Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Biển và đại dương chiếm khoảng 71% diện tích bề mặt trái đất. Con người thực chất đang sống trên những hòn đảo khổng lồ giữa các đại dương mênh mông của một quả cầu nước. Được sinh ra và tiến hoá trên bề mặt các hòn đảo đó, từ lâu con người vẫn sống chủ yếu dựa vào diện tích canh tác hạn chế trên đất liền. Ngày nay, con người đang đứng trong tư thế tiến chiếm các vùng nước mênh mông, giàu có và khai thác biển trở nên bức thiết khi các giá trị tài nguyên trên lục địa ngày càng bị suy thoái, cạn kiệt trước sức ép của gia tăng dân số và tốc độ khai thác. Những hoạt động của con người trên biển đã tạo ra một hình thái kinh tế mới – kinh tế biển.   Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X năm 2007 đã ra “Nghị quyết về chiến lược biển đến năm 2020” xác định: “… phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% – 55% GDP và 55% – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước“, trong đó mức đóng góp của du lịch biển trong tổng GDP của nền kinh tế biển vào khoảng 14 – 15%. “Trở thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam“. (Nghị quyết 03 NQ/TW của Bộ Chính trị – khoá VII). Nếu không phát triển kinh tế biển thì Việt Nam sẽ có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực đang vươn mạnh ra biển.

Trên phạm vi toàn thế giới, du lịch biển và hải đảo có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch và các ngành kinh tế biển. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới, hàng năm số lượng khách du lịch quốc tế tham gia vào các hoạt động du lịch biển chiếm khoảng 80% tổng số khách. Các nước có du lịch biển phát triển như Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Italia… là những nước đứng đầu về lượng khách quốc tế. Mặt khác, do sự phân bố về mặt địa lý kinh tế, phần lớn trung tâm công nghiệp, đô thị lớn ở các nước đều tập trung ở vùng ven biển. Chính vì vậy, ngoài lượng khách quốc tế, một lượng khách nội địa còn lớn hơn rất nhiều hàng năm được cuốn hút vào hoạt động du lịch biển. Nhiều quốc gia như Maldies, Fiji, bang Hawai (Hoa Kỳ), Queenland (Úc)… từ lâu coi du lịch biển là ngành kinh tế chính. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Việt Nam có lợi thế lớn về tài nguyên cho phát triển du lịch biển: đường bờ biển dài 3260 km, 125 bãi tắm, gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ, cùng ưu thế của vùng biển nhiệt đới quanh năm nắng ấm, cát trắng, nước trong, đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, nền văn hoá lịch sử lâu đời, giàu bản sắc… Dọc chiều dài bờ biển, mỗi đơn vị lãnh thổ vừa có thế mạnh đặc thù về tài nguyên vừa có khả năng liên kết tạo ra những sản phẩm du lịch biển hấp dẫn, khả năng cạnh tranh cao. Những năm gần đây, Việt Nam được nhiều du khách quốc tế lựa chọn là điểm đến cho mục đích tham quan, nghỉ dưỡng biển.

Tuy nhiên, cho đến nay, khai thác tài nguyên du lịch biển ở nước ta chưa tương xứng với tiềm năng, chủ yếu mới được triển khai theo chiều rộng, chưa chú trọng đến định hướng xây dựng sản phẩm đặc trưng nên sản phẩm du lịch biển trùng lặp, ít các sản phẩm du lịch biển cao cấp, khai thác thiếu tính bền vững. Điều này ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của du lịch biển Việt Nam và ảnh hưởng đến mức độ đóng góp của du lịch biển vào phát triển kinh tế biển với tư cách là một trong bốn ngành chủ đạo (giao thông vận tải –  dịch vụ hàng hải, thuỷ sản, dầu khí, du lịch biển).

Tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng” nhằm mục đích đánh giá sự phù hợp và thuận lợi về tài nguyên du lịch biển cho việc triển khai một loại hình du lịch cụ thể, hướng tới việc xây dựng một loại hình sản phẩm du lịch biển cao cấp, có sức cạnh tranh cao cho Việt Nam, đồng thời đưa ra định hướng nhằm sử dụng hiệu quả và tối ưu nguồn tài nguyên du lịch biển, phát triển du lịch biển làm đòn bẩy cho phát triển du lịch Việt Nam, phát triển kinh tế biển và toàn bộ nền kinh tế – xã hội.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề chính sau:

  • Lý luận về loại hình du lịch nghỉ dưỡng; thành phần, đặc điểm, tính chất của tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển. Đây là những vấn đề lý luận làm căn cứ để nhận diện tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển ở Việt Nam.
  • Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển Việt Nam: liệt kê, đánh giá sự phù hợp, sự hấp dẫn của những loại tài nguyên cơ bản; chỉ ra khu vực có nhiều thuận lợi về mặt tài nguyên; đánh giá điều kiện khai thác tài nguyên.
  • Thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển.
  • Định hướng nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên bền vững.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển Việt Nam.

Đây là một vấn đề tương đối rộng. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu được giới hạn là những loại tài nguyên thiên nhiên có giá trị khai thác cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng của vùng bờ biển (coastal zone) Việt Nam.

Có rất nhiều cách xác định vùng bờ biển dựa trên các quan điểm địa động lực, địa sinh thái, quản lý phát triển… Theo quan điểm phát triển du lịch thì “vùng bờ biển” là khoảng không gian hẹp trong phạm vi tương tác biển – lục địa mà tại đó có các tài nguyên du lịch thu hút du khách. Đó thường là vùng bờ biển cát có bãi tắm, các vách biển và dải đất hẹp ven biển dùng để phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, rừng ngập mặn, ám tiêu san hô, vùng vịnh, đầm phá, cồn cát… [25] Các loại tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển chủ yếu được xác định bao gồm: khí hậu hải dương, bãi tắm, mặt nước ven bờ, hải đảo và phong cảnh ven bờ (địa hình, thực vật). Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Số liệu thống kê được sử dụng chủ yếu theo các văn bản đã được công bố của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch và của Tổng cục Thống kê từ năm 2000.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu là cách thức cụ thể hay công cụ được sử dụng để nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhằm mục đích đi đến kết quả một cách chính xác. Để thực hiện những nội dung nghiên cứu trên, đề tài đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau. Những phương pháp chính được sử dụng trong đề tài là:

  • Phương pháp thu thập, hệ thống, tổng hợp, phân tích dữ liệu thứ cấp

Để có được cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ các công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí, được in thành sách, trên internet… liên quan đến nhiều lĩnh vực mà trực tiếp là du lịch, hải dương học, khí tượng, thuỷ văn. Do kế thừa kết quả của các công trình đã nghiên cứu trước nên giúp tác giả tiết kiệm được nhiều công sức, kinh phí nhưng thông tin giữa các nguồn tài liệu thường có sự không nhất quán do thời điểm nghiên cứu và góc độ đánh giá khác nhau nên đòi hỏi tác giả phải phân loại chúng theo độ tin cậy, theo tính thời sự rồi tiến hành hệ thống, tổng hợp, phân tích dữ liệu, đưa ra những kết luận có căn cứ.

  • Phương pháp khảo sát thực địa

Phương pháp thực địa là một trong những phương pháp quan trọng góp phần làm cho kết quả nghiên cứu mang tính xác thực. Điền dã tại một số bãi biển của miền Bắc và miền Trung giúp tác giả trực tiếp thẩm nhận giá trị của tài nguyên, bổ sung thêm thông tin, quan sát việc khai thác sử dụng tài nguyên làm căn cứ cho việc đề xuất những giải pháp hợp lý và khả thi.

  • Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

Tác giả đã tham khảo ý kiến đánh giá của TS Phạm Trung Lương – Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch và PGS.TS Nguyễn Chu Hồi – Viện Kinh tế & Quy hoạch Thuỷ sản, Bộ Thuỷ sản – những tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về biển – về tiềm năng du lịch nghỉ dưỡng của Việt Nam và hiện trạng khai thác. Những nhận định của các chuyên gia định hướng nghiên cứu cho tác giả.

  • Phương pháp xử lý bằng công cụ tin học

5. Lược sử nghiên cứu vấn đề Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Nghiên cứu về biển Đông có lịch sử lâu đời. Các kết quả nghiên cứu đã được ghi chép và mô tả trong sử sách như: Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1435), Toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ của Đỗ Bá (1630), Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1776), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821), Phương đình dư địa chí của Nguyễn Siêu (1900)…. Năm 1927, Viện Hải dương học được thành lập ở Nha Trang với vị giám đốc đầu tiên là A.Krempf – một nhà sinh vật học nổi tiếng – đã đánh dấu bước tiến trong công cuộc nghiên cứu biển Đông. Các công trình nghiên cứu của Viện Hải dương học tập trung  về thuỷ triều, sinh vật và cá biển. Hệ thống cơ quan quan trắc được dựng lên ở ven bờ và trên biển có nhiệm vụ thường xuyên nhiệt độ và độ muối. Năm 1954 thành lập thêm Trạm Nghiên cứu biển ở Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu về biển Đông ngày càng nhiều như: “Nguồn lợi sinh vật biển Đông” (1979), “Biển Đông tài nguyên thiên nhiên và môi trường” của Vũ Trung Tạng (1997); “Thuỷ triều vịnh Bắc Bộ”(1976), “Thuỷ triều vùng biển Việt Nam” (1984), “Thiên nhiên vùng biển nước ta” (1978) của tác giả Nguyễn Ngọc Thụy; “Địa lý tự nhiên biển Đông” (1999) của Nguyễn Văn Âu… Thông tin về biển Đông được cập nhật phong phú qua báo cáo định kỳ hàng năm của các cơ quan nghiên cứu về biển chủ yếu như: Viện Hải dương học Việt Nam, Viện Nghiên cứu hải sản (Bộ Thuỷ sản), Trung tâm Khí tượng thuỷ văn biển, Phân viện Cơ học biển (thuộc Viện cơ học)… Tuy nhiên đây là những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về biển của những phân ngành kỹ thuật, tài nguyên du lịch biển được đề cập đến hết sức sơ sài.

Từ năm 1990 – năm du lịch Việt Nam – đến nay nhiều dự án, đề tài nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch đã được thực hiện như: “Khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường du lịch Việt Nam” (1986); “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam”; “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010” (1995); “Địa lý du lịch” phần “Tổ chức lãnh thổ du lịch và phân vùng du lịch” (Nguyễn Minh Tuệ và nnk, 1997); “Đặc trưng các hệ sinh thái, cơ sở của phát triển du lịch sinh thái Việt Nam” (Nguyễn Khánh, 1999); “Tổ chức lãnh thổ dải ven biển khu vực trọng điểm miền Trung Việt Nam” (Nguyễn Quang Mỹ và nnk, 1995). Hầu hết các tỉnh thành trong cả nước cũng đã tiến hành các dự án điều tra, đánh giá tài nguyên và các nguồn lực phát triển du lịch phục vụ cho quy hoạch phát triển du lịch. Song do đặc điểm, phạm vi nghiên cứu của các dự án nên các công trình nói trên chỉ tiến hành kiểm kê, đánh giá tài nguyên du lịch theo từng thành phần hay tổng thể tài nguyên với mức độ khái quát. Việc nghiên cứu tài nguyên du lịch chuyên sâu phục vụ mục đích phát triển các loại hình du lịch cụ thể còn ít được quan tâm thực hiện.

Về tài nguyên du lịch biển đảo, Tổng cục Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với các ngành để triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp ngành tiêu biểu là: đề tài cấp Nhà nước “Luận chứng khoa học kỹ thuật phát triển du lịch biển Việt Nam” (thuộc chương trình điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước 48 – B); các đề tài “Luận chứng phát triển du lịch khu vực Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn”, “Định hướng phát triển du lịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ”, “Định hướng phát triển du lịch sinh thái Cù Lao Chàm”, “Thực trạng và định hướng phát triển du lịch khu vực từ Thanh Hoá đến Quảng Trị” (phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội); “Cơ sở khoa học phát triển du lịch vũng – vịnh ở Việt Nam” (phối hợp với Phân viện Hải dương học Hải Phòng)… Kết quả của các nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà bước đầu đã phát huy tác dụng trong thực tế quy hoạch và phát triển du lịch biển, đặc biệt là trong việc xây dựng phát triển các khu du lịch, các tuyến điểm du lịch, các sản phẩm du lịch biển. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch đã tiến hành lập “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tiểu vùng duyên hải Đông Bắc giai đoạn 2000 – 2020” với các nội dung chính: xác định vai trò của hệ thống đảo ven bờ Đông Bắc, xác định tiêu chuẩn, chức năng du lịch của hệ thống đảo ven bờ Đông Bắc, chiến lược phát triển thị trường, chiến lược đầu tư phát triển sản phẩm du lịch, định hướng tổ chức không gian du lịch. Tuy nhiên, bản quy hoạch này chưa đánh giá được hết thực tế giá trị của khu vực đảo còn ở dạng tiềm ẩn, định hướng bảo tồn và khai thác các giá trị còn chưa toàn diện. Năm 2003, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với chuyên gia của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO triển khai giai đoạn đầu dự án Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đảo Phú Quốc. Ngày 25/7/2007, tại Mũi Né (Phan Thiết) Tổng cục Du lịch Việt Nam và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận tổ chức hội thảo “Quản lý và phát triển du lịch biển đảo” để thu thập thêm thông tin nhằm hoàn chỉnh đề án phát triển du lịch biển đảo trình chính phủ vào cuối năm 2007. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Các công trình đánh giá tài nguyên biển đảo Việt Nam có chung kết luận về sự đa dạng, phong phú, giá trị sử dụng cao của tài nguyên biển đảo Việt Nam và khẳng định tiềm năng về tài nguyên cho phép Việt Nam phát triển nhiều loại hình du lịch biển. Những nhận định còn chung chung và định tính như “có thể nói dọc ven bờ biển nước ta, hầu như quanh năm và khắp nơi đều có thể tìm được những nơi nghỉ mát khá tốt, những bãi tắm đẹp hay những cảnh đồng núi, hang động ngoạn mục…”. Tuy nhiên rõ ràng mức độ phù hợp, mức độ thuận lợi về mặt tài nguyên cho các loại hình du lịch giữa các khu vực là không như nhau. Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu xây dựng các tiêu chí đánh giá tài nguyên cho loại hình và chỉ ra được vùng nào thuận lợi cho du lịch thể thao giải trí biển hay vùng nào thuận lợi cho du lịch nghỉ dưỡng biển để định hướng cho việc đầu tư khai thác tài nguyên.

Lựa chọn đề tài “Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng” với mục đích đánh giá sự phù hợp, thuận lợi về tài nguyên du lịch biển cho việc triển khai một loại hình du lịch cụ thể là một hướng nghiên cứu tiên phong, có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn đối với ngành Du lịch.

Để tiến hành đánh giá tài nguyên du lịch biển đảo Việt Nam một cách đầy đủ, cần thiết phải tổ chức khảo sát quy mô, kiểm kê, đánh giá chi tiết từng loại tài nguyên và từng điểm tài nguyên trên toàn lãnh thổ quốc gia theo một hệ tiêu chí đã xác định. Việc làm này đòi hỏi phải áp dụng những phương pháp và công nghệ khoa học của các lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi phải hết sức công phu, tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian, kinh phí, vượt qua khả năng của một cá nhân khi nghiên cứu. Vì vậy, trong đề tài này tác giả chủ yếu kế thừa các kết quả của một số nghiên cứu đánh giá trước đây rồi tổng hợp, đưa ra những nhận xét của cá nhân trên quan điểm của một người nghiên cứu và làm du lịch.

6. Bố cục của đề tài

Luận văn được cấu tạo thành 3 chương:

  • Chương 1: Du lịch nghỉ dưỡng và tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng
  • Chương 2: Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển Việt Nam
  • Chương 3: Thực trạng và định hướng khai thác tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng  biển Việt Nam

CHƯƠNG 1 DU LỊCH NGHỈ DƯỠNG VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NGHỈ DƯỠNG

1.1. Du lịch nghỉ dưỡng (leisure tourism)

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm loại hình du lịch nghỉ dưỡng 

Theo tác giả Trương Sỹ Qu‎ý, loại hình du lịch được định nghĩa như sau:

Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thoả mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như  nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán nào đó“. [20]

Có thể dựa vào các tiêu thức: mục đích chuyến đi; thời gian đi du lịch, vị trí địa lý của nơi đến du lịch; phương tiện lưu trú được sử dụng… để phân chia thành các loại hình du lịch. Cũng có thể căn cứ vào các tiêu chí trên để làm sáng tỏ khái niệm về một loại hình du lịch cụ thể và để phân biệt với các loại hình du lịch khác.

Loại hình du lịch nghỉ dưỡng là tập hợp các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu, động cơ du lịch để nghỉ ngơi, an dưỡng, phục hồi sức khoẻ. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Chuyến đi của con người có thể có mục đích thuần túy du lịch tức là chỉ nhằm nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh; cũng có chuyến đi vì mục đích khác nhưng có kết hợp tham gia hoạt động du lịch vào khoảng thời gian rỗi trong chuyến đi.‎ Theo mục đích chuyến đi có thể phân thành hai loại hình: du lịch thuần túy và du lịch kết hợp. Nghỉ dưỡng được xếp vào loại thuần túy du lịch. Nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du lịch nghỉ dưỡng là sự cần thiết phải nghỉ ngơi, dưỡng sức để phục hồi thể lực và tinh thần.

Bảng 1.1: Bảng phân loại loại hình du lịch theo mục đích chuyến đi [48]

nghỉ dưỡng còn có loại hình du lịch chữa bệnh hay còn được gọi là du lịch y tế (medical tourism). Du lịch chữa bệnh là hình thức đi du lịch để điều trị một căn bệnh nào đó, từ đơn giản như làm răng, loại bỏ mỡ thừa đến phức tạp như giải phẫu, cấy ghép các bộ phận cơ thể. Có các dạng: chữa bệnh bằng khí hậu (khí hậu núi, khí hậu biển); chữa bệnh bằng nước khoáng (tắm nước khoáng, uống nước khoáng); chữa bệnh bằng bùn; chữa bệnh bằng hoa quả; chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt là sữa ngựa)… Để các liệu pháp chữa trị hiệu quả, du khách cần nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Vì vậy dẫn đến sự ra đời của các trung tâm du lịch nghỉ dưỡng – chữa bệnh. Có một số học giả xếp du lịch nghỉ dưỡng và du lịch chữa bệnh vào cùng một nhóm du lịch sức khoẻ (heath tourism).

Song khác với việc đi điều dưỡng thông thường, khách hàng của du lịch nghỉ dưỡng hay du lịch chữa bệnh mang tâm lý của người muốn hưởng thụ, người đi chơi  nhiều hơn tâm lý của một người có bệnh cần điều trị. Họ là người nêu ra yêu cầu và đòi hỏi sự phục vụ chu đáo. Địa điểm họ lựa chọn không phải là những trạm điều dưỡng hay bệnh viện “lạnh ngắt” mà họ tìm đến những nơi vừa có thể nằm dài tắm nắng dưới hàng cọ ven biển, thăm thú các cảnh đẹp xung quanh vừa có thể nghỉ dưỡng, chữa bệnh. Trên phạm vi thế giới hiện tại, dòng khách du lịch chữa bệnh chảy từ các nước Bắc Mỹ, Trung Đông, Tây Âu sang Ấn Độ, các nước Đông Ấn và Nam Mỹ vì đó là ba khu vực không chỉ có chất lượng y tế, chăm sóc sức khoẻ ngang bằng với bất cứ nơi nào trên thế giới, giá cả thấp mà còn có nhiều điểm du lịch hấp dẫn, nhiều địa chỉ để mua sắm, khám phá và những bãi biển lý tưởng.  Mặt khác, nếu khách du lịch nghỉ dưỡng coi trọng yếu tố khí hậu, chất lượng môi trường, mức độ tiện nghi của cơ sở hạ tầng và sự đồng bộ của các dịch vụ thì với khách đi du lịch chữa bệnh, mối quan tâm số một là sự an toàn, hiệu quả của các phương pháp điều trị, tiếp theo mới là các ưu tiên khác.

Địa chỉ cho các chuyến nghỉ dưỡng thường các bãi biển, các vùng ven bờ nước, vùng núi, vùng nông thôn… Căn cứ theo vị trí địa lý của điểm du lịch mà tiếp tục chia du lịch nghỉ dưỡng thành: du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch nghỉ dưỡng núi, du lịch nghỉ dưỡng hồ, sông, suối…

Du khách của du lịch nghỉ dưỡng chủ yếu là nhóm đối tượng có thời gian nghỉ dài, có khả năng chi trả cao đến từ các đô thị, các nước kinh tế phát triển. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Nhà bác học người Anh, tiến sỹ Abraham Maslow trong bài “Lý thuyết về động lực của con người” đăng trên tạp chí “Tâm sinh lý học của con người” năm 1943 đã xếp nhu cầu nghỉ ngơi vào nhóm nhu cầu sinh lý, đó là nhu cầu mang tính phổ biến. Tuy nhiên, giữa người dân sống ở thành phố và người dân sống ở nông thôn thì nhóm cư dân đô thị có nhu cầu nghỉ ngơi lớn hơn. Môi trường sống công nghiệp với máy móc, thiết bị, động cơ, khói bụi, tiếng ồn… tách con người ra khỏi các điều kiện tự nhiên, nhiều trường hợp làm giảm sút chất lượng môi trường, ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của con người. Những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hoá như mật độ dân số cao, sự phức tạp trong các mối quan hệ xã hội, sức ép của công việc, giao thông ách tắc… càng gia tăng nhu cầu nghỉ ngơi du lịch của người dân thành phố. Họ tìm đến các địa phương có không khí trong lành, mát mẻ, môi trường tự nhiên sạch sẽ, cảnh vật thanh bình như ở vùng núi, vùng biển, nông thôn để được thay đổi không khí, thư giãn thoải mái giữa thiên nhiên và mong muốn phục hồi sức khoẻ.

Cư dân đô thị so với cư dân nông thôn ngoài khác biệt về mức độ, cấp độ của nhu cầu nghỉ dưỡng thì cư dân đô thị thường có mức thu nhập cao hơn. Họ có khả năng kinh tế để làm thoả mãn nhu cầu nghỉ dưỡng của mình, biến mong muốn thành hiện thực.

Ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ở các nước kinh tế phát triển rất đa dạng. Bên cạnh nhu cầu giải trí cuối tuần, hàng năm nhân dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ dài ngày ở vùng biển, trên núi, trong nước hoặc ở nước ngoài. Mức lương, phúc lợi, chính sách xã hội của người dân ở các nước phát triển thuận lợi ngay cả cho những người có mức thu nhập trung bình cũng có thể thực hiện những kỳ nghỉ dài ngày, sang trọng tại các nước kinh tế chậm phát triển hơn.

Căn cứ theo độ tuổi thì khách hàng tiềm năng nhất của loại hình du lịch nghỉ dưỡng là nhóm đối tượng trong độ tuổi thứ ba. Đó là những người về hưu có nhiều thời gian rỗi, có tiền tích lũy, kinh tế độc lập lại ở độ tuổi mà sức khoẻ giảm sút nên rất quan tâm tới sức khoẻ, đặc biệt có nhu cầu đi du lịch nghỉ dưỡng.

Khách hàng tiềm năng của du lịch nghỉ dưỡng ngoài ra còn phải kể đến những đôi tình nhân có nhu cầu đi hưởng tuần trăng mật, kỷ niệm đám cưới bạc, vàng ở những khu nghỉ dưỡng đẹp và tiện nghi để được thêm nhiều thời gian bên nhau và tăng thêm “gia vị” cho cuộc sống lứa đôi.

Du khách nghỉ dưỡng thường yêu cầu nhiều dịch vụ, các dịch vụ có chất lượng cao và sự đồng bộ về chất lượng giữa các dịch vụ.

Với một số loại hình du lịch như du lịch nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái, để đạt được mục đích tìm hiểu về thế giới tự nhiên và những nền văn hoá bản địa, du khách không đặt cao vấn đề ăn uống hay chỗ ở, họ có thể chấp nhận sự thiếu thốn về cơ sở vật chất. Song đối với du lịch nghỉ dưỡng, họ quan tâm đến chất lượng bữa ăn, chất lượng của giấc ngủ, chất lượng của các bài tập vận động… vì từng yếu tố đều có ảnh hưởng tới sức khoẻ của họ và sự đồng bộ của chúng làm nên chất lượng của kỳ nghỉ. Khu nghỉ dưỡng ngoài việc phải toạ lạc ở nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp, còn cần phải có thiết bị và tiện nghi phù hợp như bể bơi, phòng massage, phòng điều dưỡng… được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng đảm bảo.

Trong thời gian nghỉ dưỡng tương đối dài, du khách có thể không làm gì ngoài việc tắm nắng trên bãi biển, ngồi thiền tịnh trong những túp lều gỗ giữa rừng và yêu cầu được tôn trọng sở thích cá nhân hoặc cũng có thể kết hợp tham quan một vài địa điểm tự chọn, tham gia những hoạt động thể thao giải trí nếu những hoạt động đó theo quan niệm của họ là hữu ích cho việc phục hồi sức khoẻ. Không như các loại hình du lịch khác, du khách của du lịch nghỉ dưỡng thường không di chuyển nhiều, không cần phải đi theo lịch trình cố định cũng như chịu sự thúc ép về thời gian.

Du lịch nghỉ dưỡng thuộc loại hình du lịch dài ngày. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Theo độ dài của chuyến du lịch, người ta phân thành du lịch ngắn ngày và du lịch dài ngày. Các chuyến du lịch được thực hiện trong thời gian dưới một tuần lễ được coi là du lịch ngắn ngày. Thời gian của một chuyến du lịch dài ngày thường kéo dài từ một tuần đến dưới một năm. Thuộc loại hình du lịch dài ngày, phải kể đến các chuyến thám hiểm của các nhà nghiên cứu, các chuyến viễn du bằng tàu biển và những chuyến nghỉ dưỡng, chữa bệnh.

Tác giả Nguyễn Văn Đính, trong cuốn “Giáo trình kinh tế du lịch”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, năm 2004, trang 115, có đoạn: “Tại một khu nghỉ mát biển có nhiều nguồn nước khoáng có giá trị, ở đó phát triển mạnh hai loại hình du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè và du lịch nghỉ dưỡng vào mùa đông dẫn đến ở đó có hai mùa du lịch “. Có sự phân biệt trong quan niệm về du lịch nghỉ biển và du lịch nghỉ dưỡng biển. Căn cứ để phân biệt loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển với nghỉ biển là thời gian nghỉ dài, cũng như việc sử dụng các dịch vụ cao cấp hơn cho mục đích phục hồi sức khoẻ.

Loại hình lưu trú đặc trưng của du lịch nghỉ dưỡng là resort.

Resort (khu nghỉ dưỡng) là một loại hình lưu trú có chức năng phục vụ nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng và hoạt động thể thao giải trí của khách.   Resort được phân biệt với các loại hình lưu trú khác bởi quy mô lớn (có những resort có diện tích bằng cả một thành phố nhỏ) với hoạt động tổng hợp của nhiều loại dịch vụ như phục vụ ăn uống, phòng nghỉ, thể thao, giải trí và mua sắm. Tại các resort, người ta nỗ lực làm tất cả để cung cấp đầy đủ các phương tiện và tiện nghi nhằm giữ chân khách trong suốt kỳ nghỉ dài mà không cần phải tìm đến một dịch vụ nào khác.

Resort thường là những khu biệt lập, nằm ở những khu vực xa trung tâm thành phố, xa khu vực tập trung đông dân cư, khí hậu trong lành. Trên thực tế, chúng ta thấy rằng tại  trung tâm đô thị lớn như Hà Nội có rất nhiều lợi thế về các cơ sở lưu trú cao cấp nhưng không xây khu nghỉ dưỡng, trong khi tỉnh phụ cận như Hoà Bình lại có thể mở rộng các khu nghỉ dưỡng.

Resort có các loại: seaside resort nằm ven biển; ski resort toạ lạc trong vùng núi cao có tuyết phủ dày thích hợp để làm các đường trượt tuyết; golf resort với các sân golf đi kèm; mega resort tổng hợp các loại hình dịch vụ lưu trú được trang trí và thiết kế tuân theo một chủ đề nào đó…

1.1.2 Lịch sử và triển vọng phát triển du lịch nghỉ dưỡng

Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người, buổi ban đầu thường đi kèm với các hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm các vùng đất mới. Từ cuối thế kỷ XVII, do thành quả của cuộc đại cách mạng khoa học kỹ thuật dẫn đến sự bắt đầu của hình thái xã hội công nghiệp. Hoạt động sản xuất của con người được thay đổi tận gốc. Lao động chân tay giảm xuống với tốc độ nhanh chóng song cường độ, sự căng thẳng trong lao động lại tăng lên với tốc độ tương ứng. Sự tập trung quá đông số người trong các trung tâm công nghiệp lớn, bầu không khí bị các xí nghiệp công nghiệp làm bẩn, ô nhiễm tiếng ồn… làm các bệnh trầm cảm, thần kinh, bệnh tim mạch… xuất hiện hàng loạt. Mọi người quan tâm tích cực hơn đến việc giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ. Sản xuất công nghiệp cũng nâng cao thu nhập, người lao động có khả năng thanh toán cho các kỳ nghỉ ở xa nhà. Các tổ chức sản xuất kinh doanh, các tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn dành quỹ phúc lợi, bảo hiểm cho các thành viên đi tham quan, nghỉ dưỡng ở trong nước và nước ngoài nhằm tái tạo sức lao động, thực chất là vì muốn tăng hiệu quả sản xuất.

Nước Anh là nước công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Du lịch nghỉ dưỡng được coi là “tác phẩm” của người Anh. Trong lịch sử resort, seaside resort xuất hiện sớm nhất, từ đầu thế kỷ XIX, với việc hoàng thái tử Regent biến Brighton trên bờ biển phía nam nước Anh trở thành một nơi dành cho khách thập phương. Sau đó, dưới sự bảo trợ lâu dài của triều đại nữ hoàng Victoria, nơi này trở thành cơ sở lưu trú cao cấp ven biển dành cho những người đủ giàu để có thể biến nơi đây thành nhà của họ. [62] Khi người Anh đi chơi xa thì nơi đầu tiên họ nghĩ đến là nước Pháp láng giềng. Một trong những khu nghỉ dưỡng xuất hiện sớm nhất và nổi tiếng nhất dọc theo bờ biển ở Nice có cái tên: Promenade des Anglais (có nghĩa là nơi dạo chơi của người Anh).

Người Anh cũng là người đầu tiên chỉ ra giá trị du lịch của vùng Địa Trung Hải với ba chữ S (sea, sand, sun). Theo bước người Anh, mỗi dịp hè du khách Hà Lan, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ… đổ về bờ Địa Trung Hải của Pháp từ Roussillon đến Côte dAzur, bờ Địa Trung Hải của Italia, của Hy Lạp… Resort xuất hiện ngày càng nhiều tại các nước Châu Âu. Vị trí đặt resort thiên về những chỗ mà từ đó có thể quan sát được cảnh đẹp như những quả đồi xếp theo hình móng ngựa vây quanh các vịnh nhỏ, các mũi đất hay những hòn đảo biệt lập. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Sau đó, có sự chia sẻ dòng khách nghỉ biển sang vùng bờ Đại Tây Dương của Bồ Đào Nha, bờ Đại Tây Dương của Tây Ban Nha từ Costa de Sol đến Costa Brava…

Nửa sau thế kỷ XIX, đặc biệt từ năm 1880, các trạm nghỉ dưỡng biển không những phát triển dọc bờ biển của các nước phát triển mà ở cả một số nước đang phát triển như Ai Cập, Giamaica, Mêhicô…

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, chính sách về những kỳ nghỉ đông có lương ra đời, có thêm dòng khách nghỉ dưỡng về các vùng tuyết phủ trên dãy Alpes, Pirrénees, Jura, Carpate… kéo theo sự ra đời của các trung tâm nghỉ dưỡng núi.

Sang thế kỷ XXI, với đà phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, con người cố gắng làm cho cuộc sống cá nhân trở nên dễ chịu và thuận tiện hơn bằng cách tạo ra những môi trường kỹ thuật nhỏ bao quanh mình, làm cho cuộc sống của chính mình ngày càng xa rời tự nhiên. Trong khi đó với tư cách là một thực thể của tự nhiên, con người lại muốn quay về gần thiên nhiên. Môi trường tự nhiên trong lành trở thành một mặt hàng “xa xỉ” ao ước với nhiều người. Các loại hình du lịch trở về với thiên nhiên đang trở thành một xu thế và nhu cầu phổ biến của con người, đặc biệt khi cuộc sống của họ ngày càng đầy đủ. Địa chỉ cho những chuyến trở về với thiên nhiên đó thường là những nơi có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục như các bãi biển, các vùng ven bờ nước, vùng núi, vùng nông thôn hay các khu rừng nguyên sinh… Xu hướng giảm giờ lao động, giảm tuổi về hưu, tăng các phúc lợi xã hội tạo điều kiện cho du khách thực hiện mong ước về các chuyến nghỉ dưỡng dài ngày. Cơ cấu độ tuổi thay đổi, tỷ trọng dân ở độ tuổi thứ ba gia tăng tại các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, cung cấp lượng khách lớn và ổn định cho du lịch nghỉ dưỡng.

Trên phạm vi toàn thế giới, hiện nay hướng vận động của khách du lịch nghỉ dưỡng toả đi khắp nơi trên toàn cầu. Ngoài những địa chỉ quen thuộc, dòng du khách bắt đầu hướng sự quan tâm sang khu vực Thái Bình Dương. Du khách Châu Âu, Bắc Mỹ bị cuốn hút mạnh bởi những Phuket (Thái Lan), Mandivơ, Bali (Inđônêxia), Sentosa (Singapo)… những khu nghỉ dưỡng biển triển vọng của Đông Nam Á.

Bảng 1.2:   Mười đảo du lịch tốt nhất thế giới năm 2005  

Du khách ngày càng quan tâm hơn đến các hải đảo. Với họ, hải đảo là một hệ sinh thái hoàn chỉnh có rừng, có biển, có bãi cát và chan hoà ánh nắng mặt trời, tài nguyên đa dạng phong phú, cảnh quan đảo biển tráng lệ, khí hậu trong lành đến độ tinh khiết … là thiên đường cho du lịch nghỉ dưỡng và khám phá.

Tại Việt Nam, du lịch nghỉ dưỡng phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Để phục vụ cho nhu cầu nghỉ dưỡng của sỹ quan Pháp, hàng loạt các biệt thự, nhà nghỉ được xây dựng ven các bãi biển, vùng hồ, vùng núi, gần các khu nước khoáng, những nơi có khí hậu dễ chịu, tiêu biểu như ở Đồ Sơn, Vũng Tàu, Sầm Sơn, Đà Lạt, Tam Đảo, Ba Vì, Quang Hanh, Kim Bôi… Những vị vua cuối triều Nguyễn là những vị vua sành về thưởng ngoạn. Khải Định chọn Lăng Cô là nơi nghỉ mát và đặt tên là Hành cung Tịnh Viên. Còn Bảo Đại xây biệt thự nghỉ dưỡng ở hầu khắp những nơi có cảnh đẹp và khí hậu ôn hoà như ở Hải Phòng, Đà Lạt… Cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, ngành du lịch Việt Nam chưa phát triển nhiều loại hình du lịch, chủ yếu là loại hình tắm và nghỉ dưỡng biển. Đối tượng được hưởng chế độ nghỉ dưỡng hạn chế trong số ít quan chức nhà nước và một số chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Du lịch mới chỉ thực sự được khuấy động từ khoảng 1990 đến nay. Trước đó, tâm lý nghi ngại người ngoại quốc (sự e ngại về sự nhập cảnh của các phần tử xấu gián điệp…) làm cho cánh cửa mở ra thế giới  không được rộng thoáng. Còn du lịch trong nước hầu như không tồn tại vì sự đi lại không dễ dàng. Mỗi một bộ, ngành đều dùng công quỹ xây dựng cho mình những nhà nghỉ để hàng năm đến mùa hè đón tiếp những cán bộ công nhân viên chức được phân phối đi nghỉ mát, mọi chi phí do công đoàn bao cấp. Những cải thiện về chính sách đối ngoại đã giúp cho ngành du lịch phát triển nhanh. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Ngày nay, du lịch ngày càng được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng cường sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Theo các công trình nghiên cứu về y sinh học của Crivosev, Dorin, 1981, nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư giảm trung bình 30%. Phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng khơi dậy một trào lưu nghỉ ngơi giải trí tích cực, góp phần vào việc hồi phục sức khoẻ cũng như khả năng lao động, đảm bảo tái sản xuất và mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ ràng.

Việc tiếp xúc, tắm mình trong thiên nhiên, được cảm nhận một cách trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát và nên thơ của các cảnh quan tự nhiên có ý nghĩa to lớn đối với du khách. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, thấy được giá trị của thiên nhiên đối với đời sống con người. Điều này có nghĩa là bằng thực tiễn phong phú, du lịch nghỉ dưỡng sẽ góp phần rất tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường.

Phát triển du lịch nghỉ dưỡng ngoài việc làm thay đổi diện mạo cơ sở hạ tầng còn góp phần cải tạo chất lượng môi trường của địa phương.

Dựa vào xu hướng gia tăng nhu cầu nghỉ dưỡng của con người, dựa vào việc nhìn nhận của các quốc gia về lợi ích kinh tế – xã hội – môi trường của loại hình này, có thể khẳng định du lịch nghỉ dưỡng sẽ tiếp tục phát triển và phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai.

1.2. Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng

1.2.1. Tài nguyên và các nguồn tài nguyên biển

Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm tất cả những nguồn nguyên liệu, năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. [30] Yếu tố quy định của tài nguyên là khả năng phục vụ cho cuộc sống của con người hay nói cách khác phải có giá trị sử dụng.

Căn cứ theo nguồn gốc hình thành, tài nguyên được phân loại thành tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên thiên nhiên là các dạng vật chất được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên và sinh vật. Các dạng vật chất này cung cấp nguyên nhiên vật liệu hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển của con người. Tài nguyên nhân văn là loại tài nguyên do lao động của con người tạo ra như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, đô thị, nông thôn và các dạng vật chất khác…

Căn cứ theo khả năng phục hồi, tài nguyên được phân loại thành tài nguyên có khả năng phục hồi và tài nguyên không có khả năng phục hồi. Tài nguyên có khả năng phục hồi là các dạng tài nguyên mà thiên nhiên có thể tạo ra liên tục và được con người sử dụng lâu dài như rừng, các loài thuỷ hải sản ở sông hồ, biển, độ phì nhiêu của đất… Tài nguyên không có khả năng tự phục hồi gồm các khoáng vật hay các nguyên nhiên vật liệu như than, dầu mỏ, gas tự nhiên… được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vỏ trái đất. Các tài nguyên này có một khối lượng nhất định và bị hao hụt dần sau khi được khai thác để phục vụ cho sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại. Trong suốt quá trình sống, con người đã liên tục can thiệp vào giới tự nhiên, do đó một số trường hợp tài nguyên có khả năng phục hồi sẽ biến thành tài nguyên không có khả năng phục hồi. Vì vậy, khái niệm tài nguyên có thể phục hồi và không thể phục hồi chỉ mang ý‎ nghĩa tương đối mà thôi.

Các nguồn tài nguyên biển Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Tài nguyên biển (đại dương) là một bộ phận của tài nguyên thiên nhiên, hình thành và phân bố trong khối nước biển, trên bề mặt đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển. [27]

Với diện tích 2/3 bề mặt trái đất, đại dương thế giới (bao gồm toàn bộ khối nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy) chứa một nguồn tài nguyên vô cùng phong phú. Về tài nguyên sinh vật, trong đại dương có trên 200.000 loài, trữ lượng tiềm năng của sinh vật biển khoảng 34,2 tỷ tấn. Bên cạnh nguồn lợi sinh vật, biển còn là mỏ khoáng khổng lồ, trong thềm lục địa có những túi dầu với trữ lượng lớn khoảng 135 tỷ tấn, còn mangan có thể cung cấp cho thế giới dùng trong 2 vạn năm, coban – 30 vạn năm, đồng – 900 năm … Hầu hết các nguyên tố hoá học đều có mặt trong khối nước biển. Song, muối ăn có hàm lượng cao nhất. Nếu như toàn bộ muối trong đại dương được kết tinh lại sẽ cho một khối lượng lớn đến mức mà nó có thể trài trên toàn lục địa một lớp dày 150m. Về năng lượng, người ta ước tính rằng, năng lượng sóng khoảng 70 tỷ kw, hải lưu – 100 triệu kw, năng lượng nhiệt khoảng 50 tỷ kw… Tổng các loại năng lượng của đại dương khoảng 152,8 tỷ kw…. Biển và đại dương ngày càng trở nên quan trọng với tư cách là nguồn năng lượng, tài nguyên khoáng sản và thức ăn cho thế giới tương lai khi tài nguyên đất liền nhanh chóng bị cạn kiệt trước sức ép của gia tăng dân số và nhu cầu khai thác của con người. Tài nguyên biển các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có khả năng phục hồi.

Ngoài các loại tài nguyên trên, con người còn có khả năng sử dụng biển và đại dương vào nhiều hoạt động phát triển của mình, nhằm khai thác một cách triệt để và hiệu quả 2/3 diện tích bề mặt trái đất bị nước bao phủ này. Trong số đó, thông thường hơn cả là giao thông vận tải, thông tin liên lạc, du lịch, nghiên cứu khoa học. Giao thông vận tải bằng đường biển là loại hình quan trọng nhất được sử dụng để chuyên chở khối lượng hàng hoá rất lớn giữa các nước cũng như giữa các lục địa với nhau. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển có hiệu quả kinh tế cao vì không cần chi phí cho việc xây dựng tuyến đường (trừ các bộ phận gần cảng), năng lượng tiêu hao trong quá trình vận chuyển thấp và đơn giá cho việc vận chuyển một tấn hàng hoá rẻ hơn nhiều so với các dạng vận chuyển khác. Đối với các vùng nhiệt đới còn có một l‎ý do khác nữa là giao thông vận tải đường biển hoạt động được quanh năm.

Một dạng tài nguyên gián tiếp của đại dương khi cho rằng nó là bộ máy điều hoà khí hậu khổng lồ. Mùa hè, nhiệt độ không khí thường rất cao, nước biển hấp thu năng lượng mặt trời. Khi đó, nhiệt độ không khí trên biển và vùng ven biển sẽ giảm đi so với các vùng khác nằm cách xa biển. Ngược lại, vào mùa đông, khi nhiệt độ không khí thấp, thì đại dương lại toả nhiệt để làm ấm nhiệt độ không khí.

1.2.2. Tài nguyên du lịch Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

a) Khái niệm tài nguyên du lịch

Tài nguyên đa dạng, phong phú. Con người sử dụng tài nguyên cho nhiều mục đích khác nhau. Du lịch là một trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Tài nguyên du lịch trước hết là một dạng trong toàn bộ tài nguyên mà con người sử dụng.

Không phải bất cứ mọi kiểu địa hình, mọi kiểu khí hậu, mọi sản phẩm văn hoá tinh thần… đều có khả năng hấp dẫn khách cũng như có khả năng kinh doanh du lịch, mà phải là những kiểu địa hình độc đáo, những kiểu khí hậu phù hợp, những sản phẩm mang các giá trị văn hoá tiêu biểu… thu hút du khách, trở thành mục tiêu đi du lịch của du khách mới được coi là tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung.

Nhiều học giả đưa ra quan niệm về tài nguyên du lịch. Bản chất khái niệm khá thống nhất.

I.I.Pirôjnik (học giả người Nga), “Cơ sở địa lí du lịch phục vụ tham quan”, 1985: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực và tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ; trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện đại và tương lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng được dùng trực tiếp hoặc gián tiếp sản xuất ra những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”.

Nguyễn Minh Tuệ, Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Kim Hồng, “Địa l‎í du lịch”, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1997:  “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá – lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ;  những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch

Các tác giả trên quan niệm tài nguyên du lịch được sử dụng góp phần để phục hồi sức khoẻ, phát triển thể lực trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ. Quan niệm này chỉ phù hợp với đặc điểm phát triển du lịch của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây khi nền kinh tế mang tính chất bao cấp. Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, trả lương cho cán bộ, nhân viên lao động làm việc trong ngành Du lịch, bỏ tiền để tiếp đón các cán bộ nhân viên nhà nước đi nghỉ dưỡng theo chế độ hoặc đón tiếp các chuyên gia. Thực tế hiện nay việc khai thác tài nguyên du lịch ngoài chức năng xã hội phục vụ cho du khách, tài nguyên du lịch còn được khai thác nhằm đạt được hiệu quả về kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, hiệu quả môi trường và chính trị… Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (học giả người Trung Quốc): “Tất cả các nhân tố có thể kích thích động cơ du lịch của du khách được ngành Du lịch tận dụng và từ đó sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội thì đều gọi là tài nguyên du lịch”[68]

Luật Du lịch” 2006, Điều 4, Mục 4: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch

Bảng tóm tắt sau của tác giả Trần Đức Thanh sẽ giúp chúng ta hình dung rõ ràng cấu trúc cũng như bản chất của khái niệm tài nguyên du lịch. Tài nguyên chỉ được coi là tài nguyên du lịch khi và chỉ khi nó có sức hấp dẫn du khách hay nói cách khác khi chúng mang một hoặc một vài giá trị nào đó.

b) Đặc điểm của tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch mang tính chất của tài nguyên nói chung và những đặc điểm riêng liên quan đến tính chất của ngành Du lịch.

  • Tài nguyên du lịch có tính hấp dẫn

Tính hấp dẫn là đặc trưng bản chất nhất, phân biệt tài nguyên du lịch với tài nguyên nói chung. Nếu không có tính hấp dẫn thì chúng không thể được coi là tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch có thể được khai thác, sử dụng nhiều lần, chừng nào chúng còn giữ được sự hấp dẫn và thu hút khách. Điều đó cũng có nghĩa rằng tài nguyên du lịch có thể không tồn tại nữa nếu đánh mất đi tính hấp dẫn. Vì vậy, trong quá trình khai thác tài nguyên, cần quan tâm đến việc chăm sóc bảo vệ, nâng cấp tài nguyên làm sao luôn đảm bảo cho tài nguyên giữ được tính hấp dẫn.

  • Tài nguyên du lịch có tính đa dạng

Thông thường, mỗi ngành kinh tế khai thác một hoặc một vài dạng tài nguyên nhất định, riêng tài nguyên phục vụ du lịch rất đa dạng, phong phú. Chúng có thể là các nguồn năng lượng tự nhiên như ánh nắng mặt trời, gió, nước, các hệ sinh thái khác nhau hay các nền văn hoá, các ngành nghề thủ công, các công trình khoa học…. Chúng có thể là hữu hình (các di tích), cũng có thể là vô hình (các hình thức văn nghệ dân gian, văn hoá ẩm thực, phương pháp và bài thuốc chữa bệnh…).

Tài nguyên du lịch còn là một phạm trù động. Những thay đổi về nhu cầu du lịch lôi cuốn vào tài nguyên du lịch những thành phần mới (khoảng không gian vũ trụ, thế giới bí ẩn trong lòng đại dương…) làm cho nội dung tài nguyên ngày càng mở rộng phong phú.

  • Tài nguyên du lịch được sử dụng tại chỗ, không thể di dời

Đối với một số tài nguyên khác, sau khi khai thác có thể được vận chuyển tới nơi chế biến thành sản phẩm rồi lại được đưa đến tận nơi tiêu thụ. Đối với đa số các tài nguyên du lịch như cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử… thì đều gắn chặt với vị trí địa lý, được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch. Ngay cả những di sản văn hoá phi vật thể thì cũng chỉ một số loại hình có thể đưa đi phục vụ ở những nơi khác như ca múa nhạc dân tộc, các trò chơi dân gian… Tuy nhiên, ngay cả những loại hình này cũng chỉ thực sự phát huy hết giá trị trên quê hương sản sinh ra chúng. Gần đây có quan niệm cho rằng, lễ hội có thể tái dựng lại, mang đi trình diễn thường xuyên cho du khách. Nếu làm như vậy lễ hội sẽ đánh mất các giá trị vốn có của chúng và sẽ không còn hấp dẫn du khách nữa. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên du lịch tạo nên lực hút cơ sở hạ tầng và dòng du khách tới nơi tập trung các loại tài nguyên. Trong du lịch, chỉ có dòng chuyển động một chiều từ khách đến điểm du lịch mà không có chuyển động ngược chiều như ở các hoạt động kinh doanh khác. Điều đó dẫn đến một hệ quả quan trọng, muốn khai thác tài nguyên du lịch điều đầu tiên cần quan tâm là phải chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như các phương tiện vận chuyển du khách.

  • Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau

Trong số các tài nguyên du lịch, có những tài nguyên có khả năng khai thác quanh năm, lại có những tài nguyên mà việc khai thác ít nhiều lệ thuộc vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu theo quy luật diễn biến của thời tiết. Đặc tính này đã trực tiếp tạo nên tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch.

c)  Vai trò của tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển du lịch. Chính sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch tạo nên sự phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo, có mức độ tập trung cao thì giá trị của sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn khách du lịch càng tăng, hiệu quả kinh doanh du lịch càng cao. Thật khó khăn cho một địa phương muốn phát triển du lịch mà không có tài nguyên du lịch hoặc tài nguyên du lịch quá nghèo nàn.

Căn cứ theo đặc điểm phân bố của tài nguyên du lịch, trong tổ chức lãnh thổ du lịch đã hình thành nên các điểm du lịch, các cụm du lịch, các trung tâm du lịch và các tuyến du lịch. Từ các tuyến điểm du lịch này, trong quá trình khai thác sẽ lựa chọn, sắp xếp thành các chương trình du lịch tức là các sản phẩm du lịch cụ thể cung cấp cho du khách.

Để đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú ngày càng cao của khách du lịch, các doanh nghiệp, các địa phương, các quốc gia cần phát triển nhiều loại hình du lịch. Mỗi loại hình du lịch thường được phát triển dựa vào những đặc điểm, tính chất riêng của các loại tài nguyên du lịch. Không có những hang động ngầm bí ẩn, những đỉnh núi cao hiểm trở, những cánh rừng nguyên sinh âm u, hoang vắng thì không thể xuất hiện loại hình du lịch thám hiểm. Hay không có những bãi san hô và thế giới sinh vật thuỷ sinh muôn màu muôn vẻ chìm ngập trong làn nước trong xanh thì không thể có loại hình du lịch ngầm dưới biển. Tài nguyên du lịch để phát triển loại hình du lịch tâm linh là hệ thống các di tích tôn giáo có giá trị văn hoá lịch sử đặc sắc như chùa, đình, đền, nhà thờ và các tổ chức tôn giáo cùng với hệ thống các giáo lý.

Giá trị, quy mô, sức chứa, thời gian khai thác… của tài nguyên quyết định mức độ thuận lợi và mức độ hấp dẫn của địa phương nào đó cho phát triển một loại hình du lịch cụ thể.

Mặt khác, chính sự xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho nhiều yếu tố của điều kiện tự nhiên và xã hội trở thành tài nguyên du lịch.

1.2.3. Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch. Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa trên cơ sở của tài nguyên. Loại hình du lịch khác nhau thì sử dụng các loại tài nguyên không giống nhau và có những tiêu chuẩn nhất định đối với tài nguyên. Hay nói cách khác tài nguyên đối với mỗi loại hình du lịch có đặc trưng riêng.

Đối tượng của loại hình du lịch tham quan thường là những danh lam thắng cảnh, lễ hội, trò chơi dân tộc, làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống… Bề mặt nước ven các bãi biển, trên các hồ, các sông suối, kênh rạch có phong cảnh đẹp, nước không bị ô nhiễm nhiều là nơi có thể triển khai các hoạt động tham quan trên nước. Đối tượng của du lịch sinh thái, săn bắn hay nghiên cứu khoa học thì là các hệ sinh thái tự nhiên.

Cùng khai thác các hệ sinh thái tự nhiên, song du lịch sinh thái, săn bắn, nghiên cứu khoa học lại khai thác chúng ở các khía cạnh hay các giá trị khác nhau. Với du lịch sinh thái, cần những loài động thực vật có màu sắc hấp dẫn, vui mắt, dễ quan sát bằng mắt thường, ống nhòm hoặc nghe tiếng hót, tiếng kêu và có thể chụp ảnh được. Với du lịch săn bắn, động vật được phép săn là loài phổ biến, không ảnh hưởng đến số lượng, quỹ gien và phải là loại động vật hoạt động nhanh nhẹn. Đối với du lịch nghiên cứu khoa học, tài nguyên bao gồm hệ động thực vật phong phú đa dạng, những loài đặc hữu, bảo tồn một số loại gien quý giá đặc trưng.

Ví dụ khác về khí hậu, Vũng Tàu không thể là một bãi biển nổi tiếng, thu hút hàng triệu khách mỗi năm nếu ở đó có khí hậu như ở Đà Lạt hay Sapa. Ngược lại Đà Lạt, Sapa sẽ không có tên trên bản đồ du lịch Việt Nam với tư cách là các trung tâm nghỉ dưỡng núi nếu ở những vùng này lại có khí nóng như ở Vũng Tàu. Lại giả sử nước ta là nước thuộc khu vực ôn đới, quanh năm mát mẻ thì chắc chắn Sapa, Đà Lạt cũng khó có thể thu hút nhiều khách du lịch đến thế. Như vậy, không phải cứ khí hậu ôn hoà, mát mẻ là đã đủ điều kiện để được coi là tài nguyên du lịch, khí hậu có là tài nguyên du lịch hay không thì còn phải xét đến sự phù hợp với loại hình du lịch cụ thể.

Mỗi loại tài nguyên du lịch đều có thể mang lại cho du khách các giá trị về mặt tinh thần, tri giác, cảm giác nhất định, nhưng những giá trị đó chỉ có ý nghĩa khi chúng có thể đáp ứng những gì mà khách du lịch trông đợi.   Sự phù hợp của tài nguyên du lịch với loại hình du lịch suy cho cùng do mục đích chuyến đi quy định, bắt nguồn từ những yêu cầu của du khách. Đáp ứng những yêu cầu của du khách thì tài nguyên mới được xem là có giá trị phục vụ cho loại hình.

Khách đi du lịch với mục đích chữa bệnh thì tài nguyên cần là những nguồn nước khoáng, bùn, muối, khí hậu… có tác dụng chữa bệnh. Với du khách thích mạo hiểm tham gia du lịch thể thao thì dạng địa hình được coi là tài nguyên khi địa hình tồn tại các vật chướng ngại như ghềnh, thác, sông,  suối… để thử thách lòng dũng cảm. Du khách lặn biển là để tận mắt chứng kiến thế giới kỳ ảo trong lòng đại dương nên tài nguyên của du lịch lặn biển trước tiên phải là khu vực biển có cảnh quan đáy biển hấp dẫn. Phù hợp với du lịch lướt sóng cần những vùng bờ có sóng lừng. Với du lịch thể thao nhảy dù, tàu lợn, thả diều, khinh khí cầu, thuyền buồm… cần trời quang mây, không có sương mù, tốc độ gió và hướng gió thích hợp.

Sống hàng ngày trong môi trường công nghiệp và đô thị hoá khiến người dân thành phố có nhu cầu nghỉ dưỡng lớn và họ mong muốn thoát ra khỏi cuộc sống tấp nập, bụi bặm đó bằng cách tận dụng những kỳ nghỉ để được trở về với tự nhiên, sống thoải mái trong môi trường thiên nhiên nguyên sơ. Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng phần lớn là tài nguyên thiên nhiên. Mục đích chủ yếu của những chuyến đi nghỉ dưỡng là để phục hồi sức khoẻ, tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng là các thành phần của tự nhiên có khả năng bồi bổ sức khoẻ. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Các điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, lượng ôxy, áp suất, độ trong lành của không khí tỏ ra có hiệu quả trong việc nhanh chóng làm phục hồi sức khoẻ của con người.  Vùng biển và vùng núi là những nơi có khí hậu dễ chịu, trong lành, nhiều yếu tố có lợi cho sức khoẻ và đó chính là lý do đầu tiên du khách chọn biển, núi làm địa chỉ cho các chuyến nghỉ dưỡng.

Không khí ở vùng bờ biển trong lành do chứa một lượng khá lớn anion – một loại “vitamin không khí”. Khi hít thở, các anion này vào cơ thể, cải thiện hoạt động của phổi, tăng thêm khả năng hấp thụ ôxy và thải khí cacbonic. Chúng là các ion mang điện nên có tác dụng hạn chế vi khuẩn sinh sôi nảy nở. Môi trường nhiều anion sẽ làm tăng công năng thần kinh giao cảm của con người, khiến người ta cảm thấy sảng khoái vui vẻ. ánh nắng vùng biển làm tăng sự trao đổi chất, tạo ra vitamin D, tăng lượng hồng cầu, bồi bổ sức khoẻ, đem đến những giấc ngủ ngon lành.

Gradien nhiệt độ với vùng núi trung bình là 0,6oC/100m, tức là cứ lên cao 100 m thì nhiệt độ không khí giảm 0,6o. Lên núi cao không còn cảm giác oi nồng như ở dưới đồng bằng. Không khí vùng núi mỏng hơn, nhẹ hơn, khí áp thấp hơn làm cho máu lưu thông dễ dàng, thành phần ôdôn trong không khí cao làm tăng số lượng hồng cầu, rất tốt cho những người thiếu máu hay suy nhược thần kinh.

Tại Việt Nam, điều kiện khí hậu dễ chịu nhất là nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 15 – 23oC và độ ẩm tuyệt đối từ 14 – 21 mb. Các điều kiện đó ứng với khu vực Đà Lạt, nơi quanh năm có nhiệt độ không khí trung bình hàng tháng dao động trong khoảng 16,4oC đến 19,7oC và độ ẩm tuyệt đối từ 13,8 mb – 19,5 mb. Ở Sa pa, có tới 7 tháng điều kiện khí hậu dễ chịu, từ tháng 4 đến tháng 10, ứng với nhiệt độ trung bình háng tháng từ 15,6oC – 19,8oC và độ ẩm tuyệt đối từ 15,7mb – 20,3 mb. Điều đó lý giải vì sao hai nơi này đã được lựa chọn và xây dựng để trở thành các điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng ở nước ta.

Đối với du lịch tham quan, dành cho đối tượng du khách hiếu kỳ, một số hiện tượng thiên nhiên đặc biệt như sự xuất hiện của sao Chổi, nhật thực, hiện tượng phun trào trở lại của núi lửa, mưa sao… có sức hấp dẫn lớn. Còn với du khách của du lịch nghỉ dưỡng, họ quan tâm đến tính chất của khí hậu cũng như sự ổn định của các điều kiện khí hậu.

Không gian nghỉ dưỡng rất cần sự yên tĩnh. Tiếng ồn từ các phương tiện vận tải, từ các máy móc sản xuất hay kể cả từ hoạt động giao tiếp, vui chơi giải trí của người dân bản địa… cũng khiến du khách có cảm giác bị làm phiền trong những giờ phút họ dành cho việc tĩnh dưỡng.

Như đã phân tích ở phần trên, nếu như chỉ với mục đích vì sức khoẻ, con người có thể tìm đến các trạm điều dưỡng hay bệnh viện có chuyên môn về y, nhưng đối tượng của du lịch nghỉ dưỡng là những người đi chơi, đi hưởng thụ, họ tìm đến những nơi vừa có thể nằm dài tắm nắng dưới hàng cọ ven biển, thăm thú các cảnh đẹp xung quanh vừa có thể an dưỡng. Khách nghỉ dưỡng có nhu cầu nghỉ ngơi trong khung cảnh thiên nhiên đẹp. Những gương nước mênh mông, núi non trùng điệp, sơn thuỷ hữu tình, những thảm thực vật xanh mướt rồi cảnh quan biển – đảo khoáng đạt … làm thoả mãn kênh thị giác của họ, làm tăng hứng thú với thiên nhiên, với cuộc sống, chính là “liều thuốc tinh thần” đối với họ.

Như vậy, tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng bao gồm các điều kiện khí hậu, môi trường, phong cảnh thiên nhiên (địa hình, sinh vật) có khả năng tạo nên hiệu quả phục hồi sức khoẻ (thể lực và tinh thần) cho con người. 

Loại hình du lịch nghỉ dưỡng thường được tổ chức tại những khu vực miền núi cao, có khí hậu mát mẻ, các bãi biển đẹp, có nhiều ánh nắng, những nơi có suối khoáng, có cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và nguồn lao động phù hợp.

Là các hợp phần của tự nhiên, tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng thuộc loại có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. Các dạng tài nguyên có quan hệ gắn bó với nhau và chịu sự chi phối rất lớn của nhân tố khí hậu. Các điều kiện khí hậu thuận lợi với con người thì cũng là những điều kiện lý tưởng cho sinh vật sinh sôi, phát triển. Vì vậy, khu vực có khí hậu thuận lợi thì thường có phong cảnh thiên nhiên trù phú. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Chúng ta chủ yếu lợi dụng các tài nguyên sẵn có của tự nhiên để xây dựng các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng. Chúng ta khó có thể tạo nên các tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng bởi vô cùng tốn kém và dù có mô phỏng lại thì cũng không lột tả hết được sức sáng tạo phi thường của tạo hoá và vì thế sẽ giảm đi rất nhiều giá trị và độ hấp dẫn. Để triển khai loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chi phí lớn nhất là việc đầu tư xây dựng các khu nghỉ dưỡng sang trọng tuy nhiên có thể đầu tư vốn theo giai đoạn khi đã được quy hoạch dài hạn.

Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng không thể di dời. Để kinh doanh du lịch nghỉ dưỡng, các chủ đầu tư phải lựa chọn khu vực hội đủ nhiều điều kiện tài nguyên thuận lợi cho xây dựng các khu nghỉ dưỡng ở đó. Khu nghỉ dưỡng vừa đóng vai trò là cở sở lưu trú cho khách vừa là không gian để con người thụ hưởng tài nguyên tại chỗ. Vị trí của các khu nghỉ dưỡng vì vậy mà rất quan trọng. Ngoài lựa chọn vị trí, các chủ đầu tư còn cố gắng kiến trúc các khu nghỉ dưỡng hài hoà với tự nhiên, tạo ra các cảnh đẹp nhân tạo thu hút khách. Khu nghỉ dưỡng cũng có thể coi là một dạng tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng.

Tiểu kết chương 1

Tài nguyên du lịch là một dạng đặc biệt trong toàn bộ tài nguyên mà con người sử dụng. Tài nguyên chỉ được coi là tài nguyên du lịch khi và chỉ khi nó có sức hấp dẫn du khách, được sử dụng cho ngành Du lịch, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức trực tiếp và rõ ràng trong khi đó, tài nguyên du lịch tự nhiên có giá trị phục vụ cho nghỉ ngơi, an dưỡng, chữa bệnh cao hơn.

Tài nguyên du lịch là cơ sở hình thành các loại hình du lịch. Mỗi loại hình du lịch thường được phát triển dựa vào những đặc điểm, tính chất riêng của một số loại tài nguyên du lịch nhất định.

Du lịch nghỉ dưỡng là loại hình du lịch mà mục đích chính của du khách là để nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, phục hồi sức khoẻ. Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng bao gồm các điều kiện khí hậu, môi trường, phong cảnh thiên nhiên có khả năng tạo nên hiệu quả phục hồi sức khoẻ (thể lực và tinh thần) cho con người.

Địa bàn triển khai du lịch nghỉ dưỡng thường là khu vực miền núi cao, có khí hậu mát mẻ, những nơi có suối khoáng hay các bãi biển đẹp, chan hoà ánh nắng, cộng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và nguồn lao động phù hợp. Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng chủ yếu là tài nguyên tự nhiên, có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. Các dạng tài nguyên có quan hệ gắn bó với nhau và chịu sự chi phối rất lớn của nhân tố khí hậu.

Resort (khu nghỉ dưỡng) vừa đóng vai trò là cở sở lưu trú cho khách vừa là không gian để con người thụ hưởng các nguồn tài nguyên tại chỗ. Vị trí của khu nghỉ dưỡng có ‎ý nghĩa quan trọng. Resort được phân biệt với các loại hình lưu trú khác bởi quy mô lớn với hoạt động tổng hợp của nhiều loại dịch vụ như phục vụ ăn uống, phòng nghỉ, thể thao, giải trí và mua sắm và thường nằm biệt lập ở những khu vực xa trung tâm thành phố, xa khu vực tập trung đông đúc dân cư, có khí hậu trong lành.

Du khách của du lịch nghỉ dưỡng chủ yếu là nhóm đối tượng có thời gian nghỉ dài, có khả năng chi trả cao đến từ các đô thị, các nước kinh tế phát triển và tiềm năng nhất là nhóm đối tượng ở độ tuổi về hưu. Du khách nghỉ dưỡng thường yêu cầu nhiều dịch vụ, các dịch vụ có chất lượng cao và sự đồng bộ về chất lượng giữa các dịch vụ. Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Tài nguyên du lịch nghỉ dưỡng biển Việt Nam

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Tài nguyên biển cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993