Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Các đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam dưới triều Hậu Lê (1428-1788)
Tháng 6 năm 1407, sau khi đánh bại cuộc kháng chiến của triều Hồ, nhà Minh thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt và đặt Đại Việt thành quận Giao Chỉ thuộc nhà Minh. Quận Giao Chỉ được chia thành các cấp hành chính Phủ, Châu, Huyện, Xã. Hệ thống chính quyền ở Quận Giao Chỉ được tổ chức theo mô hình chính quyền điạ phương của nhà Minh. Các chức vụ chủ chốt trong chính quyền đô hộ do triều Minh cử quan lại sang đảm nhiệm, bên cạnh đó có đội ngũ thổ quan khá đông.
Nhà Minh đã cho tiến hành một chính sách đô hộ rất tàn bạo đối với Đại Việt nhằm đè bẹp tinh thần, ý chí đấu tranh của nhân dân Đại Việt, chúng ra lệnh tước đoạt mọi thứ vũ khí trong tay nhân dân ta, ai chế tạo, cất giấu chiến thuyền, vũ khí dù là loại thô sơ nhất đều bị khép vào tội phản nghịch “ Quân giặc đi đến đâu chém giết thả cửa hoặc chất thây người làm núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc dùng nhục hình bào lạc để mua vui, thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người có thai, cắt tay của mẹ và con để dâng cho giặc”(Theo Trương Hữu Quýnh trong Đại Cương lịch sử Việt Nam,T1). Ngoài việc thi hành các chính sách khủng bố trên, về phương diện kinh tế, nhà Minh còn tiến hành đẩy mạnh việc vơ vét của cải và bóc lột nhân dân ta một cách tham tàn, chúng bắt hàng loạt dân ta đem về nước phục dịch. Dưới ách đô hộ khủng bố và tham lam của nhà Minh nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt đã bùng nổ. Trong đó, lớn mạnh nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Sau hơn 10 năm trường kỳ gian khổ (1418 – 1428), cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc, mở ra một giai đoạn phát triển rực rỡ của Đại Việt và lịch sử pháp luật nước ta.
Ngày 15/4/1428, Lê lợi chính thức lên ngôi ở thành Đông Kinh (Thăng Long), định niên hiệu là Thuận Thiên, lấy lại tên nước Đại Việt, lập nên nhà Lê (1428-1789), để phân biệt với triều Tiền Lê (980 – 1009), sử sách thường gọi triều đại do Lê Lợi lập nên là Hậu Lê. Nhà Hậu Lê trải qua hai giai đoạn: Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
1) Giai đoạn từ 1428 – 1527, được gọi là Lê Sơ với 10 đời vua: 1. Lê Thái Tổ (1428 – 1433); 2. Lê Thái Tông (1434 – 1442); 3. Lê Nhân Tông (1443-1459); 4. Lê Thánh Tông (1460-1497); 5. Lê Hiến Tông (1497 – 1504); 6. Lê Túc Tông (1504);
Lê Uy Mục (1505 – 1509); 8. Lê Tương Dực(1509 -1516); 9. Lê Chiêu Tông (1516 – 1522); 10. Lê Cung Hoàng (1522 – 1527).
Giai đoạn từ sau 1527 đến 1789 được gọi là Lê Mạt hay Lê Trung Hưng với đời vua nối tiếp nhau, trong đó tồn tại song song với triều Mạc từ 1533 – 1592, sau đó cùng các chúa Trịnh Đàng Ngoài (1545 – 1787) và chống các chúa Nguyễn Đàng Trong (1600 – 1777).
Trong thời gian dài 360 năm (1428-1789), nhà nước phong kiến Đại Việt dưới triều Hậu Lê không ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Có thể nói đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của pháp luật phong kiến Việt Nam, pháp luật thế kỷ XV – XVIII không những đồ sộ về khối lượng mà còn phong phú về hình thức văn bản và đa dạng về lĩnh vực điều chỉnh. Những thành tựu lập pháp trong thời kỳ này, nhất là ở thời kỳ Lê Sơ, mà đỉnh cao là thời kỳ Lê Thánh Tông đã trở thành mẫu mực mà các triều đại trước đó chưa hề đạt tới, triều đại sau cũng không thể vượt qua và phải lấy nó làm khuôn mẫu để noi theo.
Cùng với sự phát triển của pháp luật nói chung thời kỳ này, pháp luật hình sự cũng phát triển vượt bậc và là trung tâm của pháp luật phong kiến Đại Việt với sự ra đời của bộ hình luật nổi tiếng “Quốc triều hình luật” hay còn được gọi là “Luật Hồng Đức”, cùng các Bộ luật khác như Hồng Đức Thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ và các văn bản quy phạm pháp luật hình sự khác đã điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự phong kiến Đại Việt trong giai đoạn này rất hiệu quả.
Nghiên cứu pháp luật hình sự thời kỳ này chúng ta có thể nhận thấy nó có những đặc điểm sau:
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.1. Về hệ thống các văn bản pháp luật hình sự
Thời kỳ này ngoài các chiếu, sắc, dụ, lệnh…, thời kỳ này nhà Lê đã xây dựng những Bộ luật nổi bật như: Quốc triều hình luật, Hồng Đức Thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ. Đây là những bộ luật nổi bật nhất và được coi là tiêu biểu nhất không chỉ trong pháp luật thời Hậu Lê mà còn của cả nền pháp luật phong kiến Việt Nam, đặc biệt là bộ Quốc triều Hình luật đến nay vẫn được các nhà nghiên cứu lập pháp tìm hiểu, đánh giá và vận dụng những giá trị pháp lý truyền thống của Việt Nam mà bộ luật ghi nhận.Do vậy, khi nghiên cứu pháp luật hình sự giai đoạn này, chúng ta nên tìm hiểu một số vấn đề về Bộ Quốc triều hình luật 1483, như: Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
1) Sự ra đời của bộ luật.
Quốc triều hình luật là bộ luật xưa nhất của Việt Nam còn lưu giữ được đầy đủ cho tới ngày nay. Văn bản của bộ luật này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn được đầy đủ và hiện được lưu trữ tại Viện Hán – Nôm (Hà nội). Tại đây có hai bản in ván khắc đều có tên là Quốc Triều Hình Luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy mang tên Lê Triều hình luật nhưng nội dung của nó chính là bản sao của Quốc Triều Hình Luật và được chép vào đời sau. Nội dung của bộ luật này được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình Luật Chí của Lịch triều Hiến chương loại chí.
Về các yếu tố liên quan đến lịch sử ra đời của bộ luật như tác giả, niên đại và ngay cả tên chính thống của bộ luật thì không những các văn bản còn lại của bộ luật mà cả những sử sách cổ cũng không cho biết chính xác và đây cũng là vấn đề mà hiện nay các học giả vẫn rất quan tâm và còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, qua các nghiên cứu gần đây cho thấy bộ Quốc triều hình luật có thể được ban hành ngay từ thời Lê Thái Tổ và đã được sửa đổi, bổ sung qua nhiều triều vua Lê sơ trong đó hoàn thiện nhất vào thời vua Lê Thánh Tông dưới niên hiệu Hồng Đức năm 1483 nên bộ luật có lúc được gọi là Bộ luật Hồng Đức 1483. Bộ luật được các triều vua thời Lê Mạt tiếp tục bổ sung và cho in khắc lại.
Từ đầu thế kỷ XX, Quốc triều hình luật đã được khảo dịch sang Pháp ngữ. Mãi đến năm 1956 mới được dịch sang chữ quốc ngữ lần đầu tiên (bản dịch của trường Luật khoa Sài gòn do Lương Thần Cao Nãi Quang phiên âm và dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa, nhà in Nguyễn Văn Của). Gần đây, Viện sử học đã tổ chức dịch lại bộ luật này ra tiếng Việt và dịch một cách chuẩn xác hơn.
2) Bố cục của bộ luật
Về bố cục của bộ luật, theo bản chữ Hán ký hiệu A.341 của Viện nghiên cứu Hán Nôm và bản dịch của Viện sử học, Quốc triều hình luật có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển, gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật (QTHL) có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, về kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt).
- Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v) Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
- Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
- Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng sĩ, các tội quân sự.
- Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân – gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
- Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
- Chương Thông gian : 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
- Chương Đạo tặc : 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
- Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v…
- Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
- Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh thuộc các chương khác
- Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
- Chương Đoản ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.
Hai chương cuối này có một số quy định về tố tụng, nhưng chưa hoàn chỉnh. Nghiên cứu Bộ QTHL chúng ta có thể rút ra những nhận định về bản chất pháp lý hình sự chung của Bộ luật (Theo PGS.TSKH Lê Văn Cảm, trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam ) :
Là một bộ luật hình sự : mặc dù QTHL là một bộ luật tổng hợp (chứa đựng các quy phạm luật hình sự, dân sự, hôn nhân-gia đình, luật hành chính, tố tụng..) nhưng về cơ bản QTHL là một bộ luật hình sự, vì các chế tài pháp lý được quy đinh tại hầu hết các điều khoản của Bộ luật này là chế tài pháp lý hình sự và ngay từ tên gọi của Bộ luật cũng đã phần nào nói lên bản chất pháp lý này của nó “ Quốc triều hình luật”, “ Bộ hình luật triều Lê”. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng của quan điểm pháp trị Trung Hoa phong kiến, mà cụ thể ở đây là chịu ảnh hưởng luật pháp nhà Đường, nhà Minh. Rất nhiều quy định trong QTHL là sự tiếp thu pháp luật Trung Hoa như quan điểm về sự trừng trị khắc nghiệt, về thập ác, ngũ hình… Tuy nhiên, QTHL lại có những điểm khác biệt mang tính mới tiến bộ hơn so với pháp luật Nhà Đường, Nhà Minh như về quyền lợi của người phụ nữ được pháp luật quy định rất cụ thể và có những điểm rất nhân đạo và tiến bộ mà cho đến nay vẫn được các nhà lập pháp hiện đại vận dụng, chẳng hạn việc không áp dụng hình phạt đánh trượng với phụ nữ, phụ nữ được coi là một trong những người được áp dụng chế định miễn giảm trách nhiệm hình sự ngoài người già, trẻ em và người tàn tật.
Ghi nhận những quy định tiến bộ và thể hiện những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những quy định mang tính khắc nghiệt nhằm bảo vệ vương quyền thì QTHL cũng đã ghi nhận những quy định mà đối với thời đại lúc đó là tương đối tiến bộ và ở chừng mực nào đó đã thể hiện được những giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc Việt nam như tính nhân đạo, tính công minh mà cho đến nay vẫn được các nhà làm luật đương đại chú ý và vận dụng.
Về nội dung, đặc điểm cụ thể của Bộ luật sẽ được tác giả trình bày trong phần các đặc điểm của pháp luật hình sự trong giai đoạn này, bởi hầu hết các đặc điểm pháp luật hình sự dưới triều đại Hậu Lê đều được thể hiện trong Bộ QTHL.
Nghiên cứu các văn bản pháp luật ban hành dưới triều Hậu Lê chúng ta có thể nhận thấy những vấn đề cơ bản của pháp luật hình sự trong giai đoạn này
2.1.2. Những vấn đề cơ bản của pháp luật hình sự dưới triều Hậu Lê
2.1.2.1. Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự
Bộ luật Quốc triều hình luật quy định tương đối đầy đủ các vấn đề về hiệu lực của đạo luật hình sự như các vấn đề về ân xá, về giảm nhẹ hình phạt đối với người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật; không thừa nhận hiệu lực bắt buộc của một số án lệ đối với các vụ án tương tự được xét xử sau đó.
2.1.2.2. Những nguyên tắc hình sự chủ đạo Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Các Bộ luật thời phong kiến đều không có chế định riêng ghi nhận về các nguyên tắc pháp lý nói chung và hình sự nói riêng, nhưng nghiên cứu các quy định trong các Bộ luật thời kỳ này thể hiện một số nguyên tắc hình sự chủ yếu sau:
1) Nguyên tắc vô luật bất hình
Nguyên tắc này được ghi nhận tại các Điều 642, 683, 685, 708, 722 của Bộ Quốc triều hình luật như : trong bản án khi luận tội quan xử án phải dẫn đúng điều luật nói về tội phạm đó, không đợc thêm bớt (điều 683); hình quan khi định tội danh phải chiểu chính điều trong luật, không được tự ý thêm bớt hoặc viện dẫn điều khác (Điều 722); Hoặc trong Quốc triều khám tụng điều lệ cũng quy định trong bản án phải dẫn đầy đủ điều luật áp dụng, các quan không được khép tội can phạm theo ý riêng… Thông qua các quy định này thể hiện nội dung của nguyên tắc này như sau : chỉ bị khép vào loại tội khi trong Bộ luật có quy định tội danh đó, không được thêm bớt vào các tội danh khác ; chỉ bị áp dụng mức hình phạt mà bộ luật đã quy định cho hành vi phạm tội đó. Có thể nói đây là manh nha của một nguyên tắc hình sự hiện đại “Nullum crimen, nulla poena sine lege” (không có tội phạm, không có hình phạt nếu điều đó không được luật quy định).
2) Nguyên tắc chiếu cố
Nguyên tắc này được ghi nhận tại các điều – 1, 3, 4, 5, 8, 10, 16, 17, 680 QTHL.
Theo đó, nguyên tắc này có nội dung :
Thứ nhất là chiếu cố theo địa vị xã hội : Bộ QTHL quy định về chế định bát nghị (tám hạng người được nghị xét giảm tội), Điều 3 của Bộ luật liệt kê tám hạng người này, gồm:
- Nghị thân, là họ tôn thất từ hàng đản miếu (họ hàng nhà vua trong 5 thế hệ) trở lên, họ hoàng thái hậu từ hàng phải để tang ty ma, họ hoàng thái hậu từ tiểu công ; Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Nghị cố ;
- Nghị hiền, là những người có đức hạnh ;
- Nghị năng, là những người có tài năng lớn ;
- Nghị công, là những người có công huân lớn ;
- Nghị quý, là những quan viên có chức sự từ tam phẩm trở lên, những quan viên tản chức có tước từ nhị phẩm trở lên ;
- Nghị cần, là những người cần cù chăm chỉ ;
- Nghị tân, là con cháu các triều vua trước được triều đại đang cầm quyền đãi làm khách.
Tại Điều 4 của Bộ luật ghi nhận đặc quyền cụ thể khi quyết định hình phạt đối với các trường hợp này, trừ trường hợp phạm tội thập ác.
- Thứ hai, chiếu cố theo tuổi tác và đối với người tàn tật, phụ nữ . Cụ thể:
Chiếu cố theo tuổi tác, Điều 16 Bộ QTHL quy định những người từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống dù bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ đó; từ 80 tuổi trửo lên, 10 tuổi trở xuống hoặc bị ác tật nếu phạm tội ác nghịch, giết người đáng tội chết thì cũng phải tâu để vua quyết định, nếu ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc bằng tiền, còn ngoài ra thì không bắt tội; từ 70 tuổi trở lên, từ 15 tuổi trở xuống hoặc người bị tàn phế, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền trừ khi phạm tội thập ác.
Ngoài ra Điều 17 quy định, người già cả hoặc tàn tật trước đây phạm tội đến khi già cả tàn tật mới bị phát giác, hoặc khi còn bé phạm tội đến khi lớn mới bị phát giác thì đều được xử theo luật già cả, tàn tật, trẻ nhỏ.
Chiếu cố đối với phụ nữ, trong lượng hình hoặc thi hành hình phạt đối nữ phạm nhân có một số ưu đãi. Theo quy định tại Điều 1- QTHL, hình phạt trượng không áp dụng đối với nữ phạm nhân, thay vào đó là áp dụng hình phạt roi; hoặc nữ phạm nhân phải chịu tội tử, tội xuy mà đang có thai thì phải đủ 100 ngày sau khi sinh con mới bị đem ra hành hình hoặc đánh roi (Điều 680).
3) Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Nguyên tắc này được quy định tại các Điều 6, 16, 21, 22, 24 – QTHL được thể hiện ở việc một số loại người được chuộc tội, một số loại tội được chuộc bằng tiền, hoặc ở hình thức vô ý phạm tội. Mức độ tiền chuộc của các tội được quy định như sau:
- Tội trượng, mỗi trượng, quan tam phẩm thì phải chuộc 5 tiền, tứ phẩm 4 tiền, ngũ và lục phẩm 3 tiền, thất và bát phẩm 2 tiền, cửu phẩm và thứ dân 1 tiền.
- Tội biếm, mỗi hạng, quan nhất phẩm phải chuộc 100 quan, nhị phẩm 75 quan, tam phẩm 50 quan, tứ phẩm 39 quan, ngũ phẩm 25 quan, lục và thất phẩm 20 quan, bát và cửu phẩm 15 quan, dân đinh và nô tỳ 10 quan.
- Tội đồ, khao đinh, tang thất phụ mà trước đó đã đồ làm nô tỳ thì tiền chuộc là 30 quan, tượng phường binh 60 quan, chủng điền binh 100 quan.
- Tội lưu, bị đày đi châu gần chuộc 130 quan, châu ngoài 200 quan, châu xa 230 quan.
- Tội tử 330 quan.
- Tội bị thích chữ vào mặt hoặc cổ, mỗi chữ, tam phẩm chuộc 2 quan, tứ phẩm 1 quan 5 tiền, ngũ phẩm 1 quan, lục phẩm 7 tiền, thất phẩm 6 tiền, bát cửu phẩm và thứ dân 5 tiền.
Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền không áp dụng khi phạm tội thập ác, ngoài ra theo quy định của Bộ luật thì đánh roi cũng không được chuộc.
4) Nguyên tắc về trách nhiệm hình sự Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Nguyên tắc này được quy định tại các điều 16, 35, 38, 411, 412, trong đó đề cập đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự và về việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác, trách nhiệm hình sự tập thể, liên đới. Cụ thể:
a)Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự : theo quy định tại Điều 16, người từ đủ 8 tuổi đến dưới 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình tuy có sự phân biệt về mức độ và phạm vi khác nhau.
Trách nhiệm hình sự liên đới, tập thể, thay thế : được quy định trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, huyết thống, đồng cư, đây là một điểm đặc trưng của pháp luật phong kiến Phương Đông. Theo đó, khi phạm vào một số loại tội, người thân thích trong gia đình phải chịu tội thay cho kẻ phạm tội như : nếu tất cả người trong nhà phạm tội thì chỉ bắt người tôn trưởng ( Điều 35 -QTHL), con cháu phải thay thế ông bà, cha mẹ chịu tội đánh roi, đánh trượng và được giảm một bậc( Điều 38 – QTHL); hoặc tại điều 411, 412 -QTHL quy định, những kẻ phạm tội mưu phản, mưu đại nghịch thì không những kẻ phạm tội bị chém đầu mà cả vợ con và điền sản đều bị tịch thu sung công, hay Điều 307 Hồng Đức thiện chính thư quy định: “ Ngầm giáp mưu gian, ăn cướp châu báu, định khép vào tội chết, cha mẹ, vợ con, điền sản tịch thu sung công, chiếu luật mà thi hành”.
5, Nguyên tắc về miễn, giảm trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại một số điều của QTHL và Hồng đức thiện chính thư thì các trường hợp sau đây sẽ được tha miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a)Trường hợp tự vệ chính đáng : Điều 303 – Hồng đức thiện chính thư quy định: “Kẻ ban đêm xông vào nhà người, không phải định ăn trộm, là định thông gian, quyết khép vào tội đồ. Nếu chủ nhà đánh chết, không phải tội”; hoặc theo Điều 485 QTHL : “Ông bà, cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà không bị què, gãy, bị thương, thì không phải tội, nếu bị thương, què thì phải tội kém tội đánh bị thương người thường ba bậc”.
Trường hợp tình trạng khẩn cấp : trường hợp vì việc công hay tư cần phải đi gấp mà phóng ngựa chạy trong phố phường, đường ngõ trong kinh thành thì không phải tôi, nếu làm bị thương hay chết người thì xử theo tội vì lầm lỡ để xảy ra (Điều 553 – QTHL). Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
c)Trường hợp tình trạng bất khả kháng, sự kiện bất ngờ : như việc làm hư hỏng, mất mát tài sản của Nhà nước vì gặp lụt, cháy, trộm cướp sức không chống nổi thì được miễn tội (Điều 634 – QTHL).
d)Trường hợp tự thú : nếu phạm những tội khác Điều 18 – QTHL).
QTHL quy định : trừ phạm tội thập ác và tội giết người, khi chưa bị phát giác mà tự thú trước thì được tha tội(
6) Nguyên tắc thưởng người tố giác và trừng phạt kẻ che giấu tội phạm.
Theo quy định của QTHL thì những người tố cáo việc mưu phản, mưu đại nghịch được thưởng tước từ 3 tư trở lên, tố cáo việc phạm cấm lớn thì được thưởng 2 tư, tố cáo việc mưu giết người thì được thưởng từ 100 quan trở lên… ( Điều 25); Nếu cố tình dung túng kẻ mưu làm phản, mưu làm đại nghịch thì bị xử như kẻ phạm tội (Điều 411).
7, Nguyên tắc thân thuộc được che giấu tội cho nhau.
Nhằm bảo vệ những quy tắc trong gia đình phong kiến, mà trong giai đoạn này pháp luật hình sự có những quy định cho phép những người thân thuộc trong gia đình được che chở lẫn nhau, cấm việc tố cáo “ Người thân thích phải để tang từ 9 tháng trở lên, ông bà ngoại, cháu ngoại, cháu nội, anh em chồng, anh em vợ, vợ chồng được phép che dấu tội cho nhau trừ các tội mưu phản, đại nghịch, mẹ đẻ hoặc mẹ kế giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ”(Điều 39 – QTHL); con cháu tố cáo ông bà, cha me, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì, đều xử tội lưu đi châu xa…(Điều 504 – QTHL).
2.1.2.3. Về tội phạm Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
1) Khái niệm tội phạm
Các quy định trong các Bộ luật này đều không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm nói chung và về từng tội phạm nói riêng mà đi ngay vào quy định những hành vi nguy hiểm nào là tội phạm, mức độ, hậu quả của việc phạm tội…
Về phân loại tội phạm, Bộ luật Hồng Đức phân loại theo hai hướng:
- Hướng thứ nhất, lấy các loại hình phạt để phân loại tội phạm như tội đồ, tội xuy, tội lưu, tội trượng, tội biếm, tội tử…
- Hướng thứ hai, phân tội phạm ra làm 2 nhóm là nhóm tội thập ác và những nhóm tội bình thường khác. Theo hướng này, tội phạm có các loại cụ thể sau:
Nhóm tội thập ác : quy định về Thập ác là một trong những điều luật quan trọng của pháp luật phong kiến, trong Bộ luật Hồng Đức, nhóm tội thập ác được quy định ngay tại Điều 2 của bộ luật, ngay sau Điều 1 về Ngũ hình. Điều 2 này chỉ liệt kê danh sách 10 tội được coi là thập ác, còn nội dung chi tiết của từng tội này và hình phạt của những tội phạm này thì được quy định tại những chương điều sau của Bộ luật này. Cụ thể:
- Mưu phản
- Mưu đại nghịch Hai tội phạm này của Thập ác được quy định chi tiết tại điều 411.
- Mưu bạn, tội này được quy định cụ thể tại Điều 412.
- Ác nghịch, được quy định chi tiết tại Điều 416 và một số điều khác.
- Bất đạo, quy định chi tiết ở Điều 429 và 421.
- Đại bất kính, được quy định chi tiết tại Điều 430 và 431.
- Bất hiếu, quy định chi tiết tại rất nhiều điều trong Bộ luật như Điều 475, 504…
- Bất mục
- Bất nghĩa.
- Nội loạn Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thập ác là những trọng tội nguy hiểm nhất nên người phạm tội sẽ không được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được hưởng chế độ đặc xá hoặc đại xá…
- Những nhóm tội phạm khác : Đây là những nhóm tội phạm được phân loại dựa trên cơ sở của nhóm quan hệ xã hội mà tội phạm xâm phạm đến, bao gồm:
- Các tội xâm phạm an toàn về thân thể của vua, xâm phạm sự an toàn, yên tĩnh, nghi lễ của cung phủ. Nhóm tội này được quy định trong chương Vệ Cấm.
- Các tội xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, thể thức lễ nghi triều đình. Nhóm tội này được quy định tại các chương Vi chế, Tạp luật, Trá nguỵ, Hộ hôn.
- Các tội xâm phạm tính mạng, phẩm, danh dự của những người bề chương Đạo tặc, Đấu tụng, Tạp luật sức khoẻ của con người; xâm phạm nhân trên. Nhóm tội này được quy định tại các
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn chế độ xã hội phong kiến. Nhóm tội này được quy định ở các chương Vệ cấm, Đạo tặc.
- Các tội phạm quân sư, được quy định tại chương Quân chính.
- Các tội xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất và sở hữu của người khác, được quy định tại các chương Điền sản, Đạo tặc, Tạp luật.
- Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân – gia đình phong kiến và các tội tình dục. Nhóm tội này được quy định tại chương Hộ hôn, Thông gian, Đấu tụng.
- Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, được quy định tại các chương Bộ vong, Đoản ngục, Tạp luật, Vi chế, Trá Nguỵ.
2) Vấn đề lỗi Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Qua nhiều quy phạm của Bộ luật Hồng đức có thể thấy rằng nhà làm luật dưới triều Hậu Lê đã có sự phân biệt giữa hai hình thức lỗi là : cố ý và vô ý phạm tội để có cách xử lý khác nhau, quan điểm này thể hiện tại Điều 47 của Bộ luật “Những người phạm tội, tuy cùng tên gọi tội giống nhau nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý, phải xét tội nặng nhẹ mà thêm bớt, không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa việc xét xử hình án”.
Trên cơ sở quan điểm này, trong một số cấu thành tội phạm có quy định rõ từng hình thức lỗi như cố ý giết người hay vô ý giết người, cố ý gây thương tích hay vô ý gây thương tích, từ đó có quy định giải thích thế nào là vô ý – do việc đó xảy ra ngoài ý muốn của người phạm tội mà người này không nhìn thấy trước, không nghe thấy và không thể nghĩ đến được, do sức nặng hoặc sự nguy hiểm mà người phạm tội không thể chống lại được, do phải đánh nhau với thú dữ trong lúc đi săn.
Về đồng phạm.
Mặc dù trong pháp luật hình sự triều Hậu Lê không có quy phạm định nghĩa chung về đồng phạm và các loại người đồng phạm nhưng qua một số quy định của luật, tính đồng phạm được thể hiện ở nguyên tắc trừng trị tội phạm và có sự phân biệt giữa chính phạm và tòng phạm khi xét xử, theo đó:
- a) Nếu tội phạm do nhiều người thực hiện thì trách nhiệm hình sự của người đầu têu(chính phạm) phải nghiêm khắc hơn cả, của những người còn lại giảm một bậc, ví dụ Điều 469 quy định: đồng mưu đánh người bị thương thì kẻ nào đánh nhiều đòn nặng là thủ phạm, kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội, còn người tòng phạm thì được giảm một bậc.
- b) Nếu tội phạm do các thành viên trong cùng một gia đình thực hiện thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người gia trưởng, trừ phạm tội thập ác (Điều 35).
- Vấn đề che dấu tội phạm không bị coi là đồng phạm như trong pháp luật hình sự hiện đại mà luật hình sự thời kỳ này cho phép những người thân thích trong gia đình được phép che giấu tội cho nhau trong một số trường hợp, hoặc đầy tớ che giấu tội cho chủ.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Pháp luật hình sự triều Hậu Lê mặc dù không đưa ra định nghĩa pháp lý của vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm nhưng qua nghiên cứu một số điều luật của Bộ luật Hồng Đức cho thấy:
- Một người bị coi là tội phạm khi người đó có hành vi phạm tội trong đó có tính đến các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt như: nuôi trùng độc để giết người( điều 424), cùng nhau thoả thuận về việc đi cướp (Điều 454)…
- Đối với một số loại trọng tội thì pháp luật quy định việc biểu lộ ý định phạm tội là giai đoạn đầu tiên của thực hiện tội phạm và cũng bị trừng phạt, đó là đối với các tội thập ác như: mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn…
2.2.2.4. Hệ thống hình phạt. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật Hồng đức bao gồm ngũ hình và các hình phạt khác:
1) Ngũ hình
Khi nói đến hệ thống hình phạt trong luật pháp phong kiến, thì điều đầu tiên là nói đến Ngũ hình. Đây là nhóm chế tài có nguồn gốc từ pháp luật Trung Hoa và đã được các nhà lập pháp Đại Việt vận dụng từ thời nhà Lý, Trần và trong Bộ luật Hồng Đức được quy định rất rõ ràng, cụ thể.
Nhằm đề cao tầm quan trọng và với mục đích răn đe, Ngũ hình được quy định ngay tại Điều 1 của Bộ luật, Ngũ hình gồm 5 hình phạt được sắp xếp theo thứ tự nặng dần, bao gồm:
- Xuy (đánh bằng roi) có 5 bậc : 10, 20, 30, 40, 50 roi, có thể kèm theo phạt tiền và biếm chức, áp dụng cả cho nam và nữ.
- Trượng (đánh bằng gậy) cũng có 5 bậc : 60, 70, 80, 90 và 100 trượng, chỉ áp dụng cho nam, nữ được thay bằng tội xuy. Trượng cũng là chính hình nhưng đôi khi lại là phụ hình đối với các tội biếm, đồ, lưu.
- Đồ có 3 bậc là:
Dịch đinh và dịch phụ, trong đó:
- Dịch đinh là hình phạt áp dụng ho nam và kèm đánh 80 trượng cho nam. Dịch đinh có nhiều hạng là: Thuộc đinh – phục dịch ở các viện (dành cho quan chức có tội) ; Quân Đinh – phục dịch ở các sảnh ;Khao đinh – phục dịch ở trong trại lính ; Xã đinh – phục dịch ở các xã (dành cho thường dân nam có tội).
- Dịch phụ là hình phạt áp dụng cho nữ kèm đánh 50 roi, dịch phụ cũng có nhiều hạng là: Thứ phụ – phục dịch mọi công việc ở làng (dành cho thường dân nữ có tội) ;Viên phụ – làm các công việc trong vườn (dành cho vợ các quan chức) ;Tang thất phụ – phục dịch ở các nơi nuôi tằm, nếu phạm tội nặng
Tượng phường binh (quét dọn chuồng voi kèm 80 trượng và thích 2 chữ vào mặt) cho nam và xuy thất tỳ (nấu cơm nuôi quân kèm 50 roi và thích 2 chữ vào cổ) cho nữ. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Bậc ba nặng nhất gồm: Chủng điền binh (làm lính lao động ở đồn điền của nhà nước kèm 80 trượng và thích vào cổ 4 chữ, phải đeo xiềng) cho nam và Thung thất tỳ (xay thóc giã gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước kèm 50 roi và thích vào cổ 4 chữ) cho nữ.
- Lưu tức lưu đày đi nơi xa, có 3 bậc là:
- Lưu cận châu (châu gần), đày đi làm việc nặng ở Nghệ An với hình phạt phụ là thích vào mặt 6 chữ, đánh 90 trượng, đeo xiềng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
- Lưu ngoại châu: Lưu đày đến Bố Chánh, Quảng Bình. Phụ hình bị đánh 90 trượng, thích 8 chữ vào mặt, đeo xiềng 2 vòng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
- Lưu viễn châu: đày đi Cao Bằng. Phụ hình gồm 100 trượng, thích 10 chữ vào mặt, đeo xiềng 3 vòng cho nam, đánh 50 roi cho nữ.
Về thời hạn thụ hình của hình phạt lưu, trên danh nghĩa là lưu đày vĩnh viễn nhưng trong thực tế, sau một thời gian sống tại nơi lưu đày, phạm nhân có thể được ân xá, nếu có hạnh kiểm tốt và đã khai khẩn được 3 – 5 mẫu đất. Sau khi được ân xá, phạm nhân trở về quê quán như người dân tự do, hoặc ở lại nơi lưu đày và được sử dụng số ruộng đất mà mình đã khai khẩn.
- Tử (giết chết) có 3 bậc là:
- Giảo (thắt cổ), trảm (chặt đầu)
- Khiêu (chém bêu đầu)
- Lăng trì (tùng xẻo)
Ngũ hình là 5 loại hình phạt chủ yếu thường được coi là hình phạt chính trong đó Đồ, Lưu và Tử luôn được coi là hình phạt chính còn Xuy và Trượng khi áp dụng thì có khi là hình phạt chính hoặc là hình phạt phụ.
2) Những hình phạt khác. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Ngoài Ngũ hình, khác với pháp luật Trung Hoa phong kiến, trong Quốc triều hình luật còn quy định một số hình phạt khác, bao gồm:
- Biếm tư : điều 27 quy định biếm tư bao gồm các bậc từ 1 tư – 5 tư, Điều 46 quy định tuỳ từng bậc của tội biếm mà người bị biếm phải chịu đánh xuy hay trượng, nhưng có quy định cho chuộc tội biếm bằng tiền theo Điều 22.
- Phạt tiền: Điều 26 của Bộ luật quy định những tội xử phạt tiền gồm có 3 bậc, bậc một từ 300 – 500 quan, bậc hai từ 60 – 200 quan, bậc ba từ 5 – 50 quan. Các nhà làm luật cũng có sự phân biệt giữa tiền phạt và tiền bồi thường.
- Tịch thu tài sản, là một loại phụ hình và có hai mức độ là : tịch thu toàn bộ tài sản nếu phạm tội nặng; Tịch thu một phần tài sản thường được áp dụng đối với phần tài sản có liên quan trực tiếp đến việc phạm tội.
- Thích chữ vào cổ hoặc mặt, đây cũng là một phụ hình khá phổ biến thường được áp dụng đối với các tội lưu, đồ, trượng, xuy.
- Xung vợ con làm nô tỳ, thường được áp dụng đối với các tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn (Điều 411, 412).
Nghiên cứu về hệ thống hình phạt trong pháp luật hình sự giai đoạn này, một điều dễ dàng nhận thấy là các nhà làm luật quy định khá cứng nhắc, tỉ mỉ từng loại hình phạt, áp dụng cho từng loại tội phạm cụ thể, không quy định theo khung hình phạt như pháp luật hiện đại (trừ hình phạt tiền). Một điểm đáng lưu ý nữa là khác với hình phạt trong pháp luật hiện đại chỉ áp dụng cho quan hệ pháp luật hình sự (mà ở đây là tội phạm), thì trong pháp luật phong kiến không có sự phân biệt rõ ràng điều này, rất nhiều quan hệ pháp luật không phải hình sự cũng áp dụng hệ thống hình phạt này (quan hệ hôn nhân, dân sự..). Sở dĩ như vậy là do pháp luật phong kiến không có sự phân định rõ ràng giữa các quan hệ pháp luật mà thường lấy hình luật áp dụng lên các quan hệ pháp luật khác, và điều này được thể hiện rõ khi xây dựng pháp luật.
2.2.2.5. Quyết định hình phạt Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu các vấn đề trên của pháp luật hình sự trong giai đoạn này chúng ta thấy việc quyết định hình phạt trong luật hình sự triều Lê có những điểm chủ yếu sau:
- Việc quyết định hình phạt dựa trên các căn cứ chung của việc tăng hoặc giảm hình phạt là phân biệt tội phạm đựơc thực hiện do cố ý hoặc vô ý và cân nhắc các tình tiết cụ thể của vụ án.
- Căn cứ cụ thể của việc giảm hình phạt được quy định bằng các quy phạm chung (chế định bát nghị và quyết định hình phạt đối với người già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ).
- Các căn cứ cụ thể của viêc tăng hình phạt được quy định bằng các quy phạm riêng đối với từng trường hợp cụ thể.
- Áp dụng chế định những hình phạt trong trường hợp tự thú (trừ các tội thập ác và cố sát).
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm : quy định người tổ chức cầm đầu phải chịu hình phạt nặng hơn với người đồng phạm có vai trò thực hành, giúp sức.
Trường hợp tổng hợp hình phạt đối với một người phạm nhiều tội. Điều 37 Bộ luật Hồng Đức quy định “Người nào phạm hai tội trở lên cùng phát hiện ra một lúc thì theo tội nặng mà định tội, còn tội nhẹ hơn giảm một bậc. Nếu tội phát hiện trước chưa định, mà tội sau lại phát hiện ra thì cứ theo hai tội cùng phát hiện ra ma xử án, kể tang vật mà định tội. Nếu phạm tội nhiều lần thì tính gộp tang vật lại mà định tội”.
Ngoài ra, khi đề cập đến pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng trong giai đoạn này, do có sự phức tạp về bộ máy chính quyền trong thời Lê Trung Hưng nên chúng ta cần lưu ý các điểm sau :
Thứ nhất, thời kỳ Nam – Bắc triều (từ 1527 – 1592), trong giai đoạn này, Đại Việt tồn tại song song hai triều đại, đó là : Triều Mạc từ Ninh Bình trở ra Bắc (Bắc triều); Triều Lê, ở phía Nam, từ Thanh Hoá trở vào (Nam triều). Do chiến tranh liên miên nên việc xây dựng pháp luật ít được chú ý. Nhà Mạc không có ý định thay đổi hệ thống pháp luật vốn đã hoàn chỉnh từ thời Lê sơ. Tương tự như vậy, triều Lê ở Nam triều cũng không có điều kiện xây dựng pháp luật mà vẫn áp dụng pháp luật của tổ tông, ngoài việc ban hành thêm một số điều về quân luật. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Thứ hai, ở nhà nước Đàng trong – Đàng ngoài, trong đó :
Nhà nước Đàng Ngoài là Vua Lê – Chúa Trịnh thì vẫn áp dụng pháp luật của thời Lê sơ tuy có một số sửa đổi bổ sung như đối với Bộ Quốc triều hình luật như : Quy định cấm thi hành luật chuộc tội (năm 1663), quy định trừng phạt nặng đối với người chứa gá và người đánh bạc (năm 1698), trị tội đối việc tụ họp uống rượu (năm 1718); sửa đổi hình phạt chặt tay “ phạm nhân phải luận vào tội chặt hai tay và lưu đi viễn châu, nay đổi làm tội đồ cư tác chung thân, phạm nhân phải luận tội chặt một tay và lưu đi ngoại châu nay đổi thành tội đồ cư tác 12 năm, những người phạm tội trộm cướp không theo lệ này” (năm 1721); xây dựng bộ luật tố tụng hình sự lớn “ Quốc triều khám tụng điều lệ”.
Nhà nước Đàng Trong – Chúa Nguyễn, về pháp luật nói chung hầu như không được ghi trong sử sách, có lẽ vẫn áp dụng pháp luật từ thời kỳ Lê sơ.
Ngoài ra, khi đề cập đến giai đoạn lịch sử này, mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và trong tình trạng chiến tranh liên miên nhưng chúng ta cũng phải kể đến triều đại Tây Sơn ( từ 1778 – 1802). Trong giai đoạn tồn tại của mình, về mặt pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, do tình hình đất nước lúc bấy giờ nên nhà Tây sơn vẫn áp dụng pháp luật hình sự thời kỳ Hậu Lê. Ngoài ra, theo ghi chép của sử sách thì năm 1788 vua Quang Trung đã chủ trương biên soạn một bộ luật cho triều đại mới nhưng sử sách cũng không cho biết Bộ luật này có được xây dựng và hoàn thành hay không. Sau khi Quang Trung mất, năm 1795 Vua Quang Toản đã lệnh cho Thượng Thư Bộ Hình Lê Công Miễn tham khảo Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật nhà Thanh soạn ra bộ Hình Thư, nhưng bộ luật này do hoàn cảnh lịch sử nên chúng ta không biết về sự ra đời cũng như nội dung của nó.
2.2. Pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn từ 1802-1884
Năm 1802, sau khi đánh bại hoàn toàn triều đại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu Gia Long, Nhà Nguyễn thành lập, tồn tại từ năm 1802 – 1884, trải qua 7 đời vua: Gia Long (1802 – 1819), Minh Mệnh (1820 -1840), Thiệu Trị (1841 – 1847), Tự Đức (1848 – 1883), Dục Đức (làm vua ba ngày), Hiệp Hòa (6/1883 – 11/1883), Kiến Phúc (12/1883 – 8/1884).
Từ Gia Long đến vua Tự Đức (1802 – 1883), các đời vua nhà Nguyễn đều quan tâm đến hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật nói chung và trong đó có pháp luật hình sự. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Năm 1811, Gia Long lệnh cho triều thần biên soạn bộ luật mới cho Triều Nguyễn, Nguyễn Văn Thành được đặc cử làm Tổng Tài chủ trì cùng với Vũ Trinh và Trần Hựu chịu trách nhiệm soạn thảo Bộ luật có tên là Hoàng Việt luật lệ, do được ban hành dưới thời vua Gia Long nên còn được gọi là Bộ luật Gia Long. Năm 1812, Gia Long viết lời tựa mở đầu Bộ luật và Bộ luật được đưa sang Trung Quốc để khắc in. Năm 1813, Bộ luật có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc. Năm 1815, Bộ luật được in thành sách và phát hành trên toàn quốc – đây là lần đầu tiên một bộ luật có hiệu lực trên phạm vi toàn lãnh thổ Đại Việt, cả đàng trong, đàng ngoài.
Về mặt hình thức, Bộ Hoàng Việt luật lệ (HVLL) gồm 398 điều, chia thành 22 quyển và đã bắt đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Về nội dung, mở đầu Bộ luật in lời tựa của Vua Gia Long, tiếp sau là Tổng mục về luật lệ của Vua Việt Nam. Phần Danh Lệ và Bản Điều được sắp xếp như sau:
- Quyển 1, 2, 3: ghi mục lục về luật, các biểu đồ giá chuộc; ngũ hình và nguồn gốc, ý nghĩa của hình phạt này; hình cụ, tang chế; giải thích một số điểm trọng yếu của luật, cách xử lý tài sản hợp pháp. Danh lệ và Thập ác chủ yếu là những nguyên tắc chung(45 Điều).
- Quyển 4, 5 : Luật Lại, quy định về chức chế và công vụ (27 Điều).
- Quyển 6, 7, 8: Luật Hộ, quy định về hộ tịch, điền trạch, đăng bạ, của cải, thuế điền thổ, trốn thuế; điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, thu chi, cho vay, chợ, cửa hàng (66 Điều).
- Quyển 9: Luật Lễ, quy định về lễ nghi triều đình, tế tự, lăng tẩm, nhà cửa, y phục (26 Điều).
- Quyển 10, 11: Luật Binh, quy định các vấn đề liên quan đến quân sự, bảo vệ nhà vua, cung cấm (58 Điều).
- Quyển 12 đến quyển 20: Luật Hình, quy định về các nhóm tội phạm cụ thể và thủ tục khiếu tố, kiện tụng, xét xử, giam giữ, thi hành án (166 Điều) Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Quyển 21: Luật Công, quy định về những vi phạm trong việc xây dựng các công trình công cộng (10 Điều)
- Quyển 22 : ghi mục lục Tổng loại và Tỷ dẫn điều luật, ghi nhận 30 trường hợp so sánh để áp dụng tương tự.
Như vậy, Bộ HVLL đã có sự phân ngành luật tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện pháp luật. Về mặt pháp luật hình sự (cả phần tố tụng), Bộ luật ghi nhận tại Quyển 1, 2, 3 và từ quyển 12 đến quyển 20.
Nghiên cứu phần luật hình sự của Bộ luật, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của pháp luật hình sự giai đoạn này như sau:
2.2.1. Về hiệu lực của Đạo luật hình sự
Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của Đại Việt có một bộ luật ghi nhận về hiệu lực theo thời gian và không gian. Theo đó, Bộ HVLL có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ Đại Nam (kể cả với người ngoại quốc phạm tội trên lãnh thổ Đại Nam); về mặt thời gian bộ luật quy định xử theo luật mới, kể cả đối với những tội phạm xảy ra trước khi bộ luật được ban xuống.
2.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật hình sự
Các nguyên tắc hình sự trong Bộ HVLL chủ yếu được trình bày trong phần
Danh lệ, gồm các nguyên tắc sau:
1) Nguyên tắc pháp căn, vô luật bất hình : đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xác định thế nào là một hành vi phạm tội.Theo đó, khi xử án các quan phải phải có nghĩa vụ tuân theo điều luật và các điều lệ trong bộ luật, phải dẫn đủ luật lệ khi xử tội. Luật nghiêm cấm sử dụng các bản án chưa được biên vào Bộ luật làm mẫu mực để xét xử. Trưòng hợp nếu theo lệnh của vua thì tạm thời xử trị, nhưng không được viện dẫn để xét xử các việc khác.
Nguyên tắc tỷ dẫn điều luật(so sánh luật): Điều 43 quy định nếu xử tội không có điều chính xác thì người ta viện dẫn ở luật khác với việc đồng hoá và so sánh. Các quy định chỉ được dẫn điều nào thích hợp trực tiếp đến tội phạm, một điều chỉ dùng để xử trong một việc, không đươc tự ý cắt bỏ thêm bớt. Các vụ việc áp dụng nguyên tắc này đều phải làm báo cáo lên bộ hình xét nghị tội danh và viết sớ tâu lên Hoàng Đế. Nguyên tắc này có giá trị bổ sung cho nguyên tắc pháp căn.
Nguyên tắc xét xử theo luật mới : Bộ luật quy định luật bắt đầu áp dụng từ ngày ban xuống nếu phạm tội trước đó y luật mới mà xử (Điều 42). Chỉ xử theo luật cũ theo tinh thần khoan hồng giảm nhẹ, có lợi cho người phạm tội đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm luật mới ban hành. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Nguyên tắc chiếu cố : Đối tượng thuộc diện chiếu cố cũng giống như trong bộ luật Hồng Đức, Bộ HVLL cũng ghi nhận các trường hợp chiếu cố thuộc Bát nghị, gồm : Nghị Tân, Nghị cố, Nghị HIền, Nghị Năng, Nghị Cần, Nghị Quý, Nghị Tân. Nhưng trong Bộ HVLL đã mở rộng phạm vi chiếu cố đến ông, bà, cha, mẹ, vợ, con, cháu của diện Bát nghị.
Sự chiếu cố của Luật Gia Long liên quan đến người già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ thể hiện trong việc xác định trách nhiệm hình sự theo độ tuổi, giới tính và nguyên tắc chuộc tội bằng tiền.
Nguyên tắc thưởng phạt : Điều 31, 223, 224 quy định thưởng cho người tố giác và phạt những người che giấu tội phạm.
Nguyên tắc thân thuộc được che dấu tội cho nhau : Cũng như pháp luật dưới triều Hậu Lê, đây là nguyên tắc dựa trên cơ sở những giá trị đạo đức của xã hội phong kiến đó là những người thân thuộc được che dấu tội cho nhau, nô tỳ, đầy tớ được che dấu tội cho chủ. Không áp dụng nguyên tắc này trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng như mưu phản, đại nghịch…
Nguyên tắc luận tội theo tang vật : Nguyên tắc này chủ yếu áp dụng đối với những tội liên quan đến tài sản như trộm cắp, hối lộ, vướng vào tang vật đưa đến tội. Được quy định tại chương Danh lệ, chia thành 2 loại:
Tính tang luận tội (luận tội theo tang vật): áp dụng cho các vụ trộm do nhiều người thực hiện và trường hợp ăn hối lộ do lạm dụng pháp luật. Phương thức xử lý là định giá tang vật theo lượng và tương ứng với giá trị tang vật là hình phạt.
Chiết bán khoa tội (luận tội theo 1/2 tang vật): áp dụng đối với tội ăn hối lộ không lạm dụng pháp luật, do vướng vào tang vật đưa đến tội hoặc một người ăn trộm của nhiều chủ. Được quy định tại các điều 233, 234, 238 và bảng chung trong chương Danh lệ. Theo đó tính tội bằng 1/2 tang vật đồng thời giảm nhẹ hình phạt theo định khung.
Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền : được quy định ở phần Danh lệ và Điều 21 của Bộ luật. Theo đó, các tội nhẹ, tội phạm vô ý, lầm lỡ, vu cáo chưa thành thì được chuộc tội bằng tiền, thóc, gạo, kim loại. Bộ luật quy định giảm nhẹ tiền chuộc cho người có ít tài sản, đàn bà, người già, trẻ em, người tàn tật…Người đang chấp hành hình phạt đồ nhưng trở nên già cả thì cho phép chuộc bằng tiền trừ phần đã thụ hình. Không cho chuộc tội bằng tiền đối với các tội thập ác, giết người, cướp của, trôm cắp, thông gian, đánh người thành thương, nhận hối lộ lạm dụng pháp luật, con cháu tố cáo ông bà cha mẹ, thiếp tố cáo thê, nô tỳ tố cáo gia trưởng (Điều 306).
2.2.3. Vấn đề trách nhiệm hình sự Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Theo quy định của Bộ Hoàng Việt luật lệ bất kỳ một hành vi nào xâm hại các quan hệ xã hội đã được Bộ luật bảo vệ đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nghiên cứu các quy phạm của bộ luât về vấn đề trách nhiệm hình sự có những vấn đề sau cần lưu ý:
Thứ nhất, về chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự, pháp luật quy định chủ yếu là cá nhân, ngoài ra đối với một số tội xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ Vua – tôi, an ninh quốc gia, tính mạng và sở hữu cá nhân thì pháp luật quy định chế độ trách nhiệm hình sự tập thể, liên đới. Theo đó, trách nhiệm hình sự liên đới, tập thể dựa trên mối quan hệ huyết thống và quan hệ đồng cư.
Thứ hai, về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật quy định người từ đủ tuổi đến 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm, ngoài ra pháp luật còn quy đinh người trên 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm tội phản nghịch.
Thứ ba, về các trường hợp được miễn, giảm trách nhiệm hình sự : Pháp luật hình sự triều Nguyễn cũng quy định các trường hợp được xét miễn giảm trách nhiệm hình sự như : chế định bát nghị, người phạm tội là người già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ; trường hợp tự thú…
2.2.4. Về tội phạm
2.2.4.1. Khái niệm và phân loại tội phạm
Trong Bộ HVLL không có định nghĩa pháp lý về tội phạm. Việc phân loại tội phạm thường theo khách thể và hình phạt, cụ thể:
Phân loại theo hình phạt : gọi tên tội phạm theo hình phạt – tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu, tội tử (Điều 1).
- Phân loại theo khách thể, bao gồm: Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
a) Nhóm tội Thập ác : được quy định cụ thể tại Điều 2, gồm: mưu phản, mưu đại nghịch, mưu phiến, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn. Bộ luật quy định chi tiết đối với từng tội trong nhóm thập ác.
Nhóm tội Đạo tặc : là nhóm tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, quy định từ Điều 223 đến Điều 250, được phân loại thành ba cấp:
- Cấp thứ nhất, Đạo tặc thượng gồm các tội: Mưu phản(Điều 223), phản nước theo giặc( Điều 224); ăn trộm đồ của vua, ăn cắp ấn tín của các Nha môn đều bị chặt cổ (Điều 226, 227, 228); Các tội trộm tài sản công (Điều 229, 234); Bạo trộm cướp ( Điều 235). Các tội đạo tặc thượng đều bị xử tử và áp dụng nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự liên đới, không phân biệt thủ tùng.
- Cấp thứ hai, Đạo Tặc trung : là các tội trộm cướp trong nhân gian như cướp tù, cướp giật, trộm cắp, được quy định từ Điều 236 đến Điều 240.
- Cấp thứ ba, Đạo tặc hạ : quy định tại các Điều 241 đến Điều 248, gồm các tội như thân thuộc ăn trộm của nhau, doạ nạt để lấy của, lừa dối để lấy của, đào mả, cùng mưu đi ăn trộm…
- Nhóm tội về Nhân mạng (giết người): nhóm tội này được quy định tại quyển 14 gồm 20 Điều (251-270). Theo đó phạm tội cố ý giết người đều bị xử chém, vô ý giết người thì bị xử trượng, đồ hoặc lưu.
- Nhóm tội Đấu ẩu: nhóm tội này được quy định tại quyển 15 gồm 22 Điều (271 – 292).
đ) Nhóm tội Lăng mạ, được quy định từ Điều 293 – Điều 300, là các tội xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người.
- Nhóm tội Hối lộ: được quy định từ Điều 312 – Điều 320, là tội phạm liên quan đến việc quan lại nhận hối lộ, sách nhiễu dân. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Nhóm tội Trá ngụy: là nhóm tội liên quan đến việc giả mạo, thường bị xử phạt đồ, lưu hoặc tử.
g) Nhóm tội Phạm gian : là nhóm tội liên quan đến luân lý đạo đức gia đình, được quy định từ Điều 332 – Điều 340 của Bộ luật. Nhóm tội Tạp phạm: quy định các trường hợp tạp phạm không thuộc các nhóm tội khác, được ghi nhận từ Điều 341 – 451.
Các nhóm tội phạm khác như : các nhóm tội vi phạm chế độ quản lý hành chính (Điều 46 – 72); các nhóm tội vi phạm về dân sự, ruộng đất, nhà ở, cưới gả (Điều 110 – 133); các vi phạm về nghi lễ phong kiến (Điều 139 -164); các tội phạm về quân sự (Điều 165 – Điều 222); Các vi phạm về tư pháp xét xử (Điều 301 – 320, Điều 352 – 388); Các vi phạm về xây dựng (Điều 389 – 398).
2.2.4.2 Vấn đề lỗi của tội phạm
Giống như trong QTHL, Bộ HVLL cũng đề cập đến hai loại lỗi của tội phạm đó là lỗi cố ý và lỗi vô ý, theo đó trách nhiệm hình sự đối với các loại tội với lỗi cố ý bao giờ cũng nặng hơn so với tội phạm thực hiện với lỗi vô ý.
2.2.4.3 Các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Về mặt khái niệm, trong Bộ HVLL không nêu lên định nghĩa pháp lý về các giai đoạn thực hiện tội phạm. HVLL cũng phân chia các giai đoạn phạm tội gồm : mưu đồ, tổ chức, thực hiện đã hành động, chưa hành động, đã thành, chưa thành. Cũng giống như pháp luật hình sự Triều Lê, pháp luật hình sự dưới Triều Nguyễn cũng quy định về việc phải chịu trách nhiệm hình sự ngay từ giai đoạn có ý định phạm tội đối với các tội như mưu phản, mưu đại nghịch.
2.2.4.4 Về đồng phạm
Vấn đề đồng phạm trong Bộ HVLL được các nhà làm luật Nhà Nguyễn tiếp thu trong Bộ luật Hồng Đức. Đồng phạm theo HVLL là cùng phạm tội, gồm chính phạm và tòng phạm, trong đó, chính phạm bị xử nặng hơn tòng phạm một bậc : “ Phàm cùng phạm tội thì lấy người tạo ý đầu tiên làm chủ, những người tuỳ tùng giảm một bậc. Nếu mọi người trong một nhà cùng phạm tội thì buộc tội một mình tôn trưởng” (Điều 29). Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
2.2.5. Hệ thống hình phạt
Được quy định khái quát tại Điều 1 trong Danh lệ và được cụ thể hóa trong hầu hết các điều của HVLL. Cũng giống như Bộ luật Hồng Đức, HVLL cũng quy định hệ thống hình phạt bao gồm Ngũ hình và các hình phạt khác nhưng về tính chất thì hà khắc hơn. Cụ thể:
2.2.5.1. Ngũ hình
Ngũ hình trong HVLL gồm 5 hình phạt sau:
- Xuy hình: có 5 bậc – 10 , 20, 30, 40, 50 roi.
- Trượng hình : đánh bằng gậy, có 5 bậc – 60, 70, 80, 90, 100 trượng.
- Đồ hình( tù khổ sai): có 5 bậc – 1 năm với 60 trượng ; 1,5 năm với 70 trượng ; 2 năm với 80 trượng ; 2,5 năm với 90 trượng ; 3 năm với 100 trượng. Suốt thời gian chấp hành hình phạt họ bị xiềng chân. Hình phạt này cho gửi phạm nhân về nơi họ ở để quản thúc, bắt phải làm mọi việc nặng nhọc từ 1- 3 năm thì chấm dứt.
Ngoài ra, HVLL còn quy định về nhuận đồ, đối với một số tội cho đổi từ 3 bậc lưu sang 4 năm đồ.
- Lưu hình (đi đày) : là hình phạt áp dụng cho tội phạm nặng nhưng chưa đáng phải chết. Có 3 bậc là : 2000 dặm với 100 trượng; 2500 dặm với 100 trượng; 3000 dặm với 100 trượng.
- Tử hình (giết chết) : có 2 bậc – Giảo (treo cổ), Trảm (chém). Ngoài ra HVLL còn quy định về Nhuận tử (chết hai lần) bao gồm: Lăng trì (xẻo chậm), Trảm Khiên (chém bêu đầu) và Lục Thi (chặt xác chết) – áp dụng đối với những trọng tội như phản nghịch.
2.2.5.2. Các hình phạt khác ngoài ngũ hình
- Phạt tiền: chỉ áp dụng trong một số trường hợp cá biệt
- Xâm chữ trên mặt hoặc trên cánh tay: áp dụng đối với tội trộm cắp, đánh bạc, hối lộ…
- Mang gông, xiềng: là phụ hình thường áp dụng bổ sung cho tội phạm đồ, lưu, tử (Điều 239, 240).
- Tịch thu tài sản: có thể là tich thu toàn bộ gia sản đối với các tội mưu phản, đại nghịch (Điều 223, 224) hoặc tịch thu một phần gia sản để bồi thường thiệt hại hoặc cấp dưỡng cho người bị đánh thành thương ( Điều 286, 287). Nếu không có gia sản thì tâu lên vua định đoạt. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
- Sung vợ con làm nô tỳ: đây là phụ hình áp dụng cho tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như mưu phản, đại nghịch (Điều 223, 224).
- Giáng phẩm trật, bãi chức, thuyên chuyển công tác : đây là hình phạt bổ sung cho tội phạm là quan chức.
2.2.6. Vấn đề quyết định hình phạt
Pháp luật hình sự triều Nguyễn quy định việc quyết định hình phạt trên cơ sở tang vật của vụ án và có tính đến các trường hợp được xét giảm, miễn như bát nghị, trường hợp tự thú.
HVLL cũng có những quy định về vấn đề chuộc tội bằng tiền đối với một số loại tội có tính đến ưu tiên những người có tài sản.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong thời gian gần 5 thế kỷ (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX), pháp luật hình sự phong kiến Đại Việt có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt dưới triều Hậu Lê – triều đại phong kiến tồn tại lâu dài nhất, suốt 4 thế kỷ trong lịch sử phong kiến nước ta ( từ thế kỷ XV đến XVIII ), là giai đoạn phát triển vượt bậc của Đại Việt trên tất cả các lĩnh vực Chính trị – Kinh tế – Văn hoá – Xã hội. Về mặt pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng, đây cũng là giai đoạn để lại nhiều dấu ấn nhất trong lịch sử lập pháp Đại Việt, bởi cho đến nay những thành tựu về mặt lập pháp trong giai đoạn này vẫn còn được lưu giữ và nó còn ghi nhận những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc Việt Nam như tinh thần nhân đạo, tính công minh… thể hiện qua các quy định của pháp luật hình sự mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị, được các nhà lập pháp đương đại chú ý và vận dụng trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực hiện công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.
Pháp luật hình sự Việt Nam phong kiến dưới triều Nguyễn có những thành tựu đáng kể, với việc ban hành Bộ Hoàng Việt Luật lệ, đã điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong xã hội trong đó các quan hệ về pháp luật hình sự là chủ yếu. Giai đoạn này, nhà làm luật đã bắt đầu có sự phân biệt giữa pháp luật hình sự và các ngành pháp luật khác, điều này thể hiện ở việc ngoài những quy định chung, Bộ HVLL còn ghi nhận những quyển riêng về hình luật (từ quyển 12 đến quyển 20). Ngoài việc nhằm bảo vệ vương quyền Nhà Nguyễn, Bộ luật cũng đã ghi nhận những quan điểm tiến bộ, bảo vệ những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX nhiều phức tạp suốt từ Đàng Trong đến Đàng ngoài.
Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm của pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử gần 10 thế kỷ, tác giả sẽ phân tích những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc, từ đó đưa ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đương đại trong phần tiếp theo của luận văn. Luận văn: Thực trạng pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com