Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước

2.1.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

2.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Căn cứ Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2013/QH12 của Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ và là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Hình 2.1. Các chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước

Với vai trò là một cơ quan ngang Bộ trực thuộc Chính phủ, đồng thời, thực hiện chức năng của một Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Nhà nước có 27 nhiệm vụ chính được quy định tại Điều 4, Luật Ngân hàng Nhà nước 2013 (chi tiết theo Phụ lục số 01 đính kèm luận văn)

2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước

NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, 63 chi nhánh tỉnh, thành phố và đơn vị trực thuộc khác.

Bộ máy điều hành tại Trụ sở chính gồm có:

  • Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước: Thống đốc và 05 Phó Thống đốc
  • 19 Vụ, Cục chức năng: Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.
  • 63 Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố: Tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ngân hàng Nhà nước có 01 chi nhánh để thực hiện tham mưu, giúp Thống đốc quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng trung ương theo ủy quyền của Thống đốc.
  • 07 đơn vị sự nghiệp trực thuộc:

Ngoài ra, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước còn thành lập một số Ban quản lý dự án nhằm giúp Thống đốc quản lý và thực hiện các dự án.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Tài Chính Ngân Hàng

2.1.2. Công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

2.1.2.1. Tổ chức bộ máy tài chính của Ngân hàng Nhà nước

Bộ máy tài chính của Ngân hàng Nhà nước là một hệ thống từ cấp cơ sở (các đơn vị trực thuộc) đến Hội sở chính (Thống đốc và các Vụ chuyên môn), trong đó:

  • Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: là cấp quyết định ban hành các quy định, tiêu chuẩn, định mức về tài chính, chi phí để áp dụng cho hệ thống Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật; phê duyệt kế hoạch kinh phí, dự toán và quyết toán các gói thầu.
  • Vụ Tài chính – Kế toán: là Vụ chức năng, có nhiệm vụ tham mưu, giúp Thống đốc trong việc nghiên cứu, xây dựng các quy định, định mức, tiêu chuẩn về tài chính; thực hiện vai trò của đơn vị kinh phí cấp I: tổng hợp, lập kế hoạch tài chính hàng năm; trình Thống đốc phân bổ kinh phí khoán và thông báo cáo cho các đơn vị; hướng dẫn và giám sát các đơn vị thực hiện; tổng hợp báo cáo quyết toán hàng năm của toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
  • Các Cục, chi Cục, Cơ quan Thanh tra, giám sát, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh thành phố là các đơn vị kinh phí cấp II, được quản lý, sử dụng kinh phí trong phạm được Thống đốc giao; đảm bảo đúng mục đích, đúng tiêu chuẩn, định mức theo quy định hiện hành, trong đó: Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.
  • Cục Quản trị: chịu trách nhiệm lập kế hoạch, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí khoán cho các Vụ chức năng tại trụ sở chính mà không có đơn vị kế toán như: Vụ Tài chính – Kế toán, Vụ Tổ chức cán bộ,…
  • Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng: chịu trách nhiệm tổng hợp, lập kế hoạch, quyết toán kinh phí cho các Cục, Văn phòng trực thuộc
  • Các đơn vị sự nghiệp là đơn vị được quản lý, sử dụng phần kinh phí hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và của Ngân hàng Nhà nước.
  • Vụ Kiểm toán nội bộ: có trách nhiệm kiểm tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính của các đơn vị Ngân hàng Nhà nước.

2.1.2.2. Quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

  • Quản lý các khoản thu

Các khoản phải thu từ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, gồm: Thu về nghiệp vụ tiền gửi, cấp tín dụng và đầu tư; Thu về nghiệp vụ thị trường mở; Thu về nghiệp vụ mua, bán và giao dịch ngoại hối; Thu về dịch vụ thanh toán, thông tin và ngân quỹ; Thu phí và lệ phí theo quy định của pháp luật; Lợi tức thu được từ vốn góp vào doanh nghiệp đặc thù; Thu về chênh lệch tỷ giá; Thu hoàn nhập dự phòng rủi ro và các khoản thu khác.

Các khoản thu nhập được ghi nhận theo nguyên tắc dồn tích: Đối với các khoản tiền gửi, cấp tín dụng và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước hạch toán lãi phải thu trong kỳ vào thu nhập (trừ các khoản lãi phải thu của khoản cho vay quá hạn chỉ hạch toán thu nhập khi thu được); Đối với thu nhập từ các hoạt động còn lại, ghi nhận thu nhập là toàn bộ số tiền cung ứng dịch vụ, bán hàng hóa được khách hàng chấp nhận thanh toán, không phân biệt đã thu hay chưa thu được tiền

  • Quản lý các khoản chi phí của Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Chi phí của Ngân hàng Nhà nước là toàn bộ số phải chi phát sinh trong kỳ để duy trì hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo quy định bao gồm: Chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng; Chi cho cán bộ, công chức, nhân viên hợp đồng của Ngân hàng Nhà nước; Chi cho hoạt động quản lý và công vụ; Chi về tài sản; chi 12% giá trị tài sản cố định bình quân trong năm để đầu tư phát triển kỹ thuật nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng; Các khoản chi từ nguồn kinh phí do NSNN cấp theo chế độ quy định; Chi lập dự phòng rủi ro theo quy định; Chi về nghiệp vụ góp vốn vào doanh nghiệp đặc thù; Chi bổ sung thu nhập theo cơ chế khoán; Chi hỗ trợ các đơn vị sự nghiệp của Ngân hàng Nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính một phần; Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

Các khoản chi của Ngân hàng Nhà nước được ghi nhận theo nguyên tắc: Chi phí của Ngân hàng Nhà nước là các khoản phải chi trong kỳ liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, được ghi nhận theo nguyên tắc dồn tích; Các khoản chi phải có căn cứ hợp lý, hợp lệ và có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật; Các khoản chi bằng ngoại tệ được thực hiện thông qua nghiệp vụ mua, bán ngoại tệ để chuyển đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá thống nhất do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm phát sinh để hạch toán vào các tài khoản chi phí.

  • Về phân phối kết quả tài chính của Ngân hàng Nhà nước

Kết quả tài chính hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định bằng nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác (tổng thu), sau khi trừ chi phí hoạt động và các khoản dự phòng rủi ro (tổng chi), hay còn gọi là Chênh lệch thu chi sau trích lập dự phòng. Chênh lệch thu chi của Ngân hàng Nhà nước, tuỳ thuộc vào sự biến động của thị trường tiền tệ và phương pháp điều hành chính sách tiền tệ mà có thể xảy ra 02 trường hợp: Chênh lệch thu lớn hơn chi (chênh lệch thu chi dương) hoặc Chênh lệch chi lớn hơn thu (chênh lệch thu chi âm). Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Từ năm 2016 đến nay, thực hiện Quyết định 07/2016/QĐ-TTg ngày 24/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Chênh lệch thu – chi của Ngân hàng Nhà nước được trích 10% để bổ sung khoản dự phòng rủi ro; trích bổ sung kinh phí khoán. Số còn lại được phân bổ như sau: (1) Trích 20% bổ sung Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; (2) Trích 10% để lập Quỹ dự phòng tài chính; (3) Đóng góp vào các tổ chức quốc tế (nếu có phát sinh trong năm); (4) Số còn lại nộp vào NSNN. Trên thực tế, chênh lệch thu chi của Ngân hàng Nhà nước còn sử dụng để bổ sung vốn điều lệ cho Nhà máy In tiền quốc gia theo sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.

Mô hình phân phối kết quả tài chính năm của Ngân hàng Nhà nước như sau:

Hình 2.2. Mô hình phân phối kết quả tài chính năm của Ngân hàng Nhà nước

  • Cơ chế khoán kinh phí hoạt động

Nguyên tắc khoán kinh phí cho Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước được Bộ Tài chính giao khoán hạn mức chi đối với các khoản chi cho CBCC, chi quản lý công vụ, mua sắm Công cụ lao động và sửa chữa tài sản.

Tổng mức kinh phí Bộ Tài chính giao khoán cho Ngân hàng Nhà nước được chia thành 02 cấu phần:

(i) Mức kinh phí khoán tuyệt đối: là tổng mức chi cho các khoản chi được khoán để bù đắp tất cả các khoản chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Nếu Ngân hàng Nhà nước tiết kiệm được sẽ để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức;

(ii) Tỷ lệ trích bổ sung kinh phí khoán từ chênh lệch thu chi của Ngân hàng Nhà nước: do Bộ Tài chính xác định từng năm trên cơ sở dự kiến chênh lệch thu chi đạt được. Mức kinh phí bổ sung này không được sử dụng để bù đắp chi phí hoạt động mà chỉ được sử dụng để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Tổng kinh phí tiết kiệm được từ mức khoán chi và kinh phí bổ sung từ chênh lệch thu chi được sử dụng cho các mục đích sau: (i) Chi bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống Ngân hàng Nhà nước với mức chi tối đa không quá 0,8 lần lương, phụ cấp lương thực tế thực hiện trong năm không bao gồm phụ cấp công vụ (trong đó mức bổ sung từ chênh lệch thu chi tối đa không quá 0,55 mức chi tối đa nói trên, phần còn lại được bổ sung từ nguồn kinh phí tiết kiệm kinh phí khoán); (ii) Trích Quỹ dự phòng ổn định thu nhập với mức trích đảm bảo số dư của quỹ tối đa không quá 03 tháng lương thực hiện; (iii) Trợ cấp thêm ngoài chính sách chung cho những người tự nguyện về nghỉ chế độ trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại lao động; (iv) Phần còn lại nộp NSNN (nếu có).

Hình 2.3. Cấu trúc kinh phí khoán của Ngân hàng Nhà nước

Các khoản chi thuộc cơ chế khoán của Ngân hàng Nhà nước: gồm 02 nhóm chính:

Chi phí cho cán bộ, công chức và người lao động: Nhóm khoản chi này chiếm tới 70% kinh phí khoán của Ngân hàng Nhà nước. Phương pháp xác định mức khoán đối với nhóm khoản chi này là theo: định biên, hệ số lương bình quân, mức lương cơ sở của năm hiện hành.

Nhóm chi phí quản lý: Các khoản chi cho quản lý công vụ của Ngân hàng Nhà nước chiếm khoản 30% tổng chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhưng đây là khoản chi mà NHNN có thể tiết kiệm được để chi bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức. (Chi tiết Quy trình lập kế hoạch và phân bổ kinh phí khoán của Ngân hàng Nhà nước cho các đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước theo Phụ lục số 03)

  • Về quản lý và sử dụng tài sản, trang thiết bị tại Ngân hàng Nhà nước

Việc đầu tư trang thiết bị tài sản cho công tác quản lý Nhà nước là hết sức cần thiết, tại Ngân hàng Nhà nước các thiết bị được trang bị đầy đủ cho các cán bộ và phòng, ban nghiệp vụ. Các tài sản (ngoại trừ thiết bị tin học, thiết bị an toàn kho quỹ) tại các đơn vị Ngân hàng Trung Ương do Cục Quản trị thực hiện, ở các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước do chi nhánh tự thực hiện. Căn cứ các quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý, sử dụng tài sản, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Quyết định số 2645/QĐ-NHNN ngày 31/12/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về tiêu chuẩn định mức sử dụng máy móc, thiết bị tại các đơn vị Ngân hàng Nhà nước và Quyết định số 2673/QĐ-NHNN ngày 27/12/2022 ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản tại Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, các đơn vị trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Nhà nước thực hiện đảm bảo đúng quy định, và làm cơ sở để bộ phận thuộc hệ thống kiểm soát nội bộ thực hiện kiểm tra, kiểm toán.

2.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

2.2.1. Sự hình thành và phát triển hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Hệ thống kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng được hình thành và phát triển như một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức cũng như mọi lĩnh vực hoạt động của ngành ngân hàng (bao gồm Ngân hàng Nhà nước và NHTM). Khi Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng (tháng 6/2013) được ban hành thì hoạt động kiểm soát của hệ thống Kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ (KTNB) được khẳng định rõ ràng, ngày càng dược hoàn thiện và nâng cao nhằm giúp cho hoạt động ngân hàng đi đúng hướng an toàn và hiệu quả. Hệ thống Kiểm soát nội bộ, Kiểm toán nội bộ trong lĩnh vực ngân hàng hoạt động theo mô hình ngành dọc từ ngân hàng Trung ương đến các chi nhánh, đơn vị thuộc, trực thuộc của ngân hàng.

Điều 16, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1990 quy định việc kiểm soát hoạt động của các cơ quan và đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước do Tổng Kiểm soát Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm. Ngày 27 tháng 12 năm 1990, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số 115/NH-QĐ thành lập Vụ Tổng kiểm soát. Ngay từ khi mới thành lập, lực lượng cán bộ còn ít, chủ yếu điều chuyển từ các Vụ, Cục Ngân hàng Trung ương đến, chưa có kinh nghiệm trong công tác kiểm soát. Nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện mở, được sự quan tâm chỉ đạo của Thống đốc và Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy kiểm soát từ trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước đến các chi nhánh tỉnh, thành phố trong cả nước đã được hình thành và đi vào hoạt động từ tháng 7/1991. Cuối năm 1996, trước yêu cầu tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ tại một số Vụ, Cục Ngân hàng Trung ương (Sở Giao dịch, Cục Quản trị, Vụ Kế toán – Tài chính, Văn phòng Ngân hàng Nhà nước tại Tp. Hồ Chí Minh). Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Từ năm 1991 đến 1997, qua tổng kết và rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động kiểm soát, bộ máy tổ chức kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đã có những điều chỉnh cùng với quá trình đổi mới và phát triển hoạt động nghiệp vụ theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước. Điều 57 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, được sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định: Kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm soát hoạt động của đơn vị thuộc hệ thống Ngân hàng Nhà nước và kiểm toán nội bộ các đơn vị thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, đã tạo ra bước chuyển tích cực trong nhận thức và thực hiện vai trò, mục tiêu của công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Là một bộ phận cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ, với chức năng kiểm toán nội bộ và tham mưu giúp Thống đốc chỉ đạo, kiểm tra công tác kiểm soát nội bộ tại các đơn vị, Vụ Tổng kiểm soát đã có những đóng góp đáng kể tạo lên một môi trường kiểm soát lành mạnh, có hiệu quả trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.

Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của Vụ Kiểm toán nội bộ (trước đây là Vụ Tổng Kiểm soát) được quy định tại Quyết định số 310/QĐ-NHNN ngày 26/02/2017 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cụ thể: Ban hành các quy định, quy trình nghiệp vụ kiểm soát hoạt động tại các đơn vi thuộc Ngân hàng Nhà nước; tổ chức thực hiện Kiểm toán nội bộ trong các lĩnh vực: tuân thủ pháp luật, các cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước và việc chỉ đạo của Thống đốc; Báo cáo tài chính (BCTC) của Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị kế toán trực thuộc; các dự án mua sắm tài sản, các dự án đầu tư và xây dựng mới, dự án cải tạo, sửa chữa lớn nâng cấp tài sản và việc ứng dụng công nghệ tin học tại các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước; việc quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; an toàn kho quĩ Ngân hàng Nhà nước; thực hiện Kiểm toán nội bộ các dự án mua sắm tài sản, dự án đầu tư xây dựng lớn của Ngân hàng Nhà nước từ giai đoạn lập kế hoạch theo quyết định của Thống đốc…

Cơ cấu tổ chức của Vụ Kiểm toán nội bộ gồm Vụ trưởng và một số Phó Vụ trưởng với 05 phòng nghiệp vụ: Phòng xây dựng chương trình và thẩm định BCKT (Phòng kiểm toán số 1); Phòng kiểm toán Báo cáo tài chính và dự án đầu tư (Phòng kiểm toán số 2); Phòng kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động (Phòng kiểm toán số 3); Phòng kiểm toán tin học và ngoại hối (Phòng kiểm toán số 4); Phòng kiểm toán nghiệp vụ phát hành tiền và hoạt động kho quỹ (Phòng Kiểm toán số 5).

(Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Vụ Kiểm toán nội bộ theo Phụ lục số 04 đính kèm) Tại Ngân hàng Nhà nước Trung Ương, Vụ Kiểm toán nội bộ có 50 người. Tại các chi nhánh tỉnh, thành phố: có ít nhất một người làm nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát nội bộ. Kiểm soát viên chi nhánh Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát viên chuyên trách tại một số đơn vị Ngân hàng Nhà nước Trung Ương chủ yếu thực hiện nghiệp vụ kiểm soát chi tiết một số nghiệp vụ cụ thể tại nơi công tác (như công tác an toàn kho quỹ, kiểm soát chi tiêu nội bộ…) thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo ngành dọc của Vụ Kiểm toán nội bộ.

Nguyên tắc hoạt động dựa trên việc tuân thủ pháp luật, quy định, quy trình, kế hoạch đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt; bảo đảm tính độc lập, trung thực, khách quan, giữ bí mật nhà nước và bí mật của đơn vị được kiểm toán; không làm cản trở hoạt động bình thường của đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán nội bộ được tiếp cận tài liệu, hồ sơ, giao dịch và các tài liệu cần thiết khác của đối tượng kiểm toán để thực hiện mục tiêu kiểm toán.

2.2.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước hiện nay Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

2.2.2.1. Môi trường kiểm soát

  • Về đặc thù quản lý

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác quản lý tài chính là hết sức quan trọng, công tác quản lý tài chính và tăng cường Kiểm soát nội bộ đối với lĩnh vực nhạy cảm này được Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước hết sức chú trọng. Ngân hàng Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế tài chính đặc thù, được quy định cụ thể tại Quyết định số 07/2016/QĐ-TTg phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2013. Trong khi nhiệm vụ được Nhà nước giao ngày càng mở rộng thì công tác quản lý tài chính lại càng được Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước quan tâm nhiều hơn. Công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động tài chính được lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo thực hiện trong tất cả các khâu của hoạt động tài chính, nhằm tăng cường hiệu quả của các khoản chi cũng như đảm bảo nguồn thu phục vụ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.

Công tác quản lý tài chính đã chú trọng xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý tài chính và hạch toán kế toán tại các đơn vị Ngân hàng Nhà nước cũng như đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát các khoản thu, chi; mạnh dạn đệ trình cơ chế tài chính đặc thù cho phù hợp tình hình mới, phù hợp đặc thù hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong việc phân phối kết quả tài chính. Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước thường xuyên làm việc, thảo luận, trao đổi với đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính kế toán thông qua các hội thảo chuyên đề về tài chính, hội nghị tổng kết công tác tài chính kế toán, qua các kiến nghị của Vụ Kiểm toán nội bộ, Thanh tra Bộ Tài chính hay Kiểm toán Nhà nước định kỳ hàng năm để từ đó rút kinh nghiệm, có những chỉ đạo kịp thời, xử lý những tồn tại vướng mắc trong hoạt động tài chính của đơn vị. Do vậy, đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính hữu hiệu của Hệ thống kiểm soát nội bộ, đặc biệt là đối với hoạt động tài chính.

  • Về cơ cấu tổ chức Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

NHNN có đội ngũ lãnh đạo có năng lực quản lý, có kiến thức chuyên sâu cũng như tư cách đạo đức trong sáng, hoạt động quản lý tài chính, công tác kiểm tra kiểm soát được chú trọng nên ngày càng phát huy tính hữu hiệu, đảm bảo việc tuân thủ chính sách pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.

NHNN đã tách biệt chức năng xây dựng và quản lý tài sản tài chính, chế độ kế toán của Vụ Tài chính – Kế toán với chức năng trực tiếp mua sắm tài sản, tính toán các khoản chi cho cán bộ công nhân viên… của Cục Quản trị (tại các đơn vị Ngân hàng Trung ương)/Phòng Kế toán (tại các chi nhánh). Vụ Kiểm toán nội bộ là đơn vị độc lập thực hiện kiểm tra, đánh giá hệ thống kiểm soát nhằm phát hiện, ngăn chặn các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tại đơn vị; quản lý, sử dụng tài sản và các nguồn lực tại đơn vị an toàn và hiệu quả. Điều này giúp cho cơ cấu tổ chức không bị chồng chéo mà vẫn thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực.

Bộ phận kế toán trong mỗi đơn vị có vị trí rất quan trọng trong công tác kiểm soát, việc tổ chức bộ máy kế toán được đặc biệt chú trọng để đảm bảo công tác tài chính – kế toán được hiệu quả, cung cấp thông tin nhanh mà vẫn đảm bảo độ tinh cậy, chính xác. Bộ máy kế toán của Ngân hàng Nhà nước hiện nay được tổ chức theo mô hình đơn vị cấp trên và đơn vị cấp dưới và là đơn vị hạch toán độc lập. Tại Vụ TCKT tổ chức hạch toán chính xác, kịp thời và đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại Vụ, các loại vốn quỹ và tài sản tập trung của Ngân hàng Nhà nước theo chế độ quy định. Đồng thời nhận, kiểm soát, tổng hợp và xử lý các loại báo cáo kế toán định kỳ (tháng, quý, năm) của các đơn vị Ngân hàng Nhà nước và báo cáo quyết toán của hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Tại Vụ TCKT đã có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban Lãnh đạo Vụ và các phòng thuộc cơ cấu tổ chức của Vụ. Tại phòng Kế toán tập trung, các kế toán viên phụ trách phần hành kế toán nào sẽ có nhiệm vụ quản lý, hạch toán cũng như hướng dẫn các đơn vị thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến phần công việc mình phụ trách có sự chỉ đạo trực tiếp của Trưởng phòng. Phòng Quản lý tài chính chia thành 2 khối: Khối tài sản, khối chi phí và ngân sách giúp Vụ Trưởng tổ chức và thực hiện công tác quản lý tài chính, tài sản của Ngân hàng Nhà nước theo đúng quy định của pháp luật. Từ đó nhằm đảm bảo các mục tiêu của kiểm soát bao gồm: tính có thực của các nghiệp vụ phát sinh, sự phê chuẩn của lãnh đạo, tính đầy đủ đảm bảo sự phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ phát sinh, sự đánh giá bảo đảm không vi phạm, sự phân loại đảm bảo ghi chép đúng sơ đồ tài khoản và các loại sổ sách, tính đúng kỳ và quá trình chuyển sổ đúng đắn.

  • Về chính sách nhân sự

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công tác trong lĩnh vực tài chính kế toán. Luôn coi con người là trọng tâm, là chìa khoá quyết định sự thành công và hiệu quả của công tác quản lý, Ngân hàng Nhà nước đã cử nhiều cán bộ đi tham gia các lớp học, các khoá đào tạo trong và ngoài nước về chuyên môn nghiệp vụ như về đấu thầu, về chế độ tài chính, kế toán, cập nhật các văn bản, cơ chế chính sách tài chính mà nhà nước ban hành mới hay sửa đổi bổ sung, việc cập nhật các văn bản, nghiên cứu trao đổi thảo luận đưa văn bản mới vào áp dụng thực tế tại Ngân hàng Nhà nước được hết sức lưu ý… Đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã có những động viên khuyến khích, khen thưởng kịp thời với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong công tác tài chính, do vậy đã làm tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống kế toán, của Hệ thống kiểm soát nội bộ. Trình độ cán bộ làm công tác tài chính của Vụ Tài chính – Kế toán (Phòng Quản lý tài chính) gồm 11 công chức đều có trình độ đại học và trên đại học, có năng lực, có kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng thường xuyên tổ chức đánh giá năng lực cán bộ, tạo điều kiện cho các cán bộ công chức rèn luyện và thi lên cấp bậc trình độ cao hơn như chuyên viên chính, hoặc đánh giá năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao để xếp loại lao động, đánh giá cuối năm, từ đó làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền xem xét nâng lương trước hạn hoặc có sự đề bạt đối với cán bộ có năng lực và có nhiều cống hiến cho đơn vị. Từ đó động viên cán bộ không ngừng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả công tác. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

  • Về công tác kế hoạch

NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước chịu sự chi phối về tài chính, công tác kế hoạch hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính và cơ quan chủ quản cấp trên. Hằng năm, Vụ Tài chính – Kế toán lập các kế hoạch tài chính trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch Đầu tư, bao gồm: Kế hoạch thu nhập và chi phí theo cơ chế đặc thù của Ngân hàng Nhà nước; Kế hoạch thu, chi từ kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp (chủ yếu là của các đơn vị sự nghiệp và một số nhiệm vụ chi từ nguồn NSNN).

Trước ngày 30 tháng 11 hàng năm, Vụ Tài chính-Kế toán tổng hợp các kế hoạch của năm sau trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt để giao cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước triển khai, thực hiện, gồm: Kế hoạch đầu tư xây dựng; Kế hoạch mua sắm tài sản cố định. Trước ngày 28 tháng 2 năm kế hoạch, Vụ Tài chính-Kế toán lập kế hoạch giao khoán chi phí quản lý trình Thống đốc phân bổ để duy trì hoạt động thường xuyên của các đơn vị. Công tác kế hoạch tài chính là bộ phận quan trọng của công tác kế hoạch, bao gồm dự toán thu, chi thường xuyên, kế hoạch trang bị tài sản, kế hoạch đầu tư xây dựng. Kế hoạch là một bộ phận quan trọng của hệ thống Kiểm soát nội bộ, kế hoạch, dự toán được lập một cách khoa học, nghiêm túc là công cụ kiểm soát hiệu quả. Kế hoạch được xác định là mục tiêu để phấn đấu, kế hoạch lập phải trên cơ sở thực tiễn, có tính khả thi cao. Công tác kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước thực sự là công cụ kiểm soát hữu hiệu đối với hoạt động tài chính, trở thành mục tiêu để các đơn vị phấn đấu hoàn thành công tác được giao một cách hiệu quả nhất.

  • Về công tác tự kiểm tra tài chính Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Để đảm bảo việc chấp hành chế độ, chính sách pháp luật của Nhà nước về kế toán, quản lý tài chính, thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong các cơ quan, đơn vị, ngày 28/6/2019 Ngân hàng Nhà nước đã có Công văn số 4808/NHNN-KTNB về việc hướng dẫn tự kiểm tra tài chính, kế toán trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước thay thế Công văn số 3830/NHNN-KTNB ngày 25/6/2015. Công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát nội bộ trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Việc tự kiểm tra tài chính, kế toán phải được thực hiện thường xuyên, liên tục ngay trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân. Đồng thời, người có thẩm quyền phải kiểm soát lại trước khi hoàn tất từng khâu công việc.

Phòng Kiểm soát nội bộ/ Phòng Nghiên cứu tổng hợp và Kiểm soát nội bộ thực hiện tự kiểm tra theo định kỳ đôn đốc phòng Kế toán – Thanh toán và các phòng, ban liên quan đến công tác tài chính, kế toán thực hiện tự kiểm tra tài chính, kế toán thường xuyên; lập chương trình, kế hoạch tự kiểm tra tài chính, kế toán năm trình Ban Lãnh đạo phê duyệt, triển khai công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán theo kế hoạch được duyệt và theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước và lập báo cáo kiểm soát công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán trình Giám đốc và gửi Ngân hàng Nhà nước (Vụ Kiểm toán nội bộ) theo quy định. Đối với đơn vị không có Phòng Kiểm soát nội bộ/ Phòng Nghiên cứu tổng hợp và Kiểm soát nội bộ hoặc Kiểm soát viên thì Trưởng phòng Kế toán/ Kế toán trưởng chịu trách nhiệm tổ chức triển khai công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán trong nội bộ phòng Kế toán; tham mưu cho Ban Lãnh đạo triển khai tới các bộ phận liên quan và phân công cá nhân chịu trách nhiệm lập báo cáo tự kiểm tra tài chính, kế toán gửi Ngân hàng Nhà nước theo quy định.

Căn cứ theo Luật thanh tra 56/2013/QH12 ngày 15/11/2013, Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 22/9/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, trong đó có hướng dẫn Đại hội Công nhân viên chức hàng năm, Ngân hàng Nhà nước đã bầu ra Ban Thanh tra nhân dân, nhiệm kỳ hoạt động là 1 năm, gồm thành viên là cán bộ đang công tác trong Ngân hàng Nhà nước. Hàng năm, Thủ trưởng đơn vị chỉ đạo Phòng Kiểm soát nội bộ/ Phòng Nghiên cứu tổng hợp và Kiểm soát nội bộ phối hợp với Thanh tra nhân dân kiểm tra việc công khai tài chính tại đơn vị. Kết quả kiểm tra công khai tài chính là một nội dung trong báo cáo công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán của đơn vị.

  • Về môi trường kiểm soát bên ngoài Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

NHNN cũng chịu sự kiểm soát tài chính bởi nhiều cơ quan quản lý khác nhau như cơ quan quản lý về tài chính là Bộ Tài chính. Ngoài ra còn có các cơ quan kiểm soát có liên quan theo định kỳ như Kiểm toán nhà nước, Bộ Tài chính, Cục Thuế… Việc kiểm tra, kiểm soát của nhiều cơ quan trong lĩnh vực tài chính giúp cho Ngân hàng Nhà nước chấn chỉnh các hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng, hoạt động quản lý công vụ, thu chi ngân sách của mình thường xuyên kịp thời theo hướng tuân thủ pháp luật và các chế độ hiện hành

Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính năm của đơn vị theo định kỳ mỗi năm một lần theo kế hoạch, kiểm toán các dự án đầu tư. Phạm vi thực hiện kiểm toán rất rộng, từ việc thực hiện lập chứng từ, các thủ tục chi ngân sách, sự tuân thủ pháp luật về tài chính, hiệu quả của các dự án đầu tư mua sắm thiết bị, đến công tác nghiệp vụ, sự phù hợp của các hoạt động với chức năng nhiệm vụ được giao… từ đó có những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước chấn chỉnh công tác tài chính, với Chính phủ, với Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan khác…

Việc kiểm soát của Bộ Tài chính thường mang tính rà soát để xem xét lại chế độ chính sách của Nhà nước đối với các đơn vị được kiểm tra, từ đó yêu cầu đơn vị, bộ ngành liên quan hoàn thiện bổ sung hay loại bỏ thủ tục văn bản quản lý tài chính của nhà nước gắn với đơn vị. Bộ Tài chính cũng phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong các đoàn kiểm tra quản lý tài sản công của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, với một số khoản chi đặc biệt từ ngân sách nhà nước, các đơn vị Ngân hàng Nhà nước cũng chịu sự kiểm soát của Kho bạc Nhà nước. Đối với các đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính cũng chịu sự kiểm tra các nghĩa vụ thuế của cơ quan quản lý thuế địa phương.

2.2.2.2. Hệ thống thông tin Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Hệ thống thông tin của hệ thống Kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước có thể kể đến là hệ thống thông tin kế toán và hệ thống thông tin kiểm toán nội bộ.

  • Về hệ thống thông tin kế toán:

Về hệ thống chứng từ kế toán: Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày 24/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ kế toán của Ngân hàng Nhà nước. Quản lý chứng từ kế toán trong đó có các khâu lập, duyệt và luân chuyển chứng từ là một công việc quan trọng giúp cho việc kiểm soát các nghiệp vụ, qua quá trình luân chuyển của chứng từ qua nhiều khâu kiểm soát sẽ giúp phát hiện, giảm thiểu và ngăn ngừa những sai sót, gian lận có thể xảy ra.

Nội dung của việc kiểm soát chứng từ kế toán ngân hàng gồm:

Đối với chứng từ giấy: Xem xét tính rõ ràng, đầy đủ, trung thực của các nội dung ghi trên chứng từ; kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh; kiểm soát tính chính xác của số liệu, thông tin trên chứng từ; thực hiện đối chiếu dấu (nếu có) và chữ ký trên chứng từ (gồm chữ ký của khách hàng và chữ ký của các cán bộ nhân viên có liên quan trong ngân hàng) đảm bảo dấu và chữ ký trên chứng từ phù hợp với mẫu dấu và chữ ký đã đăng ký tại ngân hàng; kiểm soát ký hiệu mật đối với các chứng từ quy định có ký hiệu mật.

Đối với chứng từ điện tử: Việc kiểm soát chứng từ điện tử được chia thành hai phần: (i) Kiểm soát kỹ thuật thông tin: dựa trên nhận biết mã trên chứng từ phải đúng với mã đã quy định; tên tập tin phải được lập đúng tên và mẫu thông tin quy định; kiểm soát đảm bảo không có sự trùng lắp về nội dung thông tin trên chứng từ;

Kiểm soát phần nội dung nghiệp vụ: Cán bộ kiểm soát kiểm tra bằng mắt hoặc kết hợp kiểm tra bằng mắt với các thiết bị chuyên dùng để xác định tính đúng đắn của dữ liệu; kiểm tra chữ ký điện tử, ký hiệu mật và mã khoá bảo mật trên chứng từ; kiểm tra tên, số hiệu tài khoản, số dư tài khoản tiền gửi để chi trả số tiền trên chứng từ; kiểm tra sự tồn tại và dạng thức của một số vùng bắt buộc của chứng từ. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Khi kiểm soát chứng từ kế toán nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các cơ chế của nhà nước và của ngành ngân hàng thì phải từ chối việc thực hiện (thanh toán, xuất quỹ, xuất kho…), đồng thời báo cáo ngay cho lãnh đạo ngân hàng biết để có biện pháp xử lý kịp thời theo đúng pháp luật hiện hành. Những chứng từ kế toán lập không đúng thủ tục, nội dung và số liệu không rõ ràng, chính xác thì được quyền trả lại cho người lập chứng từ biết để lập lại hoặc điều chỉnh cho đúng, sau đó mới dùng làm căn cứ ghi sổ kế toán. Trường hợp chứng từ điện tử chuyển đến có sai sót hoặc không hợp lệ, ngân hàng không xử lý và phải trả lại cho người gửi để lập lại và mở sổ theo dõi đối với các chứng từ này. Chứng từ điện tử bị trả lại phải lưu trữ ít nhất là 10 ngày kể từ ngày nhận để phục vụ yêu cầu đối chiếu, tra soát của ngân hàng khi cần thiết. Đảm bảo nguyên tắc kiểm soát: Cán bộ hậu kiểm không thực hiện kiểm soát lại các giao dịch do chính mình đã kiểm soát hoặc đã thực hiện; Kiểm soát thực hiện thông qua báo cáo ngày trong ngày làm việc. Thủ tục lưu chuyển chứng từ tại Ngân hàng Nhà nước khá chặt chẽ từ các phòng, ban nghiệp vụ đến phòng Kế toán – Sở Giao dịch, phòng Kế toán tập trung – Vụ Tài chính – Kế toán, làm tăng cường thêm chức năng kiểm soát của kế toán.

Về hệ thống tài khoản kế toán: Để giúp cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước thuận lợi trong việc tra cứu, áp dụng và thực hiện “Hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước”, Ngân hàng Nhà nước đã hệ thống hoá toàn bộ các quyết định hiện hành có liên quan, tạo thành một Hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước thống nhất (Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 22/10/2018 quy định hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).

Về hệ thống báo cáo tài chính: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 23/2008/QĐ-NHNN ngày 08/8/2008 về Chế độ báo cáo tài chính đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về nội dung, phương pháp lập, tổng hợp, trình bày và các nội dung khác có liên quan đến Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính Ngân hàng Nhà nước là các báo cáo tổng hợp và thuyết minh các chỉ tiêu tài chính, tiền tệ chủ yếu của toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước, được lập theo chế độ kế toán hiện hành trên cơ sở tổng hợp và hợp nhất báo cáo từ các đơn vị thuộc hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Các đơn vị Ngân hàng Nhà nước luôn tuân thủ các quy định về biểu mẫu, thời gian nộp báo cáo, tính đầy đủ về số lượng và nội dung báo cáo tài chính theo quy định. Tại Ngân hàng Nhà nước không có Báo cáo lưu chuyển tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước tổ chức in, đúc tiền, thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền giấy, tiền kim loại. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ không có ý nghĩa thể hiện sự di chuyển vào/ra của dòng tiền trong một giai đoạn. Khi lập xong Báo cáo tài chính, Ngân hàng Nhà nước đóng dấu và bảo quản theo quy định về tài liệu mật, gửi cho các đơn vị liên quan trong thời gian sớm nhất.

Bảng 2.1: Nơi nhận Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Về ứng dụng công nghệ thông tin: Năm 2009, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu triển khai đầu tư Dự án Hiện đại hóa ngân hàng được đầu tư với quy mô hiện đại, giá trị lớn 1.000 tỷ đồng. Trong đó gói thầu về Hệ thống kế toán “Ngân hàng lõi, kế toán, lập ngân sách và tích hợp hệ thống” ra đời là một bước đột phá trong hoạt động kế toán của Ngân hàng Nhà nước. Năm 2019, dự án chính thức đi vào hoạt động, theo đó, việc hạch toán kế toán có sự hỗ trợ của hệ thống phần mềm kế toán “Ngân hàng lõi, kế toán, lập ngân sách và tích hợp hệ thống”, chuyển từ kế toán phân tán sang kế toán tập trung. Phần mềm kế toán được áp dụng ở hầu hết các đơn vị nhằm giảm thiểu khối lượng công việc thủ công, tập trung vào phân tích số liệu chuyên sâu, cung cấp kịp thời số liệu cho công tác quản lý tài chính cũng như việc lập các báo cáo định kỳ và đột xuất. Cụ thể, Vụ TCKT/Vụ Kiểm toán nội bộ hoặc các cấp quản lý có thẩm quyền muốn kiểm soát việc hạch toán kế toán của từng chi nhánh trong hệ thống, có thể vào hệ thống phần mềm khai thác báo cáo theo phân quyền được cấp trên hệ thống.

  • Về hệ thống thông tin phục vụ kiểm toán nội bộ:

Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám sát và kiểm toán tại Vụ Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước được đặc biệt quan tâm, đầu tư từ nhận thức đến việc chỉ đạo cũng như về kinh phí. Hiện tại Vụ Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước đang sử dụng phần mềm quản lý kiểm toán TeamMate; đây là phần mềm kiểm toán được đánh giá cao và được nhiều ngân hàng trung ương các nước trên thế giới sử dụng. Phần mềm TeamMate được cấu tạo bởi nhiều cấu phần trong đó bao gồm:cấu phần ghi chép kết quả kiểm toán (EWP), cấu phần theo dõi chỉnh sửa kết quả kiểm toán (Team Central), cấu phần ghi chép, theo dõi báo cáo thời gian và chi phí kiểm toán (TEC) và cấu phần về đánh giá rủi ro (Team Risk). Hiện tại thì Vụ kiểm toán nội bộ đã triển khai sử dụng thành thạo hai cấu phần là EWP và Team Central tạo điều kiềm tin học hóa trong công tác kiểm toán trong đó có việc ghi chép kết quả kiểm toán và thẩm định báo cáo kiểm toán online qua mạng nội bộ Ngân hàng Nhà nước, theo dõi chỉnh sử kiến nghị và lưu trữ dữ liệu tập trung.

Bên cạnh đó Vụ Kiểm toán nội bộ đầu tư kinh phí trang bị cho Kiểm toán viên phần mềm dự toán xây dựng cơ bản tạo điều kiện cho Kiểm toán viên có công cụ thực hiện kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản được thuận lợi, rút ngắn thời gian và tổng hợp số liệu chính xác. Để ứng dụng được các phần mềm kiểm toán, hiện tại Vụ Kiểm toán nội bộ đã được trang bị số lượng lớn 35 máy tính xách tay có cấu hình cao, trang bị máy chủ riêng đặt tại Cục công nghệ tin học ngân hàng để xử lý dữ liệu kiểm toán đáp ứng về mặt kỹ thuật mạng nội bộ làm cơ sở cho việc truy cập phần mềm thuận lợi.

2.2.2.3. Các thủ tục kiểm soát Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trên các nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác kiểm soát Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã quan tâm đến việc thiết lập, xây dựng các thủ tục kiểm soát nhằm kiểm soát và kịp thời điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước gắn với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước và nhất là công tác tài chính kế toán.

Nguyên tắc phân công phân nhiệm tại Ngân hàng Nhà nước

Thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng Nhà nước đã có phân công giữa Thống đốc và Phó Thống đốc. Phân công công việc được thực hiện trên nguyên tắc Thống đốc là người chịu trách nhiệm toàn bộ theo chức năng nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ quy định. Thống đốc quản lý chung mọi mặt hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo chức năng nhiệm vụ được giao, các Phó Thống đốc giúp Thống đốc chỉ đạo từng lĩnh vực, chuyên môn của Ngân hàng Nhà nước theo sự phân công. Các Phó Thống đốc được thay mặt Thống đốc giải quyết những công việc thuộc phạm vi lĩnh vực được ủy quyền và chịu trách nhiệm trước Thống đốc về tính hợp pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của việc được giao xử lý. Trong phạm vi công việc được phân công, các Phó Thống đốc có trách nhiệm và quyền hạn: Được chủ động chỉ đạo thực hiện chương trình công tác của Ngân hàng Nhà nước, chủ động đề xuất chủ trương, chính sách, các biện pháp thực thi kế hoạch công tác, kiểm tra đôn đốc các đơn vị liên quan trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Bộ, ngành liên quan, các quyết định của Thống đốc thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách, phát hiện và đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Việc phân công công việc của Ngân hàng Nhà nước hiện nay chủ yếu dựa vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Vụ, Cục, đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Việc phân công theo chức năng giúp cho các bộ phận thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ mình, chịu trách nhiệm trước Thống đốc về lĩnh vực phạm vi mình phụ trách. Mặc dù đôi khi giữa các Vụ, Cục Ngân hàng Nhà nước còn chồng chéo nhiệm vụ, ngược lại có những việc không có đơn vị nào chủ động làm đầu mối giải quyết, đôi khi còn đùn đẩy công việc nếu thấy việc đó khá phức tạp, không có lợi ích cho đơn vị mình. Tuy nhiên về tổng thể việc phân công nhiệm vụ, trách nhiệm của các Vụ, Cục, cán bộ trong Ngân hàng Nhà nước dựa trên nguyên tắc kiểm soát kép, đảm bảo mọi công việc đều có người thực hiện và người kiểm tra lại. Mỗi cá nhân, mỗi Vụ, Cục đều phải tự kiểm soát và tự chịu trách nhiệm về công việc được giao, đảm bảo hiệu quả công việc, tuân thủ pháp luật, quy chế và quy trình nghiệp vụ. Việc phân công đã giúp hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian hiện nay hoạt động tương đối hiệu quả.

Nguyên tắc bất kiêm nhiệm

NHNN áp dụng trong quá trình phân công công việc cho các đơn vị nhằm thực hiện kiểm soát được tốt hơn, tránh trường hợp một cá nhân hay một đơn vị thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối của một công việc hay một nghiệp vụ kinh tế nào nhằm có sự giám sát, kiểm tra lẫn nhau để hạn chế sai sót, gian lận, ngăn ngừa sai phạm cố ý và sai phạm vô ý. Đối với công tác mua sắm tài sản cho các đơn vị tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước (trừ thiết bị an toàn kho quỹ và thiết bị tin học chuyên dùng), Ngân hàng Nhà nước quy định Cục Quản trị là đơn vị trực tiếp thực hiện, tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành lập Hội đồng mua sắm tài sản có sự tham gia có đại diện Ban Giám đốc, phòng Hành chính nhân sự, Phòng Kế toán – Thanh toán. Vụ Tài chính – Kế toán là đơn vị giám sát về mặt giá cả, thủ tục mua sắm thông qua việc kiểm tra khảo sát giá cả thị trường có sự so sánh giữa nhiều đơn vị cung cấp, giữa đơn vị được đề xuất với giá trên thị trường và các công ty Thẩm định giá.

Trong tổ chức bộ máy kế toán, Ngân hàng Nhà nước đã tuân thủ các nguyên tắc như: Thủ quỹ không kiêm kế toán, cách ly trách nhiệm giữa người phê chuẩn nghiệp vụ với người thực hiện nghiệp vụ. Trong lập kế hoạch khoán kinh phí, kế hoạch mua sắm tài sản thì tại từng cấp (đơn vị đề xuất, đơn vị thẩm định, cấp phê duyệt) đều có chi tiết hai vị trí: nhập liệu và kiểm soát.

Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Việc thực hiện nguyên tắc này tại Ngân hàng Nhà nước như sau: Thống đốc là người chịu trách nhiệm toàn bộ công việc phát sinh theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhưng không phải là người đứng ra trực tiếp giải quyết được tất cả mọi công việc, cần có sự phân công uỷ quyền cho các Phó Thống đốc giúp việc Thống đốc giải quyết các công việc. Các Phó Thống đốc chịu trách nhiệm trước Thống đốc về các việc được giao phụ trách có liên quan. Các Phó Thống đốc có trách nhiệm nắm bắt tình hình hoạt động và chương trình công tác của Ngân hàng Nhà nước để thay mặt Thống đốc chủ động xử lý, giải quyết. Trong một số nội dung hay lĩnh vực phải có văn bản uỷ quyền cụ thể từng lần. Việc phân cấp hay uỷ quyền tại Ngân hàng Nhà nước không chỉ tại phạm vi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước mà xuống tận lãnh đạo các đơn vị như Thống đốc ủy quyền cho lãnh đạo Vụ, Cục, trưởng phòng uỷ quyền cho phó trưởng phòng,… Ủy quyền phải nêu rõ, chi tiết, phạm vi, nội dung, thời gian, trách nhiệm trong giấy ủy quyền. Tất cả các trường hợp được uỷ quyền đều phải chịu trách nhiệm trước người uỷ quyền về công việc được giao.

(Việc phân cấp quản lý và thẩm quyền xét duyệt về tài chính tại Ngân hàng Nhà nước xin chi tiết tại Phụ lục số 05).

2.2.2.4. Kiểm soát trên các hoạt động tài chính cơ bản

  • Kiểm soát công tác lập kế hoạch ngân sách, thu chi tài chính

Kế hoạch ngân sách toàn Ngân hàng Nhà nước được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kế hoạch của các đơn vị tại Trung Ương và kế hoạch của các chi nhánh gửi về Vụ Tài chính – Kế toán. Kế hoạch gửi về Vụ Tài chính – Kế toán phải có kèm theo một bảng thuyết minh chi tiết, trong đó có phân tích đánh giá, dự đoán, nêu rõ cơ sở, văn bản tham chiếu, định mức quy định, cách tính toán, nhiệm vụ cụ thể được giao để xây dựng dự toán. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Đối với kế hoạch thu từ hoạt động nghiệp vụ tiền gửi, cấp tín dụng và đầu tư, nghiệp vụ thị trường mở, hoạt động ngoại hối, dịch vụ ngân hàng, căn cứ để kiểm tra là tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, sự thay đổi về chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, biến động giá cả các loại kim loại quý…. Kế hoạch các nguồn thu phản ánh tổng thu của Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện trong năm kế hoạch, đồng thời cũng sẽ là mục tiêu để toàn Ngân hàng Nhà nước phấn đấu thực hiện.

Đối với dự toán các khoản chi phí quản lý thực hiện theo cơ chế khoán: Vụ Tài chính – Kế toán kiểm tra các sở cứ lập dự toán chi của các đơn vị, bộ phận dựa trên các nội dung: các nhiệm vụ, kế hoạch được giao, số lượng cán bộ theo biên chế, mức tăng lương cơ bản của Nhà nước, các thay đổi về định mức tiêu chuẩn chế độ trong năm tới, sự tăng giá của một số khoản chi tiêu có tính thiết yếu như điện, nước, nhiên liệu. Ngoài ra còn rà soát các khoản chi lớn sẽ phát sinh như chi mua sắm trang thiết bị văn phòng, chi sửa chữa tài sản, chi khánh tiết, hội nghị. Đối với dự toán chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng: Đánh giá tình hình thực hiện các khoản chi trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, hoạt động ngoại hối, dịch vụ thanh toán, in đúc, bảo quản, vận chuyển, giao nhận, phát hành, thu hồi và tiêu hủy tiền, giấy tờ có giá trong năm. Căn cứ chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, lãi suất do Ngân hàng Nhà nước ban hành, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, biểu phí mua tin từ Reuters, tỷ giá ngoại tệ, giá vàng… Vụ Tài chính – Kế toán sẽ kế hoạch thu chi tài chính năm tiếp theo của Ngân hàng Nhà nước.

  • Kiểm soát các khoản thu, chi của Ngân hàng Nhà nước

Kiểm soát nội dung và tính chất các khoản thu, đảm bảo thu đúng, thu đủ. Phát hiện các khoản thu thiếu, thu chưa kịp thời, hạch toán sai tính chất tài khoản. Rà soát các khoản chi, đảm bảo các khoản chi hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ chứng từ thanh toán, hạch toán đúng tính chất tài khoản; phát hiện các khoản chi không được phép hạch toán vào chi phí. So sánh một số chỉ tiêu giữa dự toán được Ngân hàng Nhà nước trung ương phê duyệt với thực hiện của đơn vị; so sánh giữa số thực hiện năm nay với số thực hiện năm trước và giải thích nguyên nhân tăng, giảm.

Kiểm soát chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng: Phần chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước từ nghiệp vụ tiền gửi, cấp tín dụng và đầu tư; nghiệp vụ thị trường mở; hoạt động ngoại hối; dịch vụ ngân hàng, phí và lệ phí; in đúc, phát hành, tiêu hủy tiền, giấy tờ có giá. Các nghiệp vụ này chủ yếu diễn ra ở Sở Giao dịch. Tại Sở Giao dịch có bộ phận Kiểm soát chuyên trách các hoạt động này vì tính phức tạp của nghiệp vụ và liên quan mật thiết tới thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Kiểm soát chi thường xuyên: Để thực hiện việc kiểm soát các khoản chi, ngoài việc nghiên cứu áp dụng các chế độ, chính sách của Nhà nước áp dụng chung cho các cơ quan nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng một số văn bản về quản lý tài chính nhằm chuẩn hoá cũng như tạo cơ sở cho công tác kiểm soát. Quy chế chi tiêu nội bộ là một ví dụ, hay các quy định cụ thể khác ban hành kèm theo Quy chế chi tiêu nội bộ khung là quy định về chi bồi dưỡng, kiểm đếm, phụ cấp độc hại, chi về tiêu hủy tiền…

Đối với các khoản chi cho cán bộ, công chức: Việc thanh toán lương cho công chức của Ngân hàng Nhà nước đảm bảo đúng quy định, hàng tháng có xếp loại ABC công khai để chi khen thưởng, bổ sung thu nhập. Theo quy chế chi tiêu nội bộ việc xếp loại hệ số lương tăng thêm cho cá nhân thông qua hiệu quả công việc được thể hiện bằng bản đánh giá, nhận xét của mỗi công chức, viên chức và được lãnh đạo đơn vị phê duyệt. Cuối tháng, các phòng sẽ nộp bản chấm công cán bộ về bộ phận tài vụ Cục Quản trị/ Phòng Kế toán tại đơn vị căn cứ vào thời gian lao động, bảng xếp loại ABC sẽ phân bổ, tính toán và lập bảng lương tăng thêm theo hệ số xếp loại cá nhân chuyển cho kế toán thanh toán lương, đảm bảo nguyên tắc lương tăng thêm không vượt quá 20% quỹ lương tháng.

Đối với nội dung chi cho hoạt động quản lý, công vụ: Vụ Tài chính – Kế toán tại trụ sở chính sẽ là người thực hiện kiểm soát về giá, về chất lượng, về thủ tục của bộ phận kế toán trên cơ sở văn bản chế độ, định mức của nhà nước. Khi các khâu hay bộ phận cần mua sắm trang thiết bị hay tiến hành bảo dưỡng sửa chữa thiết bị làm việc, các đơn vị Ngân hàng Trung Ương báo về Cục Quản trị hoặc tại chi nhánh báo về phòng Hành chính nhân sự. Các bộ phận này sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết cho việc mua sắm. Phòng Kế toán tiến hành mua sắm theo các thủ tục quy định hiện hành.

Tiếp theo đó, thông thường mỗi năm Vụ Kiểm toán nội bộ sẽ tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính khoảng 12-15 đơn vị. Trong đó, đối với Vụ Kế toán – Tài chính, Sở Giao dịch, được tiến hành kiểm toán định kỳ hằng năm; các đơn vị khác được tiến hành theo định kỳ 3-4 năm một lần. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Bảng 2.2: Kết quả thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính năm 2021, 2022

Trên cơ sở kiểm toán chọn mẫu hồ sơ chứng từ, đối chiếu với quy định của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước về chế độ chứng từ, hạch toán kế toán, quản lý tài chính và quản lý tài sản, các đoàn kiểm toán đã đánh giá tính tuân thủ, điều chỉnh một số tài khoản cho phù hợp với quy định.

Đối với các khoản điều chỉnh liên quan tới thu nhập, chi phí của năm trước, Vụ Kiểm toán nội bộ đã phối hợp với Vụ Tài chính – Kế toán để hướng dẫn hạch toán. Vụ Kiểm toán nội bộ tổng hợp số liệu kiểm toán thu nhập – chi phí tại 13 đơn vị trong năm 2021 như sau:

  • Bảng 2.3: Tổng hợp kết quả kiểm toán thu nhập – chi phí năm 2021
  • Bảng 2.4: Giải thích nguyên nhân chênh lệch kết quả kiểm toán thu nhập – chi phí năm 2021

NHNN được trích lập các quỹ gồm Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quỹ dự phòng tài chính và khoản dự phòng rủi ro. Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia được hình thành trên cơ sở trích 20% chênh lệch thu chi thực tế hàng năm của Ngân hàng Nhà nước; quỹ dự phòng tài chính được trích bằng 10% chênh lệch thu chi thực tế; khoản dự phòng rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng được tính bằng 10% chênh lệch thu chi trước dự phòng rủi ro. Hàng quý, Vụ Tài chính – Kế toán tạm nộp Ngân sách Nhà nước bằng 70% chênh lệch thu chi của quý. Kết thúc năm tài chính, trong vòng 10 ngày kể từ khi báo cáo quyết toán năm được Thống đốc phê duyệt, Vụ Tài chính – Kế toán nộp Ngân sách Nhà nước số chênh lệch thu chi còn lại theo số liệu quyết toán. Sau khi có kết quả kiểm toán chính thức của Kiểm toán Nhà nước, nếu số đã nộp nhỏ hơn số phải nộp thì Vụ Tài chính – Kế toán nộp thiếu số chênh lệch còn thiếu trong thời gian 10 ngày tiếp theo kể từ khi có kết luận chính thức của Kiểm toán Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Do công tác trích lập các quỹ, xác lập chênh lệch thu chi và nộp NSNN được thực hiện tại Vụ TCKT và việc kiểm toán nội bộ nội dung này không được thực hiện thường xuyên hàng năm nên Vụ TCKT phải thực hiện nghiêm túc công tác tự kiểm tra tại đơn vị, thực hiện ngay trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân và đảm bảo tính thận trọng, nghiêm túc, trung thực và khách quan, thường xuyên, liên tục, đảm bảo đúng quy định tại Quy chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước.

  • Kiểm soát việc thực hiện cơ chế khoán của các đơn vị Ngân hàng Nhà nước

Sau khi nhận được tổng mức giao khoán kinh phí hoạt động từ Bộ Tài chính, Vụ Tài chính – Kế toán xây dựng phương án phân bổ kinh phí khoán, trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt; thông báo mức khoán cho 73 đơn vị trực thuộc. Việc phân bổ khoán được thực hiện, kiểm soát qua nhiều cấp: Cấp chuyên viên trực tiếp tính toán phân bổ (theo các nội dung đã trình bày ở mục trên), lãnh đạo phòng độc lập rà soát trình lãnh đạo Vụ TCKT. Lãnh đạo Vụ TCKT xem xét trình cấp có thẩm quyền là Thống đốc phê duyệt. Như vậy, với 4 cấp kiểm soát việc phân bổ kinh phí khoán đã nâng cao tính chuyên nghiệp, khách quan. Sau khi được phê duyệt, số liệu phân bổ cũng được công khai tài chính.

Tại văn bản giao khoán, Ngân hàng Nhà nước giao chi tiết từng khoản mục chi phí, trong đó nhấn mạnh yêu cầu các đơn vị thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí theo chủ trương của Chính phủ hàng năm để góp phần cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước, tạo nguồn cải cách tiền lương, tiết kiệm chi tiêu Ngân sách Nhà nước. Do vậy, để đảm bảo vừa có đủ kinh phí để thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, vừa có nguồn để chi bổ sung thu nhập, yêu cầu các đơn vị nghiêm túc thực hiện các yêu cầu nêu trên, quản lý chặt chẽ tình hình chi tiêu tại đơn vị, cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết.

Ví dụ tại công văn giao khoán kinh phí năm 2021 có các nội dung như sau:

  • Rà soát kỹ các chương trình kiểm tra, thanh tra, các đoàn công tác đảm bảo gọn nhẹ, tiết kiệm, hiệu quả, triệt để ngăn chặn việc kết hợp đi công tác với thăm quan, du lịch.
  • Thực hiện nhận văn bản chỉ đạo qua mạng công nghệ thông tin để hạn chế in, sao chụp giấy tờ không cần thiết, tăng cường tận dụng giấy in hai mặt. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.
  • Thực hiện nghiêm túc quy định về chế độ chi tiêu tổ chức hội nghị, hội thảo, chế độ tiếp khách trong nước và quốc tế. Cắt giảm tối đa các khoản chi khánh tiết, hội nghị, hội thảo, lễ hội, lễ kỷ niệm; giảm 100% việc tổ chức lễ động thổ, khởi công, khánh thành công trình xây dựng cơ bản; không tổ chức các hội nghị, hội thảo có nội dung không thiết thực.

Tăng cường sử dụng hình thức họp trực tuyến trong chỉ đạo, điều hành và xử lý các công việc có liên quan… qua đó tiết kiệm chi phí điện nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, tiếp khách, đi lại, ăn ở của đại biểu.

Thực hiện lồng ghép các nội dung, vấn đề, công việc cần xử lý và kết hợp hợp lý các loại cuộc họp; người triệu tập cuộc họp phải cân nhắc kỹ về thành phần, số lượng người tham dự cho phù hợp, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.

Nghiêm cấm các đơn vị Ngân hàng Nhà nước hạch toán các khoản chi tiêu vượt mức giao khoán vào các tài khoản phải thu, tạm ứng. Các khoản chi tiêu vượt mức giao khoán phải sử dụng ngay từ nguồn chi bổ sung thu nhập cho CBCC cùng kỳ tại đơn vị.

Căn cứ công văn giao khoán cho từng đơn vị, các đơn vị thực hiện theo đúng hạn mức. Vụ TCKT là đơn vị cấp trên kiểm soát việc thực hiện thông qua hệ thống phần mềm kế toán tập trung để tra cứu, chi tiết đến từng chỉ tiêu và tại mọi thời điểm. Trường hợp vượt mức có thể trừ vào bổ sung thu nhập của Chi nhánh, phê bình tại các cuộc đại hội, trừ vào thi đua năm… Tuy nhiên, đến nay chưa có đơn vị Ngân hàng Nhà nước nào vi phạm vượt mức kinh phí này do Ngân hàng Nhà nước mỗi năm đều bố trí nguồn kinh phí để cuối năm phát sinh công việc sẽ bổ sung kinh phí khoán cho các đơn vị có nhu cầu, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, thực sự cần thiết.

Vụ Kiểm toán nội bộ hàng năm sẽ kiểm tra theo chuyên đề, lựa chọn ra một số đơn vị để thực hiện kiểm toán, sau khi trình cấp có thẩm quyền là Thống đốc, Vụ Kiểm toán nội bộ sẽ gửi báo cáo kiểm toán và kiến nghị kiểm toán có liên quan về Vụ TCKT xử lý. Đảm bảo việc kiểm soát cơ chế khoán kinh phí cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước luôn được quan tâm, thông suốt, đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Kết quả thực hiện Kế hoạch kinh phí khoán năm 2021, 2022 và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2022 chi tiết theo Phụ lục số 06.

Kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài sản, trang thiết bị trong cơ quan nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước

Gồm những nội dung sau:

Kiểm tra việc tổ chức thực hiện quy trình mua sắm tài sản theo đúng quy định về Luật đấu thầu và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước; tổ chức quản lý và sử dụng tài sản theo đúng quy định

Kiểm tra tính chính xác, hợp lệ của viêc hạch toán tăng giảm tài sản trong năm. Kiểm tra việc bảo dưỡng, sửa chữa tài sản, việc sử dụng kinh phí sửa chữa hàng năm của đơn vị trong kế hoạch giao khoán chi phí quản lý được phê duyệt;

Kiểm tra việc mở và ghi chép thẻ Tài sản cố định, việc lưu hồ sơ gốc của Tài sản cố định. Đối chiếu giữa số ghi trên sổ kế toán với thực tế hiện có của Tài sản cố định; kiểm tra việc xử lý thừa, thiếu khi kiểm kê (nếu có); kiểm tra việc thanh lý tài sản; kiểm tra biên bản kiểm kê tài sản đối với các tài sản phải thực hiện kiểm kê của quy định; giải thích nguyên nhân tăng giảm tài sản;

Kiểm tra việc quản lý sử dụng công cụ lao động, vật liệu theo quy định tại Quyết định số 2673/QĐ-NHNN ngày 27/12/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản của Ngân hàng Nhà nước: việc lập kế hoạch mua sắm Công cụ lao động và vật liệu, phân loại, xác định giá trị vật liệu, Công cụ lao động mua vào; xác định giá trị phân bổ vào chi phí; sửa chữa Công cụ lao động, vật liệu; kiểm kê Công cụ lao động, vật liệu.

Kiểm tra việc chấp hành định mức trang thiết bị theo các quy định hiện hành của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước.

Sau đây là kết quả tổng kết của kiểm toán nội bộ trong kiểm toán về tài sản:

  • Bảng 2.5: Tổng hợp kết quả kiểm toán tài sản năm 2021, 2022
  • Bảng 2.6: Tổng hợp kết quả kiểm toán tài sản – nguồn vốn năm 2022
  • Bảng 2.7: Giải thích nguyên nhân chênh lệch kết quả kiểm toán tài sản – nguồn vốn năm 2022

2.3. Đánh giá thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước

2.3.1. Kết quả đạt được của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước

2.3.1.1. Môi trường kiểm soát Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả được đánh giá là một trong những mục tiêu quan trọng của Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước hết sức quan tâm, chỉ đạo thực hiện các hoạt động một cách thường xuyên, nghiêm túc. Ngân hàng Nhà nước có đội ngũ lãnh đạo có năng lực quản lý, có kiến thức chuyên sâu cũng như tư cách đạo đức trong sáng, hoạt động quản lý tài chính, công tác kiểm tra kiểm soát được chú trọng nên ngày càng phát huy tính hữu hiệu, đảm bảo việc tuân thủ chính sách pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.

Cơ cấu tổ chức hợp lý, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng đơn vị giúp cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và thực hiện nhiệm vụ khác được Chính phủ giao được thuận lợi, nhanh chóng, hiệu quả tránh bị chồng chéo, đan xen lên nhau trong công tác quản lý hay thực thi, công tác chỉ đạo được thống nhất, từ đó tăng cường hoạt động kiểm soát.

Công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng như các lĩnh vực khác chỉ có thể hoạt động tốt nếu có một hệ thống các văn bản pháp lý, các quy trình nghiệp vụ đầy đủ, đồng bộ và phù hợp. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo Vụ Tài chính – Kế toán, Vụ Kiểm toán nội bộ và các đơn vị liên quan đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản pháp quy và quy trình nghiệp vụ làm cơ sở để Kiểm soát viên sử dụng trong quá trình thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước.

Trong 30 năm qua, đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Nếu như trong những ngày đầu thành lập, số cán bộ làm công tác kiểm soát cả ở Trung ương và các chi nhánh mới chỉ có trên 60 người, đa số đều chuyển từ nghiệp vụ khác sang, trình độ hầu hết là trung cấp ngân hàng lâu năm, có kinh nghiệm hoạt động ở các nghiệp vụ khác nhưng ít có kinh nghiệm trong công tác kiểm soát. Đến nay, số lượng cán bộ làm công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ là 230 người; trong đó, có trình độ đại học trở lên 212 người (chiếm 92%) và không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá các ngạch kiểm soát viên Ngân hàng Nhà nước. Chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm soát nội bộ khá tốt, cụ thể: Kiểm soát viên cao cấp và Kiểm soát viên chính: 59 người (chiếm 26%); Kiểm soát viên và tương đương: 136 người (chiếm 59%). Những nỗ lực của quá trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ liên tục trong nhiều năm với nhiều hình thức khác nhau đã giúp cho đội ngũ cán bộ từng bước tiếp cận và áp dụng có kết quả các phương pháp kiểm soát, kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán nội bộ, nâng cao rõ rệt chất lượng công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước.

Thủ trưởng các đơn vị đã xác định rõ trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nội bộ tại đơn vị mình. Công tác tự kiểm soát được các đơn vị quan tâm, cán bộ tác nghiệp ý thức được sự cần thiết của việc tự kiểm tra, kiểm soát trong khi thực hiện các quy trình nghiệp vụ được giao. Kiểm soát viên tại các đơn vị đã áp dụng các biện pháp kiểm soát phù hợp như giám sát trực tiếp, kiểm soát trước, trong và sau hoặc kiểm soát đột xuất, giám sát qua mạng máy để phát hiện và ngăn chặn ngay từ đầu các rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động nghiệp vụ của đơn vị. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Công tác kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước thực sự là công cụ kiểm soát hữu hiệu đối với hoạt động tài chính, trở thành mục tiêu để các đơn vị phấn đấu hoàn thành công tác được giao một cách hiệu quả nhất.

Hầu hết các đơn vị gửi báo cáo tự kiểm tra công tác tài chính kế toán và quyết toán năm 2021, 2022 kịp thời, có chất lượng tốt. Các báo cáo tự kiểm tra cho thấy việc kiểm soát chứng từ định kỳ tháng, quý vẫn được duy trì nên các sai sót như: Hạch toán sai tài khoản, số tiền bằng chữ và bằng số chưa khớp đúng, thiếu báo giá khi mua sắm tài sản, chứng từ thu chi chưa đầy đủ… được phát hiện kịp thời và được chấn chỉnh; thực hiện thu đúng, thu đủ các nguồn thu. Việc chi tiêu đảm bảo nhu cầu cần thiết, tiết kiệm, không gây lãng phí.

Việc kiểm tra, kiểm soát của nhiều cơ quan trong lĩnh vực tài chính giúp cho Ngân hàng Nhà nước chấn chỉnh các hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng, hoạt động quản lý công vụ, thu chi ngân sách của mình thường xuyên kịp thời theo hướng tuân thủ pháp luật và các chế độ hiện hành.

2.3.1.2. Hệ thống thông tin

Hệ thống thông tin kế toán tại Ngân hàng Nhà nước đã nhận biết, thu thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính kịp thời, đầy đủ, chính xác. Hệ thống đã đảm bảo được các mục tiêu kiểm soát chi tiết như: tính có thực, tính phê chuẩn, tính đầy đủ, sự đánh giá, phân loại, tính đúng kỳ, quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác.

Theo đó cung cấp thông tin đảm bảo yêu cầu cho Ban Lãnh đạo và những đối tượng liên quan, giảm thiểu khối lượng công việc thủ công, tập trung vào phân tích số liệu chuyên sâu, cung cấp kịp thời, thuận lợi số liệu cho công tác quản lý tài chính cũng như việc lập các báo cáo định kỳ và đột xuất. Từ đó giảm thiểu nhiều công sức, thời gian, số liệu chính xác, minh bạch, công khai, có khả năng lưu trữ nhiều năm, giảm thiểu thủ tục hành chính bằng giấy…

2.3.1.3. Thủ tục kiểm soát Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Cơ chế phân cấp ủy quyền tại Ngân hàng Nhà nước được thiết lập và thực hiện một cách hợp lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng, minh bạch; đảm bảo tách bạch nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, các bộ phận trong đơn vị; tránh các xung đột lợi ích, đảm bảo một cán bộ không đảm nhiệm cùng một lúc những cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo với nhau; đảm bảo cán bộ trong đơn vị không có điều kiện để thao túng hoạt động, che dấu thông tin phục vụ các mục đích cá nhân hoặc che dấu các hành vi vi phạm quy định của pháp luật và các quy chế, cơ chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ có liên quan.

NHNN cũng đã có cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các cá nhân, bộ phận trong quá trình xử lý quy trình nghiệp vụ. Trong phân công nhiệm vụ tại đơn vị có ít nhất hai người thực hiện và kiểm tra đối với một công việc nhằm đảm bảo an toàn tài sản và hiệu quả công tác. Không để một cá nhân nào có thể thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ, một giao dịch cụ thể, ngoại trừ những giao dịch cho phép phù hợp với quy định của pháp luật.

2.3.1.4. Kiểm toán nội bộ Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Trong những năm qua hoạt động Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được thực hiện và đạt được những kết quả đáng kể, đã phân tích được những điểm mạnh, tích cực và chỉ ra những tồn tại, những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động, kiến nghị biện pháp xử lý những tồn tại đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật Nhà nước, chế độ quản lý tài chính, xây dựng cơ bản, an toàn kho quỹ và các cơ chế nghiệp vụ khác của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện nghiêm túc; đã kiến nghị bổ sung, sửa đổi những bất cập, vướng mắc nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, quy trình nghiệp vụ.

Hoạt động của Vụ Kiểm toán nội bộ với vai trò tham mưu giúp Thống đốc chỉ đạo, kiểm tra công tác Kiểm soát nội bộ, đồng thời kiến nghị các biện pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hạn chế của hệ thống Kiểm soát nội bộ tạo bước chuyển tích cực trong công tác tự kiểm tra, kiểm soát tại các đơn vị. Đồng thời, Kiểm toán nội bộ đã tư vấn giúp đơn vị các giải pháp xây dựng hệ thống Kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả chất lượng ngày càng được nâng lên, góp phần đảm bảo cho các đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước hoạt động đúng hành lang pháp luật, an toàn, hiệu quả.

Vụ Kiểm toán nội bộ đã tiến hành kiểm toán các hoạt động tài chính tại Ngân hàng Nhà nước nghiêm túc, thường xuyên, đưa ra các kiến nghị kịp thời. Kết quả kiểm soát, kiểm toán đối với công tác tài chính kế toán của Vụ Kiểm toán nội bộ nói riêng và của Kiểm soát viên các đơn vị nói chung đã góp phần rất quan trọng đảm bảo an toàn tài sản; phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những tồn tại thiếu sót trong việc chấp hành chế độ tài chính kế toán. Trong các năm vừa qua, các sai sót được phát hiện qua các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính chủ yếu tập trung vào một số tồn tại như: (i) Về chấp hành chế độ chứng từ kế toán: Tình trạng hạch toán không kịp thời, sai, không đúng tính chất tài khoản còn tương đối phổ biến; một số chứng từ thanh toán chưa đầy đủ, chưa hợp lệ; (ii) Trong quản lý tài sản, vốn: Trích khấu hao tài sản cố định còn thiếu, tài sản thanh lý đã xuất khỏi sổ sách vẫn được sử dụng; mở sổ sách theo dõi tài sản của bộ phận kế toán chưa đúng chế độ; nhiều đơn vị còn để vượt định mức tồn quỹ tiền mặt; một số khoản phải thu, phải trả để tồn đọng kéo dài, còn có đơn vị chưa thực hiện đối chiếu kịp thời các khoản phải thu khách hàng hoặc không phản ánh đầy đủ các khoản phải thu trên sổ sách; (iii) Trong quản lý thu – chi tài chính: một số khoản thu hạch toán không kịp thời, chứng từ các khoản thu chưa lưu trữ theo đúng quy định; kiểm soát chứng từ chi chưa chặt chẽ dẫn đến một số khoản chi còn chưa đầy đủ thủ tục về chứng từ; một số khoản chi chưa phù hợp với chế độ quy định chi tiêu nội bộ; trang bị phương tiện làm việc cho công chức chưa phù hợp theo tiêu chuẩn, định …; Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Tuy nhiên, thông qua kiến nghị của các đoàn kiểm toán và việc tổng hợp các kết quả cộng với báo cáo tự kiểm tra tại các đơn vị Vụ Kiểm toán nội bộ đã có báo cáo chuyên đề hàng năm gửi cho tất cả các đơn vị có công tác hạch toán kế toán trong Ngân hàng Nhà nước. Những tồn tại và kiến nghị trong báo cáo được phổ biến tới toàn thể các đơn vị nhằm hướng dẫn xử lý sai sót, chấn chỉnh công tác kế toán trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể: các đơn vị tổ chức hạch toán đầy đủ tài sản, nguồn vốn, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; sổ sách, chứng từ kế toán được lưu trữ, bảo quản cẩn thận, hồ sơ quyết toán lập đầy đủ, đúng theo hướng dẫn; chấp hành nghiêm túc việc quản lý tài sản, công cụ lao động; việc mua sắm, thanh lý, kiểm kê tài sản theo đúng quy định; việc quản lý thu – chi tài chính chặt chẽ, tiết kiệm, chi trong phạm vi dự toán được duyệt và không chi vượt các chỉ tiêu khống chế.

Nét nổi bật của kiểm toán báo cáo tài chính trong những năm gần đây là Vụ Kiểm toán nội bộ luôn thực hiện kiểm toán ngay từ đầu năm, trước khi Kiểm toán Nhà nước vào kiểm toán báo cáo tài chính Ngân hàng Nhà nước, do đó việc tổng hợp, lập báo cáo được hoàn thành nhanh và Thống đốc đã có chỉ đạo kịp thời các đơn vị thực hiện kiến nghị sau kiểm toán. Các đơn vị có kiến nghị của kiểm toán đã tổ chức rút kinh nghiệm, chấn chỉnh kịp thời nên đã hạn chế tồn tại khi thực hiện quyết toán báo cáo tài chính năm. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

NHNN thực hiện ghi chép kết quả kiểm toán qua cấu phần EWP của phần mềm kiểm toán TeamMate và theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán trên cấu phần TeamCentral của phần mềm này. Toàn bộ kết quả kiểm toán được lưu trữ trên một máy chủ riêng biệt tại Cục Công nghệ tin học. Mỗi tồn tại được quy định thời hạn chỉnh sửa cụ thể, đơn vị thực hiện từng kiến nghị và Vụ Kiểm toán nội bộ có ý kiến trả lời đối với việc thực hiện từng kiến nghị kịp thời.

Nhìn chung, qua công tác kiểm toán nội bộ năm 2021, 2022 của các Đoàn kiểm toán cho thấy, các đơn vị chấp hành tương đối tốt quy định của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước về công tác hạch toán kế toán, quản lý tài chính, quản lý tài sản tại đơn vị. Từ năm 2018 trở lại đây, với vai trò là đơn vị đầu mối, Vụ Kiểm toán nội bộ đã có sự phối hợp thường xuyên với cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Thông qua việc tham khảo kế hoạch kiểm toán hằng năm của Vụ Kiểm toán nội bộ và sử dụng kết quả kiểm toán nội bộ trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính Ngân hàng Nhà nước, mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước và Kiểm toán Nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn.

2.3.2. Một số hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước

2.3.2.1. Môi trường kiểm soát

Về cơ chế chính sách, công tác phối hợp:

Cơ chế chính sách: Các chính sách và quy trình kiểm toán đang áp dụng đã hỗ trợ phần nào hoạt động kiểm toán của các Đoàn kiểm toán nội bộ trong quá trình thực hiện tại đơn vị. Tuy nhiên hầu hết các quy trình kiểm toán đơn giản chỉ đưa ra các danh mục, nội dung kiểm tra. Mặc dù trong các quy trình kiểm toán đó có lưu ý đề cập đến các rủi ro có thể xảy ra đối với từng nội dung và quy trình nghiệp vụ nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra các sai sót thường gặp mà chưa đề cập đến rủi ro hoặc thiệt hại thật sự có thể xảy ra. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Công tác tham mưu cho Thống đốc trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn về quản lý tài chính chưa đảm bảo đúng kế hoạch đề ra. Một số văn bản pháp quy vừa ban hành đã phải chỉnh sửa cho thấy chất lượng xây dựng văn bản pháp luật còn hạn chế. Ví dụ: (i) Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ kế toán của Ngân hàng Nhà nước từ năm 2022 (tại Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày 24/1/2016), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2018 (thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 22/10/2018), dự án FSMIMS đi vào hoạt động từ cuối năm 2019, theo đó việc hạch toán kế toán đã thay đổi từ số hiệu tài khoản, cách thức hạch toán, theo dõi, luân chuyển chứng từ nhưng đến cuối năm 2022, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Thông tư số 35/2022/TT-NHNN quy định hạch toán kế toán kế toán tài sản cố định, công cụ lao động, dụng cụ và vật liệu của Ngân hàng Nhà nước (thay thế Quyết định số 32/2008/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008); (ii) Luật quản lý và sử dụng tài sản công số 15/2020/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2020, Nghị định số 151/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công ra đời từ năm 2020 nhưng cuối năm 2022, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quyết định số 2673/QĐ-NHNN ngày 27/12/2022 về quy chế quản lý, sử dụng tài sản của Ngân hàng Nhà nước; (iii) hoặc quy chế chi tiêu nội bộ của Ngân hàng Nhà nước được ban hành từ năm 2018 (Quyết định số 1120/QĐ-NHNN ngày 04/6/2018), tuy nhiên đến nay một loạt văn bản hướng dẫn của nhà nước về các mức chi tiêu tài chính đã thay đổi (như nội dung về đào tạo bồi dưỡng, biên soạn giáo trình; chế độ công tác phí và hội nghị tập huấn, chế độ hội họp; về lập dự toán quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí NSNN đảm bảo cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật…) nhưng Ngân hàng Nhà nước chưa có văn bản hướng dẫn sửa đổi/thay thế cho phù hợp với tình hình thực tế.

Về cơ chế làm việc, phối hợp:

Việc chậm ban hành qui chế làm việc của lãnh đạo các Vụ, Cục, các Chi nhánh và quy định về nhiệm vụ của các Phòng, ban cũng như phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho cán bộ, nhân viên ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, điều hành trong nội bộ. Trong điều hành hoạt động của các Vụ, Cục còn tình trạng Thủ trưởng đơn vị chưa phát huy hết tính chủ động và quyền hạn trách nhiệm được giao. Sự phối hợp giữa các Vụ, Cục tại ngân hàng trung ương và giữa các Vụ, Cục với Chi nhánh có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

  • Cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước còn một số điểm chưa hợp lý. Cụ thể:

Mô hình tổ chức của bộ phận chuyên trách kiểm soát tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố chưa độc lập, khách quan. Hiện nay, bộ phận kiểm soát nội bộ thuộc phòng Tổng hợp và kiểm soát nội bộ, song công tác kiểm soát chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc chi nhánh, do đó tính độc lập trong hoạt động chưa cao dẫn đến khó khăn trong việc chỉ đạo điều hành và hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ trong việc hạn chế phòng ngừa rủi ro. Bên cạnh đó, ngoài các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố lớn như Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập phòng kiểm soát nội bộ thì hầu hết các chi nhánh chỉ là bộ phận kiểm soát trực thuộc Chi nhánh và chỉ do 01 cán bộ đảm nhiệm công tác kiểm soát. Trong đó, có trường hợp cán bộ làm công tác kiểm soát không đảm bảo trình độ và kinh nghiệm, thậm chí có nơi cán bộ kiểm soát còn kiêm nhiệm thêm các nhiệm vụ khác, đã làm hạn chế chất lượng của công tác kiểm soát nội bộ. Mặt khác, lực lượng cán bộ làm kiểm soát ít nên rất khó khăn trong việc cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ do không có người thay thế.

Tính độc lập, khách quan của công tác kiểm tra, Kiểm soát nội bộ còn hạn chế do Vụ Kiểm toán nội bộ được đặt ngang hàng với các Vụ, Cục chuyên môn khác. Đồng thời, tại Ngân hàng Nhà nước chưa hình thành tổ chức Ủy ban kiểm toán để tư vấn cho Thống đốc về hoạt động Kiểm toán nội bộ, để thực hiện xem xét, đánh giá kế hoạch Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước và đánh giá chất lượng công tác Kiểm toán nội bộ thông qua báo cáo kiểm toán.

Chính sách nhân sự: Còn bộc lộ một số yếu điểm như:

  • Đội ngũ cán bộ còn thiếu, trình độ chuyên môn không đồng đều.

Tại các Chi nhánh: Cán bộ làm công tác tài chính ở các đơn vị còn hạn chế về kinh nghiệm về quản lý tài chính dẫn đến sai sót trong hạch toán các khoản thu, chi ảnh hưởng tới báo cáo tài chính, dẫn đến việc điều chỉnh phức tạp, ảnh hưởng tới toàn hệ thống; hoặc sử dụng kinh phí khoán không đúng đối với các chỉ tiêu được điều hòa và không được điều hòa; khả năng tiếp cận hệ thống phần mềm kế toán tập trung chưa tốt dẫn đến việc lập kế hoạch ngân sách, kế hoạch thu nhập chi phí, kế hoạch mua sắm tài sản… chưa chính xác, không đầy đủ thông tin gây mất thời gian rà soát cho đơn vị thẩm định tại trung ương; hoặc chưa nắm vững quy định của pháp luật về quy trình mua sắm tài sản như lập kế hoạch, tổ chức đấu thầu, thẩm định kết quả đấu thầu…; hồ sơ quyết toán gửi lên thường chưa đầy đủ, có nhiều thiếu sót trong quá trình thực hiện hợp đồng dẫn đến một số trường hợp thời gian trang bị tài sản diễn ra chậm, đến lúc bàn giao tài sản trở nên lạc hậu, không còn phù hợp, không đáp ứng nhu cầu sử dụng, nhanh bị hư hỏng hay phải mua với giá cao. Trong năm 2022, do biên chế ít hoặc chưa tuyển dụng được nên hiệu quả công việc tại một số đơn vị chưa cao: thời gian xử lý công việc kéo dài, có một số nhầm lẫn, thiếu sót, báo cáo gửi chậm. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Tại Vụ Kiểm toán nội bộ có 50 cán bộ, 100% có trình độ đại học trở lên. Tuy nhiên, số lượng cán bộ chưa được đào tạo và có kinh nghiệm thực hiện kiểm toán chuyên sâu về quản lý tài chính chưa nhiều; Tất cả đội ngũ cán bộ chưa có chứng chỉ quốc tế về kế toán và kiểm toán. Việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ làm công tác kiểm toán nội bộ còn dàn trải, chưa đúng trọng tâm trọng điểm về lĩnh vực quản lý tài chính. Nghiên cứu học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến hoặc có cùng điều kiện như chúng ta còn rất hạn chế.

Tại Vụ TCKT nhân sự trực tiếp làm công tác quản lý tài chính cho toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước tại Phòng Quản lý Tài chính chỉ gồm 11 người (3 lãnh đạo cấp phòng và 8 chuyên viên), do đó nhân sự mỏng trong khi khối lượng công việc lớn, nhất là vào những thời điểm làm kế hoạch. Ví dụ: Việc lập và phân bổ kinh phí khoán hiện nay phải tính toán thủ công, quá chi tiết và thay đổi theo từng năm nên tốn kém nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định, lập kế hoạch do không có một công thức quy chuẩn, khoa học sẽ làm mất nhiều thời gian, nhất là khi tính toán cho 73 đơn vị sử dụng kinh phí khoán của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, từ trước tháng 10 năm trước, các đơn vị đã gửi kế hoạch thu nhập chi phí, tuy nhiên, đến tháng 3 năm kế hoạch, Thống đốc mới có quyết định tạm phân bổ kinh phí khoán cho các đơn vị. Do khoảng cách từ khi lập kế hoạch đến khi được giao khoán khá dài (hơn 5 tháng) nên việc ước tính, đề xuất chi phí phát sinh của các đơn vị không sát với thực tế về nhiệm vụ cũng như giá cả thị trường, do vậy, có sự chênh lệch lớn giữa đề xuất của các đơn vị và số thẩm định của Vụ Tài chính – Kế toán, dẫn đến việc đa số các đơn vị phải thực hiện điều chỉnh kế hoạch và không giao khoán được ngay từ đầu năm tài chính. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

NHNN là cơ quan quản lý nhà nước với đặc thù hoạt động công ích nên việc phân định rạch ròi các công việc cụ thể, hay rạch ròi giữa các bộ phận chỉ là tương đối. Do đó việc nhận xét, đánh giá hiệu quả công việc dựa trên các tiêu chí hoàn thành công việc mang tính chất tương đối đôi khi chưa được chuẩn xác. Thậm chí ngay cán bộ trẻ được đào tạo bài bản hơn thế hệ cũ, có năng lực, nhanh nhẹn cũng có những đóng góp rất hiệu quả công việc, nhưng thu nhập vẫn thấp do phụ thuộc theo thâm niên công tác. Khi đánh giá các hoạt động thi đua, khen thưởng thường ưu tiên người có chức vụ, thâm niên công tác. Mặt khác, cơ chế tiền lương đồng đều giữa các Vụ, Cục và các đơn vị Ngân hàng Nhà nước trong cả hệ thống gây ra tâm lý không thỏa mãn khi một số đơn vị khối lượng công việc nhiều, đòi hỏi chuyên môn cao, áp lực lớn tiền lương vẫn chỉ bằng khối hành chính, thậm chí lương một số cán bộ bảo vệ, lái xe cao hơn chuyên viên do thâm niên công tác. Tại Ngân hàng Trung ương hay chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ mức chi tiêu lớn hơn nhưng không có sự phân biệt vùng khi phân phối thu nhập. Chính vì các lẽ đó tạo môi trường chưa công bằng, người có thâm niên, hệ số lương cao hay công tác ở địa phương vẫn hưởng rất cao, còn số cán bộ trẻ đạt hiệu quả thì thu nhập chưa thực sự xứng đáng với công sức, đời sống gặp nhiều khó khăn nếu sinh sống tại các thành phố lớn.

Tuy là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, Chính sách tiền lương của Ngân hàng Nhà nước vẫn tuân theo quy chế trả lương công chức của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính với mức lương tối thiểu khá thấp so với mặt bằng chung của các ngân hàng thương mại nên chưa thu hút được nhân tài, thậm chí nhiều cán bộ có năng lực của Ngân hàng Nhà nước đã chuyển công tác sang các ngân hàng thương mại do mặt bằng lương, thưởng, đãi ngộ của ngân hàng thương mại thường cao hơn rất nhiều so với Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt hiện nay đang có đề án xây dựng cơ chế tiền lương mới cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ của Bộ Nội vụ theo phương hướng bình quân theo mặt bằng chung, như vậy Ngân hàng Nhà nước sẽ không được hưởng mức lương theo cơ chế đặc thù hiện nay (cao hơn một số Bộ do tính chất đặc thù đã phân tích ở trên); như vậy tình trạng chảy máu chất xám sẽ ngày càng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến vận hành bộ máy chuyên môn của Ngân hàng Nhà nước.

Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ đối với Kiểm toán viên làm công tác Kiểm toán nội bộ còn hạn chế chưa thu hút được đội ngũ cán bộ có tâm huyết, trình độ làm công tác kiểm toán nội bộ, điều đó được thể hiện ở chỗ mỗi cán bộ được bổ nhiệm vào ngạch Kiểm soát viên Ngân hàng Nhà nước chỉ được hưởng chế độ phụ cấp hệ số 0,1 lương tối thiểu/tháng (hiện tại là 149.000 đồng) trong khi đó các đơn vị có chức năng nhiệm vụ đặc thù tương tự Kiểm toán nội bộ như Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước đang được hưởng nhiều chế độ đãi ngộ, đặc thù như: phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên ngành…

Công tác kế hoạch : Trong bước lập kế hoạch Kiểm toán nội bộ chỉ được lập theo từng năm mà chưa có kế hoạch chiến lược trong vòng 3-5 năm theo các mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước. Kế hoạch Kiểm toán nội bộ hàng năm chủ yếu được thực hiện dựa trên tần suất kiểm toán các đơn vị (trong 3 năm gần nhất), gần như theo chu kỳ mà chưa thực hiện lập kế hoạch trên cơ sở đánh giá, xếp hạng rủi ro của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước. Điều này dẫn đến chất lượng công tác kiểm toán chưa cao. Bên cạnh đó, việc lập kế hoach kiểm toán hàng năm tổng hợp trên cơ sở các phòng chuyên đề tại Vụ Kiểm toán nội bộ lập nên khi Phòng Kiểm toán I tổng hợp kế hoạch kiểm toán cho từng chuyên đề còn có sự chồng chéo, khó kết hợp các chuyên đề kiểm toán khác nhau, dẫn đến ảnh hưởng tới chi phí một cuộc kiểm toán.

  • Công tác tự kiểm tra tài chính: Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Theo quy định tại Công văn số 4808/NHNN-KTNB ngày 28/6/2019 về việc hướng dẫn tự kiểm tra tài chính, kế toán trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước hạn chậm nhất là 15/01 năm sau Vụ Kiểm toán nội bộ phải nhận được báo cáo của các đơn vị để tổng hợp trình Thống đốc. Tuy nhiên vẫn còn nhiều đơn vị gửi báo cáo sau thời điểm trên, ảnh hưởng đến tiến độ tổng hợp.

Ban Thanh tra nhân dân của Ngân hàng Nhà nước kiểm soát quản lý hoạt động tài chính như kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản của đơn vị, kiểm tra các nội dung chi quỹ khen thưởng phúc lợi, việc chấm công, bố trí cán bộ làm thêm giờ, sự sắp xếp công việc phù hợp đối với năng lực của từng cán bộ. Tuy nhiên, hoạt động của ban thanh tra nhân dân còn mang nặng tính hình thức nên chưa phát huy được hết hiệu quả như mong muốn.

2.3.2.2. Hệ thống thông tin

Chứng từ kế toán chưa đúng quy định, không đúng với chế độ chứng từ kế toán Ngân hàng Nhà nước: sổ kế toán và phiếu chuyển khoản, dấu ngăn cách số tiền bằng số giữa hàng triệu, hàng nghìn, hàng trăm…còn dùng dấu phẩy (lỗi do phần mềm); một số phiếu chuyển khoản không ghi tài khoản đối ứng; ngày hạch toán không phù hợp với thời gian chứng từ ghi sổ kế toán,…do đó gây khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Việc kiểm soát chứng từ tại một số đơn vị còn sai sót: Một số chứng từ thiếu chữ ký của Giám đốc; một số khoản tạm ứng chi phí hội nghị còn thiếu tờ trình về việc tổ chức hội nghị, dự toán chi phí, chương trình nội dung, thời gian tổ chức hội nghị được Giám đốc duyệt trước khi tạm ứng.

Hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước có một số nội dung phản ánh nghiệp vụ kinh tế phát sinh chưa phù hợp, các tiểu khoản chồng chéo hoặc không có tài khoản phản ánh phù hợp. Ví dụ khoản chi bồi dưỡng cho cán bộ bằng hiện vật chưa có quy định cụ thể nên nhiều đơn vị trong hệ thống có cách hiểu và hạch toán khác nhau, không thống nhất (đơn vị thì hạch toán vào Chi khác cho cán bộ công chức, đơn vị khác thì hạch toán vào Chi quản lý công vụ…).

Khi thực hiện phân bổ kinh phí khoán cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước: hệ thống chưa hỗ trợ được hoàn toàn nên không tính toán tự động ngân sách theo các tiêu chí định sẵn mà phải thực hiện thủ công ngoài hệ thống.

Khi khai thác báo cáo: Mặc dù dự án FSMIMS đã được triển khai từ năm 2019 nhưng một số yêu cầu về báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa được đáp ứng như chiết xuất báo cáo thu nhập – chi phí, báo cáo kế hoạch tài chính, kế hoạch mua sắm Tài sản cố định của các đơn vị tạo thành báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước. Số liệu tổng hợp một số bảng biểu báo cáo bị sai, chưa khớp đúng với số liệu chi tiết, phần mềm đôi khi bị trục trặc, khó đăng nhập, chiết xuất, thời gian xử lý chậm. Mặc dù, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu nhà thầu triển khai dự án liên tục chỉnh sửa, sửa lỗi hệ thống nhưng sai sót tiềm tàng vẫn có thể xảy ra nếu con người không có sự đối chiếu chéo.

Hiện nay, khi nhận được báo cáo của đơn vị gửi về, chuyên viên phòng Quản lý tài chính vẫn phải rà soát so sánh giữa số liệu trên hệ thống và số liệu bản giấy, nhập số liệu thủ công mất nhiều thời gian và dễ bị nhầm lẫn, sai sót. Điều này còn dẫn đến mất nhiều thời gian tra cứu số liệu và cập nhật hoạt động của đơn vị khi cần báo cáo các thông tin khẩn lên cấp trên. Mặt khác, Vụ Tài chính – Kế toán sẽ khó kiểm soát tính chính xác và kịp thời của các thông tin tài chính này.

2.3.2.3. Thủ tục kiểm soát Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Các nguyên tắc căn bản trong việc thiết kế thủ tục kiểm soát tại Ngân hàng Nhà nước đã được áp dụng đầy đủ, tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan và chủ quan vẫn còn một số tồn tại như: Phòng Kế toán tại một số đơn vị còn chồng chéo, một cán bộ kiêm nhiệm nhiều công việc dẫn đến sai sót khó kiểm soát như: Kế toán thanh toán bù trừ điện tử kiêm kế toán chi tiêu nội bộ; kế toán tiền gửi, tiền vay kiêm kế toán thanh toán bù trừ điện tử và điện tử liên ngân hàng; kế toán tiền gửi tiền vay kiêm kế toán nghiệp vụ phát hành và quản lý kho quỹ.

Tại một số đơn vị có tình trạng tách một dự án thành nhiều hạng mục/gói thầu nhỏ có giá trị dưới 300 triệu đồng/ lần mua sắm/sửa chữa để tự tổ chức thẩm định và phê duyệt dự toán, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu và quyết toán bảo trì, sửa chữa tài sản mà không phải trình duyệt qua Vụ Tài chính – Kế toán. Sau đó đến cuối năm lại lập báo cáo xin bổ sung kinh phí sửa chữa. Những việc làm này là vi phạm pháp luật về đấu thầu, rất manh mún, không có kế hoạch cụ thể, dễ thất thoát, lãng phí khi thực hiện mà hiệu quả không cao do không có sự kiểm soát chặt chẽ theo thẩm quyền của Vụ Tài chính – Kế toán, ảnh hưởng tới nguồn kinh phí giao khoán chung của Ngân hàng Nhà nước

Bên cạnh đó, do chưa có quy định chặt chẽ, chế tài xử lý về thời gian hoàn thành việc mua sắm nên nhiều đơn vị thực hiện rất chậm trễ, đổ dồn khối lượng quyết toán về thời điểm cuối năm, gây khó khăn cho công tác thẩm định và phê duyệt quyết toán. Một số tài sản mua sắm đặc thù, khi thẩm định để trình phê duyệt dự toán cán bộ Vụ Tài chính – Kế toán chưa có nhiều hiểu biết chuyên sâu (như: thiết bị tin học, thiết bị an toàn kho quỹ…) phải gửi thẩm định dự toán nên phụ thuộc vào kết quả của các đơn vị thẩm định giá.

2.3.2.4. Kiểm toán nội bộ Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Trước kia, chức năng kiểm soát nội bộ bị đồng nhất với chức năng kiểm toán nội bộ; chưa phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp lãnh đạo đối với hệ thống kiểm soát nội bộ; công tác tự đánh giá đối với hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được thực hiện và bị xem nhẹ. Hơn nữa, công tác đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của kiểm toán nội bộ không đảm bảo tính độc lập, khách quan, dẫn đến kết quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong suốt thời gian qua mới chỉ dừng lại ở công tác hậu kiểm, những vấn đề phát hiện thường là những sai phạm đã xảy ra, chưa có tác dụng trong việc phát hiện, ngăn ngừa, quản lý rủi ro và nhất là tư vấn cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực hiện có. Hệ thống quy trình nghiệp vụ kiểm toán đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, phương pháp Kiểm toán nội bộ còn khá mới mẻ nên còn lúng túng trong việc tiếp cận nghiệp vụ kiểm toán…do đó kết quả chưa cao, chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho việc điều hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Thời gian qua, ngoài kiểm toán báo cáo tài chính, Vụ Kiểm toán nội bộ đã có nhiều cố gắng khi ban hành những quy định cụ thể về quy trình kiểm toán trên nhiều hoạt động như đầu tư xây dựng công trình, công nghệ thông tin, kho quỹ…Những nội dung này còn tương đối mới mẻ và không phải chuyên ngành được đào tạo của các cán bộ kiểm toán, do đó Vụ Kiểm toán nội bộ đã có công văn đề nghị cử cán bộ có chuyên môn ở các Vụ, Cục phối hợp công tác khi thành lập đoàn kiểm toán những lĩnh vực này nhằm mục đích hỗ trợ trong quá trình làm việc, ví dụ như cử cán bộ Phòng Quản lý Đầu tư xây dựng, Vụ Tài chính – Kế toán tham gia đoàn kiểm toán công tác đầu tư xây dựng cơ bản ở các chi nhánh. Tuy nhiên, khi có cán bộ thuộc Vụ, Cục chuyên ngành tham gia sẽ không đảm bảo độc lập, khách quan vì có thể chính đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ này đã phê duyệt các văn bản liên quan đến hoạt động đó. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

KTNN và Ngân hàng Nhà nước đã có sự phối hợp (Vụ Kiểm toán nội bộ và Kiểm toán Nhà nước VII) để triển khai kiểm toán hàng năm, tuy nhiên vẫn còn hiện tượng chồng chéo khi chọn đối tượng kiểm toán (khối Vụ, Cục của Ngân hàng Trung ương) ảnh hưởng phần nào đến hoạt động bình thường và tâm lý của đơn vị được chọn mẫu kiểm toán.

Kết quả đánh giá chất lượng kiểm soát nội bộ như sau: Thời gian qua, mặc dù công tác Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước đã được quan tâm thực hiện song vẫn còn nhiều sai sót chưa được phát hiện, đặc biệt là kiểm toán Báo cáo tài chính, qua kết quả kiểm toán hầu như năm nào Kiểm toán Nhà nước cũng phát hiện và điều chỉnh một số chỉ tiêu trong Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước.

Kiểm soát các khoản thu chưa có quy trình cụ thể, chủ yếu do kiểm soát nội bộ tại chính đơn vị thực hiện, không có khâu phê duyệt tại Vụ Tài chính Kế toán, việc kiểm toán chỉ được thực hiện theo chuyên đề trong kế hoạch kiểm toán/kiểm tra của Vụ Kiểm toán nội bộ/Vụ TCKT nên vẫn tồn tại những sai sót nhất định.

Kiểm soát việc phân phối kết quả tài chính: Việc tính toán trích lập các quỹ và nộp ngân sách nhà nước được thực hiện tại Vụ TCKT mà không có đơn vị cấp trên độc lập nào kiểm soát, hoặc có thể thường xuyên chiết xuất kiểm tra chéo trên phần mềm kế toán. Các quy định về phân phối kết quả tài chính hiện hành chưa đủ bao quát và hữu hiệu, dẫn đến khó kiểm soát khi phát sinh nhiều trường hợp sử dụng nguồn chênh lệch thu chi ngoài cơ chế, phải xin chấp thuận từng lần của Thủ tướng Chính phủ như cấp vốn điều lệ cho Nhà máy In tiền quốc gia, trả phí sử dụng SDR cho IMF… Bên cạnh đó kiểm toán nội bộ nội dung này không được thực hiện thường xuyên hàng năm nên hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế kiểm soát tài chính tại chính Vụ TCKT. Điều này cũng tiềm tàng rủi ro xảy ra sai sót trong việc quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước.

2.3.3. Nguyên nhân hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Cơ sở để tiến hành kiểm soát nội bộ là các văn bản pháp quy của Nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan. Vì vậy, công tác kiểm toán gặp khó khăn, vướng mắc nhất định khi hệ thống các văn bản pháp luật thiếu đồng bộ, bất cập với thực tiễn, chậm được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng của hoạt động Kiểm soát nội bộ Ngân hàng Nhà nước chưa cao.

NHNN là một cơ quan lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, phạm vi quản lý rộng và ở lĩnh vực phức tạp. Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán nói chung và về khoản mục tài sản, chi phí nói riêng chưa được cập nhật phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, những quy định, hướng dẫn về đấu thầu mua sắm tài sản, mức thuế suất áp dụng, định mức chi tiêu chi phí quản lý khoán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính…chưa rõ ràng, kịp thời, khi có vướng mắc thì thời gian phối hợp xử lý công việc lâu, dẫn đến công việc bị chậm trễ.

Chính sách tiền lương, đãi ngộ nhân sự của Ngân hàng Nhà nước phải phụ thuộc vào quy chế trả lương công chức của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ.

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

Tính độc lập, khách quan của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn hạn chế do Vụ Kiểm toán nội bộ được đặt ngang hàng với các Vụ, Cục chuyên môn khác. Đồng thời, tại Ngân hàng Nhà nước chưa hình thành tổ chức Ủy ban kiểm toán để tư vấn cho Thống đốc về hoạt động Kiểm toán nội bộ, để thực hiện xem xét, đánh giá kế hoạch Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước và đánh giá chất lượng công tác Kiểm toán nội bộ thông qua báo cáo kiểm toán.

Mối quan hệ phối hợp công tác và chia sẻ thông tin giữa các đơn vị Ngân hàng Nhà nước chưa hiệu quả. Sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện những kiến nghị của Kiểm toán nội bộ chưa chặt chẽ, thường xuyên. Một số đề xuất, kiến nghị qua kiểm toán chưa được các đơn vị thực hiện nghiêm túc, triệt để hoặc thời gian thực hiện kéo dài; công tác đôn đốc, theo dõi, tổng hợp kết quả thực hiện kiến nghị chưa thường xuyên, sát sao và thiếu tính hệ thống làm giảm vai trò, hiệu lực của Kiểm toán nội bộ.

Các cán bộ làm công tác tài chính – kế toán tại Ngân hàng Nhà nước tuy đã có nhiều cố gắng trau dồi nghiệp vụ nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định như xử lý tình huống trong đấu thầu, theo dõi, hạch toán tài sản, lập kế hoạch… Các cán bộ của Vụ Kiểm toán nội bộ hầu hết được đào tạo về chuyên ngành Kế toán – Kiểm toán, Ngân hàng – Tài chính, khi tiến hành kiểm toán lĩnh vực chuyên ngành như đầu tư xây dựng cơ bản, công nghệ thông tin, kho quỹ…không tránh khỏi những lúng túng và vướng mắc. Quy trình thực hiện những lĩnh vực này mới được xây dựng, cần có thời gian, kinh nghiệm để hoàn thiện hơn.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống kê, dự báo, các phần mềm quản lý tài sản tập trung, quản lý thông tin hầu như mới đưa vào sử dụng, quy trình nghiệp vụ kiểm toán của Ngân hàng Nhà nước vừa được ban hành nên còn khá mới mẻ, vẫn gặp nhiều vướng mắc, hạn chế.

Do khoảng cách về địa lý và số lượng Chi nhánh quá nhiều, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 17 Vụ, Cục thuộc Trụ sở chính Ngân hàng Trung ương và 63 Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố dải đều trên 63 tỉnh, thành phố từ Bắc vào Nam, do đó công tác Kiểm toán nội bộ bị nhiều hạn chế, làm giảm hiệu quả Kiểm toán nội bộ. Điểm này khác với ngân hàng trung ương các nước bởi ngân hàng trung ương các nước có rất ít Chi nhánh gắn với địa giới hành chính, mà chủ yếu là các Ngân hàng khu vực. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 2

Trên cơ sở những tài liệu thu thập được và quá trình trực tiếp làm việc, Tác giả đã phản ánh thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường công tác quản lý tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tác giả đã giới thiệu tổng quan về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gồm: quá trình hình thành và phát triển; vị trí và chức năng; hoạt động của Ngân hàng Trung Ương. Những đặc điểm của hệ thống Kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước giới thiệu ở Chương 1 đã được tác giả đi sâu nghiên cứu, phân tích ở Chương 2. Đó là thực trạng hệ thống Kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ, các yếu tố của hệ thống Kiểm soát nội bộ tác động tới công tác quản lý tài chính và kiểm soát trên một số hoạt động tài chính cơ bản. Thành tựu và những hạn chế của các yếu tố trong hệ thống Kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính được phân tích kỹ càng trên cả phương diện khách quan lẫn chủ quan.

Đánh giá các ưu điểm đạt được và lý giải nguyên nhân của các hạn chế là căn cứ cho Tác giả đề xuất phương hướng và các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống Kiểm soát nội bộ với việc tăng cường công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993