Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, ngân hàng nhà nước Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Giới thiệu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

NHNN Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các Tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

2.1.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Với tư cách là một Cơ quan Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong cả nước, cụ thể: Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước; Xây dựng các dự án Luật, Pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Cấp, thu hồi giấy phép và hoạt động của các Tổ chức tín dụng và giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng; Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Ký kết và tham gia các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế; Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này qua các công cụ điều hành. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Với tư cách là Ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các Tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ với các hoạt động cụ thể: Tổ chức in, đúc, phát hành, bảo quản, vận chuyển, thu hồi, thay thế, tiêu hủy tiền; Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế; Điều hành thị trường tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở; Quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; Tổ chức thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán.

Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 17/02/2020 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 26 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng Ngân hàng trung ương, 6 đơn vị là tổ chức sự nghiệp.

Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã quy định một trong các hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là “kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật”. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi đơn vị chức năng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Ngành Tài Chính Ngân Hàng

2.1.2. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức

Theo quy định tại Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 của Chính phủ ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng và Nghị định số 43/2022/NĐ-CP ngày 17/5/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP thì Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước, được tổ chức thành hệ thống gồm: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

  • Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước).
  • Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh).

Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng gồm 08 đơn vị. https://hotrovietluanvan.com/

Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng (gọi tắt là Vụ I): Thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và tội phạm trong ngành Ngân hàng.

Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng (gọi tắt là Vụ II): thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về cấp phép, thành lập, tổ chức, hoạt động và an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tô chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng (trừ các đôi tượng thuộc phạm vi trách nhiệm của Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng III (gọi tắt là Cục III)). Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng I (gọi tắt là Cục I): thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra chuyên ngành, thực hiện thanh tra, giám sát, cấp phép đối với: (i) Ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, ngân hàng thương mại do Nhà nước năm giữ trên 50% vốn điều lệ (sau đây gọi chung là ngân hàng thương mại nhà nước); (ii) Ngân hàng chính sách; (iii) Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; (iv) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là công ty con hoặc có vốn góp của ngân hàng thương mại nhà nước; (v) Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Nhà máy In tiền Quốc gia, tổ chức hoạt động thông tin tín dụng, tổ chức có hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng.

Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng II (gọi tắt là Cục II): thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra chuyên ngành, thực hiện thanh tra, giám sát, cấp phép (trừ cấp phép thành lập mới) đối với: (i) Ngân hàng thương mại cổ phần, trừ ngân hàng thương mại cổ phần đo Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; (ii) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, trừ tổ chức tín dụng phi ngân hàng thuộc trách nhiệm thanh tra, giám sát, cấp phép của Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng I theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng III (gọi tắt là Cục III): thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra chuyên ngành, thực hiện thanh tra, giám sát, cấp phép; xây dựng cơ chê, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật vê thành lập, tổ chức, hoạt động, an toàn hoạt động, thanh tra, giám sát, cấp phép ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tô chức tài chính vi mô: chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức phi chính phủ

Cục Giám sát an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (gọi tắt là Cục IV): thực hiện giám sát an toàn vĩ mô đối với các đối tượng giám sát ngân hàng, trừ ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; quản lý nhà nước về công tác giám sát ngân hàng; cấp phép thành lập mới tổ chức tín dụng (trừ ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; quản lý, vận hành hệ thống công nghệ thông tin của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; quản lý cơ sở dữ liệu của Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng

Cục Phòng, chống rửa tiền (gọi tắt là Cục V): Tham mưu, giúp Chánh TTGSNH xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền; (ii) Thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền; chuyển giao, cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tài liệu, hồ sơ vụ việc có liên quan tới rửa tiền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Văn phòng: giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; thực hiện công tác tổ chức, nhân sự, đào tạo, quản lý tài sản, tài chính; thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

2.1.2.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền và bảo hiểm tiền gửi; chiến lược, chương trình, đề án, dự án quan trọng về đổi mới và phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền và bảo hiểm tiền gửi.

Đồng thời trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định, phê duyệt hoặc ban hành kế hoạch dài hạn, năm năm và hằng năm về phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, về thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố; cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng và các loại giấy phép hoạt động ngân hàng khác theo phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý, giải thể tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát và Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng, trừ nhân sự của ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, nhân sự do chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ cử hoặc giới thiệu; chấp thuận người dự kiến được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc (Giám đốc) chi nhánh ngân hàng nước ngoài…

Xây dựng kế hoạch thanh tra hằng năm của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra…

2.2. Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

2.2.1. Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Trong chặng đường xây dựng, phát triển, hệ thống Tổ chức tín dụng Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về cả chất lượng và quy mô. Theo hình thức sở hữu, hiện nay hệ thống Tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm 04 ngân hàng thương mại nhà nước và 03 ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua lại, 28 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), 09 ngân hàng liên doanh, 100% sở hữu nước ngoài, 46 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 02 ngân hàng chính sách/phát triển (ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển Việt Nam), 01 ngân hàng hợp tác xã và 1148 quỹ tín dụng nhân dân, 17 công ty tài chính, 11 công ty cho thuê tài chính.

Quá trình tăng trưởng ồ ạt bắt đầu bộc lộ những yếu kém, bất cập trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại như cấu trúc sở hữu phức tạp, xuất hiện tình trạng sở hữu chéo, chất lượng, năng lực quản trị, điều hành không theo kịp với quy mô và mức độ phức tạp của dịch vụ, sản phẩm ngân hàng, nợ xấu tăng cao đe dọa tới hoạt động lành mạnh, hiệu quả của hệ thống ngân hàng.

Trước tình hình đó, trong giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Nhà nước đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” (ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ). Trong giai đoạn 2019-2023, NHNN đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2019-2023” (ban hành kèm theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ) (Đề án 1058), Nghị quyết số 42/2020/QH14 ngày 21/6/2020 của Quốc hội về xử lý nợ xấu. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Sau gần 10 năm thực hiện tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng theo Đề án 254 và Đề án 1058, nhìn toàn bộ tổng thể hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại đã có những thành tựu nhất định:

Quy mô hệ thống các Tổ chức tín dụng tiếp tục tăng: Tổng tài sản của hệ thống các Tổ chức tín dụng tăng dần đều qua các năm và đạt 12,93 triệu tỷ đồng tại thời điểm 31/8/2023, tăng 52,1% so với cuối năm 2019. Trong đó, tổng tài sản của 35 Ngân hàng thương mại (bao gồm 07 Ngân hàng thương mại Nhà nước và 28 Ngân hàng thương mạiCP) đạt 10.809,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 84% tổng tài sản của toàn hệ thống; vốn điều lệ đạt 445,3 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các ngân hàng lớn trong khu vực về cả tài sản và vốn, quy mô của các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn tương đối nhỏ. Về quy mô tín dụng so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã có những thay đổi đáng kể, từ mức khá thấp vào năm 2001 (35,6%) lên mức 133% vào năm 2022, cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống Tổ chức tín dụng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế tại Việt Nam.

Năng lực tài chính của các Tổ chức tín dụng được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm; chất lượng quản trị, điều hành của các Tổ chức tín dụng từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế: Đến cuối tháng 8/2023, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 629,1 nghìn tỷ đồng, tăng 28,8% so với cuối năm 2019; vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 1.007,7 nghìn tỷ đồng, tăng 69,4% so với cuối năm 2019.

Về Nợ xấu và xử lý nợ xấu nội bảng (theo Thông tư số 02/2013/TT- NHNN):

Nợ xấu nội bảng của hệ thống các Tổ chức tín dụng tiếp tục được xử lý, kiểm soát và tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức an toàn; trong đó, giai đoạn từ năm 2020 – tháng 7/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%. Do tác động bất lợi của dịch Covid-19 đến nền kinh tế, trong những tháng đầu năm 2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng và đến cuối tháng 8/20237 ở mức 2,01%). Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Về xử lý nợ xấu nội bảng, giai đoạn từ năm 2019 đến cuối tháng 8/2023, toàn hệ thống các Tổ chức tín dụng đã xử lý được 628,6 nghìn tỷ đồng, trong đó, nợ xấu do các Tổ chức tín dụng tự xử lý là 494,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,67% tổng nợ xấu xử lý; nợ xấu bán cho VAMC là 126,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 22,08% tổng nợ xấu xử lý và nợ xấu bán cho tổ chức, cá nhân khác là 7,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,25% tổng nợ xấu xử lý.

Về xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42/2020/QH14: Sau hơn 03 năm triển khai Nghị quyết 42, các giải pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các Tổ chức tín dụng. Lũy kế từ 15/08/2020 đến 31/8/2023, đã xử lý được 306,98 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42.

Việc triển khai Chuẩn mực vốn Basel II tiếp tục được tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý triển khai Basel II tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 41/2019/TT-NHNN ngày 30/12/2019 hướng dẫn về lệ an toàn vốn theo Phương pháp tiêu chuẩn của Basel II (hiệu lực từ 01/01/2023). Theo đó, ngân hàng thương mại, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% (được xác định trên cơ sở yêu cầu bổ sung vốn có tính đến rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường thay vì chỉ yêu cầu vốn tính đến rủi ro tín dụng như quy định tại Basel I). Đến nay, hầu hết các Tổ chức tín dụng đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 41/2019/TT-NHNN.

Các Tổ chức tín dụng đã ý thức và chú trọng hơn trong việc quản trị rủi ro và tăng cường tính minh bạch thông tin hoạt động theo quy định của pháp luật. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các Tổ chức tín dụng đã được xử lý có hiệu quả, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng được kiểm soát. Kết quả đến nay: (i) Số cặp Tổ chức tín dụng sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đến nay đã khắc phục hết (năm 2012: 7 cặp); (ii) Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm, đến nay còn tại 1 Ngân hàng thương mại cổ phần với 1 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau (tại thời điểm tháng 6/2012 có 56 cặp).

Về số lượng, đã giảm bớt số lượng Tổ chức tín dụng nhỏ, yếu kém và hình thành một số ngân hàng thương mại có quy mô lớn hơn, có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, đặc biệt tăng cường được quy mô và vị trí chi phối của các ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống ngân hàng.

Có thể nói, những nỗ lực của ngành Ngân hàng trong thời gian vừa qua đã góp phần quan trọng bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, tạo nền tảng kinh tế vĩ mô bền vững, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện ở việc các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục điều chỉnh tăng triển vọng xếp hạng trong các năm gần đây.

2.2.2. Tổ chức công tác giám sát ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng qua các thời kỳ

2.2.2.1. Công tác giám sát ngân hàng giai đoạn 1999 – 2009 Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thực tế trong suốt giai đoạn từ năm 1999 đến 2009, hoạt động giám sát ngân hàng bản chất là hoạt động giám sát được đảm đương bởi Vụ Thanh tra ngân hàng bên cạnh hoạt động thanh tra tại chỗ, khác nội hàm thuật ngữ “giám sát ngân hàng” theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế mà Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng. Trong giai đoạn này, hoạt động giám sát ngân hàng là một quy trình bao gồm10: (i) thu thập thông tin về các Tổ chức tín dụng thông qua các báo cáo thống kê, cân đối tài khoản cũng như Kết luận thanh tra của đơn vị từ bộ phận Thanh tra tại chỗ (ii) phân tích, đánh giá tình hình, diễn biến về cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có, Chất lượng tài sản Có; Vốn tự có; Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh, và việc thực hiện qui định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng và các qui định khác của pháp luật. Có thể nói, trong giai đoạn này, hoạt động giám sát ngân hàng chủ yếu tập trung vào hoạt động giám sát an toàn vi mô đối với từng Tổ chức tín dụng. Thực tế, việc cơ quan thanh tra của Ngân hàng Nhà nước tập trung nhiều hơn vào hoạt động thanh tra và mới chỉ quan tâm tới giám sát an toàn vi mô, chưa hướng đến chức năng giám sát an toàn hệ thống ngân hàng (giám sát an toàn vĩ mô) là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới những hạn chế của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi có hiệu quả chức năng giám sát ngân hàng.

Bên cạnh đó, chức năng giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước còn bị phân tán và được thực hiện bởi các Vụ, Cục khác trong Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Vụ Tín dụng, Vụ Quản lý Ngoại hối, Vụ Chính sách Tiền tệ đều yêu cầu các Tổ chức tín dụng phải báo cáo về tình hình hoạt động của Tổ chức tín dụng theo nội dung thuộc quyền quản lý của mình). Với mô hình như trên, nhiệm vụ phát hiện các vi phạm, sai phạm của các Tổ chức tín dụng là nhiệm vụ của Vụ Thanh tra ngân hàng, trong khi nhiệm vụ xử lý các sai phạm lại do các Vụ, Cục khác trong Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm, nên hiệu lực của hoạt động giám sát còn hạn chế. Ngoài ra các Vụ, Cục chức năng thuộc Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm ban hành các quy định về chính sách và quy định an toàn cho hoạt động ngân hàng theo chức năng của đơn vị mình. Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các quy định an toàn. Do cơ quan ban hành các quy định an toàn và cơ quan giám sát là hai đơn vị độc lập, vì thế đôi khi có những bất đồng giữa việc hiểu và áp dụng các quy định giữa đơn vị ban hành quy định và đơn vị thanh tra giám sát.

2.2.2.2. Công tác giám sát ngân hàng giai đoạn 2009 đến năm 2014 Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Trong giai đoạn 2009 – 2014, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (TTGSNH) được thành lập dựa trên cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước bao gồm: Vụ Thanh tra ngân hàng, Vụ các ngân hàng, Vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác và Trung tâm phòng chống rửa tiền. Việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được coi là cuộc cải cách sâu rộng của Ngân hàng Nhà nước nhằm tăng cường khả năng thanh tra, giám sát đối với hệ thống tài chính, ngân hàng.

Với cơ cấu tổ chức hoạt động mới, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã đảm nhận tương đối đầy đủ chức năng của một tổ chức giám sát theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế, bao gồm:

  • Ban hành chính sách về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng
  • Cấp phép hoạt động
  • Giám sát
  • Thanh tra tại chỗ
  • Phòng chống rửa tiền

Về cơ bản, chức năng giám sát ngân hàng đã tập trung tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thay vì phân tán tại nhiều đơn vị Vụ, Cục. Tuy nhiên, vấn đề phối hợp giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tại các địa phương vẫn chưa được hoàn toàn thực hiện theo cơ chế chiều dọc (Chưa có sự phân định trách nhiệm một cách rõ ràng về phạm vi hoạt động, chương trình làm việc, các kênh thông tin báo cáo, chia sẻ thông tin, những vấn đề về thanh tra giám sát ngân hàng trên cơ sở hợp nhất). Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Bên cạnh đó, hoạt động giám sát giai đoạn này chủ yếu dựa trên nội dung giám sát tuân thủ mà chưa tập trung vào giám sát trên cơ sở rủi ro. Thực thế hoạt động ngân hàng ngày càng phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, tác động lan truyền lên toàn hệ thống kinh tế, xã hội trong nước nên việc giám sát tuân thủ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Báo cáo giám sát được lập hàng tháng theo khối ngân hàng với những so sánh tăng giảm thuần túy, chưa thực sự phản ánh được các dấu hiệu cảnh báo, chưa giải quyết được nhu cầu trao đổi thông tin 2 chiều giữa bộ phận giám sát và bộ phận thanh tra tại chỗ và yêu cầu xử lý liên kết số liệu, chưa hỗ trợ cho thanh tra tại chỗ trong việc xác định trọng tâm, trọng điểm thanh tra tại chỗ theo hướng tập trung vào khu vực nhiều rủi ro. Việc kết hợp phân tích định tính và định lượng chư được coi trọng dẫn đến khả năng cảnh báo rủi ro về tổ chức, hoạt động, kiểm soát…không cao. Việc giám sát nặng về giám sát tại chỗ với các công việc cụ thể, chưa mang tính vĩ mô và bài bản.

2.2.2.3. Công tác giám sát ngân hàng giai đoạn 2014 đến nay

Từ năm 2014 đến nay, mô hình tổ chức thanh tra, giám sát trong Ngân hàng Nhà nước đã cơ bản đổi mới theo hướng bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản trị, điều hành về trụ sở chính của Ngân hàng thương mại. Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước, được tổ chức thành hệ thống gồm: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước và Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương – nơi không có Cục TTGSNH (Hà Nội và Hồ Chí Minh) thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

Nhiệm vụ Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng được giao thực hiện đầy đủ 4 khâu của quá trình quản lý, thanh tra, giám sát đối với các Ngân hàng thương mại: Cấp phép; xây dựng quy chế về an toàn hoạt động NH; giám sát, thanh tra tại chỗ; xử lý vi phạm. Những đổi mới này hướng tới thực hiện thông lệ, chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát hiệu quả của Ủy ban Basel. Bên cạnh đó, phương pháp thanh tra, giám sát tiến dần đến thực hiện thông lệ, chuẩn mực quốc tế như thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của Tổ chức tín dụng, kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

2.2.3. Quy trình giám sát ngân hàng tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

Thực tế quy trình hoạt động giám sát ngân hàng tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo bốn bước cơ bản sau: Thu thập, tổng hợp tài liệu, thông tin, dữ liệu; Phân tích, đánh giá về đối tượng giám sát ngân hàng theo 2 hình thức bao gồm giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô; Đề xuất các hành động can thiệp, chỉnh sửa.

Bước 1: Thu thập, tổng hợp tài liệu, thông tin, dữ liệu

Về thu thập tài liệu thông tin dữ liệu: Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng tiến hành thu thập tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng từ các nguồn dưới đây:

Thứ nhất: Báo cáo theo quy định pháp luật hiện hành về chế độ báo cáo thống kê và về yêu cầu cung cấp thông tin của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để phục vụ công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Cụ thể:

  • Điều lệ và các văn bản, chính sách, quy định và quy chế nội bộ của đối tượng giám sát ngân hàng;
  • Chiến lược kinh doanh và kế hoạch kinh doanh, đầu tư phát triển hàng năm của đối tượng giám sát ngân hàng;
  • Báo cáo tài chính, bảng cân đối tài khoản kế toán, báo cáo về tình hình hoạt động, nghiệp vụ định kỳ;
  • Báo cáo kiểm toán độc lập, thư quản lý;
  • Báo cáo tự kiểm tra, đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, báo cáo kiểm toán nội bộ, báo cáo của ban kiểm soát và các giải trình của đối tượng giám sát ngân hàng liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ;
  • Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước, Kết luận Thanh tra của các Cơ quan thanh tra nhà nước;
  • Báo cáo thống kê theo quy định về chế độ báo cáo thống kê của Ngân hàng Nhà nước;
  • Các báo cáo khác phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng.

Hiện nay, các Ngân hàng thương mại đang gửi báo cáo thống kê theo đường truyền file theo quy định tại Hệ thống báo cáo thống kê. Cách thức khai thác dữ liệu thống kê như sau: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

  • Cán bộ truy cập vào địa chỉ website: http://bcnhnn.sbv

Mỗi cán bộ giám sát được cấp một tài khoản để truy cập vào địa chỉ này. Cán bộ tin học sẽ thực hiện phân quyền khai thác, kiểm duyệt các biểu thống kê cho cán bộ giám sát theo đối tượng giám sát căn cứ phân công nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, do nhu cầu thông tin phục vụ giám sát ngày càng nhiều để đáp ứng với sự phát triển ngày đang đa dạng của hệ thống ngân hàng nên trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, cán bộ giám sát có thể chủ động xây dựng mẫu biểu yêu cầu Tổ chức tín dụng báo cáo theo mục đích cụ thể để phục vụ cho hoạt động giám sát (nếu cần thiết).

Thứ hai: Tài liệu, thông tin, dữ liệu trong hoạt động tiếp xúc với đối tượng giám sát ngân hàng, bao gồm:

Biên bản các buổi làm việc trực tiếp với đối tượng giám sát ngân hàng;

Văn bản giải trình và hồ sơ tài liệu của đối tượng giám sát ngân hàng theo yêu cầu của đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng trong quá trình tiếp xúc với đối tượng giám sát ngân hàng.

Thứ ba: Căn cứ vào yêu cầu giám sát ngân hàng, trong trường hợp cần thiết, Chánh Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng nghiên cứu, xây dựng và trình Thống đốc phê duyệt nội dung yêu cầu đối tượng giám sát cung cấp tài liệu, thông tin, dữ liệu ngoài các tài liệu, thông tin, dữ liệu quy định tại Điểm “Thứ nhất „ để phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng.

Thứ tư: Tài liệu, thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước từ các đơn vị thuộc Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng, các đơn vị khác thuộc Ngân hàng Nhà nước và các nguồn khác. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ năm: Nguồn thông tin khác như Chỉ số kinh tế vĩ mô, các đánh giá của các đơn vị Quốc tế, và các đơn vị quản lý nhà nước khác đối với việc hoạt động: Thông tin từ Ủy ban chứng khoán, Bảo hiểm tiền gửi, Bộ kế hoạch và đầu tư (Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp).

Thứ sáu: Thông tin từ mạng xã hội. Ngày nay, khi cuộc cách mạng công nghệ thông tin lần thứ 4 bùng nổ, thông tin trên mạng xã hội dù chưa được xác thực hoàn toàn nhưng được cập nhật, chia sẻ một cách nhanh chóng, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, thông tin luôn nhạy cảm. Vì vậy, thông tin trên mạng internet cũng là nguồn thông tin quan trọng trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.

b) Về tổng hợp, xử lý, lưu trữ tài liệu, thông tin, dữ liệu

  • Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng tiến hành tổng hợp, xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu theo các nội dung sau:

Tài liệu, thông tin, dữ liệu về đối tượng giám sát ngân hàng, sau khi được thu thập từ các nguồn khác nhau, được kiểm tra, so sánh, đối chiếu và tổng hợp để sử dụng trong việc đánh giá, phân tích về đối tượng giám sát ngân hàng;

  • Kiểm tra tính chính xác của thông tin trên bảng cân đối tài khoản kế toán, báo cáo tài chính căn cứ theo nguyên tắc hạch toán, kế toán;
  • So sánh, đối chiếu các tài liệu, thông tin, dữ liệu thu thập được với các dữ liệu lịch sử để phát hiện các trường hợp có biến động bất thường; Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.
  • So sánh, đối chiếu tài liệu, thông tin, dữ liệu từ các nguồn khác nhau nhằm đảm bảo tính nhất quán;
  • Căn cứ vào tình hình thực tế để có nhận định, đánh giá về tính hợp lý của tài liệu, thông tin, dữ liệu;
  • Nếu phát hiện tài liệu, thông tin, dữ liệu bị thiếu, lỗi, sai hoặc không phù hợp, đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng yêu cầu đối tượng giám sát ngân hàng có báo cáo giải trình kịp thời và gửi lại thông tin chính xác theo các hình thức tiếp xúc đối tượng giám sát ngân hàng như trao đổi ngay với ngân hàng thông qua email, điện thoại hoặc văn bản chính thức. Thông qua phản hồi từ ngân hàng, cán bộ giám sát yêu cầu gửi lại dữ liệu (nếu có sai sót) hoặc hiểu rõ nguyên nhân của sự tăng hoặc giảm bất thường này. Tuy nhiên, rà soát thông tin chủ yếu thực hiện thủ công, chỉ dựa trên sự biến động bất thường của số liệu, đồng thời số lượng cán bộ giám sát còn ít, mỗi cán bộ phải giám sát trên chục ngân hàng gây áp lực công việc lớn nên đôi khi các sai sót, đặc biệt là các gian lận vẫn chưa được cán bộ giám sát phát hiện hoặc phát hiện kịp thời.

Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng tổ chức lưu trữ tài liệu, thông tin, dữ liệu theo các nguyên tắc sau:

  • Tài liệu, thông tin, dữ liệu phải được lưu trữ một cách khoa học, đầy đủ theo từng hồ sơ của từng đối tượng giám sát ngân hàng và toàn hệ thống;
  • Tài liệu, thông tin, dữ liệu phải được lưu trữ thành cơ sở dữ liệu chung, theo chuỗi dữ liệu lịch sử và thuận tiện cho việc tra cứu và sử dụng;
  • Tài liệu, thông tin, dữ liệu thu thập phải được lưu trữ theo quy định pháp luật hiện hành về lưu trữ và được sử dụng theo quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ bí mật nhà nước.

Bước 2: Phân tích, đánh giá về đối tượng giám sát ngân hàng theo 2 hình thức bao gồm giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

a) Nội dung giám sát an toàn vi mô

Căn cứ vào các tài liệu, thông tin, dữ liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý và đặc điểm hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô thực hiện một số hoặc toàn bộ các nội dung sau:

Theo dõi, đánh giá việc chấp hành các quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định về chế độ báo cáo thống kê, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng đối với các Ngân hàng thương mại.

Phân tích, đánh giá các rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại, gồm: (i) Rủi ro tín dụng; (ii) Rủi ro thị trường bao gồm: Rủi ro lãi suất; Rủi ro ngoại hối; Rủi ro giá cổ phiếu; Rủi ro giá hàng hóa; (iii) Rủi ro thanh khoản; (iv) Rủi ro hoạt động; (v) Rủi ro danh tiếng; (vi) Rủi ro chiến lược; (vii) Các loại rủi ro khác phát sinh trong quá trình hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Thực tế tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, việc phân tích, đánh giá rủi ro chủ yếu tập trung là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản. Đối với các loại rủi ro còn lại thông tin hỗ trợ để thực hiện phân tích đánh giá còn rất hạn chế nên việc đưa ra nhận định đối với các rủi ro này là chưa đủ cơ sở.

  • Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo các nội dung sau:

Tình hình bảo đảm an toàn và phát triển vốn chủ sở hữu (bao gồm cả tình hình cổ đông, cổ phần, cổ phiếu), bao gồm: thông tin về việc chấp hành quy định về tỷ lệ an toàn vốn thiểu; cơ cấu vốn tự có (vốn cấp 1, vốn cấp 2 so với tài sản có rủi ro); cơ cấu cổ đông; danh sách các cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần từ 0,5% vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại trở lên… Ngoài ra, căn cứ thông tin thu thập được, cán bộ giám sát có thể đánh giá bổ sung thông tin về việc cấp tín dụng đối với các cổ đông lớn…

  • Tình hình huy động vốn từ các đối tượng đáp ứng các điều kiện tham gia giao dịch theo quy định pháp luật hiện hành bao gồm: cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức khác;
  • Tình hình sử dụng vốn: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.
  • Cấp tín dụng đối với các đối tượng đáp ứng các điều kiện tham gia giao dịch theo quy định pháp luật hiện hành bao gồm: cá nhân; tổ chức kinh tế; tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tổ chức khác. Trong đó, bao gồm việc đánh giá theo cơ cấu, kỳ hạn, tỷ trọng, tốc độ tăng giảm so với cuối năm trước hay các quý liền kề.
  • Đầu tư giấy tờ có giá: đánh giá theo loại hình giấy tờ có giá: trái phiếu chỉnh phủ, trái phiếu doanh nghiệp…

Tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu:

Kiểm soát nợ xấu là một trong nội dung rất quan trọng của Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2019-2023. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Tổ chức tín dụng nói chung và từng Ngân hàng thương mại nói riêng phải kiểm soát tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ đã bán VAMC chưa xử lý, nợ tiềm ẩn nợ xấu khác ở mức dưới 3%. Trường hợp Tổ chức tín dụng có tỷ lệ này cao có thể bị Ngân hàng Nhà nước xem xét hạn chế một số hoạt động như chia cổ tức, mở rộng mạng lưới, bổ sung giấy phép hoạt động kinh doanh…

Về xử lý nợ xấu: Tại Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã nhận mạnh vai trò của xử lý nợ xấu nhằm đưa tỷ lệ nợ xấu về mức hợp lý. Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 42/2020QH14 ngày 21/6/2020 về thí điểm xử lý nợ xấu (có hiệu lực từ 15/8/2020). Trên cơ sở đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã yêu cầu Ngân hàng thương mại phải xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu trong giai đoạn 2020-2023 chi tiết cụ thể cho từng năm và yêu cầu báo cáo định kỳ hàng quý. Căn cứ kế hoạch đã xây dựng, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện giám sát kết quả thực hiện đối với từng Ngân hàng thương mại.

Kết quả hoạt động kinh doanh: việc đánh giá kết quả kinh doanh chủ yếu thực hiện dưới góc độ so sánh lợi nhuận so với cùng kỳ; các tỷ lệ về khả năng sinh lời ROA, ROE; cơ cấu thu nhập hoạt động…

(iv) Phân tích, đánh giá về quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Thực tế thông tin phục vụ việc đánh giá về quản trị, điều của một tổ chức tín dụng còn hạn chế. Tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hiện nay, đơn vị giám sát vi mô chủ yếu đánh giá trên số lượng thành viên Ban Quản trị, Ban Điều hành, Ban Kiểm soát có đầy đủ thành phần, cơ cấu theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; việc tổ chức thành công/không thành cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên/đột xuất; Ngân hàng thương mại có bị khuyết chức danh Tổng Giám đốc hay Người đại diện theo pháp luật một cách thường xuyên không… Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

(v) Xếp hạng Ngân hàng thương mại theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. b) Nội dung giám sát an toàn vĩ mô

Hiện nay, việc giám sát an toàn vĩ mô tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện trên cơ sở giám sát toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; và giám sát theo theo từng phân nhóm theo hình thức sở hữu, cụ thể:

  • Nhóm các ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  • Nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước,
  • Nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần,
  • Nhóm ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính mô.

Nhóm các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Căn cứ thông tin, tài liệu, dữ liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý từ các nguồn và các báo cáo giám sát an toàn vi mô, đơn vị thực hiện giám sát an toàn vĩ mô tiến hành theo dõi, đánh giá đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo một số nội dung sau:

(i) Phân tích mức độ lành mạnh tài chính:

Tình hình vốn chủ sở hữu, tình hình an toàn vốn:

  • Phân tích cơ cấu, biến động vốn chủ sở hữu của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô, so sánh giữa các kỳ giám sát.
  • Phân tích biến động về vốn tự có của nhóm đối tượng giám sát an tàn toàn vĩ mô, so sánh giữa các kỳ giám sát. Đánh giá, nhận xét về việc đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của các Tổ chức tín dụng trong nhóm.

Huy động vốn:

  • Phân tích cơ cấu vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư (TT1) (trên 02 khía cạnh cơ cấu và loại tiền) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.
  • Phân tích cơ cấu vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng (TT2) (tiền gửi của các Tổ chức tín dụng khác, vay các Tổ chức tín dụng khác) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô.

Sử dụng vốn:

  • Phân tích tăng trưởng tín dụng của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô qua các kỳ giám sát. Nhận xét về việc chấp hành hạn mức tăng trưởng tín dụng theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước.
  • Phân tích cơ cấu tín dụng theo thời hạn trả nợ, loại tiền (VND, ngoại tệ) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô.
  • Phân tích tình hình cấp tín dụng đối với một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, BOT, BT…) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô (bao gồm: tỷ trọng so với tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế, nợ xấu…). So sánh giữa các kỳ giám sát để phát hiện các biến động bất thường.
  • Phân tích tình hình đầu tư giấy tờ có giá (chứng khoán Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô. So sánh giữa các kỳ giám sát để phát hiện các biến động bất thường.

Thanh khoản:

  • Đánh giá tình hình thanh khoản của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô thông qua các chỉ số thanh khoản như hệ số sử dụng vốn (tỷ lệ tín dụng/huy động), vốn khả dụng (tỷ lệ vốn khả dụng/tiền gửi không kỳ hạn TT1), cơ cấu nguồn vốn.
  • Nhận xét về việc đáp ứng các tỷ lệ về thanh khoản theo quy định (tỷ lệ dự trữ thanh khoản, tỷ lệ khả năng chi trả) của các Ngân hàng thương mại trong nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô trong kỳ giám sát.

Nợ xấu, chất lượng tài chính: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

  • Phân tích biến động về nợ xấu của đối tượng giám sát an toàn vĩ mô qua các kỳ giám sát để phát hiện các dấu hiệu bất thường, các Ngân hàng thương mại có nợ xấu tăng cao, tỷ lệ nợ xấu cao.
  • Phân tích tình hình cơ cấu nợ của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô.
  • Phân tích tình hình xử lý nợ xấu theo các hình thức (khách hàng trả nợ, bán, phát mại TSĐB, sử dụng DPRR, bán nợ, hình thức khác) của nhóm đối tượng giám sát an toàn vĩ mô.

(ii) Đánh giá hoạt động liên ngân hàng:

Phân tích biến động số dư tiền gửi, cho vay các Tổ chức tín dụng khác của nhóm đối tượng giám sát an toàn vi mô qua các kỳ giám sát để phát hiện các dấu hiệu bất thường.

Phân tích rủi ro liên ngân hàng thông qua việc xây dựng ma trận liên ngân hàng.

  • Đánh giá tình hình sở hữu, đầu tư: Nội dung này sẽ bao gồm việc đánh giá tình hình sở hữu, cổ đông, cổ phần và mức độ sở hữu chéo, tình hình thoái vốn của các Ngân hàng thương mại, cụ thể:
  • Tình hình vi phạm tỷ lệ sở hữu cổ phần
  • Mức độ sở hữu chéo tại các Tổ chức tín dụng:
  • Về sở hữu cổ phần lẫn nhau giữa Tổ chức tín dụng và Tổ chức tín dụng, giữa Tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
  • Một số trường hợp cổ đông và người liên quan có vốn góp tại nhiều Tổ chức tín dụng (nếu có).
  • Một số Ngân hàng thương mại có cổ đông và người liên quan sở hữu số lượng cổ phần tương đối lớn tại Tổ chức tín dụng.

Đánh giá Tình hình thoái vốn. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

  • Phân tích, đánh giá các diễn biến kinh tế vĩ mô, mối liên kết giữa lĩnh vực ngân hàng với lĩnh vực khác trong nền kinh tế có nguy cơ tác động tiêu cực đến an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng:

Phấn tích bối cảnh kinh tế, tài chính trong nước và quốc tế trong kỳ giám sát.

Phân tích thực trạng của các ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau có ảnh hưởng đến an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng như chứng khoán, bất động sản, kinh doanh vàng…

Phân tích thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp và khả năng hấp thụ vốn và trả nợ ngân hàng.

  • Kiểm tra sức chịu đựng trước các thay đổi chính sách và môi trường kinh tế vĩ mô đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài:

Phân tích bối cảnh kinh tế, tài chính trong nước và quốc tế, xác định các sự kiến/rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng bất lợi đến sự an toàn, ổn định của hệ thống các Tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước/nhóm tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước có tầm quan trọng hệ thống.

  • Xây dựng các kịch bản kiểm tra sức chịu đựng (kịch bản kinh tế vĩ mô, kịch bản diễn biến nợ xấu…).
  • Kiểm tra sức chịu đựng của hệ thống các Tổ chức tín dụng/nhóm Ngân hàng thương mại có tầm quan trọng hệ thống theo các kịch bản kiểm tra sức chịu đựng, trong đó lượng hóa được tác động của các kịch bản đến mức độ an toàn vốn của hệ thống các Tổ chức tín dụng/nhóm Ngân hàng thương mại có tầm quan trọng hệ thống.
  • Đề xuất, kiến nghị chính sách đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống các Tổ chức tín dụng/nhóm Ngân hàng thương mại có tầm quan trọng hệ thống.

Sơ đồ 2.1. Phương pháp Kiểm tra sức chịu đựng Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Mô hình kiểm tra sức chịu đựng tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng về cơ bản được xây dựng trên cơ sở mô hình của WB/IMF sử dụng trong Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) năm 2013. Theo đó, mô hình này cũng đánh giá khả năng chịu đựng của hệ thống/ nhóm ngân hàng trước rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro liên ngân hàng, rủi ro thanh khoản.

Bước 3: Đề xuất các hành động can thiệp, chỉnh sửa

Căn cứ vào kết quả giám sát ngân hàng, đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng đề xuất, thực hiện các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được quy định tại các văn bản quy định pháp luật, trong đó bao gồm:

a) Khuyến nghị, cảnh báo:

Căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối tượng giám sát ngân hàng, các tài liệu, thông tin, dữ liệu về tình hình hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng và phân tích, đánh giá, cán bộ giám sát xem xét trình Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng về hình thức khuyến nghị, cảnh báo các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro có nguy cơ gây mất an toàn trong hoạt động hoặc dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng của đối tượng giám sát ngân hàng.

Cán bộ giám sát thực hiện khuyến nghị, cảnh báo rủi ro tiềm ẩn đối với đối tượng giám sát ngân hàng dựa trên các căn cứ sau:

  • Khi kết quả đánh giá căn cứ vào các thông tin định tính phản ánh các rủi ro tiềm ẩn của đối tượng giám sát ngân hàng. Các đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng cần dựa vào các thông tin từ chính hoạt động giám sát kết hợp với các thông tin từ kết luận thanh tra, kết quả kiểm toán độc lập, kết quả kiểm toán nội bộ, thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước khác.
  • Khi có yêu cầu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2019-2023, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã ban hành 175 văn bản cảnh báo gửi đến các Ngân hàng thương mại, cụ thể:

Bảng 2.1. Số lượng văn bản cảnh báo Ngân hàng thương mại giai đoạn 2019-2023

Số lượng văn bản cảnh báo, khuyến nghị tăng dần qua các năm, trong đó riêng năm 2023 mặc dù số liệu tổng hợp đến 30/6 nhưng số lượng văn bản tăng đột biến. Nguyên nhân là do trước diễn biến dịch bệnh COVID-19 phức tạp, kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng đã bị ảnh hưởng đáng kể, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một loạt văn bản chỉ đạo, khuyến nghị, cảnh báo đối với toàn hệ thống Tổ chức tín dụng cũng như đối với từng Tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy, hoạt động cảnh báo mới chỉ dừng lại ở nhận định tăng giảm số liệu theo dữ liệu lịch sử mà chưa thực sự hướng tới việc phát triển công cụ cảnh báo sớm.

b) Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2019-2023, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính đối với những vi phạm được phát hiện qua công tác giám sát là 19 biên bản đối với 09 Ngân hàng thương mại, cụ thể:

Bảng 2.2. Số lượng Biên bản xử phạt vi phạm hành chính

Số lượng biên bản xử phạt vi phạm hành chính qua công tác giám sát còn hạn chế. Thực tế, việc xử phạt vi phạm hành chính các Ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chủ yếu được thực hiện qua công tác thanh tra tại chỗ.

  • Kiến nghị cấp có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý đối với đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật, trong đó bao gồm: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

(i) Hạn chế việc mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động; hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp; xử lý tài sản; hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng; yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước phải tăng vốn điều lệ, vốn được cấp để đáp ứng các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; áp dụng các biện pháp kiểm soát các giao dịch tiềm ẩn rủi ro, hạn chế tăng trưởng tín dụng; yêu cầu thực hiện một hoặc một số giới hạn thấp hơn, tuân thủ tỷ lệ đảm bảo an toàn chặt chẽ hơn theo quy định của pháp luật.

(ii) Tiến hành thanh tra, kiểm tra.

  • Áp dụng can thiệp sớm, xem xét, quyết định đặt đối tượng giám sát ngân hàng vào kiểm soát đặc biệt theo quy định.

Trường hợp cần thiết, để đánh giá đầy đủ thực trạng hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng, đơn vị giám sát ngân hàng cấp có thẩm quyền yêu cầu đối tượng giám sát ngân hàng thuê tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán một, một số hoặc tất cả các nội dung theo quy định pháp luật.

Đồng thời có thể đưa ra những khuyến nghị về chính sách gửi các đơn vị làm chính sách để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất, khả thi trong việc áp dụng pháp luật.

2.2.4. Phương pháp giám sát Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện giám sát Ngân hàng thương mại các phương pháp: giám sát tuân thủ, giám sát rủi ro. Tuy nhiên, phương thức giám sát tuân thủ vẫn được thực hiện chủ yếu, giám sát trên cơ sở rủi ro mới chỉ bước đầu được thực hiện nên việc đánh giá rủi ro còn sơ sài, chưa thực sự đánh giá được rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động ngân hàng.

2.2.4.1. Giám sát tuân thủ

Giám sát tuân thủ là phương pháp giám sát ngân hàng mà theo đó đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thực hiện giám sát hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng thông qua việc theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; các chỉ đạo, yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng.

Đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô tiến hành giám sát tuân thủ đối với từng đối tượng giám sát bao gồm theo dõi, đánh giá việc chấp hành:

  • các quy định về chế độ báo cáo thống kê;
  • các quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, các chỉ đạo, yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước ;
  • yêu cầu thực hiện của kết luận thanh tra, khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng nhằm duy trì sự an toàn và lành mạnh của từng đối tượng giám sát ngân hàng. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Ba câu hỏi tổng quát nội dung của giám sát tuân thủ, bao gồm:

  • TCTD báo cáo thông tin có đúng hạn và hợp lý?
  • TCTD có tuân thủ tất cả các quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, các chỉ đạo, yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước?
  • TCTD có tuân thủ các kiến nghị trong kết luận thanh tra, biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng mà cơ quan giám sát áp dụng đối với họ?

Giám sát tuân thủ đối với việc chấp hành các quy định về chế độ báo cáo thống kê

Đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô sử dụng thông tin do đối tượng giám sát báo cáo nhằm phục vụ mục đích giám sát, và điều cần thiết là thông tin báo cáo được thẩm định tính hợp lý, trung thực và được báo cáo đúng hạn và đầy đủ.

Định kỳ hàng Quý, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có trách nhiệm tổng hợp tình hình chấp hành chế độ báo cáo thống kê theo quy định tại Thông tư 35/2015/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung) của các Tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng trong Quý đối với các chỉ tiêu, mẫu biểu được thuộc trách nhiệm giám sát. Đối với các ngân hàng không gửi, gửi lỗi hoặc gửi sai số liệu, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có văn bản nhắc nhở, yêu cầu chấn chỉnh việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê đối với từng Tổ chức tín dụng.

Tính từ khi Thông tư 35/2015/TT-NHNN có hiệu lực đến nay, số lượng các Ngân hàng thương mại không gửi số liệu, gửi file số liệu bị lỗi, gửi sai số liệu đã giảm dần. Trong đó, năm 2019 là năm có số lượng các ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo thống kê nhiều nhất do Thông tư 35 mới bắt đầu có hiệu lực, các Tổ chức tín dụng còn đang trong giai đoạn phải xây dựng cơ sở dữ liệu phù hợp theo mẫu biểu báo cáo thống kê, đồng thời việc trang cấp hệ thống công nghệ đang từng bước hoàn thiện. Ở các năm tiếp theo, số lượng ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo thống kê giảm đáng kể khi chương trình báo cáo thống kê từng bước được hoàn thiện và dần hoạt động ổn định, đồng thời các Tổ chức tín dụng đã ý thức hơn trong việc tuân thủ các quy định báo cáo. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Bảng 2.3. Tổng hợp kết quả giám sát việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê

Trong số các Ngân hàng thương mại vi phạm chế độ thông tin báo cáo thống kê, chiếm số lượng lớn là các Ngân hàng thương mại cổ phần có quy lớn do các ngân hàng này có nhiều chi nhánh trên các địa bàn, việc tổng hợp dữ liệu từ nhiều đơn vị/bộ phận khác nhau dẫn đến phát sinh sai sót trong quá trình nhập liệu cũng như tổng hợp báo cáo thống kê. Ngoài ra, một số ngân hàng quy mô nhỏ có hệ thống công nghệ thông tin còn ở trình độ thấp dẫn đến vi phạm nhiều lần trong một năm hoặc vi phạm nhiều lỗi trong một kỳ báo cáo (không gửi, gửi muộn, gửi lỗi hoặc gửi sai số liệu).

Bảng 2.4. Số Ngân hàng thương mại vi phạm nhiều lần hoặc vi phạm đồng thời nhiều lỗi

Việc giám sát các Ngân hàng thương mại về thực hiện chế độ thông tin báo cáo chủ yếu được thực hiện thủ công, trong khi đó hệ thống chỉ tiêu báo, đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu báo cáo thống kê có số lượng lớn (có chỉ tiêu báo cáo hàng ngày) tạo áp lực cho cán bộ thực hiện giám sát dẫn tới sai sót dễ xảy ra, đồng thời việc rà soát thủ công mất rất nhiều thời gian, chi phí.

Trường hợp đối tượng giám sát không tuân thủ những yêu cầu về báo cáo, đơn vị thực hiện giám sát cần áp dụng ngay các hành động cần thiết (gửi văn bản yêu cầu giải trình, làm việc trực tiếp để quyết định biện pháp xử lý trong giám sát phù hợp) nhằm đảm bảo sự tuân thủ trong tương lai.

Giám sát tuân thủ về việc chấp hành các quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Một trong những chức năng chính của giám sát tuân thủ là nhằm đánh giá việc tuân thủ quy định pháp luật, bao gồm các quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng khác có liên quan. Khi phát hiện vấn đề, trách nhiệm của đơn vị thực hiện giám sát là yêu cầu hành động khắc phục, kể cả việc đưa ra các biện pháp cưỡng chế thực thi để yêu cầu Ngân hàng thương mại có hành động điều chỉnh đối với vấn đề quan ngại (xử phạt vi phạm hành chính, kiến nghị cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý giám sát ngân hàng khác quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nghị định 26/2014/NĐ-CP, Thông tư 08/2020/TT-NHNN…). Việc làm này giúp đảm bảo an toàn cho cả đối tượng giám sát, người gửi tiền, cơ quan bảo hiểm tiền gửi. Hành động đưa ra phải thay đổi được các vấn đề bị lưu ý và đơn vị thực hiện giám sát phải kiểm tra sự tuân thủ việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thực thi thông qua việc yêu cầu gửi báo cáo định kỳ, hoặc tiếp xúc làm việc trực tiếp (nếu cần thiết). Ngoài ra, đơn vị thực hiện giám sát cũng cần trao đổi với đơn vị thanh tra tại chỗ và các đơn vị khác khi cần thiết để được cung cấp thêm thông tin về tình hình tuân thủ của đối tượng giám sát ngân hàng cũng như đề xuất những yêu cầu hỗ trợ khác từ các đơn vị này.

Về tình hình chấp hành quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại tại thời điểm 30/6/2023:

Bảng 2.5. Tình hình chấp hành quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn

Về tình hình chấp hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; hạch toán lãi dự thu:

Hiện nay việc theo dõi tính tuân thủ về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro chủ yếu trên cơ sở báo cáo của ngân hàng. Với công cụ giám sát hiện tại là báo cáo thống kê, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chưa đủ cơ sở để đánh giá việc chấp hành quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Những phát hiện vi phạm về vấn đề này chủ yếu qua công tác thanh tra, kiểm tra tại chỗ, khi có đầy đủ thông tin về hồ sơ cấp tín dụng, tình hình trả nợ cũng như việc giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. Sau khi thanh tra, kiểm tra đã phát hiện sai phạm và có kiến nghị chuyển nhóm nợ, bộ phận giám sát vi mô sẽ thực hiện theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của từng Ngân hàng thương mại. Thực tế qua thanh tra, kiểm tra hoạt động cấp tín dụng cho thấy, hầu hết các Ngân hàng thương mại đều có vi phạm về phân loại nợ, kéo theo đó là vi phạm về trích lập dự phòng rủi ro, chỉ khác nhau về mức độ, số lượng khách hàng. Việc phân loại nợ, trích lập dự phòng không đầy đủ sẽ kéo theo thông tin số liệu về trên bảng cân đối kế toán, thông tin về tình hình chấp hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn có thể thay đổi đáng kể. Chính vì thế, cán bộ giám sát vi mô ngoài việc giám sát tuân thủ theo số liệu Ngân hàng thương mại báo cáo, còn phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật để đánh giá lại con số về lợi nhuận thực tế, tài sản có rủi ro, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Số lượng Ngân hàng thương mại được Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cảnh báo sai phạm về tuân thủ quy định tăng dần qua các năm từ năm 2019 đến nay. Nguyên nhân khi hoạt động ngân hàng có những diễn biến phức tạp, quy định của Ngân hàng Nhà nước về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngày càng chặt chẽ, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã phát hiện nhiều vấn đề.

2.2.4.2. Giám sát rủi ro

Giám sát rủi ro tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hiện nay tập trung vào việc phân tích tình hình hoạt động của Ngân hàng thương mại để từ đó đưa ra những đánh giá, nhận định và cảnh báo rủi ro. giám sát trên cơ sở rủi ro tập trung vào việc đo lường, đánh giá các rủi ro của các Tổ chức tín dụng; xác định những hoạt động quản lý rủi ro yếu kém tại các Tổ chức tín dụng, qua đó là cơ sở để lên kế hoạch thanh tra, nội dung thanh tra trong bối cảnh hạn chế về nguồn lực thanh tra, giám sát. Cả hai phương pháp giám sát tuận thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro đều được áp dụng trong giám sát an toàn vi mô. Đối với giám sát an toàn vĩ mô, phương pháp giám sát trên cơ sở rủi ro được xem là phù hợp hơn do việc đánh giá tuân thủ toàn hệ thống không mang nhiều ý nghĩa.

Một số chỉ tiêu giám sát rủi ro được sử dụng hiện nay được chi tiết tại Phụ lục số 1. Trong đó, cán bộ giám sát sẽ tập trung đi sâu đánh giá một số chỉ tiêu tài chính của từng Ngân hàng thương mại, để từ đó có cảnh báo rủi ro đối với từng Ngân hàng thương mại, cụ thể: Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

  • Về hoạt động cấp tín dụng, cán bộ giám sát thấy có dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro như:

Cấp tín dụng lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, đầu tư kinh doanh BĐS, lĩnh vực chứng khoán, tiêu dùng có số dư lớn, chiếm tỷ trọng cao so với tổng dư nợ cấp tín dụng và tăng mạnh so với cuối năm trước, tốc độ tăng lớn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn hàng của ngân hàng đó, so với tốc độ tăng của các ngân hàng khác trong hệ thống…

Rủi ro tập trung tín dụng cao: dư nợ cấp tín dụng tập trung vào một số khách hàng lớn (từ 5% vốn tự có của Ngân hàng thương mại trở lên), chiếm tỷ trọng cao so với tổng số dư nợ cấp tín dụng của ngân hàng, thậm chí sát ngưỡng giới hạn 15% vốn tự có đối với một khách hàng và 25% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan.

  • Một số khách hàng có dư nợ lớn (từ 1.000 tỷ đồng) trở lên nhưng không có tài sản đảm bảo.
  • Một số khoản cấp tín dụng có tỷ lệ lãi dự thu so dư nợ lớn trên 30%.
  • Giá trị cam kết bảo lãnh, L/C lớn và không có tài sản bảo đảm, ký quỹ.

Cấp tín dụng cho các dự án BOT, BT, trong đó tập trung cảnh báo đối với các dự án có tỷ lệ vốn chủ sở hữu góp vào dự án so với tổng mức đầu tư theo GCNĐT thấp dưới 20%.

Về chất lượng tài sản, cán bộ giám sát thấy dấu hiệu cảnh báo như:

  • Nợ nhóm 2, nợ xấu lớn, chiếm tỷ lệ cao so tổng nợ và tăng mạnh so với cuối năm trước; Nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ trọng lớn trên 50% so với nợ xấu và tăng mạnh.
  • Nợ xấu tập trung vào một số ngành hay đối tượng cụ thể và tăng mạnh vào các ngành, lĩnh vực, đối tượng này, trong đó đặc biệt lưu ý đối với nợ xấu lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, BOT, BT giao thông…
  • Đầu tư trái phiếu doanh nghiệp lớn, trong đó tập trung chủ yếu vào mục đích đầu tư, kinh doanh bất động sản.
  • Đánh giá tổng thể chất lượng tài sản bao gồm nợ xấu báo cáo, nợ bán VAMC chưa xử lý, nợ phải chuyển nợ xấu theo theo các kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhưng chưa chuyển, nợ được cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ…. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.
  • Tài sản có khác chiếm tỷ trọng trên 5% tổng tài sản của ngân hàng, trong đó có một số cấu phần lớn, tăng mạnh (như lãi, phí phải thu, các khoản bán nợ trả chậm, tài sản có khác…)

Về vốn, cán bộ giám sát thấy một số dấu hiệu cảnh báo như:

  • Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thường xuyên ở sát ngưỡng giới hạn theo quy đinh của Ngân hàng Nhà nước, trường hợp thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng bổ sung, thoái lãi dự thu theo kiến nghị của thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có thể ảnh hưởng đáng kể đến vốn cũng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng.
  • Giá trị thực của vốn điều lệ không đáp ứng vốn pháp định hoặc có nguy cơ suy giảm, không đáp ứng vốn pháp định.
  • Cơ cấu cổ đông của Tổ chức tín dụng cổ phần tập trung vào một nhóm cổ đông lớn, có nguy cơ chi phối hoạt động ngân hàng…

Về tình hình thanh khoản, cán bộ giám sát thấy một số dấu hiệu cảnh báo như:

  • Tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn, tỷ lệ cho vay so tổng tiền gửi
  • Tỷ lệ cấp tín dụng đối với các khách hàng lớn (từ 5% vốn tự có trở lên) so với tổng dư nợ cấp tín dụng lớn.
  • Dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng cao và tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của ngân hàng. Trong khi đó huy động vốn trung dài hạn giảm hoặc tăng không đáng kể…
  • Cho vay bằng ngoại tệ tăng mạnh so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung, và chiếm tỷ trọng trên 90% so với huy động vốn bằng ngoại tệ…

Về chỉ tiêu lợi nhuận, cán bộ giám sát giám sát thấy một số dấu hiệu cảnh báo như:

  • Lợi nhuận sụt giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước; lỗ trong hoạt động kinh doanh trong trường hợp đánh giá lại các chỉ tiêu về chất lượng như phân loại nợ, trích lập dự phòng bổ sung và thoái lãi dự thu…
  • Cơ cấu thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh chủ yếu từ các nguồn thu nhập từ hoạt động khác mà không tập trung vào các hoạt động chính như tín dụng, dịch vụ… Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Về quản trị điều hành, cán bộ giám sát thấy dấu hiệu cảnh báo như:

  • Kết luận thanh tra chỉ ra nhiều sai phạm mà kết quả kiểm toán nội bộ chưa phát hiện, chưa chỉ ra.
  • Ban điều hành, Ban Kiểm soát thiếu ví trí chủ chốt, chưa đảm bảo số lượng theo quy định.
  • Đại hội cổ đông không được tổ chức hàng năm, và nội bộ cổ đông thường xuyên có tranh chấp, kiện tụng…
  • Chi phí quản lý công vụ lớn, tăng mạnh, không tương xứng với mức tăng về quy mô cũng như thu nhập của ngân hàng…

Tại Việt Nam, trong những năm vừa qua, hệ thống các Tổ chức tín dụng tăng trưởng nhanh chóng cả về số lượng và quy mô; hoạt động của Tổ chức tín dụng phát triển phong phú, đa dạng, từng bước hội nhập và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp giám sát, chuyển từ giám sát tuân thủ thuần túy sang giám sát tuân thủ kết hợp với giám sát trên cơ sở rủi ro.

2.3. Đánh giá chung về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả đạt được

Hoạt động giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hệ thống các quy chế, cơ chế thanh tra, giám sát ngân hàng, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam và an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng.

Thứ nhất, mô hình tổ chức tương đối phù hợp, đảm bảo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện đầy đủ chu trình giám sát: Việc cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của một số Vụ, Cục của Ngân hàng Nhà nước hiện nay thành Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước đã và đang đảm bảo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu: Cấp phép; Ban hành quy chế; Thực hiện giám sát (giám sát và thanh tra tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép. Việc cơ cấu lại chức năng theo hướng trên nhằm hạn chế những bất cập trong việc tách bạch giữa các khâu này, tạo ra bức tranh toàn diện và sâu sắc hơn về từng Ngân hàng thương mại, đảm bảo sự nhất quán và nâng cao hiệu lực của hoạt động giám sát. Mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước tương đối phù hợp với thực trạng của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, đảm bảo tính kịp thời của thông tin qua hoạt động giám sát ngân hàng phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ hai, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã giám sát phần lớn các Ngân hàng thương mại: Định kỳ hàng tháng, quý, năm Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tiếp nhận và xử lý thông tin số liệu báo cáo định kỳ của các Ngân hàng thương mại, tiến hành giám sát phân tích đối với các ngân hàng. Kết quả giám sát được gửi tới bộ phận thanh tra tại chỗ để phối hợp trong việc thanh tra và xử lý sau thanh tra đối với các Ngân hàng thương mại có sai phạm. Điều này cho thấy bước đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện theo dõi và thu thập thông tin của các Ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam và ít nhiều cũng có những đánh giá về hoạt động của từng Ngân hàng thương mại theo nội dung giám sát toàn diện hơn. Thông qua hoạt động giám sát cũng đã cảnh báo được một số rủi ro và sai phạm trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.

Thứ ba, công tác giám sát đã có bước tiến nổi bật trong việc ứng dụng, phát triển và triển khai các công cụ/mô hình định lượng phục vụ giám sát an toàn vĩ mô/vĩ mô như mô hình Dự báo tài chính (FPM), mô hình Kiểm tra sức chịu đựng (Stress-test), Mô hình Đánh giá hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại (DEA), Bộ chỉ số Lành mạnh tài chính (FSI), Bộ chỉ số giám sát ngân hàng (BSIs), v.v. Bước đầu cho thấy việc nghiên cứu, xây dựng các công cụ/mô hình định lượng đã góp phần đổi mới phương pháp giám sát ngân hàng, chuyển từ giám sát tuân thủ sang kết hợp với giám sát rủi ro.

Thứ tư, phương pháp giám trên cơ sở rủi ro dựa trên hệ thống chỉ tiêu BSI đã được xây dựng nhằm thiết lập hệ thống thông tin báo cáo phục vụ giám sát và từng bước được áp dụng trong thực tiễn hoạt động giám sát ngân hàng.

Thứ năm, hoạt động giám sát đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố chất lượng cho hoạt động thanh tra tại chỗ. Từ các kết quả giám sát, các kế hoạch thanh tra tại chỗ định kỳ hoặc đột xuất được xây dựng nhằm thẩm tra và kiểm chứng thực tế tình hình hoạt động của từng ngân hàng cũng như phát hiện sai sót hay những nguy cơ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng,

2.3.1.2. Nguyên nhân Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ nhất, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã chủ động tham mưu cấp có thẩm quyền xây dựng các cơ chế, chính sách và soạn thảo để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước và thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng.

Từ năm 2019 đến nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, xử lý các ngân hàng yếu kém, từng bước áp dụng chuẩn mực quốc tế vào hoạt động ngân hàng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, cụ thể:

Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã chủ động tham mưu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 42/2020/QH14 ngày 21/6/2020 về thí điểm xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng, góp phần giải quyết khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của Tổ chức tín dụng, VAMC, đảm bảo quyền chủ nợ hợp pháp của Tổ chức tín dụng, VAMC cũng như thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Để triển khai Nghị quyết số 42/2020/QH14 có hiệu quả, tham mưu ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2020 và các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC13 nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý tạo tiền đề để VAMC đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ theo cơ chế thị trường, Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 17/9/2021 về tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các Tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các Tổ chức tín dụng: Trong năm 2020, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham mưu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng, trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các Tổ chức tín dụng (Luật số 17/2020/QH14). Sau khi Luật được thông qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết Luật (bao gồm 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 03 Thông tư), đồng thời tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung 13 Thông tư để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với quy định tại Luật.

Việc ban hành Luật số 17/2020/QH14 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động xử lý, phục hồi các Tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, phát hiện, ngăn ngừa có hiệu quả việc phát sinh mới các Tổ chức tín dụng yếu kém, đồng thời bổ sung các quy định nhằm xử lý triệt để hơn tình trạng sở hữu chéo, vốn ảo trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng.

Ban hành các chính sách nâng cao năng lực quản trị, năng lực điều hành, chú trọng quản trị rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng: NHNN cũng đã tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy định về tổ chức, hoạt động của các Tổ chức tín dụng, quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị, điều hành của Ngân hàng thương mại và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế, điển hình như quy định về: hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng thương mại; tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước; giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước; xếp hạng Tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và QTDND…

Tăng cường năng lực thể chế trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng: Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã: (i) Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo hướng tinh gọn, hiệu quả; (ii) Ban hành quy định về trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng, trong đó có quy định về áp dụng can thiệp sớm trong giám sát ngân hàng, bảo đảm theo dõi, đôn đốc, đánh giá kịp thời phương án khắc phục của đối tượng giám sát ngân hàng. Đồng thời, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2022/NĐ-CP ngày 14/11/2022 thay thế Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014.

Đặc biệt, trước tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, trong những tháng đầu năm 2023, bên cạnh giải pháp về lãi suất, ngành Ngân hàng đã kịp thời triển khai có hiệu quả các giải pháp tín dụng, thanh toán nhằm ứng phó và khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19 đối với nền kinh tế như: Kịp thời ban hành Thông tư số 01/2023/TT-NHNN ngày 13/3/20220 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19; Thông tư số 08/2023/TT-NHNN ngày 14/8/2023 cho phép các Tổ chức tín dụng lùi lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn; tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng hỗ trợ tốt hơn cho khách hàng vay vốn phục hồi sản xuất, kinh doanh. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến hoạt động ngân hàng của Ngân hàng thương mại, hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại về cơ bản được đánh giá là ngày càng tiến sát lại gần hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Hoạt động giám sát ngân hàng từng bước được đổi mới trên cơ sở xây dựng và ban hành các quy định an toàn phù hợp dần với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, hệ thống thông tin quản lý của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng dần được hoàn thiện (thông tin qua giám sát, thông tin qua báo cáo thống kê, thông tin từ Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền, Trung tâm thông tin tín dụng – CIC, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam …). Thông qua việc quy định và thực hiện các quy định về cung cấp, thu thập, phân tích, xử lý thông tin liên quan đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại, nguồn cung cấp thông tin cho Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng ngày càng trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn, các thông tin mà Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có được liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại ngày càng cập nhật, có chất lượng, giúp chủ động trong điều hành vĩ mô cũng như xử lý vi phạm cụ thể sát thực, kịp thời; phục vụ đắc lực việc giám sát rủi ro hoạt động Ngân hàng thương mại.

Thứ ba, chất lượng đội ngũ cán bộ giám sát được nâng cao: Cán bộ được tuyển dụng trình độ từ đại học trở lên, đồng thời có chính sách thu hút đội ngũ cán bộ được đào tạo tại nước ngoài, cán bộ có kinh nghiệm làm việc tại các Ngân hàng thương mại. Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ giám sát cũng được chú trọng, thực hiện phân loại cán bộ để có kế hoạch đào tạo phù hợp với vị trí công việc. Đồng thời, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã từng bước xây dựng chương trình ưu tiên đào tạo một số cán bộ có trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ thành các chuyên gia, đóng vai trò nòng cốt trong hoạt động giám sát ngân hàng.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Mặc dù hoạt động giám sát ngân hàng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn còn nhiều bất cập cần phải đổi mới và hoàn thiện để hoạt động giám sát ngân hàng thực sự có hiệu quả.

Thứ nhất, các Ngân hàng thương mại chưa được giám sát một cách chặt chẽ và toàn diện, hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa hoàn toàn tuân thủ theo các yêu cầu trong 25 nguyên tắc giám sát của Basel.

Hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng mới chủ yếu chỉ dừng lại ở việc theo dõi thông qua việc thu thập thông tin từ các báo cáo định kỳ của các Ngân hàng thương mại, việc xử lý và phân tích thông tin vẫn còn đơn giản, chưa thực sự đảm bảo theo đúng nghĩa của việc giám sát các Ngân hàng thương mại thường xuyên, liên tục và theo các nội dung giám sát toàn diện, đầy đủ. Phần lớn các yêu cầu liên quan đến việc giám sát khả năng quản trị rủi ro của Ngân hàng thương mại vẫn chưa được Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng xây dựng. Ví dụ như các tiêu chí để đánh giá rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương mại được thể hiện trong nội dung giám sát chất lượng tài sản bằng việc thống kê các khoản nợ xấu, hoặc trong việc giám sát giới hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại vì cần phải có thêm những đánh giá định tính khác như tiêu chuẩn cấp tín dụng, quy trình xem xét cấp tín dụng, …

Thứ hai, hoạt động giám sát chủ yếu là giám sát tuân thủ. Trong khi đó, giám sát tuân hoạt động giám sát tuân thủ tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thời gian qua cũng còn một số hạn chế. Cụ thể:

Giám sát tuân thủ dựa trên thông tin do đối tượng giám sát ngân hàng báo cáo và thông tin này phải được định kỳ thẩm định thông qua cuộc thanh tra tại chỗ hoặc thông qua các phương tiện khác nhằm bảo đảm tính chính xác của các dữ liệu được báo cáo;

Đây không phải là phương pháp hiện đại khi nó chỉ tập trung xem xét việc đối tượng giám sát ngân hàng hiện tại có tuân thủ hoặc trước đây đã tuân thủ một số quy định hay không; Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Giám sát tuân thủ căn cứ vào một thời điểm cụ thể và căn cứ vào ngày báo cáo thông tin cho đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô, và đối tượng giám sát ngân hàng có thể điều chỉnh các hoạt động để đảm bảo rằng họ tuân thủ các quy định vào ngày báo cáo nhưng có thể họ sẽ không tuân thủ vào những ngày khác;

Tất cả các trường hợp không tuân thủ có thể được xem xét như nhau, bất kể mức độ không tuân thủ;

Việc tuân thủ theo một quy chuẩn có thể thay đổi tương đối nhanh chóng, thậm chí sau một đêm. Ví dụ, một Tổ chức tín dụng có thể tuân thủ yêu cầu về thanh khoản trong một ngày, và ngày hôm sau có thể có khoản rút tiền giá trị lớn dẫn đến việc không tuân thủ. Tóm lại, các quy chuẩn không phải lúc nào cũng tiên lượng đúng các vấn đề trong quá khứ, hiện tại và tương lai của các đối tượng giám sát hoặc các loại rủi ro có khả năng xảy ra.

Thứ ba, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã thực hiện 3 bước cơ bản trong quy trình giám sát đối với các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quy trình giám sát vẫn chưa thực hiện đầy đủ, toàn diện ở từng bước, cụ thể:

Giai đoạn thu thập thông tin: thu thập thông tin chủ yếu vẫn từ nguồn dữ liệu do các ngân hàng cung cấp, thông tin bổ sung từ các nguồn khác, đặc biệt từ bộ phận thanh tra tại chỗ rất hạn chế do cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin còn lỏng lẻo, chưa được quy định rõ ràng. Thực trạng, qua công tác thu thập và xử lý thông tin: số liệu báo cáo của Tổ chức tín dụng có thể phải cập nhật thay đổi do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau: Tổ chức tín dụng báo cáo sai (do chưa hiểu bản chất nghiệp vụ, do lỗi tổng hợp báo cáo, do thông tin thu thập từ các đơn vị của Tổ chức tín dụng chưa đầy đủ); do sai sót trong quá trình tổng hợp dữ liệu thủ công từ nhiều nguồn thông tin dữ liệu (do chưa có công cụ hỗ trợ thu thập thông tin và xử lý dữ liệu). Dẫn tới số liệu của các chỉ tiêu thanh tra, giám sát có sự điều chỉnh, thậm chí điều chỉnh nhiều lần. Việc rà soát thông tin còn sơ sài, chưa đảm bảo được tính logic, phù hợp của thông tin do phương pháp rà soát chủ yếu là thủ công và dựa trên kinh nghiệm và quá trình giám sát lâu dài. Do đó, mỗi cán bộ giám sát khác nhau có mức độ/khả năng rà soát dữ liệu khác nhau, chưa có quy trình đầy đủ, rõ ràng để việc rà soát dữ liệu được thực hiện bài bản và thống nhất.

Giai đoạn phân tích, đánh giá: kết quả phân tích đánh giá chưa toàn diện và sâu sắc do chưa có các công cụ hỗ trợ trong việc phân tích dữ liệu đầu vào, thông tin chưa chi tiết. Chưa có có sự phối hợp hiệu quả giữa giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ tư, hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Hoạt động giám sát trong thời gian qua mới chủ yếu chỉ dừng lại ở việc theo dõi thông qua việc thu thập thông tin từ các báo cáo định kỳ của các Ngân hàng thương mại, việc xử lý và phân tích thông tin vẫn còn đơn giản, chưa thực sự đảm bảo theo đúng nghĩa của việc giám sát các Ngân hàng thương mại thường xuyên, liên tục và theo các nội dung giám sát toàn diện, đầy đủ. Phần lớn các yêu cầu liên quan đến việc giám sát khả năng quản trị rủi ro của Ngân hàng thương mại vẫn chưa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng. Trong đó, hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng vẫn chủ yếu thực hiện phương pháp giám sát tuân thủ, chưa thực sự thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro. Ví dụ như các tiêu chí để đánh giá rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương mại được thể hiện trong nội dung giám sát chất lượng tài sản bằng việc thống kê các khoản nợ xấu, hoặc trong việc giám sát giới hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại vì cần phải có thêm những đánh giá định tính khác như tiêu chuẩn cấp tín dụng, quy trình xem xét cấp tín dụng, …

Khả năng phát hiện, cảnh báo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro trong hoạt động ngân hàng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng còn cần phải hoàn thiện hơn. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chủ yếu chỉ có khả năng phát hiện các vi phạm pháp luật và tập trung xử lý các vi phạm phát hiện được, các rủi ro (biến cố) đó xảy ra trong thực tế như vi phạm các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại… chưa đánh giá được rủi ro tổng thể của Ngân hàng thương mại. Do đó, chưa đánh giá được tổng thể rủi ro của từng Tổ chức tín dụng (trong đó có Ngân hàng thương mại) và toàn hệ thống Tổ chức tín dụng. Ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro trong suốt quá trình hoạt động, ở tất cả các khâu, các lĩnh vực. Việc cảnh báo hiện nay mới chỉ tập trung đánh giá tăng giảm, đánh giá tỷ trọng trong chính bản thân nội tại của một ngân hàng mà chưa xây dựng được ngưỡng cảnh báo phù hợp dưới góc độ đánh giá tổng thể hệ thống ngân hàng, nhóm các ngân hàng đồng hạng. Chính vấn đề này là một thiếu sót rất lớn trong công tác giám sát ngân hàng nói chung và công tác cảnh báo sớm nói riêng. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Bên cạnh đó, trong việc xây dựng ngưỡng cảnh báo, các cán bộ giám sát, thanh tra cần cập nhật định kỳ, thường xuyên các ngưỡng giá trị tham khảo để có thể phù hợp với biến động không ngừng của môi trường kinh doanh ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên thực tế, nội dung này lại chưa thực sự được chú trọng.

Thứ năm, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng còn yếu và lỏng lẻo trong việc giám sát dựa trên cơ sở giám sát hợp nhất tất cả các lĩnh vực hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Mặc dù theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Ngân hàng Nhà nước thực hiện giám sát hợp nhất đối với Tổ chức tín dụng nhưng trên thực tế hoạt động giám sát đối với các Ngân hàng thương mại hiện nay vẫn chỉ thực hiện giám sát riêng lẻ. Giám sát thị trường tài chính ở Việt Nam hiện được thực hiện theo mô hình phân tán: các Ngân hàng thương mại do Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có trách nhiệm thanh tra, giám sát; lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán chịu sự kiểm tra, giám sát của Bộ Tài chính. Trong khi đó, không ít Ngân hàng thương mại có hoạt động trên thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm nhưng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng không thể tiếp cận và giám sát được các hoạt động này, mặc dù các hoạt động này có thể đem lại những rủi ro không nhỏ cho các Ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong lĩnh vực bảo hiểm, các công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước cũng chịu sự giám sát của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Điều này đồng nghĩa, mô hình tổ chức, cơ chế giám sát của Việt Nam là phân tán nhưng rất chồng chéo, làm giảm hiệu quả công tác giám sát, gây khó khăn cho các định chế tài chính.

2.3.2.2. Nguyên nhân Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ nhất, Cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị chưa chặt chẽ. Mặc dù Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập đã thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu: Cấp phép; Ban hành quy chế; Thực hiện giám sát (giám sát và thanh tra tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép, cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị tham gia vào thực thi nhiệm vụ, quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng chưa thực sự hữu hiệu. Xét trong nội bộ Ngân hàng Nhà nước, việc phân công nhiệm vụ giữa các Vụ, Cục của Ngân hàng Nhà nước như hiện nay gây ra trùng lắp, hạn chế hiệu lực của hoạt động thanh tra, giám sát. Thực tế là không một đơn vị nào ở Ngân hàng Nhà nước, ngay cả Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có được một cái nhìn toàn diện về hoạt động và tình trạng của một Ngân hàng thương mại và đôi khi xảy ra sự lệch pha hoặc có độ trễ trong thực hiện các biện pháp giám sát đối với các Ngân hàng thương mại. Hơn nữa, ngay trong nội bộ Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đơn vị thực hiện chức năng giám sát hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, cơ chế phối hợp thông tin giữa các đơn vị chuyên trách còn lỏng lẻo và chưa thực chất, chưa giải quyết được nhu cầu trao đổi thông tin 2 chiều giữa đơn vị giám sát và các đơn vị thực hiện chức năng thanh tra tại chỗ, xây dựng chính sách an toàn, cấp phép .v.v… Thông tin, số liệu qua giám sát chưa hỗ trợ cho thanh tra tại chỗ trong việc xác định trọng tâm, trọng điểm thanh tra tại chỗ theo hướng tập trung vào các khu vực nhiều rủi ro.., chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho đơn vị thanh tra tại chỗ, trong khi đó kết quả từ các cuộc thanh tra tại chỗ lại không chia sẻ cho công tác giám sát khiến cho hoạt động giám sát ngân hàng chưa thực sự hiệu quả.

Thứ hai, phương pháp giám sát còn chưa theo kịp đối với sự thay đổi và phát triển của hệ thống các Tổ chức tín dụng. Hiện nay, phương pháp giám sát chủ yếu là thanh tra và kiểm tra tính tuân thủ của các Tổ chức tín dụng đối với các quy định pháp lý về hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, phương pháp này hiện nay đã tỏ ra không còn hiệu quả cao khi hệ thống các Tổ chức tín dụng đã gia tăng nhanh chóng về số lượng, quy mô và loại hình. Điều này đòi hỏi phương pháp giám sát cần được mở rộng và tiếp cận dần với phương pháp giám sát dựa trên rủi ro. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ ba, nội dung giám sát chưa đầy đủ và thiếu toàn diện. Mặc dù nội dung giám sát đã được mở rộng theo hướng tiếp cận dần phương pháp giám sát trên cơ sở rủi ro. Tuy nhiên, với yêu cầu hoạt động giám sát ngân hàng ngày nay, hoạt động giám sát ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc giám sát và đánh giá rủi ro mà còn phải đánh giá được khả năng quản trị rủi ro của Ngân hàng thương mại. Trong khi đó, nội dung giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn chưa đề cập đến việc đánh giá về khả năng quản trị rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, nội dung giám sát chưa toàn diện do các nội dung giám sát chưa đánh giá tổng thể hoạt động của ngân hàng, chủ yếu giám sát riêng lẻ hoạt động ngân hàng mà chưa thực hiện giám sát hợp nhất.

Thứ tư, khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ công tác giám sát còn nhiều hạn chế như: (i) Thiếu thông tin, chưa có hệ thống xử lý thông tin tập trung; (ii) Quy trình tiếp nhận thông tin báo cáo tài chính của các Tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập, việc cả chi nhánh lẫn hội sở của các Tổ chức tín dụng đều phải thực hiện báo cáo không chỉ gây ra sự lãng phí về chi phí mà còn gây ra sự sai lệch dữ liệu; (iii) Thông tin đi qua nhiều khâu chuyển tiếp dẫn tới sai lệch dữ liệu, mất thời gian; (iv) Việc thu thập thông tin của Tổ chức tín dụng trong quá trình thanh tra tại chỗ chưa được quản lý bằng một hệ thống thông tin do đó việc tổng hợp dữ liệu, thông tin trở nên khó khăn, không quản lý được.

Nhiều Cơ quan, tổ chức không sẵn sàng đầu tư vào hệ thống CNTT. Có một thực tế là vai trò của CNTT đối với hiệu quả hoạt động của các tổ chức rất mờ nhạt, thậm chí nhiều nghiên cứu cho thấy việc đầu tư mạnh vào CNTT không mang lại hiệu quả trong hoạt động của một tổ chức, nói cách khác CNTT không giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn nhưng chi phí tăng cao thì được thấy rất rõ.

Thứ năm, các công cụ phục vụ cho giám sát dựa trên rủi ro còn thiếu và chưa được vận hành nhiều trong thực tiễn làm giảm đi tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; Các mô hình phân tích định lượng, dự báo và kiểm định đánh giá rủi ro hay cảnh báo sớm đối với từng ngân hàng hay toàn hệ thống giám sát ngân hàng mới được phát triển và còn cần phải liên tục được nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện.

Thứ sáu, hạ tầng hệ thống công nghệ thông tin của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng còn đơn giản. Chủ yếu hoạt động xử lý thông tin ở trên các máy trạm, sử dụng phần mềm FoxPro để phân tích dữ liệu, đồng thời đưa dữ liệu vào các công cụ văn phòng khác như Word, Excel để thực hiện xử lý dữ liệu. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Hạ tầng hiện tại chủ yếu là các máy trạm đầu cuối, các thiết bị phụ trợ như máy in, máy fax, máy scan. Đầu năm 2009, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được trang bị 2 máy chủ mới, cùng phần mềm cơ sở dữ liệu Oracle, tuy nhiên khả năng đáp ứng yêu cầu cho Dự án mới của 02 máy chủ này là thấp, trong thời gian tới có thể nâng cấp để phục vụ cho hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cài đặt phần mềm quản lý tài chính.

Hạ tầng kết nối của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng dựa hoàn toàn vào hạ tầng của NHNN, bao gồm:

  • Kết nối vào hệ thống báo cáo của Cục Công nghệ tin học.
  • Kết nối vào internet.

Với hiện trạng trang bị về hạ tầng công nghệ thông tin hiện tại, hoạt động giám sát ngân hàng chưa đạt hiệu quả cao do:

  • Thiếu thông tin, chưa có hệ thống xử lý thông tin tập trung.
  • Quy trình tiếp nhận thông tin báo cáo tài chính của các Tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập, việc cả chi nhánh lẫn hội sở của các Tổ chức tín dụng đều phải thực hiện báo cáo không chỉ gây ra sự lãng phí về chi phí mà còn gây ra sự sai lệch dữ liệu. Dẫn tới hiệu quả của hoạt động giám sát ngân hàng, đặc biệt là giám sát còn nhiều hạn chế.
  • Thông tin đi qua nhiều khâu chuyển tiếp dẫn tới sai lệch dữ liệu, mất thời gian.
  • Chưa có kết nối thông tin giữa Cơ quan TTGSNH và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố.
  • Thiếu một hệ thống hỗ trợ báo cáo, cảnh báo sớm để hỗ trợ cho công tác giám sát.
  • Chưa tin học hóa quy trình giám sát.
  • Chưa có kết nối thông tin với hoạt động thanh tra, hoạt động cấp phép, hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám sát và hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ bảy, nguồn nhân lực thì vừa thiếu vừa yếu, thiếu về số lượng và yếu về trình độ nghiệp vụ thanh tra, giám sát dựa trên việc áp dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các Tổ chức tín dụng vào trong thực tiễn thanh tra, giám sát các Tổ chức tín dụng. Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có 389 cán bộ giám sát, trình độ đào tạo từ Đại học trở lên. Tuy nhiên, với số lượng hàng trăm Tổ chức tín dụng (7 Ngân hàng thương mại Nhà nước và cổ phần Nhà nước, 28 Ngân hàng thương mại cổ phần, 16 công ty tài chính, 10 Công ty cho thuê tài chính, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 46 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 01 Ngân hàng hợp tác xã và hàng nghìn quỹ tín dụng nhân dân) với nhiều chi nhánh trên khắp cả nước thì mỗi cán bộ giám sát ngân hàng phải thực hiện giám sát nhiều Tổ chức tín dụng. Do đó, với nhân sự còn mỏng so với hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay tạo áp lực cho cán bộ giám sát ngân hàng dẫn tới giảm hiệu quả công tác giám sát. Công tác đào tạo cán bộ, cập nhật thông tin, nghiệp vụ mới, các kỹ năng và chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng cho cán bộ giám sát đã được chú trọng hơn trước. Tuy nhiên, chương trình đào tạo vẫn tương đối chung chung, chưa chuyên sâu khiến cho việc nắm bắt và ứng dụng vào thực tiễn công tác giám sát ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự có hiệu quả. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

Thứ tám, khung pháp lý về hoạt động giám sát ngân hàng chưa được hoàn thiện và chưa đồng bộ. Thông tư 08/2020/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng đã cơ bản phần nào giải quyết những vướng mắc về quy trình, thủ tục giám sát giai đoạn trước gặp phải. Tuy nhiên, thực tiễn công tác giám sát các Tổ chức tín dụng nói chung và đơn vị trực thuộc Tổ chức tín dụng nói riêng tại Cơ quan TTGSNH và Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố cho thấy để theo dõi, giám sát thường xuyên thực trạng hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng, đặc biệt là tình hình tài chính, các yếu tố dẫn đến rủi ro gây mất an toàn hệ thống; xử lý kịp thời những vấn đề nghiêm trọng xảy ra, tránh lây lan dây chuyền, gây rối loạn cho nền kinh tế, cần phải có sự cập nhật một số nội dung về Quy trình giám sát ngân hàng cũng như cần có sự hỗ trợ tốt hơn từ việc áp dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng. Xuất phát từ sự thay đổi mô hình cơ cấu, tổ chức của Cơ quan TTGSNH, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hà Nội và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh và những đòi hỏi từ thực tiễn đối với hoạt động giám sát ngân hàng, nhu cầu hoàn thiện hơn nữa quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng là cần thiết và phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Tóm tắt Chương 2

Phân tích thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, tác giả đã thấy được những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác giám sát giai đoạn 2019-2023. Những hạn chế, tồn tại này sẽ được tác giả đề xuất giải pháp giải quyết và khắc phục ở Chương 3 sau đây. Luận văn: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp hoạt động giám sát ngân hàng thương mại

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993