giãn, vui chơi, luyện tập cũng như các nhu cầu thiết yếu của trẻ trong ngày như: ăn ngủ, vệ sinh… Thời gian được thiết kế cho 35 tuần, mỗi tuần 5 ngày, áp dụng trong các CS GDMN. Kế hoạch chăm sóc, giáo dục hằng ngày thực hiện theo chế độ sinh hoạt cho từng độ tuổi phù hợp với sự phát triển của trẻ. Chế độ sinh hoạt được phân bổ vào các khung thời gian trong ngày một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu về tâm lý và sinh lý của trẻ qua đó giúp trẻ hình thành những nề nếp và thói quen tốt ở nhà trường. Tùy vào độ tuổi, khả năng học tập, nhu cầu hứng thú của trẻ mà thời gian học tập dài hay ngắn, đó cũng là một trong những điểm khác biệt giữa giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo. Trong đó ở độ tuổi mẫu giáo khung giờ tham gia học, luyện tập, vui chơi, ngủ nghỉ cũng khác nhau: Giờ chơi tập (học) tuổi nhà trẻ 24-36 tháng: 8-10 phút; mẫu giáo 3-4 tuổi: 20-25 phút; 4-5 tuổi: 25-30 phút; 5-6 tuổi: 30-35 phút. Giờ ngủ nhà trẻ chia làm 2-3 giấc ngủ trong ngày còn mẫu giáo chỉ có một giấc ngủ trưa duy nhất và thời gian cũng ngắn hơn.

Việc quản lý thời gian thực hiện chương trình dạy học thể hiện ở chỗ: nội dung và phạm vi kiến thức quy định trong chương trình phải đảm bảo trên cơ sở cấu tạo chương trình, không được giảm nhẹ và không cũng không được nhồi nhét quá tải; Đảm bảo đúng và đủ theo phân phối chương trình về mặt số tiết, về thời gian, về mặt logic. Nghiêm cấm việc tự ý cắt xén chương trình, dồn ép cũng như tự ý kéo dài bất cứ môn học hay tiết học nào. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

1.4.3. Quản lý nội dung giáo dục thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Tùy theo độ tuổi mà nội dung giáo dục thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo khác nhau, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo nhu cầu, tâm sinh lý lứa tuổi và mục tiêu giáo dục đã đề ra. Nội dung giáo dục theo độ tuổi bao gồm các hoạt động giáo dục, hình thức và phương pháp tổ chức, mục tiêu giáo dục. Nội dung giáo dục dựa trên kết quả mong đợi, mục tiêu giáo dục của từng độ tuổi nhất định, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản là kế thừa ( từ cơ bản đến nâng cao, từ thấp đến cao) và xuất phát từ nhu cầu nhận thức tìm tòi, khám phá,ham hiểu biết của trẻ. Các nội dung giáo dục của trẻ mẫu giáo tương ứng với 5 lĩnh vực: Phát triển thể chất, thẩm mỹ, tình cảm xã hội, nhận thức, ngôn ngữ là các hoạt động học: Làm quen với toán ( làm quen với các con số, các biểu tượng toán học, phép tách gộp và 1 số thuật ngữ toán học đơn giản), làm quen văn học ( thơ, truyện, vè, câu đố, ca dao đồng dao..) giáo dục âm nhạc ( vận động thoe nhạc, hát, múa, trò chơi phát triển tai nghe..) Tạo hình ( phát triển cơ ngón tay, bố cục, màu sắc cơ bản, cắt, xé, dán, vẽ nặn, tạo hình với các vật liệu sẵn có) thể dục ( Thể dục sáng, thể dục giờ học, luyện tập cơ bản qua trò chơi, vận động ngoài trời) Khám phá khoa học 9 tìm hiểu môi trường xung quanh, môi trường xã hội). Riêng với lứa tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi con có thêm một hoạt động học khác là Làm quen chữ viết, ở hoạt động này trẻ chỉ làm quen nhận biết, phân biệt, ghi nhơ, sao chép.. với các chữ cái tiếng Việt, tìm chữ trong từ, câu…

Việc quản lý nội dung giáo dục theo độ tuổi nhằm hòan thành tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra, qua đó có căn cứ để đánh giá sự phát triển của đứa trẻ một cách sâu sát và khách quan nhất.

1.4.4. Quản lý đánh giá sự phát triển của trẻ trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Đánh giá sự phát triển của trẻ là quá trình thu thập thông tin về trẻ một cách có hệ thống và phân tích, đối chiếu với mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non, nhận định mức độ phát triển của trẻ nhằm điều chỉnh kế hoạch chăm sóc giáo dục một cách phù hợp. Đánh giá sự phát triển của trẻ có 2 loại: Đánh giá hằng ngày, đánh giá theo giai đoạn (cuối chủ đề, cuối tháng, kết quả mong đợi). Tùy theo loại đánh giá sự phát triển của trẻ mà xem xét kỹ nội dung đánh giá, phương pháp đánh giá để xác định đúng mức độ thực hiện cũng như đảm bảo về mục tiêu, nội dung giáo dục theo từng độ tuổi. Kết quả đánh giá sự phát triển của trẻ khi thực hiện chương trình giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm được giáo viên lưu trữ vào hồ sơ đó là căn cứ, minh chứng cho công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên thông qua hình thức thoa giảng, dự giờ.. Nếu đánh giá của GV khớp với những gì được kiểm chứng thì đó chính là kết quả của việc thực hiện chương trình giáo dục cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

1.5. Nội dung quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

1.5.1. Xây dựng kế hoạch quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Kế hoạch quản lý thực hiện chuơng trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm phải đảm bảo các yêu cầu:

  • Phân tích bối cảnh và tình hình phát triển nhà trường (SWOT)
  • Xác định mục tiêu, chỉ tiêu
  • Xác định các giải pháp
  • Đề xuất tổ chức thực hiện

Để lập kế hoạch quản lý thực hiện chuơng trình GDMN cho trẻ MG theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm hiệu trưởng cần căn cứ vào định hướng xu thế của phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm của các cấp quản lý, dựa vào điều kiện thực tế của nhà trường để hình dung một cách tổng quát về các mục tiêu, chỉ tiêu cần đạt, các giai đoạn thực hiện và thời gian tương ứng, dự kiến các biện pháp để thực hiện. Sau khi lên kế hoạch, yêu cầu các tổ khối thảo luận, góp ý bổ sung để hoàn chỉnh kế hoạch và trình cấp trên phê duyệt. Trên cơ sở kế hoạch tổng thể đã được duyệt, hiệu trưởng phổ biến và hướng dẫn các tổ khối và cá nhân xây dựng kế hoạch riêng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ khối, từng cá nhân. Đồng thời với việc lập kế hoạch đúng đắn, kịp thời, hiệu trưởng cần trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện kế hoạch để đảm bảo cho sự thành công của quá trình thực hiện chương trình GDMN cho trẻ MG theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả mà không ảnh huởng đến chương trình khung quốc gia, đáp ứng được nhiệm vụ, mục tiêu của bậc học mầm non.

1.5.2. Tổ chức việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Tổ chức thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu về thực hiện chương trình GDMN mà bộ GDĐT và các cấp quản lý đề ra nhưng vẫn đảm bảo tính khả khi, phù hợp điều kiện của đơn vị, tình hình thực tế tại địa phương.

Chức năng tổ chức có vai trò hiện thực hoá mục tiêu kế hoạch và tạo nên sức mạnh của tập thể, nếu việc phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tổ chức một cách khoa học và hợp lí. Để thực hiện được vai trò quan trọng này, hiệu trưởng cần phải hình thành một cấu trúc tổ chức tối ưu của hệ thống quản lý. Đó là:

  • Phân công và phân nhiệm cho các phó Hiệu Trưởng và các tổ chuyên môn trong việc đề ra mục tiêu nhiệm vụ trọng tâm trong năm học. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
  • Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
  • Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữ các bộ phận truờng, phối hợp hặt chẽ có hệ thống bằng cách xác định nghĩa vụ, quyền hạn đối với các chức danh đựơc phân công.
  • Thực hiện phân quyền cho từng chức vụ cụ thể, chịu trách nhiệm về thời gian cho hoàn thành các kế hoạch để đạt mục tiêu.

Trong quá trình hoạt động của nhàng nhà trường, hiệu trưởng cần phải xác định được hệ thống các mối quan hệ, tổ chức và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong nhà trường, cũng như mối quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng xã hội.

1.5.3. Chỉ đạo việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

Chỉ đạo thực hiện chuơng trình giáo dục cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm là quá trình tác động cụ thể của hiệu trưởng tới mọi thành viên của nhà trường, nhằm biến những nhiệm vụ chung về thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm của nhà trường thành hoạt động thực tiễn của từng người. Hiệu trưởng thực hiện chức năng chỉ đạo là thực hiện quyền chỉ huy và hướng dẫn triển khai việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.. Thường xuyên điều chỉnh, sắp xếp, phối hợp và giám sát mọi người và các bộ phận thực hiện tốt kế hoạch theo sự bố trí đã xác định trong bước tổ chức. Để QL tốt việc thực hiện nội dung chương trình, người QL cần phải xác định những nội dung chính sau [16]:

Chương trình giáo dục là một khái niệm đa nghĩa, trong trường hợp này nó là định hướng chung, cương lĩnh để xây dựng kế hoạch; trong trường hợp khác nó được coi là đề án. Thực ra khái niệm này thường hay xen kẽ, đan chéo nhau. Ở đây, chương trình có mục tiêu là một dạng đồ án, có tính chất của một chương trình hành động nhằm đạt tới một mục tiêu cụ thể khi sử dụng những nguồn lực nhất định.

Nội dung của chương trình giáo dục mầm non mang tính tích hợp, phải bảo đảm phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; đảm bảo tính khoa học, vừa sức, liên thông giữa các độ tuổi, gắn liền với cuộc sống hiện thực và kinh nghiệm của trẻ, giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo và người lớn; thật thà, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học… Nội dung được cụ thể hóa ở từng độ tuổi theo các lĩnh vực phát triển.

Việc thực hiện đúng và đủ nội dung chương trình là yêu cầu bắt buộc của mỗi giáo viên vì thế người quản lý phải thường xuyên chỉ đạo tốt công tác này. Đảm bảo nội dung chương trình là đảm bảo nội dung kiến thức của lớp học, cấp học, đảm bảo chất lượng giảng dạy, đồng thời giúp người quản lý đánh giá chính xác kết quả và chất lượng dạy học của trường.

Các nội dung người quản lý việc thực hiện nội dung chương trình giáo dục mầm non là: bồi dưỡng và triển khai nghiêm túc cho giáo viên về cách soạn kế hoạch giáo dục ngày, tháng, năm, giúp giáo viên nắm vững chương trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi giáo viên nắm vững nội dung chương trình giáo dục thì việc triển khai thực hiện mới đúng trọng tâm và đạt kết quả. Tạo điều kiện cho giáo viên được thường xuyên cập nhật kiến thức mới về nội dung chương trình, có điều kiện học tập kinh nghiệm bạn đồng nghiệp, đảm bảo tốt điều kiện để giáo viên thực hiện chương trình giáo dục. Lắng nghe cũng như có sự quan tâm sâu sát quá trình giáo viên thực hiện chương trình để có sự chỉ đạo, uốn nắn, góp ý giúp cho giáo viên thực hiện tốt nội dung chương trình giáo dục. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Quan sát quá trình giáo viên thực hiện chương trình để đảm bảo sự đầy đủ, không bỏ sót, tránh tình trạng giáo viên cho trẻ ngồi chơi, không tổ chức gảng dạy, giáo dục trẻ theo quy định. Kết quả hoạt động học tập theo chương trình giáo dục ở lứa tuổi mầm non không thể hiện bằng điểm số, kết quả thể hiện ở trẻ còn tùy thuộc vào sự phát triển tâm sinh lý của từng trẻ, không áp đặt, không áp lực, trẻ chưa biết phản ánh về việc học tập ở trường, lớp nên dễ dẫn đến tình trạng giáo viên không tổ chức đúng và đầy đủ nội dung chương trình giáo dục.

Việc kiểm tra thực hiện nội dung chương trình phải được làm thường xuyên. Sau khi kiểm tra phải có kế hoạch điểu chỉnh, xử lý vi phạm. Để QL việc thực hiện chương trình GDMN, người QL cần tập trung vào những nội dung sau:

  • Chỉ đạo quản lý phân công giảng dạy:

Phân công giảng dạy cho GV thực chất là công tác cán bộ và công tác tổ chức, nếu CBQL hiểu và nắm chắc tình hình đội ngũ, chỗ mạnh, chỗ yếu của từng người thì không những sử dụng được họ mà còn làm cho họ tự tin hơn trong nghề nghiệp. Hiệu trưởng cần quán triệt quan điểm phân công GV theo chuyên môn mà họ được đào tạo, hướng họ tập trung vào môn được đào tạo ngày càng chuyên sâu nhằm vừa tạo cơ hội cho họ nâng cao chất lượng dạy vừa góp phần xây dựng đội ngũ cốt cán trong tổ khối.

Việc phân công nhiệm vụ cho GV phải xuất phát từ chất lượng đào tạo của nhà trường và quyền lợi học tập của trẻ, tạo điều kiện cho người giỏi kèm cặp người còn ít kinh nghiệm, còn hạn chế năng lực. Do đó khi phân công GV, cán bộ quản lý phải căn cứ vào năng lực của GV, điều kiện cụ thể của nhà trường, quyền lợi của trẻ và tham khảo nguyện vọng của GV và đáp ứng về mặt pháp lý (điều lệ trường Mầm non)

Nếu việc phân công nặng về cảm tính, tình cảm cá nhân sẽ tác động xấu đến hiệu quả giảng dạy của nhà trường. Do đó, nghệ thuật và bản lãnh quản lý của người quản lý cấp cao thể hiện rõ nét khi thực hiện nhiệm vụ phân công giảng dạy cho GV.

  • Chỉ đạo quản lý việc lập kế hoạch bài học của GV:

Kế hoạch bài học là kế hoạch tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo nhằm đạt được các mục tiêu dạy học một bài cụ thể của môn học với sự trợ giúp của các thiết bị dạy học, sách tham khảo…

Thực hiện kế hoạch bài học giúp cho GV có kế hoạch dạy học gọn gàng, sáng sủa, dễ bổ sung và dễ điều chỉnh, tiết kiệm được thời gian. Sử dụng kế hoạch bài học giúp cho GV chủ động, linh hoạt trong tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động.

Để quản lý việc soạn kế hoạch bài học của GV, người QL (phó hiệu trưởng được phân công, tổ chuyên môn) phải lưu ý hướng dẫn GV định hướng việc sử dụng tài liệu tham khảo và cung cấp những thiết bị cần thiết để GV có đầy đủ cơ sở, phương tiện cho việc soạn kế hoạch giáo dục. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

  • Chỉ đạo quản lý đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục

Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục nhằm phát huy vai trò trung tâm của trẻ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của các cơ sở giáo dục mầm non sự phù hợp của nó với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và định hướng vận dụng hình thức dạy học này trong giáo dục mầm non nhằm đáp ứng với nhiệm vụ trên.

Quản lý đổi mới PPGD là nội dung cốt lõi trong hệ thống quản lý của nhà trường. Nói đến quản lý đổi mới PPGD là nói đến việc thực hiện đồng bộ các hoạt động quản lý đội ngũ sư phạm, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện dạy học, quản lý điều kiện và môi trường làm việc, cơ chế hoạt động, tổ chức và điều hành, kiểm tra và đánh giá, phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.

Chương trình GDMN hướng dẫn GV sử dụng hình thức để tổ chức cho trẻ học tập dựa trên những nội dung sau:

Chương trình nhìn nhận trẻ theo các đặc điểm tâm sinh lý khác biệt giữa các lứa tuổi hoặc là chuẩn hành vi của người lớn, chưa tính hết các nhu cầu hứng thú của trẻ, chưa thật sự gắn với cuộc sống hàng ngày của trẻ và nhất là còn sự chia cắt, tách rời nội dung giáo dục thành từng mảng ít quan hệ với nhau.

Chương trình được xây dựng trên một hệ thống các bài học có cấu trúc chặt chẽ phân bổ theo các môn học riêng biệt, cụ thể các bộ môn như sau: Làm quen với Toán, Làm quen Văn học, Làm quen chữ Viết, Tạo hình (vẽ, nặn, cắt dán), Âm nhạc, Thể dục.

Môi trường học bao gồm các sách bài tập, giấy bài tập, các phiếu học hoặc những vật liệu học tập được chuẩn bị sẵn theo chương trình và xây dựng trước.

Trong quá trình học, GV yêu cầu trẻ trả lời theo đúng mẫu giống nhau. Nhấn mạnh việc luyện tập kỹ năng và trí nhớ. Việc này hình thành một kỹ năng ở người GV là luôn bắt trẻ rèn luyện.

Nề nếp học tập trong giai đoạn này rất cứng ngắc và hầu như là theo khuôn mẫu cứng ngắc. Tất cả trẻ đều được dạy để thể hiện cùng một nhiệm vụ và đạt được những kỹ năng hẹp đã được xác định và dễ đo đạc. Trẻ càng ngoan, càng chú ý, càng trật tự thì càng tốt vì nhờ có điều đó cô giáo mới có điều kiện hướng dẫn đồng loạt cho cả lớp. Với cách tiếp cận truyền thống trong việc xây dựng chương trình, việc nhấn mạnh đến kết quả lĩnh hội kiến thức và chú trọng vai trò hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm giúp trẻ học những gì người lớn cho là cần thiết để đạt được các tiêu chuẩn đánh giá chung đã được định trước đã cản trở sự phát triển mạnh mẽ của trẻ ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực sáng tạo. Một lĩnh vực mà nhờ có nó xã hội mới ngày một phát triển. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Với sự cứng ngắc và gò bó trong quan điểm giáo dục đã dẫn đến việc giáo viên sử dụng hình thức để giáo dục trẻ cũng rất là gò bó và cứng ngắc, có nhiều giáo viên rèn luyện nề nếp học tập của trẻ y như là trường phổ thông, cũng xếp hàng trật tự, ngồi ngay ngắn nghe cô giảng bài, bắt buộc trẻ làm theo mẫu cô đã đưa ra, học tập theo bộ môn, rèn kỹ năng, nhớ bài giảng của cô, tiếp thu kiến thức là trọng tâm… đã làm cho trẻ già trước tuổi của mình và đi ngược với quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.

Từ những hạn chế trên, đòi hỏi chương trình cần có những cải tiến đổi mới Đưa ra một chương trình giáo dục mầm non có chất lượng cao, xét về chữ nghĩa là chọn một con đường đúng, là nhân tố chính của việc dạy học có hiệu quả. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, John Dewey đã đưa ra ý tưởng giáo dục có tính cách mạng – chương trình giảng dạy coi trẻ nhỏ là trung tâm. Ở chương trình giáo dục này thay vì ép trẻ làm theo những kế hoạch dạy học do người lớn định trước, các nhà giáo dục thiết kế chương trình riêng theo yêu cầu của mỗi trẻ. Đây là chương trình giúp trẻ nhỏ khám phá thế giới của mình bằng những suy nghĩ nhạy bén, thử nghiệm với mọi người, mọi đồ vật ở mọi nơi, được giáo viên khuyến khích, động viên, giúp các em phát triển ý tưởng khám phá ra những điều có ý nghĩa với chúng trong xã hội”. Cùng với sự hòa nhập và phát triển về kinh tế, ngành giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng đã có những nghiên cứu để thay đổi quan điểm giáo dục, đáng kể trong đó là việc đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục. Chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ có một ngày học tập ở trường mầm non thật là thoải mái, hồn nhiên, được sáng tạo, được vui chơi, được học tập tích hợp các bộ môn một cách đa dạng phong phú… như đúng nhu cầu tâm sinh lý của trẻ, đúng với phương châm giáo dục trẻ mầm non là: chơi mà học, học mà chơi [4].

Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bức thiết để nâng cao chất lượng dạy học. Vì thế bằng nhiều hình thức khác nhau, các biện pháp khác nhau, người quản lý phải chỉ đạo chặt chẽ việc đổi mới phương pháp theo hướng kích thích tính tích cực, chủ động của trẻ. Do đó để quản lý giờ lên lớp của GV được tốt, người quản lý cần:

Xây dựng tiêu chuẩn giờ lên lớp theo tiêu chuẩn đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn. Tuy nhiên phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo đối với hình thức giáo dục và học tập cụ thể của nhà trường sao cho kích thích sự tham gia của trẻ đồng đều.

Cán bộ quản lý cẩn phổ biến nội dung cơ bản của tiểu chuẩn giờ lên lớp để mỗi GV đều nắm được. Đó là đảm bảo cho trẻ rèn luyện được những kỹ năng cần thiết trong mỗi nội dung giảng dạy; rèn luyện nề nếp tư duy tích cực, sáng tạo; thông qua bài dạy để giáo dục tư tưởng tình cảm, đạo đức, phát triển các năng lực trí tuệ cần thiết.

Người QL phải có kế hoạch dự giờ GV. Đảm bảo trong năm học, tất cả các GV đều được dự giờ ít nhất một lần. Đối với đối tượng GV có năng lực còn hạn chế, GV mới chuyển khối, sinh viên mới ra trường phải được dự nhiều hơn. Khi dự giờ, cần ghi chép cụ thể về giờ dạy, sau đó cùng các phòng – ban chuyên môn trao đổi ý kiến và rút kinh nghiệm với GV.

Đối với QL thực hiện đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục, người QL cần phải thực hiện và hiểu những nội dung về lý luận dạy học. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Đổi mới phương pháp giáo dục là đổi mới cách thức hoạt động thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm giải quyết những nhiệm vụ giáo dục nhân cách. Đổi mới phương pháp giáo dục mầm non là phải làm sao giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một.

Việc lựa chọn hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục phải phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, văn hóa xã hội của từng địa phương, từng trường. Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phải tạo điều kiện cho trẻ tích cực hoạt động, khuyến khích trẻ sáng tạo phù hợp với độ tuổi và đặc điểm cá nhân trẻ, với nhu cầu và hứng thú, phát huy vai trò của hoạt động chủ đạo.

Việc đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục không thể đạt hiệu quả tốt đẹp nếu không có sự quản lý chặt chẽ của người cán bộ quản lý trong trường mầm non. Những suy nghĩ, nề nếp cũ đã ăn sâu trong tiềm thức của đội ngũ giáo viên, việc đổi mới không thể trong một sớm một chiều mà là cả một quá trình đầy khó khăn. Giáo viên đã quen với nề nếp học tập mang tính kỹ luật, trật tự trong một thời gian dài nay đổi qua cách học tập mới sinh động, phong phú về hình thức tổ chức, tích hợp các bộ môn một cách phù hợp linh hoạt, sử dụng các phương pháp phát huy tính chủ động quả thật là điều không đơn giản.

Do đó người CBQL cần có những tác động QL phù hợp giúp cho đội ngũ GV nắm vững nội dung của việc đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục từ đó thực hiện đúng trong tâm, đúng chỉ đạo, đúng yêu cầu của ngành MN.

Giờ dạy trên lớp của GV giữ vai trò quyết định đến chất lượng dạy học. Việc lập kế hoạch bài học và việc chuẩn bị những thiết bị dạy học là rất cần thiết cho giờ lên lớp, nhưng điều này chỉ mang lại hiệu quả cao khi được GV thực hiện thành công trên lớp. Ngoài việc thực hiện những ý đồ đã chuẩn bị, GV còn phải biết linh hoạt để giải quyết các tình huống sư phạm xảy ra trong quá trình giảng dạy sao cho hoàn tất các công việc đã chuẩn bị.

1.5.4. Kiểm tra, đánh giá thực hiện chương trình

Kiểm tra là theo dõi, xem xét, phân tích và đánh giá sự diễn biến và kết quả, phát hiện sai lầm để chỉnh sửa, tìm biện pháp khích lệ và giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ. Đối với hoạt động quản lý giáo dục, kiểm tra là chức năng thiết yếu. Kiểm tra giữ vai trò liên hệ ngược để giúp cho công tác quản lý đạt tối ưu. Kiểm tra đánh giá thường xuyên để rút kinh nghiệm và cải tiến công tác quản lý nhà trường, để nâng cao chất lượng cơ sở giáo dục trẻ theo mục tiêu kế hoạch đào tạo là nhiệm vụ chủ yếu của người quản lý trong nhà trường [4]. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Quản lý qua công tác kiểm tra đánh giá giáo viên thực hiện chương trình là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm hoặc định cỡ một hay nhiều đặc tính của sản phẩm và so sánh kết quả với yêu cầu quy định nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính.

Kiểm tra là chức năng cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình quản lý nhằm giám sát, đánh giá và xử lý kết quả đạt được của tổ chức so với mục tiêu quản lý. Kiểm tra là điều tra, xem xét, phân tích, đánh giá sự diễn biến và kết quả, phát hiện sai lầm để uốn nắn, điều chỉnh, khích lệ, giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ. Kiểm tra là một chức năng quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động quản lý giáo dục. Vì nó giữ vai trò liên hệ ngược, giúp người quản lý điều khiển tối ưu hiệu quả quản lý. Quản lý mà không kiểm tra coi như không quản lý. Coi trọng khâu đánh giá thường xuyên, đánh giá quá trình giáo dục dựa trên sự quan sát của giáo viên về những hứng thú, nhu cầu, khả năng, sự tiến bộ của trẻ; nhấn mạnh việc đánh giá sự tiến bộ của trẻ nhằm điều chỉnh nội dung giáo dục, lập kế hoạch giáo dục cho phù hợp hơn. Do đó quản lý việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non không thể thiếu được công tác kiểm tra đánh giá.

Trong quy chế hoạt động của nhà trường hiện nay, việc kiểm tra mức độ thu nhận kiến thức, vận dụng kỹ năng của học sinh là việc làm đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Kết quả của hoạt động dạy học của giáo viên được tập trung và thể hiện rõ nhất là kết quả học tập của học sinh, một căn cứ mang tính định lượng. Vì thế, để đánh giá một cách chính xác, cần chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc để tránh kết quả đánh giá không đúng với thực chất. Công tác kiểm tra ở ngành giáo dục mầm non coi trọng khâu đánh giá dựa trên sự quan sát trẻ và nhấn mạnh đến đánh giá dựa trên sự tiến bộ của trẻ. Trên cơ sở đó điều chỉnh nội dung, kế hoạch hoạt động giáo dục trong quá trình thực hiện cho phù hợp với trẻ, với nhóm lớp và thực tế của địa phương. Nội dung kiểm tra đánh giá giúp cho cán bộ quản lý các cấp và giáo viên có cơ sở để chỉ đạo, giám sát, thanh tra, đánh giá và điều chỉnh việc thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục mầm non một cách thuận lợi, khách quan và hiệu quả.

Kiểm tra đánh giá trong trường MN là chức năng duy trì chất lượng cao trong hoạt động cơ sở giáo dục trẻ. Trong quá trình kiểm tra đánh giá, người QL phải kiểm tra mức độ đạt chuẩn và những công việc duy trì chất lượng cao ở từng bộ phận tại đơn vị. Đến với từng bộ phận hằng ngày sẽ đem lại những thông tin về mức độ đạt chuẩn đánh giá theo quy định chung trong Điều lệ trường MN hoặc quy chế, nội quy và những chuẩn đánh giá quy định trong nội bộ nhà truờng để duy trì chất lượng cao trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ.

Trong kiểm tra đánh giá, người QL phải lắng nghe và thấu hiểu đối tượng. Để hướng dẫn tập thể nhà truờng giữ vững các hoạt động chất lượng cần phải có kỹ năng truyền đạt. Căng thẳng sẽ giảm đi khi từng thành viên trong nhà trường cảm nhận được sự tôn trọng, chia sẻ của người QL.

1.5.5.Quản lý điều kiện thực hiện chương trình Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

QL điều kiện thực hiện chương trình GDMN là người QL phải có những tác động, những biện pháp phù hợp nhằm giúp nhà trường, đội ngũ GV có đầy đủ các điều kiện để thực hiện tốt chương trình GDMN, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường, lớp MN.

  • Nguồn lực phi vật chất

Nguồn lực phi vật chất được hiểu là việc tạo ra môi trường giáo dục thống nhất, các yếu tố tinh thần, sự ủng hộ chủ trương giáo dục, sự tư vấn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong thực hiện qản lý chương trình GDMN. Nguồn lựa phi vật chất quan trọng trong thực hiện chương trình đó là GV. Đội ngũ giáo viên đảm bảo những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần thiết, nắm vững chương trình chăm sóc giáo dục mầm non mới, thực hiện chương trình có chất lượng. CBQL cần phải có chính sách phù hợp để phát huy nguồn lực này.

Xây dựng chủ trương phù hợp trong QL thực hiện chương trình.

Chủ trương chính sách của nhà nước, cơ quan thẩm quyền về đổi mới và thực hiện chương trình giáo dục. Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục và coi giáo dục là một trong những quyết sách hàng đầu để xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên có những chính sách và giải pháp để thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục của nước nhà.

Chương trình GDMN đổi mới là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục phù hợp với xu hương hội nhập của nước ta. Khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ…” .

QL đổi mới chương trình giáo dục của khối Mầm non đã được nhà nước quan tâm từ rất lâu. Nghị quyết số 04 – NQ/HNTW ngày 14/1/1993 Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD – ĐT đã ghi: “Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của Nhà nước”.

Tạo ra môi trường giáo dục thống nhất để các lực lượng QL nhà trường có điều kiện tham gia hỗ trợ công tác thực hiện đổi mới chương trình mầm non. Quản lý là đưa chương trình vào một khuân khổ với nguyên hoạt động riêng biệt để phát triển chương trình phải xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục và xã hội hóa quyền lợi về giáo dục

Phát huy công tác tư vấn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm về quản lý chương trình giáo dục: nâng cao nhận thức trong nhân dân về vai trò của giáo dục vì chỉ khi nhân dân hiểu về giáo dục, đồng tình với giáo dục, cùng chia sẽ khó khăn, cộng đồng trách nhiệm thì bản thân xã hội của giáo dục mới được phát huy và hiệu quả giáo dục mới đạt tới như mong muốn.

  • Nguồn lực vật chất Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Về cơ sở vật chất thực hiện chương trình giáo dục: đảm bảo cơ sở vật chất theo quy định và đủ điều kiện để thực hiện nội dung chương trình theo hướng đổi mới, tổ chức môi trường chăm sóc giáo dục, việc phối hợp giữa gia đình và cộng đồng: đảm bảo sự phối hợp giữa gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, huy động đa dạng các nguồn lực của gia đình, các nguồn lực xã hội nhằm đảm bảo cho các hoạt động giáo dục trong trường lớp mầm non được triển khai một cách thuận lợi. Nguồn lực vật chất bao gồm: tài lực, vật lực, nhân lực, đất đai, trường sở, trang thiết bị,… phục vụ giảng dạy và học tập. Khi thực hiện đổi mới, quản lý chương trình GDMN phải biết khai thác, phát huy, sử dụng hiệu quả nguồn lực này. Các nguồn lực bao gồm:

Nguồn nhân lực tham gia vào thực hiện đổi mới chương trình.

Tài lực: Các ngành đoàn thể, các lực lượng xã hội và cá nhân đều có trách nhiệm góp phần xây dựng giáo dục và tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, sự tự nguyện, khả năng và điều kiện mà các lực lượng này tham gia trong cơ chế dưới sự điều hành của các cấp chính quyền địa phương. Chính vì vậy, rất cần thiết phải xây dựng cơ chế chính sách huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục cùng với mục đích tăng cường thêm cơ sở vật chất, các điều kiện phục vụ dạy và học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, các trường cần quan tâm tới việc huy động sự đóng góp tài chính, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng kinh tế, các nhà hảo tâm, các tổ chức tới các hoạt động giáo dục.

Vật lực: Việc thực hiện liên kết các lực lượng xã hội hưởng ứng tích cực và đóng góp, ủng hộ, tham gia xây dựng môi trường nhà trường từ cơ sở hạ tầng, cảnh quan, nền nếp giáo dục chăm sóc trẻ đến các mối quan hệ nhà trường, để nhà trường thực sự trở thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh.Cùng với mục đích tăng cường thêm cơ sở vật chất, các điều kiện phục vụ dạy và học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, các trường quan tâm tới việc huy động sự đóng góp tài chính, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng kinh tế, các nhà hảo tâm, các tổ chức… tới các hoạt động giáo dục.

1.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm

QL thực hiện chương trình giáo dục trong các trường MN là quá trình tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đến tổ chức thực hiện chương trình giáo dục, nhằm bảo đảm cho chương trình ngày càng phát triển đáp ứng mục tiêu giáo dục của bậc học MN. Vì vậy, quá trình quản lý thực hiện chương trình giáo dục sẽ bị tác động bởi nhiều yếu tố, có cả yếu tố khách quan và chủ quan của quá trình giáo dục ở bậc học mầm non, trực tiếp bởi các nhân tố sau:

1.6.1. Những yếu tố khách quan Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Tác động từ yêu cầu xây dựng con người mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Đây chính là yếu tố tác động từ mục tiêu giáo dục, thành tố quan trọng của quá trình giáo dục. Mục tiêu giáo dục quy định trực tiếp đến nội dung, chương trình giáo dục của các bậc học, cấp học. Mục tiêu của GDMN nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.

Mục tiêu giáo dục tổng thể tác động đến GDMN, mục tiêu của GDMN là nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ, phát triển toàn diện các mặt của trẻ để trẻ bước vào lớp 1. Chương trình giáo dục muốn đáp ứng mục tiêu đó phải bảo đảm tính hiện đại, cập nhật những kiến thức mới hiện nay; bảo đảm tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chương trình giáo dục đó phải là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Trình độ, năng lực chuyên môn và nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý và thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của cán bộ phòng GD – ĐT; cán bộ QL, GV, nhân viên trường mầm non.

Sự biến động phức tạp của bệnh dịch, giá cả thực phẩm trên thị trường.

Sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền: Có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác tham mưu của các phòng GD – ĐT, các trường MN trong việc huy động số lượng trẻ ra lớp, tăng tỷ lệ trẻ được ăn bán trú tại trường và xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ… là những điều kiện thuận lợi để quản lý công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đạt hiệu quả.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác chăm sóc, nuôi dưỡng là một trong hai yếu tố quan trọng nhất góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.

1.6.2. Những yếu tố chủ quan

Sự tác động chương trình giáo dục do Bộ ban hành quy định với bậc MN. Chương trình giáo dục bậc học MN phải bám sát nghị quyết của Đảng, chương trình của Bộ GD&ĐT Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.

Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số”.

Các trường MN nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân khi thực hiện theo đúng quy định của Luật Giáo dục sẽ tăng sức hút HS từ chương trình giáo dục chung chung đó làm cho các trường MN, nhất là công lập phải dẫn đầu về hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Tác động này sẽ chi phối lớn đến việc thực hiện chương trình giáo dục và QL chương trình giáo dục ở các trường MN tại thị xã Bến Cát.

Tác động từ chính khả năng, vai trò, trách nhiệm của đội ngũ chủ thể quản lý và GV trong thực hiện chương trình giáo dục ở các trường MN trong địa bàn.

Đội ngũ chủ thể quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các trường MN bao gồm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, hội đồng sư phạm và đội ngũ GV. Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và hội đồng sư phạm thường có vai trò là chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, duy trì hoạt động của trường MN. Đồng thời, đội ngũ này đảm nhiệm cương vị quản lý tự chủ về tài chính.

Nếu hiệu trưởng và hội đồng sư phạm không thể hiện đúng vừa là nhà quản lý giáo dục, vừa là nhà quản lý kinh tế, hành chính thì việc duy trì nhà trường hoạt động sẽ gặp khó khăn. Điều này sẽ tác động không nhỏ đến thực hiện chương trình giáo dục, nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ của nhà trường.

Đội ngũ CBQL, GV là người phải có nhận thức đúng đắn về bậc học MN và nghề dạy học, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp.

Không ngừng học tập rèn luyện nâng cao năng lực quản lý cũng như tìm tòi sáng tạo các phương pháp hình thức kiểm tra đánh giá đúng thực chất. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.

Có sự phối hợp với các cấp chính quyền địa phương, ban ngành đoàn thể tăng cường tận dụng các mối quan hệ xã hội đặc biệt là có sự phối hợp, ủng hộ từ phía phụ huynh học sinh. Tận dụng nguồn lực sẵn có.

Sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương có ảnh hưởng rất lớn tới công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Việc cho trẻ ăn ngủ tại trường MN và mức đóng góp tiền ăn do điều kiện kinh tế và nhận thức của mỗi gia đình, của cộng đồng dân cư tại địa phương giữ vai trò quyết định đến chất lượng nuôi dưỡng trẻ trong các trường mầm non.

Chế độ, chính sách đãi ngộ của tỉnh, của ngành đối với cán bộ quản lý các cấp cũng như cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các trường mầm non.

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý của các cấp.

Sự am hiểu chuyên môn, thường xuyên cập nhật thông tin mới về khoa học giáo dục mầm non, nắm vững các vấn đề mới trong chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở từng giai đoạn phát triển của xã hội, tham mưu và chỉ đạo của các cơ quan ban ngành.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Quản lý thực hiện chương trình GDMN theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. Muốn chấn chỉnh và đổi mới quản lý cần quan tâm đúng mức đến công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ GV, người ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Đặc biệt là bồi dưỡng cho đội ngũ nuôi dưỡng. Những người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, họ không thể làm việc chỉ bằng kinh nghiệm mà cần phải bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức, kĩ năng thực hành cần thiết để có thể hoàn thành nhiệm vụ đựơc giao.

Qua phân tích lý luận, muốn quản lý việc thực hiện chương trình GDMN cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm thì cần quan tâm đến một số nội dung sau:

  • Tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non. Tổ chức và lãnh đạo một tập thể GV, nhân viên cùng thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non.
  • Quản lý việc phân công giảng dạy; Quản lý việc lập kế hoạch bài học.
  • Quản lý đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học; Quản lý cơ sở vật chất, môi trường học tập phục vụ việc thực hiện chương trình. Luận văn: Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
  • Kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện chương trình dạy học.
  • Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ giảng dạy cho GV nhằm đáp ứng việc thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non trong giai đoạn hiện nay.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng thực hiện chương trình giáo dục mầm non

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993