Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động quản lý giáo dục đạo đức học sinh một số trường Trung cấp nghề tại TP.HCM dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

2.1.1. Dân số – sự phân bố dân cư

Với tổng diện tích 1.295,5 km², TP.HCM trở thành đô thị lớn nhất Việt Nam. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. Bốn quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Hiện nay, TP.HCM gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.

Sự phân bố dân cư ở TP.HCM không đồng đều, ngay cả các quận nội ô. Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp, như Cần Giờ chỉ có 96 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại TP.HCM. Đến năm 2010, có số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế

TP.HCM giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005, TP.HCM có 4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.534 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.

Nền kinh tế của TP.HCM đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính… Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.

Về thương mại, TP.HCM có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Tuy vậy, nền kinh tế của TP.HCM vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy… có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp… cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.3. Đặc điểm về văn hóa, xã hội, giáo dục.

Những lý do lịch sử và địa lý đã khiến TP.HCM luôn là một thành phố đa dạng về văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của TP.HCM đã thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Kinh, Hoa, Chăm… Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh Việt Nam, TP.HCM hấp thụ thêm nền văn hóa Âu Mỹ. Cho tới những thập niên gần đây, những hoạt động kinh tế, du lịch tiếp tục giúp thành phố có một nền văn hóa đa dạng hơn. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (đại học Sài Gòn và đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, TP.HCM cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Trong số HS, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia.

TP.HCM hiện có 395 cơ sở dạy nghề, trong đó có 9 trường cao đẳng, 4 trường tư thục và 26 trường Trung cấp nghề, còn lại là các Trung tâm dạy nghề rải khắp trên địa bàn 24 quận/huyện.

Các đặc điểm về dân số, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động quản lý và Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường nói chung và trong các trường Trung cấp nghề nói riêng

Tốc độ đô thị hóa nhanh, có sự chuyển dịch nhanh về cơ cấu ngành nghề dẫn đến tăng thu nhập và đại đa số dân lao động thành phố có mức sống cao hơn so với trung bình của cả nước. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh tự nhiên không tăng, trung bình mỗi gia đình 1 đến 2 con, điều kiện đầu tư cho giáo dục của con cái tăng. Vì vậy, nhu cầu hưởng thụ của dân Thành phố cao hơn so với các khu vực khác nhưng khả năng rèn luyện, chịu đựng khó khăn và thái độ tích cực tham gia lao động giảm nhất là trong thanh thiếu niên, HS .

Tăng dân số cơ học cao dẫn đến khó khăn trong việc quản lý hành chính nhà nước; sỉ số HS tăng trong mỗi cấp lớp gây áp lực cao cho các cơ sở giáo dục trong việc sắp xếp chỗ học, quản lý và giáo dục HS. Tệ nạn xã hội cũng gia tăng ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh hoạt và học tập của HS.

Các tụ điểm và các hình thức vui chơi giải trí tăng nhất là sự bùng nổ của Internet đến mức không kiểm soát được ảnh hưởng đến suy nghĩ, lối sống của nhiều HS, đó cũng là thách thức lớn cho hoạt động Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường.

Trường Trung cấp nghề ra đời theo luật dạy nghề 2006, tiền thân từ các Trung tâm dạy nghề. Việc Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường còn rất mới mẻ. Các văn bản hướng dẫn của Bộ chủ quản – Bộ LĐTB&XH cho việc Giáo dục đạo đức HS trong các trường Trung cấp nghề còn rất ít. Đối tượng HS đầu vào của các trường Trung cấp nghề trình độ tiếp thu kiến thức thấp và ý thức đạo đức không cao, ảnh hưởng về sự gia tăng dân số, sự phát triển của kinh tế, xã hội Thành phố tác động không nhỏ đến các trường Trung cấp nghề trong hoạt động giáo dục và giảng dạy nhất là Giáo dục đạo đức – nhân cách cho HS. Giải pháp để tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý Giáo dục đạo đức HS trong các trường Trung cấp nghề là một vấn đề cấp thiết và cần được sự quan tâm đúng mức của các nhà quản lý. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ Giáo dục đạo đức HỌC SINH

2.2.1. Mẫu khảo sát

Để làm rõ thực trạng hoạt động quản lý Giáo dục đạo đức HS và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này, chúng tôi khảo sát ý kiến của CBQL, GV, HS, Phụ huynh học sinh ở 05 trường Trung cấp nghề trên địa bàn TP.HCM (Quang Trung – Gò Vấp, Nhân Đạo – Q3, Hùng Vương – Q5, Thủ Đức – Q. Thủ Đức và Củ Chi – huyện Củ Chi). Mẫu khảo sát như sau:

Bảng 2.1. Mẫu khảo sát

2.2.2. Khảo sát thực trạng việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức HS ở các trường Trung cấp nghề trên đối tượng CBQL và GV, chúng tôi có kết quả như sau: (câu hỏi 1, PL số 4)

37,1% CBQL và 45,6% GV đánh giá việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức HS ở mức độ khá, 38% CBQL và 35% GV đánh giá tốt; đánh giá ở mức độ trung bình và kém chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể. Như vậy, xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức HS thực hiện khá tốt trong các trường.

Cụ thể từng nội dung được đánh giá như sau:

“Mục tiêu của kế hoạch Giáo dục đạo đức” trong nhà trường căn cứ mục tiêu đã xác định trong Luật dạy nghề được 33% CBQL đánh giá khá và 63% CBQL đánh giá tốt; 49% GV đánh giá khá và 39% đánh giá tốt. Như vậy, việc xác định mục tiêu của kế hoạch được thực hiện khá tốt, đây là việc có tính chất quan trọng và định hướng cho tất cả các hoạt động Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường.

Xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức căn cứ kế hoạch của ngành, địa phương ghi nhận 43% CBQL và 54% GV đánh giá khá; Có 25% CBQL và 13% GV đánh giá ở mức độ trung bình. Điều này chứng tỏ còn có sự bất cập trong chỉ đạo của ngành, địa phương, ví dụ thiếu văn bản chỉ đạo hoặc kế hoạch còn chung chung dẫn đến lúng túng trong xây dựng kế hoạch hoạt động ở các trường. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Hầu hết các trường đều xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thực tế giáo dục của các năm học trước, 63% CBQL và 49% GV đánh giá tốt, 33% CBQL và 39% GV đánh giá khá, tỷ lệ đánh giá trung bình và kém ở cả hai đối tượng đều không đáng kể. Như vậy, việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thực tế giáo dục của các năm trước được thực hiện khá tốt.

Thời điểm xây dựng kế hoạch “trước khi khai giảng năm học” 25% CBQL đánh giá khá, 28% đánh giá trung bình; 39% GV đánh giá khá và 14% đánh giá trung bình. Như vậy việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức thường chưa kịp thời và chậm so với tiến độ đào tạo.Kế hoạch Giáo dục đạo đức xây dựng theo từng chủ điểm ở các trường được thực hiện khá tốt, theo khảo sát 60% CBQL và 50% GV đánh giá khá, 23% CBQL và 30% GV đánh giá tốt.

Việc này cũng phù hợp với thực tế khi phỏng vấn GV và CBQL cho biết, việc triển khai kế hoạch cho từng chủ điểm như “Nhớ ơn các anh hùng liệt sỹ” nhân ngày thương binh liệt sỹ 27/07, “Tôn sư trọng đạo” nhân ngày 20/11… được thực hiện khá tốt : đúng thời điểm, nội dung phong phú, hình thức sinh động…thu hút đông đảo HS tham gia.

Kế hoạch Giáo dục đạo đức được phổ biến và bàn bạc trong các cuộc họp, 23% CBQL đánh giá mức độ khá, 35% đánh giá ở mức độ trung bình; 42% GV đánh giá ở mức độ khá, 14% đánh giá ở mức độ trung bình. Như vậy, việc phổ biến bàn bạc về kế hoạch Giáo dục đạo đức được CBQL ghi nhận ở mức độ trung bình, GV đánh giá ở mức độ khá. So sánh thực tế, CBQL đánh giá sát hơn vì CBQL chính là người phổ biến và tổ chức để bàn bạc thảo luận xây dựng kế hoạch. Điều này cũng chứng tỏ, việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức HS chưa được sự quan tâm đúng mức của CBQL và GV.

Kế hoạch Giáo dục đạo đức xác định cụ thể thời gian, nhân lực, tài chính, 45% CBQL ghi nhận ở mức trung bình, 25% ở mức khá; 18% GV đánh giá ở mức trung bình, 48% ở mức khá. Điều này chứng tỏ, tính cụ thể của kế hoạch chỉ ở mức trung bình, việc xác định thời gian, nhân lực, tài chính còn chung chung. Đây là một khó khăn cho các bộ phận chức năng thực hiện nhiệm vụ vì không rõ kế hoạch được thực hiện thời điểm nào, khả năng về nhân sự và tài chính để thực hiện công việc ra sao.

Về “phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận” thực hiện kế hoạch 55% CBQL ghi nhận đánh giá ở mức khá, 35% ở mức tốt; 44% GV đánh giá ở mức tốt, 38% ở mức khá. Việc phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận được thực hiện khá tốt, điều này cũng phù hợp thực tế vì chức năng của các bộ phận đã được xác định tương đối rõ trong qui chế hoạt động của nhà trường.

Như vậy, việc xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức đã bước đầu thực hiện ở các trường, mục tiêu kế hoạch được căn cứ Luật dạy nghề và dựa trên kinh nghiệm giáo dục đúc kết từ các năm học trước; kế hoạch giáo dục theo từng giai đoạn xác định cụ thể nhân lực, vật lực và tài chính để thực hiện hoạt động Giáo dục đạo đức, phân công nhiệm vụ cho từng nhân sự cụ thể rõ ràng.

Tuy nhiên, các trường cũng cần lưu ý đến thời điểm và nội dung của kế hoạch tổng thể cần kịp thời và cụ thể hơn, cần được bàn bạc rộng rãi trong cán bộ công chức để có sự đồng thuận cao nhằm tạo sự thống nhất và thuận lợi khi thực hiện kế họach. CBQL và GV của các trường Trung cấp nghề cần xác định đầy đủ tầm quan trọng của việc Giáo dục đạo đức HS, coi đây là hoạt động then chốt trong giáo dục và đào tạo của nhà trường. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

2.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức

Khảo sát CBQL và GV về tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức trong nhà trường (câu hỏi 1, PL 4), chúng tôi có kết quả sau:

Bảng 2.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức

Nhìn vào bảng 2.3, chúng tôi nhận thấy: việc phân bổ đủ “số lượng nhân sự thực hiện nhiệm vụ Giáo dục đạo đức” có 43% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 23% đánh giá mức độ khá; 17% GV đánh giá ở mức độ trung bình, 48% đánh giá ở mức độ khá. Có sự chênh lệch giữa đánh giá của CBQL và GV về phân bổ số lượng nhân sự tham gia Giáo dục đạo đức HS. Tuy nhiên theo khảo sát ở các trường, nhân sự chính tham gia Giáo dục đạo đức như GVCN, cán bộ ĐTNCS HCM … hầu như kiêm nhiệm, chưa có nhân sự chuyên trách cho hoạt động Giáo dục đạo đức HS. Đánh giá của CBQL sát hơn đánh giá của GV, nhân sự thực hiện hoạt động GD đạo đức HS ở các trường còn thiếu về số lượng.

Đa số nhân sự được phân công công tác tương đối phù hợp chuyên môn hoặc phân công kiêm nhiệm có chọn lọc, 43% CBQL đánh giá ở mức độ khá, 35% đánh giá mức độ tốt; 46% GV đánh giá khá, 29% đánh giá tốt. Theo khảo sát, số nhân sự tham gia giáo dục tư tưởng, pháp luật cho HS là GV giáo dục chính trị hoặc cử nhân luật; nhân sự là cán bộ đòan thanh niên có năng khiếu về tổ chức các hoạt động phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, là những cán bộ trẻ có tâm huyết và năng động.

Việc phối hợp giữa các bộ phận trong nhà trường trong hoạt động Giáo dục đạo đức được thực hiện ở mức độ khá, 55% CBQL đánh giá khá và 28% đánh giá tốt; 50% GV đánh giá khá, 21% đánh giá tốt.

Việc tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ Giáo dục đạo đức HS ở các trường không được tổ chức hoặc rất ít, 35% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 23% mức độ kém; 16% GV đánh giá trung bình và 22% đánh giá kém. Giáo dục đạo đức là công việc hết sức khó khăn đòi hỏi nhân sự thực hiện vừa phải có phương pháp giáo dục vừa phải có kiến thức về tâm sinh lý HS. Trong khi đó, nhân sự của các trường tham gia Giáo dục đạo đức HS chỉ thực hiện nhiệm vụ theo kinh nghiệm của mình, đó là một trong những lí do dẫn đến hiệu quả hoạt động giáo dục không cao.

“Từng nhân sự xác định nhiệm vụ của mình” được 58% CBQL đánh giá ở mức độ khá, 25% đánh giá tốt; 46% GV đánh giá khá, 32% đánh giá tốt. Như vậy, tính chủ động của từng cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ Giáo dục đạo đức được đánh giá ở mức độ khá. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

“Phương tiện trang bị cho việc Giáo dục đạo đức”, 38% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 25% đánh giá kém; 21% GV đánh giá trung bình, 26% kém. Hầu hết ở các trường, phương tiện dành riêng cho hoạt động Giáo dục đạo đức HS như tài liệu, sách báo, phim tư liệu… rất ít. Các phương tiện hỗ trợ hầu như sử dụng chung với thiết bị phục vụ giảng dạy.

“Kinh phí dành cho hoạt động Giáo dục đạo đức” không nhiều, ghi nhận 38% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 23% kém; 22% GV đánh giá mức độ trung bình, 28% kém.

18% CBQL đánh giá việc tư vấn tâm lý, giải đáp thắc mắc cho HS ở mức độ trung bình, 58% đánh giá mức độ kém; 24% GV đánh giá ở mức độ trung bình, 44% kém. Thực tế các trường phòng công tác HSSV kiêm nhiệm công việc tư vấn tâm lý, giải đáp thắc mắc, hầu như chưa có phòng tư vấn tâm lý dành cho HS. Các thắc mắc cho HS về giới tính, về lựa chọn nghề nghiệp…hầu như được giải đáp qua các buổi học tập chuyên đề hoặc gặp gỡ chuyên gia tâm lý (được mời giảng).

Khó khăn về kinh phí dẫn đến nhiều vấn đề như hạn chế việc tăng cường nhân sự, mua sắm phương tiện, trang bị phòng tư vấn giáo dục tâm lý cho HS… Đó cũng là khó khăn chung của không chỉ các trường nghề mà ngay cả giáo dục phổ thông cũng vậy.

Có thể tổng hợp kết quả khảo sát ở bảng 2.2 thành ba nhóm vấn đề tổ chức nhân lực, vật lực và tài lực theo bảng sau:

Hình 2.2. Đồ thị tổng hợp các vấn đề về tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS

Nhìn vào hình 2.2, ta thấy cả ba yếu tố trong công tác tổ chức được dưới 50% CBQL vàGV ghi nhận, riêng yếu tố nguồn tài lực cho hoạt động GD đạo đức ở mức thấp (dưới 30%).

Như vậy: việc tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS chỉ ở mức trung bình.

Sự đánh giá giữa GV và CBQL có mức tương quan nhau, GV đánh giá mức độ khả quan hơn, CBQL đánh giá sát hơn về nhân lực, vật lực, tài lực điều đó cũng thể hiện tầm nhìn của nhà quản lý bao quát hơn. Có được điều này là do: CBQL được trang bị kiến thức về nghiệp vụ quản lý, được trải nghiệm và tích lũy kinh nghiệm qua thực tế hoạt động quản lý của mình.

2.2.4. Thực trạng chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS

Khảo sát CBQL và GV về chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS (câu hỏi 1, PL 4), chúng tôi có kết quả như sau:

Hình 2.3. Đồ thị về việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS

Nhìn vào bảng 2.5, hình 2.3 ta thấy: việc “chỉ đạo GV bộ môn, phòng công tác HSSV và xây dựng môi trường sư phạm” được thực hiện khá tốt trong các trường. Chỉ đạo “tiến độ thực hiện kế hoạch” được đánh giá kém nhất, chỉ đạo “phòng công tác HSSV” được đánh giá mức độ tốt nhất. Cụ thể từng nội dung như sau:

2.2.4.1. Chỉ đạo tiến độ thực hiện công việc Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Thực hiện kế hoạch “đúng tiến độ so với yêu cầu đề ra” 28% CBQL đánh giá khá, 48% đánh giá ở mức độ trung bình; 46% GV đánh giá khá, 20% trung bình. Như vậy, việc thực hiện kế hoạch thời gian ở mức trung bình. Qua khảo sát, kế hoạch được thực hiện hầu như chậm so với tiến độ đề ra. Nguyên nhân thường do khó khăn về kinh phí hoặc do nhân sự thực hiện nhiệm vụ Giáo dục đạo đức HS kiêm nhiệm quá nhiều việc.

2.2.4.2. Chỉ đạo GV bộ môn

Việc “trao đổi GV bộ môn về lồng ghép mục tiêu Giáo dục đạo đức HS” trong bài học, 38% CBQL đánh giá khá, 43% trung bình; 42% GV đánh giá khá, 19% trung bình.

Trong câu hỏi 2 PL 4, về hiệu qủa của các lực lượng giáo dục ghi nhận GV “giảng dạy lý thuyết có gắn bài giảng với mục tiêu Giáo dục đạo đức” 42% GV đánh gía khá, 41% đánh giá tốt; có 43% CBQL đánh giá khá, 33% đánh giá tốt. “GV giảng dạy thực hành có rèn luyện cho HS thái độ nghề nghiệp, tác phong công nghiệp” được 35% GV đánh giá khá, 47% tốt; 45% CBQL đánh giá khá và 33% đánh giá tốt.

Kết quả khảo sát trên chứng tỏ việc chỉ đạo GV bộ môn lồng ghép mục tiêu Giáo dục đạo đức HS vào bài giảng được thực hiện khá tốt.

2.2.4.3. Chỉ đạo GV chủ nhiệm

Việc họp định kỳ với GVCN được duy trì đều đặn, 50% CBQL đánh giá khá, 40% tốt; 45% GV đánh giá khá, 32% tốt. Theo khảo sát, ở các trường CBQL họp định kỳ với GVCN 1 lần/tuần chưa kể các buổi họp đột xuất khi có công việc cần thiết. Như vậy, việc họp định kỳ với GVCN được thực hiện khá tốt.

Để rõ hơn về việc chỉ đạo GVCN thực hiện hoạt động Giáo dục đạo đức HS, chúng tôi khảo sát CBQL & GV về hiệu quả hoạt động Giáo dục đạo đức HS của GVCN (câu hỏi 2, PL 4), kết quả như sau:

Nhìn vào bảng 2.6 ta thấy, các GVCN tổ chức tốt giờ sinh hoạt chủ nhiệm (83% đến 91% CBQL & GV ghi nhận), có kỹ năng xử lý tình huống sư phạm khá tốt (85% đến 91% CBQL & GV ghi nhận), có quan tâm đến các hoạt động văn hoá, văn nghệ, TDTT của lớp (75% đến 81% CBQL & GV ghi nhận). Tuy nhiên, về phương pháp “giáo dục HS cá biệt”, “xây dựng tập thể lớp vững mạnh” và “phối hợp với Phụ huynh học sinh” chỉ được GV và CBQL đánh giá ở mức độ trung bình (20% đến 43% ghi nhận).

Cách thức tổ chức giờ Sinh hoạt chủ nhiệm được khảo sát trên đối tượng HS (câu hỏi 7, PL 6), kết qủa như sau:

Bảng 2.7: Tổ chức giờ sinh hoạt chủ nhiệm Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Nhìn vào bảng 2.7 ta thấy, trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm việc “Truyền đạt những yêu cầu kế hoạch của nhà trường”, “Đánh giá tình hình học tập, kỷ luật của lớp trong tuần, tháng”, “Phê bình HS vi phạm kỷ luật” được thực hiện thường xuyên (85,9% đến 87,7% HS lựa chọn); “Khen ngợi HS học tập, rèn luyện tốt” là công việc hết sức cần thiết trong giáo dục HS chưa ngoan, đối tượng chủ yếu ở trường Trung cấp nghề được đánh giá ở hạng thứ 6 (69,7% lựa chọn). “Tổ chức đánh giá rèn luyện HS trong tháng, học kỳ, năm học” được xếp hạng thứ 5 là phù hợp tuy nhiên việc “Tự đánh giá về rèn luyện của bản thân và đề ra biện pháp khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm” là việc phù hợp nhu cầu tự đánh giá, tự rèn luyện của HS ít được quan tâm (64,2% HS lựa chọn, xếp thứ 10). Còn một số ít GV không sử dụng hết giờ Sinh hoạt chủ nhiệm, dùng giờ Sinh hoạt chủ nhiệm để dạy thêm (30,7% đến 34,3% HS lựa chọn) chứng tỏ GVCN chưa tổ chức khoa học và đầy đủ nội dung giờ Sinh hoạt chủ nhiệm.

Như vậy, mặc dù chỉ đạo GVCN được quan tâm nhưng những kỹ năng giáo dục HS, nội dung giờ Sinh hoạt chủ nhiệm không được trao đổi, tập huấn nên hiệu quả chỉ đạo hoạt động giáo dục của GVCN chỉ ở mức trung bình.

2.2.4.4. Chỉ đạo hoạt động Giáo dục đạo đức HS của phòng công tác HSSV

Việc “giám sát hoạt động của phòng Công tác HSSV ” được 50% CBQL đánh giá ở mức độ khá và 35% đánh giá mức độ tốt; 47% GV đánh giá mức độ khá, 34% đánh giá mức độ tốt.

Nội dung trên, chúng tôi đã triển khai khảo sát cụ thể như sau:

Khảo sát GV & CBQL về hiệu quả Giáo dục đạo đức của phòng Công tác HSSV (câu hỏi 2, PL4), kết quả như sau:

Bảng 2.8. Hiệu quả Giáo dục đạo đức HS của phòng Công tác HSSV

Nhìn vào bảng 2.8 ta thấy, có từ 43,5% đến 47% CBQL và GV đánh giá các hoạt động của phòng Công tác HSSV ở mức độ khá, 33,5% đến 34,8% đánh giá tốt, tỷ lệ đánh giá ở mức độ kém không đáng kể.

Khảo sát trên đối tượng HS (câu hỏi 5, PL5), có 64% HS thích, 19% HS không thích hoạt động “Đánh giá rèn luyện hàng tháng” và 54% thích, 29% không thích việc tổ chức sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt chuyên đề . Như vậy, việc tổ chức hai hoạt động này đã được thực hiện khá tốt nhưng cần chú ý hơn về hình thức tổ chức đa dạng, nội dung phong phú để tạo hứng thú cho HS tham gia.

Khảo sát ở cả ba đối tượng CBQL, GV và HS về việc tổ chức đánh giá rèn luyện HS hàng tháng (câu hỏi 3, PL4; câu hỏi 6, PL5), chúng tôi có kết quả sau: Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Bảng 2.9. Mức độ phù hợp trong tổ chức đánh giá rèn luyện đạo đức HS

Kết quả bảng 2.9 được thể hiện ở hình sau:

Hình 2.4. Đồ thị về mức độ phù hợp trong tổ chức đánh giá rèn luyện đạo đức HS

Nhìn vào hình 2.4 ta thấy, có sự tương quan giữa đánh giá mức độ phù hợp của việc tổ chức đánh giá rèn luyện của HS hàng tháng, học kỳ, năm học, GV đánh giá mức độ phù hợp cao nhất, HS đánh giá mức độ phù hợp thấp nhất; CBQL đánh giá ở mức độ trung gian và mức độ phù hợp giao động từ 33% đến 63%.

Qua các kết quả trên (a,b,c) ta thấy việc tổ chức hoạt động của phòng công tác HS được thực hiện khá tốt.

2.2.4.5. Chỉ đạo hoạt động Giáo dục đạo đức HS của Đòan TNCS HCM

Việc chỉ đạo hoạt động của Đoàn TNCS HCM 45% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 33% khá; 24% GV đánh giá ở mức độ trung bình, 39% mức độ khá.

Để tìm hiểu rõ hơn hiệu quả hoạt động Giáo dục đạo đức của đoàn TNCS HCM trong nhà trường, chúng tôi khảo sát CBQL & GV (câu hỏi 5, PL4), cụ thể như sau:

Nhìn vào kết quả khảo sát ở bảng 2.10, bảng 2.11, chúng tôi nhận thấy:

Hình thức “Tổ chức sinh hoạt dưới cờ”, 50% CBQL đánh giá ở mức khá, 28% tốt; 32% GV đánh giá khá và 43% tốt. Việc tổ chức sinh hoạt dưới cờ được thực hiện khá tốt. Theo quan sát, hầu như ở các trường đều tổ chức chào cờ đầu tuần, được duy trì thường xuyên và nghiêm túc. Các nội dung đưa vào buổi chào cờ như đánh giá tình hình học tập, kỷ luật của

HS; phát động các phong trào thi đua theo chủ đề; ôn lại truyền thống dân tộc vào các ngày kỷ niệm…Tuy nhiên cách thức tổ chức còn đơn điệu, chưa có sức lôi cuốn HS, có 29% HS không thích giờ chào cờ và “sinh hoạt dưới cờ” chỉ xếp hạng được ưa thích thứ 6 trong số 9 hình thức sinh hoạt đưa ra khảo sát (câu hỏi số 5, PL5).

“Sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt chuyên đề”, 48% CBQL đánh giá ở mức độ khá, 40% trung bình; 38% GV đánh giá khá và 28% trung bình. Cũng như hình thức chào cờ đầu tuần, tổ chức sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt chuyên đề như “Hội nhập kinh tế quốc tế”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”…chưa sinh động, chưa hấp dẫn số lượng lớn HS tham gia, có 29% HS đưa ý kiến không thích “sinh hoạt truyền thống” (câu hỏi 5, PL5).

Việc “tổ chức các phong trào văn nghệ, TDTT” 65% CBQL đánh giá khá, 23% đánh giá tốt; 42% GV đánh giá khá và 34% đánh giá tốt. Có 51% HS nêu ý kiến thích và 31% rất thích. Việc tổ chức các phong trào văn nghệ, thể dục, thể thao là sân chơi bổ ích cho HS vừa học tập, vừa vui chơi, tuy nhiên đa số các trường chỉ tổ chức theo phong trào, chưa có chiều sâu; nên duy trì dưới hình thức đội nhóm, câu lạc bộ để lôi cuốn HS tham gia vui chơi giải trí lành mạnh.

“Tổ chức các phong trào xã hội từ thiện”, 40% CBQL ghi nhận ở mức trung bình, 28% khá; 30% GV đánh giá trung bình và 38% khá. Việc tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện chỉ ở mức trung bình. Tuy nhiên qua khảo sát HS, có 84% HS nêu ý kiến từ thích đến rất thích các hoạt động xã hội, từ thiện. Chứng tỏ HS có tấm lòng sẵn sàng chia sẻ khó khăn với bạn bè, với cộng đồng như truyền thống của người Việt Nam “lá lành đùm lá rách”. Đoàn thanh niên CSHCM trong nhà trường cần phát huy ưu điểm này nhằm khơi gợi những giá trị truyền thống tốt đẹp trong HS như lòng nhân ái, sự đùm bọc, chia sẻ lẫn nhau khi khó khăn, hoạn nạn…

“Tổ chức tham quan, cắm trại, dã ngoại” HS ghi nhận là lựa chọn ưa thích số 1, tuy nhiên việc tổ chức ở nhà trường 40% CBQL đánh giá trung bình, 28% khá; 30% GV đánh giá trung bình, 38% khá. Việc tổ chức tham quan, cắm trại, dã ngoại trong nhà trường chỉ ở mức trung bình. Theo tìm hiểu, hạn chế là do nhân sự là cán bộ Đoàn thanh niên còn ngại trong việc vận động và có quá nhiều công việc nên chưa quan tâm đến hoạt động này.

Việc tổ chức các câu lạc bộ, tổ chức các cuộc thi viết vẽ… ở nhà trường chỉ được thực hiện ở mức độ trung bình và hình thức này cũng ít được HS ưa thích. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Trong bảy hình thức tổ chức Giáo dục đạo đức của Đoàn TNCS HCM trong các trường, việc tổ chức các phong trào văn nghệ, TDTT được đánh giá ở mức độ khá, các hình thức tổ chức khác chỉ ở mức độ trung bình ở cả ba đối tượng CBQL, GV và HS.

Tóm lại: Đoàn TNCS HCM hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đoàn cấp trên, chi bộ và phối hợp phòng CTHS-SV để thực hiện các hoạt động của nhà trường, việc chỉ đạo hoạt động đối với Đoàn TNCS HCM tại các trường chỉ ở mức trung bình.

2.2.4.6. Phối hợp các lực lượng giáo dục trong hoạt động Giáo dục đạo đức HS

Khảo sát CBQL và GV về sự phối hợp các lực lượng Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường (câu hỏi 2, PL4), chúng tôi có kết quả sau:

Nhìn vào bảng 2.12, chúng tôi nhận thấy:

“Phối hợp của các bộ phận chức năng trong nhà trường” để Giáo dục đạo đức cho HS được thực hiện khá tốt, 55% CBQL đánh giá khá, 35% tốt; 39% GV đánh giá khá và 31% tốt.

“Phối hợp địa phương trên địa bàn trú đóng” để Giáo dục đạo đức cho HS 35% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 28% khá; 29% GV đánh giá trung bình, 35% khá. Hầu hết các trường Trung cấp nghề đều chịu sự quản lý hành chính của UBND quận/huyện, việc dạy nghề chưa được quan tâm nhiều so với giáo dục phổ thông; các trường Trung cấp nghề được đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản. Tuy nhiên, để đáp ứng đào tạo nghề theo nhu cầu của xã hội và bắt kịp trình độ phát triển của công nghệ kỹ thuật, đòi hỏi chi phí đầu tư cho thiết bị dạy nghề rất lớn. Trong khi, nguồn vốn từ ngân sách quận, thành phố và quốc gia cũng như nguồn vốn của nhà trường dành cho mua sắm trang thiết bị không tương xứng, trang thiết bị phục vụ giảng dạy của các trường hầu như lạc hậu và chưa đủ chủng loại, vì vậy chưa tạo sức thu hút người lao động đến với học nghề. Việc phối hợp với địa phương chủ yếu ở mức độ thực hiện chủ trương, báo cáo, hưởng ứng các phong trào của Liên đoàn Lao động quận, Mặt trận tổ quốc và UBND phường phát động. Thực tế cho thấy việc phối hợp giữa trường Trung cấp nghề và địa phương trên địa bàn trú đóng chỉ ở mức trung bình.

Việc “hỗ trợ của các doanh nghiệp trong công tác tiếp nhận HS tham quan, thực tập” ở mức độ trung bình: 35% CBQL ghi nhận ở mức độ trung bình, 28% khá; 24% GV đánh giá mức độ trung bình, 41% khá. Hình thức gắn nhà trường với doanh nghiệp được nhà nước khuyến khích nhằm giải quyết sự bất cập trong đào tạo và đảm bảo cung ứng nguồn nhân lực cho xã hội. Tuy nhiên, đa số doanh nghiệp tập trung vào sản xuất, chưa ý thức được việc hỗ trợ cho nhà trường chính là tạo nguồn nhân lực cho chính các công ty, xí nghiệp và nhà nước cũng chưa có chính sách khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ trong đào tạo người lao động. Một số doanh nghiệp có thiện ý hỗ trợ cho nhà trường nhưng ở mức độ không cao, HS tham quan hoặc thực tập chủ yếu là quan sát, chưa được trực tiếp tham gia lao động hoặc tự tìm hiểu là chính, ít được doanh nghiệp chỉ bảo tận tình.

Khảo sát sự phối hợp giữa Phụ huynh học sinh và nhà trường trong giáo dục và quản lý HS, 40% CBQL đánh giá ở mức độ trung bình, 30% đánh giá khá; 23% GV đánh giá trung bình, 46% khá.

Để làm rõ sự phối hợp giữa nhà trường với phụ huynh HS, chúng tôi khảo sát Phụ huynh học sinh (câu hỏi 6, PL6), kết quả như sau: Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Bảng 2.13. Phối hợp giữa nhà trường và Phụ huynh học sinh

Kết quả khảo sát bảng 2.13 được thể hiện ở hình sau:

Hình 2.5. Biểu đồ về việc phối hợp giữa nhà trường và Phụ huynh học sinh Nhìn vào hình 2.5, ta thấy:

Đa số các trường đều phổ biến mục tiêu Giáo dục đạo đức đến cho Phụ huynh học sinh (39%); thỉnh thỏang có mời Phụ huynh học sinh họp định kỳ, theo khảo sát thường 1 đến 2 lần/năm; thường mời Phụ huynh học sinh khi con em họ vi phạm kỷ luật nhà trường và ít khi có thư ngỏ cho Phụ huynh học sinh; Tuy nhiên mức độ đánh giá thường xuyên không cao (dưới 40%). Như vậy, việc phối hợp giữa nhà trường và Phụ huynh học sinh chỉ ở mức độ trung bình.

Khảo sát sự chủ động phối hợp của Phụ huynh học sinh với nhà trường (câu hỏi 6, PL6), kết quả như sau:

Bảng 2.14. Phối hợp giữa Phụ huynh học sinh và nhà trường

Kết quả bảng 2.14 được thể hiện ở Hình sau:

Hình 2.6. Biểu đồ về việc phối hợp giữa Phụ huynh học sinh và nhà trường

Quan sát trên hình 2.6 ta thấy, việc làm thường xuyên của Phụ huynh học sinh là nhắc nhở con em mình học tập, thực hiện nội qui và tham gia các phong trào của nhà trường (50%), các công việc khác mức độ thường xuyên không cao (dưới 30%). Như vậy, phụ huynh rất ít liên lạc với nhà trường, ít chủ động phối hợp với nhà trường trong theo dõi tình hình học tập và rèn luyện của HS; ít quan tâm đến hoạt động của nhà trường và góp ý kiến cho nhà trường về hoạt động giáo dục.

Việc phối hợp của phụ huynh với nhà trường còn nhiều hạn chế.

Qua khảo sát tám nội dung của việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS, chúng tôi có kết quả sau:

Những nội dung chỉ đạo được đánh giá khá:

  • Chỉ đạo GV bộ môn
  • Chỉ đạo Phòng công tác HSSV
  • Xây dựng môi trường sư phạm

Các nội dung còn lại, việc chỉ đạo thực hiện của CBQL ở các trường chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình.

Như vậy, khảo sát chi tiết của các nội dung chỉ đạo trên các đối tượng HS và Phụ huynh học sinh cũng phù hợp với kết quả khảo sát chung ở CBQL đã thể hiện ở hình 2.3. Việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS của CBQL ở các trường chỉ ở mức trung bình. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

2.2.5. Thực trạng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS

Khảo sát CBQL và GV về việc kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức HS (câu hỏi 1, PL4), kết quả như sau:

Bảng 2.15. Kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đứcHS

Hình 2.7. Biểu đồ về kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đứcHS

Nhìn vào kết quả khảo sát bảng 2.15 ta thấy, việc kiểm tra đánh giá cán bộ công chức, GVCN và cán bộ Đòan thanh niên thực hiện kế hoạch Giáo dục đạo đức có từ 33% đến 46% CBQL và GV đánh giá khá, có 11% đến 35% đánh giá kém. Theo khảo sát thì các trường đều có tiêu chí đánh giá cán bộ công chức nhưng đa số các trường chưa có tiêu chí đánh giá GVCN giỏi và cán bộ đòan giỏi. Việc đánh giá CBCC được thực hiện hàng tháng và tổng kết theo từng 6 tháng và năm học nhưng chủ yếu dựa trên hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; Chưa có đánh giá riêng cho việc thực hiện hoạt động Giáo dục đạo đức của từng cá nhân, từng bộ phận. Vì vậy, việc tổng kết rút kinh nghiệm và khen thưởng nhân sự thực hiện tốt nhiệm vụ Giáo dục đạo đức cũng chỉ ở mức trung bình (ghi nhận 22% đến 38% CBQL và GV đánh giá mức trung bình, 8% đến 13% đánh giá kém). Phương pháp động viên khuyến khích là phương pháp hết sức quan trọng trong quản lý, các trường chưa thực hiện tốt phương pháp này sẽ không khuyến khích được người lao động nỗ lực trong công việc, hiệu quả công việc không cao.

Về “kiểm tra, giám sát việc đánh giá rèn luyện HS hàng tháng, học kỳ, năm học” 53% CBQL đánh giá khá, 33% tốt; 48% GV đánh giá khá và 37% tốt. Như vậy việc giám sát, kiểm tra hoạt động đánh giá rèn luyện HS hàng tháng được thực hiện khá tốt.

Nhìn vào hình 2.7 ta thấy, trong các công việc việc kiểm tra hoạt động đánh giá rèn luyện đạo đức HS được thực hiện tốt nhất, điều này chứng tỏ việc quan tâm chỉ đạo của CBQL đối với phòng Công tác HSSV và GVCN trong việc tổ chức đánh giá rèn luyện cho HS và một lần nữa xác nhận, hoạt động đánh giá rèn luyện HS có qui định cụ thể, tiêu chí đánh giá rõ ràng nên việc thực hiện cũng dễ dàng và hiệu quả hơn.

Các hoạt động còn lại ghi nhận ở mức độ thấp hơn, trong đó việc tổng kết rút kinh nghiệm và động viên khen thưởng kịp thời nhân sự thực hiện hoạt động Giáo dục đạo đức HS là công việc hết sức cần thiết để đánh giá tình hình thực hiện và động viên khuyến khích nhân sự nỗ lực thực hiện công việc được ghi nhận ở mức thấp nhất (dưới 34%). Đó là một trong những hạn chế của hoạt động QL Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường cần phải lưu tâm vì kiểm tra đánh giá là một chức năng quan trọng của quản lý, “quản lý mà không kiểm tra đánh giá thì coi như không quản lý”.

2.2.6. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động Giáo dục đạo đức HS Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Khảo sát CBQL và GV về những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động Giáo dục đạo đức HS (câu hỏi 5, PL4), kết quả như sau:

Bảng 2.16. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Giáo dục đạo đức HS

Nhìn vào bảng 2.16 ta thấy, những nguyên nhân được nhiều người ghi nhận là khó khăn về kinh phí, thiếu sân chơi, thiếu các phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí. Chính vì khó khăn về kinh phí nên việc tổ chức sân chơi, trang bị các phương tiện phục vụ cũng bị hạn chế. Đây là khó khăn chung của các trường dạy nghề ở TP.HCM.

Nguyên nhân kế tiếp được nhiều người đề cập là “nhân sự đảm trách hoạt động Giáo dục đạo đức chưa qua đào tạo hoặc không được tập huấn nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ”, “cán bộ quản lý chưa xác định tầm quan trọng của hoạt động Giáo dục đạo đức trong nhà trường” và “chưa động viên khen thưởng kịp thời cho cán bộ làm tốt công tác Giáo dục đạo đức HS”. Những nguyên nhân khác được đánh giá ít hoặc không có ảnh hưởng.

Để quan sát rõ kết quả, ta có thể nhóm các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả Giáo dục đạo đức HS thành ba nhóm :

  • Thiếu sự chỉ đạo ngành về hoạt động Quản lý giáo dục đạo đức gồm nguyên nhân số 1 và 6
  • Khó khăn về nhân sự gồm nguyên nhân số 2,3,4 và 7
  • Khó khăn về kinh phí gồm nguyên nhân số 5,8 và 9

Kết quả thống kê được tổng hợp như sau:

Bảng 2.17. Tổng hợp các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động Giáo dục đạo đức HS

Kết quả tổng hợp bảng 2.17 được thể hiện ở hình sau:

Hình 2.8. Biểu đồ tổng hợp các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động Giáo dục đạo đức HS

Nhìn vào bảng 2.17 và hình 2.8 ta thấy, nguyên nhân lớn nhất ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Giáo dục đạo đức của các trường là kinh phí cho các hoạt động Giáo dục đạo đức HS eo hẹp (ghi nhận 53.3%), thứ hai là nhân sự chưa đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng (ghi nhận 31,5%); các văn bản chỉ đạo của ngành có ảnh hưởng nhưng không lớn vì hoạt động Giáo dục đạo đức căn cứ mục tiêu đã đề ra trong Luật dạy nghề và các trường linh hoạt tổ chức tùy theo khả năng của từng trường.

2.2.7. Kết luận về thực trạng hoạt động quản lý Giáo dục đạo đức HS ở các trường Trung cấp nghề Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Hoạt động xây dựng kế hoạch Giáo dục đạo đức HS được thực hiện ở mức độ khá. Các trường đều xác định mục tiêu kế hoạch Giáo dục đạo đức HS trên cơ sở Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề; dự báo và xây dựng kế hoạch chương trình trên cơ sở kế hoạch của ngành, địa phương và thông qua việc rút kinh nghiệm từ thực tế hoạt động giáo dục của năm học trước. Các trường đã cụ thể hóa Qui chế đánh giá rèn luyện HS của Bộ Lao động Thương binh & Xã hội, đưa vào vận dụng trong nhà trường và được đánh giá mức độ phù hợp tương đối cao.

Hoạt động tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và đánh giá thực hiện nhiệm vụ Giáo dục đạo đức HS trong các trường chỉ ở mức trung bình.

Qui chế hoạt động của trường Trung cấp nghề theo mẫu của Bộ Lao động Thương binh & Xã hội ban hành cũng xác định cụ thể chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong nhà trường, là cơ sở để xây dựng bộ máy tổ chức và phân công chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận trong nhà trường. Tuy nhiên, nhân sự quản lý hoạt động Giáo dục đạo đức HS trong các trường thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, ít được tập huấn nâng cao năng lực thực hiện công việc nên hiệu quả hoạt động không cao.

Việc giám sát hoạt động Giáo dục đạo đức HS trong các trường thực hiện khá tốt đối với GV bộ môn, tổ chức hoạt động của phòng công tác HS trong đánh giá rèn luyện HS hàng tháng, học kỳ, năm học nhưng đối với các lực lượng giáo dục khác như Cán bộ công chức, GVCN, Đòan TNCS HCM và phối hợp các lực lượng ngòai trường như Phụ huynh học sinh, địa phương …chỉ ở mức trung bình.

Hoạt động kiểm tra đánh giá việc rèn luyện đạo đức HS được thực hiện khá tốt nhưng việc kiểm tra, đánh giá đối với các lực lượng giáo dục khác chỉ ở mức trung bình.

Như vậy, hoạt động quản lý Giáo dục đạo đức HS ở các trường đã có một số thành tựu bước đầu nhưng cũng còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm để đạt được hiệu quả cao hơn.

2.2.8. Nguyên nhân của thực trạng

Để đạt được một số kết quả khả quan về xây dựng kế hoạch, về tổ chức bộ máy, về hoạt động đánh giá rèn luyện HS và tổ chức các hoạt động phong trào văn nghệ, TDTT trong nhà trường phải kể đến chỉ đạo của Bộ LĐTB & XH, các ban ngành địa phương qua ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến Giáo dục đạo đức HS, xác định tầm quan trọng của hoạt động này. Nguyên nhân chính phải kể đến là sự đầu tư của BGH trong việc xây dựng, chỉ đạo kế hoạch Giáo dục đạo đức cùng sự nỗ lực thực hiện hoạt động Giáo dục đạo đức HS của cán bộ, GV các trường trong vô vàn những khó khăn và thiếu thốn.

Khó khăn lớn nhất ảnh hưởng đến hiệu qủa của hoạt động Quản lý giáo dục đạo đức HS là kinh phí cho các hoạt động. Chính sự khó khăn này cũng dẫn đến nhiều vấn đề liên quan như Hiệu trưởng không mạnh dạn trong cơ cấu thêm nhân sự, không thể tăng cường mua sắm phương tiện, thiết bị và tổ chức các hình thức Giáo dục đạo đức đa dạng, phong phú.

Khó khăn thứ hai là về nhân sự: Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

  • Đội ngũ nhân sự thực hiện hoạt động quản lý và Giáo dục đạo đức HS chưa qua đào tạo hoặc ít được bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện công việc nên hiệu quả hoạt động không cao.
  • Chính sách lương bổng đối với đội ngũ CBQL và GV chưa phù hợp. Ngòai công việc chính là giáo dục và đào tạo, CBQL và GV phải bươn trải để có thêm thu nhập cho bản thân và gia đình, thời gian cùng tâm huyết của đội ngũ CBQL và GV dành cho việc tìm hiểu hòan cảnh HS, gần gũi giúp đỡ HS cá biệt…cũng giảm. Đó có lẽ là lí do chính dẫn đến có khỏang cách giữa GV và HS, việc xây dựng trường học thân thiện đồng nghĩa với xây dựng mối quan hệ gần gũi, hiểu biết và thông cảm giữa GV và HS cũng khó thực hiện.

Khó khăn khách quan thứ ba :

Do ra đời sau so với loại hình đào tạo phổ thông, các văn bản chỉ đạo trong lĩnh vực đào tạo nghề còn ít và chưa tòan diện nên việc thực hiện nhiệm vụ của CBQL còn nhiều khó khăn và lúng túng nhất là trong hoạt động Giáo dục đạo đức HS.

2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG Giáo dục đạo đức HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG Trung cấp nghề TẠI TP.HCM.

2.3.1. Nhận thức của HS về các chuẩn mực đạo đức

Khảo sát nhận thức của HS về các giá trị đạo đức (câu hỏi 1, PL2), chúng tôi có kết quả như sau:

Bảng 2.18. Nhận thức của HS về các giá trị đạo đức

Nghiên cứu các chuẩn mực xã hội được trích từ sách “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” (Bộ giáo dục và đào tạo) và “Chương trình giáo dục các giá trị truyền thống” – chương trình được sự hỗ trợ của UNESCO (Diane Tillman); kế thừa nghiên cứu của các tác giả luận văn “Quan điểm về đạo đức và lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.HCM” [52] đưa ra tiêu chí khảo sát gần nhất với chuẩn mực đạo đức xã hội; So sánh tỷ lệ phần trăm lựa chọn của HS với tiêu chí đúng nhất với chuẩn mực xã hội (đánh dấu X), chúng tôi có nhận xét như sau:

Nhìn vào bảng 2.18 ta thấy, trong bảy tiêu chí đưa ra khảo sát, có năm tiêu chí các em lựa chọn đúng và hai tiêu chí lựa chọn chưa đúng với chuẩn mực xã hội. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Suy nghĩ của HS tuy chưa sâu, còn thiếu tính thực tiễn nhưng phần lớn các em đã có những nhận thức đúng đắn về các giá trị đạo đức so với chuẩn mực xã hội. Chứng tỏ khả năng lĩnh hội kiến thức, đánh giá, phân tích vấn đề của HS tương đối tốt.

Khảo sát HS về nguồn gốc các tri thức mà HS tiếp thu được (câu hỏi 8, PL5), có 67% ý kiến HS cho rằng đã lĩnh hội các kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, 12% từ nhà trường và 9% từ các phương tiện thông tin đại chúng. Theo các em nguồn cung cấp các tri thức đạo đức từ nhà trường rất thấp. Như vậy, khâu đầu tiên trong quá trình Giáo dục đạo đức là cung cấp các giá trị đạo đức cho HS chưa được thực hiện tốt trong các trường. Đây cũng là vấn đề các nhà giáo dục cần lưu tâm vì chương trình đào tạo Trung cấp nghề không có môn giáo dục công dân, các giờ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho các em rất ít. Vì vậy, kiến thức chính các em đã tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau là đúng thực tế. Điều này cũng chứng tỏ sự bất cập trong giáo dục nhà trường cần phải có sự đổi mới về chương trình đào tạo, tăng cường nội dung Giáo dục đạo đức và rèn luyện kỹ năng sống cho HS.

2.3.2. Khảo sát về ý thức đạo đức ở HS

Khảo sát HS về biểu hiện của HS trước hiện tượng bạo lực học đường (câu hỏi 2, PL5), chúng tôi có kết quả sau:

Bảng 2.19. Ý thức đạo đức của HS trước hiện tượng bạo lực học đường

Nhìn vào kết quả khảo sát bảng 2.19, chúng tôi nhận thấy:

Hành vi can ngăn là hành vi đúng với chuẩn mực đạo đức nhất có 19% HS lựa chọn. Trong khi đó hành vi gần đúng với chuẩn mực đạo đức và có mức độ an tòan cho bản thân hơn được 60% HS chọn “Báo cho người có trách nhiệm”. Một số HS chọn hành vi tiêu cực quan sát (7%), bỏ đi coi như không biết (10%) thể hiện thái độ vô cảm trong HS cần phải lưu 2% ý kiến “cùng tham gia” chứng tỏ khả năng bốc đồng, dễ bị lôi kéo làm việc sai trái ở HS, những suy nghĩ lệch chuẩn cần được những nhà quản lý giáo dục có biện pháp điều chỉnh. 9% HS có ý kiến khác, thể hiện chính kiến của bản thân, tùy trường hợp các em sẽ có thái độ khác nhau.

Như vậy, chúng ta thấy rằng tình cảm đạo đức của HS chưa mang tính tích cực. Có lẽ, tình trạng bạo lực trong HS hay nói rộng ra bạo lực trong xã hội ngày càng phức tạp nên giáo dục gia đình cũng như bản thân HS cũng chọn giải pháp an tòan nhất là “báo cho người có trách nhiệm”. Trước nhiều thói hư tật xấu, tệ nạn trong xã hội, trong nhà trường ngay cả người lớn khi chứng kiến đôi khi cũng không dám nói, sợ bị trả thù. Điều này ảnh hưởng đến thái độ của HS và đồng thời cũng nói lên ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường xã hội lên ý thức của con người, đôi khi sự quản lý, sự giáo dục không thể lấn át được.

2.3.3. Động cơ học tập ở HS Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Khảo sát HS về động cơ học tập của các em (câu hỏi 4, PL5), chúng tôi có kết qủa sau:

Bảng 2.20. Động cơ học tập của HS

Nhìn vào kết quả khảo sát bảng 2.20, ta nhận thấy:

Đa số HS đều xác định động cơ học tập của mình, chỉ 6% HS không biết học để làm gì. 90% HS xác định học “vì tương lai của mình” và 58% “để giúp đỡ gia đình”, đây là mục đích chính trong việc phấn đấu học tập, chứng tỏ suy nghĩ của HS rất thực tế. Chuẩn mực này đã rất thay đổi so với thế hệ trước “học để xây dựng đất nước”. Tuy nhiên cũng có 49% HS chọn động cơ tích cực “học để xây dựng đất nước”. Như vậy, HS cũng nhận thức được trách nhiệm của mình với xã hội, trách nhiệm của người công dân. Có 29% HS chọn “học để vui lòng cha mẹ”, điều này thể hiện tính độc lập của HS tương đối cao. Nhiều HS quyết chọn ngành nghề của mình mà không theo sự lựa chọn của cha mẹ.

2.3.4. Biểu hiện hành vi đạo đức của HS

Khảo sát HS về mức độ thực hiện hành vi đạo đức tích cực của HS trong nhà trường (câu hỏi 3, PL5), chúng tôi có kết quả sau:

Bảng 2.21. Mức độ thực hiện hành vi đạo đức đúng mẫu của HS

Kết quả khảo sát ở bảng 2.21 được thể hiện ở hình sau:

Hình 2.9. Biểu đồ về mức độ biểu hiện hành vi đạo đức đúng mẫu của HS

Nhìn vào bảng 2.21 và hình 2.9 ta thấy, ở hành vi đạo đức 1,2,3 gắn với “đi học đúng giờ, đi học đầy đủ, ghi chép bài đầy đủ” được ghi nhận ở 60% HS; mức độ thỉnh thoảng từ 30% đến 40%, mức độ ít khi 10%. Như vậy, mức độ thực hiện hành vi đúng mẫu của HS không cao, còn nhiều HS ý thức học tập chưa tốt.

Những biểu hiện hành vi đạo đức từ số 4 đến số 8, mức độ thường xuyên dưới 40%, mức độ thỉnh thoảng từ 30% đến 44%, mức độ không khi nào tham gia từ 3 đến 20%. Như vậy, việc tham gia các hoạt động trong nhà trường như lao động, vệ sinh trường lớp, các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan căm trại, xã hội từ thiện… HS chưa hưởng ứng tích cực .

Khảo sát HS về mức độ thực hiện hành vi vi phạm đạo đức của HS trong nhà trường (câu hỏi 3, PL5), chúng tôi có hình sau:

Hình 2.10. Biểu đồ về mức độ thực hiện hành vi vi phạm đạo đức của HS

Nhìn vào hình 2.10 ta thấy, có từ 40% đến 59% HS không khi nào vô lễ với thầy cô giáo, đánh nhau với bạn và hút thuốc lá trong trường chứng tỏ ý thức của HS tương đối tốt. Tuy nhiên vẫn có 20% HS thường xuyên hút thuốc trong trường, 13% đến 20% HS thỉnh thoảng có đánh nhau với bạn và vô lễ với thầy cô. Thói quen hút thuốc của người lớn ảnh hưởng đến trẻ em, một bộ phận HS THPT đang muốn trở thành người lớn nên hút thuốc để thể hiện bản lĩnh của mình. HS đánh nhau và vô lễ với GV thường là do bị kích động và thiếu kiềm chế trong hành vi của mình. Đó là vấn đề cũng hết sức lưu tâm của những nhà quản lý để có biện pháp giáo dục đối với những HS cá biệt. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Như vậy, việc HS thực hiện các thói quen tốt trong nhà trường chỉ ở mức trung bình, các thói quen tiêu cực còn chiếm tỷ lệ lớn trong hành vi của HS các trường Trung cấp nghề. Qua phỏng vấn, đa số GV đều than phiền về ý thức đạo đức của HS và chịu áp lực lớn về quản lý HS trong lớp học. Vấn đề này đặt ra cho các nhà quản lý giáo dục hết sức lưu tâm trong việc xây dựng tập thể HS vững mạnh, có như vậy mới phát huy được nguyên tắc “giáo dục trong tập thể và bằng tập thể”, hạn chế những hành vi tiêu cực của HS.

2.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến Giáo dục đạo đức HS

Khảo sát CBQL, GV và HS về các yếu tố tác động đến nhận thức và hành vi đạo đức của các em (Câu hỏi 4, PL4; Câu hỏi 8, PL5), chúng tôi có kết quả sau:

Bảng 2.22. Các yếu tố tác động đến hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS

Nhìn vào kết quả khảo sát ở bảng 2.22, ta nhận thấy:

Theo HS, yếu tố tác động mạnh nhất đến hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS là môi trường xã hội (34%), kế tiếp là gia đình (28%), nỗ lực của HS xếp thứ ba (20%) cuối cùng mới đến giáo dục của nhà trường và ảnh hưởng từ bạn bè.

Theo ý kiến của CBQL và GV, nỗ lực của HS có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS (30%), kế tiếp là tác động của môi trường (27%), thứ ba là tác động của giáo dục gia đình (20%), giáo dục nhà trường (16%), cuối cùng là ảnh hưởng không đáng kể từ bạn bè (6%)

Khảo sát Phụ huynh học sinh về về những tác động ảnh hưởng đến hình thành nhận thức và hành

  • HS (câu hỏi 5, PL6), ghi nhận như sau:

Hình 2.11. Biểu đồ về nhận thức của Phụ huynh học sinh về các yếu tố ảnh hưởng đến hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Nhìn vào hình 2.11 ta thấy, Phụ huynh học sinh cho rằng yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến hình thành đạo đức HS là tác động của môi trường xã hội (51%), tác động của bạn bè là rất lớn (40%), sau đó mới đến ảnh hưởng của nhà trường (28.5%) và tác động của gia đình (25.7%), cuối cùng là nỗ lực rèn luyện của HS (19%).

Để tìm hiểu rõ hơn về giáo dục của gia đình, chúng tôi đã khảo sát Phụ huynh học sinh (câu hỏi 1, PL6), số liệu cụ thể như sau:

Bảng 2.23 : Mong đợi của Phụ huynh học sinh đối với nhà trường

Nhìn vào bảng 2.23, ta thấy:

Các bậc Phụ huynh học sinh đều kỳ vọng rất cao vào nhà trường nhất là truyền đạt kiến thức cho HS (87%), thứ hai là dạy cho HS một nghề để kiếm việc làm (82%) đồng thời Giáo dục đạo đức cho HS (83%); có 63% đến 66% phụ huynh mong muốn nhà trường quản lý giờ giấc sinh hoạt và rèn luyện thể chất cho HS.

Khảo sát Phụ huynh học sinh về mức độ quan tâm của Phụ huynh học sinh đối với con cái (câu hỏi 4, PL6), chúng tôi có hình sau:

Hình 2.12. Biểu đồ về mức độ quan tâm của Phụ huynh học sinh đối với con cái

Nhìn vào hình 2.12 ta thấy, trong bốn vấn đề đưa ra khảo sát, mức độ thường xuyên quan tâm của Phụ huynh học sinh dao động từ 19% đến 42%, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái không cao. Nội dung thường xuyên được Phụ huynh học sinh quan tâm nhất là “Chuyện trò, trao đổi với HS về các vấn đề trong cuộc sống, trong gia đình” (42%). Nội dung được quan tâm thứ hai là ” Nhóm bạn bè HS thường giao thiệp”.

Điều này phù hợp với khảo sát ở trên vì Phụ huynh học sinh cho rằng ảnh hưởng của bạn bè là rất lớn đối với HS.

PHHS thỉnh thoảng có quan tâm đến các vấn đề của con cái chiếm tỷ lệ tương đối cao, dao động từ 39% đến 49%. Điều này chứng tỏ Phụ huynh học sinh có ý thức được những ảnh hưởng tác động đến hình thành đạo đức, lối sống của con cái nhưng có lẽ phần lớn Phụ huynh học sinh lo làm ăn, ít có thời gian quan tâm đến con em mình. Có 12% đến 31% Phụ huynh học sinh ít khi quan tâm đến con cái và có từ 1% đến 12% Phụ huynh học sinh không khi nào quan tâm đến các vấn đề của con cái. Đây là vấn đề đáng báo động vì giáo dục gia đình như khảo sát có ảnh hưởng rất lớn đến HS, gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình không là mảnh đất tốt cho những mầm non thì xã hội không thể có những cây trái tươi tốt được.

Để tìm hiểu rõ hơn định hướng của cha mẹ với con cái trong các hoạt động, chúng tôi thống kê số liệu sau: (câu hỏi 3, PL6)

Bảng 2.24. Định hướng của Phụ huynh học sinh đối với con cái Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Nhìn vào kết quả khảo sát ở bảng 2.24, ta nhận thấy:

Có 76% Phụ huynh học sinh mong muốn con em mình “tự giác học tập”, 71% mong muốn HS “Vui chơi giải trí lành mạnh”. Chỉ có 37% Phụ huynh học sinh mong muốn con em mình “làm thêm tự trang trải chi phí học hành” và 45% “Tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện”. Điều này chứng tỏ Phụ huynh học sinh cũng chưa có quan niệm đúng về Giáo dục đạo đức một cách tòan diện cho HS. Đó cũng là khó khăn lớn cho nhà trường trong Giáo dục đạo đức HS vì mục tiêu giáo dục giữa gia đình và nhà trường không thống nhất dễ dẫn đến tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Từ kết quả khảo sát trên (a+b), chúng tôi rút ra những nhận xét sau:

Tác động của môi trường xã hội là yếu tố được đánh giá có mức độ ảnh hưởng rất lớn ở cả ba đối tượng khảo sát. Kết quả khảo sát phù hợp với thực tế xã hội hiện tại. Chúng ta thấy rằng, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, mặt trái của nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ tác động vào giới trẻ, nó có sức mạnh cuốn hút, làm tha hóa lối sống, đạo đức …Nếu thanh thiếu niên không được “trang bị hệ thống miễn dịch” thì dễ dàng bị lôi kéo vào vòng xóay của nó; giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường không thể lấn át được.

Giáo dục nhà trường được đánh giá có ảnh hưởng ở mức trung bình đến hình thành đạo thức và hành vi của HS. Ý kiến này làm cho các nhà quản lý giáo dục trong các trường Trung cấp nghề phải suy ngẫm và đánh giá lại về nội dung, về phương pháp giáo dục trong các trường hiện nay. Về nội dung chương trình đào tạo trong trường Trung cấp nghề không có môn Giáo dục công dân, không có các môn xã hội nhân văn. Việc cung cấp các tri thức đạo đức được thực hiện qua giảng dạy các môn văn hóa cơ bản, các môn lý thuyết nghề, thực hành nghề và thông qua giờ sinh hoạt của GVCN (1giờ/tuần). Việc rèn luyện hành vi đạo đức HS được thực hiện thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT và hoạt động khác như xã hội từ thiện, giúp bạn khó khăn, hiến máu nhân đạo…nhưng không thường xuyên và chưa có chiều sâu (như đã khảo sát ở trên). Vấn đề đặt ra cho các nhà Quản lý giáo dục là nhìn nhận khách quan về thực trạng và có sự đổi mới trong chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Giáo dục đạo đức HS trong nhà trường.

Giáo dục gia đình đến hành thành ý thức và hành vi của HS được CBQL, GV và HS đánh giá mức độ ảnh hưởng nhiều hơn giáo dục nhà trường nhưng ở Phụ huynh học sinh thì ngược lại. Như vậy, chưa có sự thống nhất trong quan điểm của các lực lượng giáo dục về vai trò của mình trong hoạt động Giáo dục đạo đức HS. Chính vì vậy, trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian vừa qua có nhiều ý kiến khác nhau về trách nhiệm của các lực lượng giáo dục trước tình trạng suy thoái đạo đức lối sống của thanh thiếu niên. Nhận thức chưa đúng về vai trò và trách nhiệm của các lực lượng giáo dục trong hoạt động Giáo dục đạo đức HS cũng là khó khăn rất lớn trong nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

Nỗ lực của HS trong hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS, CBQL & GV đánh giá ở mức độ cao nhất. Đây là đánh giá đúng và phù hợp với lí luận giáo dục. Nỗ lực của HS có vai trò quyết định và công tác Giáo dục đạo đức HS chỉ đạt được hiệu quả khi chuyển từ quá trình giáo dục của GV và nhà trường thành quá trình tự giáo dục của mỗi HS. Phụ huynh học sinh đánh giá nỗ lực của HS trong quá trình hình thành ý thức và hành vi đạo đức của các em ở mức thấp nhất. Có lẽ, phụ huynh cho rằng con em của mình còn nhỏ chủ yếu là tác động từ bên ngoài chưa đánh giá đúng động lực bên trong của mỗi HS.

Về ảnh hưởng của bạn bè đối với hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS, Phụ huynh học sinh cho là rất lớn (xếp thứ 2), đối với CBQL & GV và đối với HS thì đánh giá mức độ ảnh hưởng không cao (xếp thứ 4 và 5). Tuy nhiên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi PTCS cho thấy, tập thể lớp, quan hệ thân thiết giữa những người cùng trang lứa trong lớp, trong trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng nhiều đến tình cảm đạo đức, tình bạn của các em. Đó cũng chính là cơ sở của nguyên tắc giáo dục “trong tập thể và bằng tập thể”, hình thành dư luận tập thể lành mạnh và xây dựng tập thể lớp học vững mạnh.

2.3.6. Kết luận chung về thực trạng Giáo dục đạo đức HS

Khảo sát thực trạng Giáo dục đạo đức HS ở các trường Trung cấp nghề trên địa bàn TP.HCM, chúng tôi có kết luận sau:

  • Về cung cấp tri thức đạo đức cho HS:

HS có những hiểu biết tương đối chính xác các giá trị đạo đức so với chuẩn mực đạo đức của xã hội tuy nhiên việc cung cấp tri thức đạo đức cho HS từ giáo dục nhà trường không cao (12% HS ghi nhận).

  • Về giáo dục thái độ và tình cảm đạo đức cho HS:

HS thể hiện thái độ và tình cảm đạo đức ở mức độ khá tích cực được đánh giá qua việc khảo sát ý thức đạo đức đạo đức HS trước tình trạng bạo lực học đường và động cơ học tập của HS.

Như vậy, việc giáo dục thái độ và tình cảm đạo đức HS thực hiện khá tốt trong các trường.

  • Về rèn luyện hành vi và thói quen đạo đức:

Mức độ thể hiện hành vi đạo đức đúng mẫu của HS chưa cao (dưới 60%), nhiều HS vi phạm kỷ luật, nội qui, qui chế của nhà trường (40% đến 50%). Như vậy, việc rèn luyện hành vi và thói quen đạo đức cho HS trong nhà trường chỉ ở mức trung bình.

Tóm lại: việc thực hiện nhiệm vụ và nội dung Giáo dục đạo đức HS trong các trường Trung cấp nghề còn nhiều hạn chế.

2.3.7. Nguyên nhân của thực trạng Giáo dục đạo đức HS Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

  • Nhận thức chưa đúng và chưa đủ về vai trò và nhiệm vụ trong hoạt động Giáo dục đạo đức của các lực lượng giáo dục nhất là phía Phụ huynh học sinh.
  • Nội dung giáo dục trong các trường Trung cấp nghề chưa toàn diện, việc cung cấp các tri thức đạo đức và rèn luyện hành vi đạo đức HS còn yếu.
  • Tác động phức tạp của môi trường xã hội đến suy nghĩ và lối sống của thanh thiếu niên

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, chúng tôi đã thống kê và phân tích kết quả khảo sát thực trạng hoạt động quản lý Giáo dục đạo đức HS và thực trạng hoạt động Giáo dục đạo đức HS ở năm trường Trung cấp nghề trên địa bàn TP.HCM. Qua đó, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

  • Các hoạt động được tổ chức và chỉ đạo tốt thì hiệu quả hoạt động sẽ cao. Ví dụ: Tổ chức hoạt động đánh giá rèn luyện đạo đức HS trong nhà trường:
  • Bộ LĐTB & XH đã ban hành “Qui chế đánh giá kết quả rèn luyện của HS, sinh viên hệ chính qui trong các cơ sở dạy nghề”, được cụ thể hóa ở từng trường và đưa vào áp dụng trong một cách có hiệu quả.
  • Việc tổ chức chỉ đạo hoạt động này trong nhà trường được thực hiện khá tốt

Vì vậy, hiệu quả hoạt động đánh giá rèn luyện đạo đức HS trong nhà trường được đánh giá khá tốt ở hầu hết các đối tượng khảo sát

  • Những bất cập trong nội dung chương trình đào tạo và yếu kém của lực lượng làm công tác Giáo dục đạo đức HS cũng dẫn đến những hạn chế trong hình thành ý thức và hành vi đạo đức của HS như:
  • Việc cung cấp tri thức đạo đức HS trong nhà trường còn thiếu hụt dẫn đến một số biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và lối sống của HS.
  • Chưa có sự thống nhất trong mục tiêu Giáo dục đạo đức HS giữa gia đình, nhà trường và XH dẫn đến khó khăn trong hình thành nhân cách tòan diện cho HS.
  • Ít được bồi dưỡng tập huấn kỹ năng quản lý và kỹ năng Giáo dục đạo đức HS trong CBQL & GV dẫn đến hiệu quả về rèn luyện hành vi cho HS không cao, còn nhiều biểu hiện tiêu cực trong hành vi đạo đức của HS.

Nhiều khó khăn lớn như thiếu kinh phí, chế độ lương bổng chưa phù hợp, tác động mạnh mẽ và phức tạp của môi trường XH là trở ngại cho những CBQL trong thực thi nhiệm vụ và nếu không có sự chung tay giúp sức của tòan xã hội thì CBQL ở các trường cũng không thể tháo gỡ nổi. Luận văn: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp giáo dục đạo đức học sinh trường Trung cấp

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993