Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng thực thi pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em tại Việt Nam và các giải pháp đề xuất dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. THỰC TRẠNG XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM
3.1.1. Thực trạng lao động trẻ em trên thế giới
Lao động trẻ em là vấn đề toàn cầu, xuất hiện ở mọi khu vực và mọi quốc gia, chỉ khác nhau về mức độ. Theo ước tính, hiện nay cứ trong sáu trẻ em trên thế giới thì có một em tham gia các hoạt động kinh tế.
Việc đưa ra một đánh giá xác thực về thực trạng lao động trẻ em trên thế giới là một công việc khó khăn, bởi tính chất rộng lớn và phức tạp của hiện tượng này.
Trước đây ở tất cả các quốc gia trên thế giới, công tác điều tra, thống kê lao động trẻ em hầu như chưa đặt ra. Mãi đến 1978, trong khuôn khổ các hoạt động chuẩn bị cho Năm quốc tế thiếu nhi (1979), do Liên hợp quốc phát động, một số nước mới tiến hành những cuộc điều tra, thống kê về vấn đề này nhưng chỉ với những trẻ em từ 15 đến 18 tuổi. Trên phạm vi quốc tế, trong mấy năm gần đây, để có cơ sở hoạch định những chiến lược hành động về bảo vệ trẻ em, ILO và UNICEF đã tiến hành các cuộc điều tra, nghiên cứu nhằm xác định số lượng, tính chất và mức độ của tình trạng trẻ em tham gia hoạt động kinh tế. Trong lần đầu tiên đưa ra số liệu ước tính về trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế (năm 1995), ILO đã cố gắng tách bạch trong đó số liệu về lao động trẻ em bằng cách ước tính số lượng trẻ em tham gia hoạt động kinh tế chọn thời gian.
Cụ thể, theo ILO, vào thời điểm năm 1995, đã có khoảng 250 triệu trẻ em ở độ tuổi 5 đến 14 tham gia hoạt động kinh tế, trong đó ít nhất có khoảng 120 triệu em phải làm việc trọn thời gian [42].
Tuy nhiên, số liệu kể trên mới chỉ phản ánh phần nào thực trạng của vấn đề lao động trẻ em trên thế giới vào thời điểm đó, bởi lẽ chúng chủ yếu được thu thập thông qua tổng hợp từ các bảng hỏi gửi tới cơ quan thống kê của một số quốc gia, từ những số liệu thống kê về lao động, việc làm do các quốc gia đó xuất bản, kết hợp với số liệu thu được từ một số cuộc khảo sát về lao động trẻ em. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Những năm gần đây, ILO tiếp tục thực hiện công tác thống kê về vấn đề này, sử dụng nhiều biện pháp và kỹ thuật khảo sát hiện đại, từ đó cho phép đưa ra một bức tranh toàn diện và xác thực hơn về tình hình lao động trẻ em trên thế giới. Điều này đã giúp cộng đồng quốc tế nhận thức rõ hơn mức độ trầm trọng của vấn đề và tính chất cấp thiết của việc xóa bỏ lao động trẻ em.
Theo thống kê của ILO vào thời điểm năm 2000, ước tính trên thế giới có khoảng 211 triệu trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 14, 141 triệu trẻ em ở độ tuổi 15 đến 17 tham gia một số hình thức hoạt động kinh tế, 186 triệu em ở độ tuổi từ 5 đến 14, 59 triệu em ở độ tuổi 15 đến 17 phải làm các công việc thuộc các hình thức lao động trẻ em cần xóa bỏ (trong đó bao gồm cả các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất). Kết quả thống kê cũng cho thấy, tỷ lệ trẻ em tham gia hoạt động kinh tế và trẻ em lao động có sự khác nhau về lãnh thổ [42].
Từ các số liệu điều tra có thể thấy:
Lao động trẻ em chiếm tỷ lệ cao trên tổng số trẻ em. Thống kê năm 2010 cho thấy, trên thế giới lao động trẻ em chiếm 16% số trẻ em ở độ tuổi 5 đến 14, chiếm 18% số trẻ em ở độ tuổi 15 – 17.
Tình trạng trẻ em làm những công việc tồi tệ nhất, đặc biệt là phải làm những công việc nguy hại nghiêm trọng hơn so với dự tính. Theo thống kê năm 2000, số trẻ em bị bóc lột dưới các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vào khoảng 180 triệu em, chiếm hơn 2/3 tổng số lao động trẻ em. Tính ra, cứ khoảng 8 trẻ em trên thế giới thì có một em đang bị bóc lột dưới một trong các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Thực trạng này nghiêm trọng hơn so với ước tính trước đó của các chuyên gia.
Phần lớn lao động trẻ em ở độ tuổi nhỏ: Số trẻ em ở độ tuổi dưới 15 (mức tuổi tối thiểu cơ bản được tuyển dụng và tham gia làm việc trong Công ước số 138 của ILO) vào khoảng 111,3 triệu, chiếm 2/3 trong tổng số 170,5 triệu trẻ em trên thế giới đang phải làm những công việc nguy hại [42].
Qua mấy nét sơ bộ về tình hình lao động trẻ em trên thế giới thấy rằng, đây là một vấn đề nặng nề và trách nhiệm cũng không phải của riêng ai. Chính vì vậy, một chiến dịch toàn cầu chống lạm dụng và bóc lột lao động trẻ em đã được phát động. Trong chiến dịch này, luật pháp đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì luật pháp là thước đo đánh giá các điều cho phép hay không cho phép lao động trẻ em, hoặc nếu được phép thì đến mức độ nào. Trong vài thập kỷ qua đã có một số những cam kết ở cấp độ quốc tế về lao động trẻ em và cũng đã có những thực hiện đáng kể bảo đảm để trẻ em được hưởng quyền được bảo vệ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Thực trạng xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Trong năm 1995, ILO đã đưa ra một ước tính về tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của trẻ em Việt Nam cùng với một số nước khác ở Châu Á.
Do từ trước đến nay ở Việt Nam chưa có một cuộc điều tra chính thức nào ở phạm vi quốc gia về lao động trẻ em nên tình hình lao động trẻ em chủ yếu được nhận định thông qua số liệu về trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế thu được từ một số cuộc điều tra chọn mẫu trong phạm vi hẹp (ở một số địa phương hay trong một số lĩnh vực nhất định) và đặc biệt là các cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (sau đây viết tắt là khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam tiến hành từ 1992 lại đây.
Các cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam tiến hành từ trước tới nay cho thấy tỷ lệ trẻ em tham gia hoạt động kinh tế ở Việt Nam liên tục giảm: Năm 1992-1993 là 45%; năm 1997-1998 là 30%; năm 2004 khoảng 27% và đến năm 2006 là vào khoảng 6,7%. Từ kết quả này, có thể đưa ra nhận định là tỷ lệ lao động trẻ em ở Việt Nam trong những năm qua cũng liên tục giảm [41].
Điều đáng chú ý nữa là, cũng theo kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2006, mặc dù 3/4 số trẻ em làm việc vẫn được đi học nhưng tỷ lệ đi học trong nhóm này thấp hơn 37% so với nhóm trẻ không làm việc. Như vậy, tính ra có khoảng 386.000 trẻ em làm việc không được đến trường. Thêm vào đó, mặc dù trẻ em tham gia hoạt động kinh tế liên tục giảm, song cường độ lao động có xu hướng tăng, thể hiện ở thời gian làm việc kéo dài, đặc biệt ở nhóm tuổi 15-17 [41].
Từ kết quả của các cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam, có thể chia trẻ em tham gia hoạt động kinh tế ở Việt Nam thành bốn nhóm chính: làm thuê, tham gia làm kinh tế gia đình, vừa làm thuê vừa làm kinh tế gia đình và tự kiếm sống, trong đó tỷ lệ trẻ em tự kiếm sống có xu hướng tăng trong giai đoạn 1992-1999 nhưng giảm đáng kể ở giai đoạn 2000-2004 tuy nhiên lại có xu hướng tăng ở các nhóm tuổi 11-14 và 15-17.
Những số liệu kể trên về trẻ em tham gia hoạt động kinh tế đã nêu trên cung cấp một cách nhìn khá toàn diện và tổng quát để qua đó đánh giá thực trạng lao động trẻ em ở Việt Nam. Tuy nhiên, do thuật ngữ trẻ em tham gia hoạt động kinh tế rộng hơn, bao trùm cả khái niệm lao động trẻ em, nên những số liệu thống kê này không phản ánh đầy đủ tình hình lao động trẻ em ở Việt Nam.
Cụ thể, theo tính toán, chỉ có khoảng 16% tổng số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế theo kết quả cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2006 (tương đương 148.800 em) có thể coi là lao động trẻ em, do các em này được xác định là tham gia lao động trong điều kiện nặng nhọc độc hại, nguy hiểm. Con số này thấp hơn nhiều so với kết quả thu được từ một cuộc khảo sát do ILO tài trợ thực hiện vào năm 2009. Theo khảo sát này có 150.933 trẻ em tham gia vào các hoạt động kinh tế ở độ tuổi dưới 12; 503.389 trẻ em dưới 15 tuổi phải làm việc trong những công việc không phải là nhẹ nhàng và 633.400 trẻ em phải làm việc nhiều giờ trong ngày. Tất cả những trẻ em này về cơ bản được coi là lao động trẻ em theo quy định của các công ước số 138 và 182 [42]. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
3.2. VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM
3.2.1. Về độ tuổi lao động
Quy định tuổi 15 là độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc xuất phát từ thực tế ở Việt Nam là độ tuổi trẻ em kết thúc việc học tại trường trung học cơ sở, trong số đó có nhiều em sau khi tốt nghiệp không có điều kiện để tiếp tục đi học thì có thể đi làm. Một số loại nghề nghiệp, công việc được nhận trẻ em dưới tuổi 15 học nghề và làm việc cũng đã được quy định rất cụ thể và chặt chẽ. Tuy nhiên, thực tế các cuộc điều tra khảo sát đã cho thấy rằng, có hiện tượng sử dụng lao động trẻ em vào các công việc và ngành nghề pháp luật không cho phép.
Cuộc điều tra gần đây về trẻ em làm thuê do Trung tâm thống kê Lao động – Xã hội tiến hành với sự giúp đỡ của UNICEF Việt Nam xem xét thực tế tình hình lao động của trẻ em độ tuổi từ 6 đến 17 đang làm việc trong các nghề nặng nhọc, độc hại ở 153 hộ, cơ sở, doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn 78 xã, phường của 13 tỉnh, thành phố thuộc 8 vùng lãnh thổ cũng cho thấy cơ cấu lao động chia theo nhóm tuổi: 15 – 17 tuổi (87%), số trẻ em ở 11-14 tuổi (13%) [41].
Tình trạng vi phạm độ tuổi trẻ em tham gia lao động, học nghề, tập nghề xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước tiên, là do thiếu hiểu biết các quy định pháp luật còn hạn chế cả phía người lao động và người sử dụng lao động. Đối với phía người sử dụng lao động không loại trừ hiện tượng lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em, người chưa thành niên. Điều nữa là, ranh giới thực tế giữa học nghề và lao động là rất khó phân biệt, nhất là ở các nghề thủ công. Hơn nữa, giữa người dậy và người học lại thường không ký kết hợp đồng học nghề, nên càng khó phân biệt. Trong thực tế nếu có đoàn kiểm tra hoặc thanh tra đến thì cơ sở sản xuất, gia công thường nói đó là các em học nghề theo hợp đồng miệng, nhưng thực ra thì lại là lao động sản xuất, thường là theo kiểu làm công nhật hoặc khoán sản phẩm. Đó là chưa kể, trên thực tế có một số em vì muốn được lao động sớm để kiếm sống nên đã cố ý khai tăng lên thường là từ 1 đến 3 tuổi để được chủ nhận vào làm việc.
Trong kết quả điều tra xã hội học với 200 đối tượng của chúng tôi năm 2011, người được điều tra là người đã thành niên như công nhân, tiểu thương, giáo viên, công an…đều trả lời lao động trẻ em là người dưới 15 tuổi (83 %) và làm việc chủ yếu ở ngành nông nghiệp, kinh doanh ăn uống, dịch vụ xây dựng… Nhưng họ không lấy được một ví dụ về một cơ sở có sử dụng lao động trẻ em. Có thể thấy họ không quan tâm lắm đến thực tế lao động trẻ em nên chỉ biết chung chung về lao động trẻ em. Với câu hỏi: “Những yếu tố nào tác động đến hình hình lao động trẻ em ở Việt Nam? Thì yếu tố đói nghèo chiếm 82% ý kiến đồng ý, gia đình chưa đáp ứng được yêu cầu của trẻ chiếm 86% ý kiến đồng ý, nhận thức không đúng đắn của gia đình và xã hội về lao động trẻ em chiếm 86% ý kiến đồng ý [41]. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Như vậy, pháp luật quy định các độ tuổi giới hạn để trẻ em có thể tham gia lao động, trẻ em không được lao động, học nghề nhưng thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau: ở cả phía người sử dụng lao động và người lao động, nên có không ít các trường hợp quan hệ lao động vi phạm quy định về độ tuổi tối thiểu. Nhưng trường hợp vi phạm chủ yếu ở khu vực “dân doanh”, nhất là trong lao động giúp việc gia đình. Điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đứa trẻ cả về thể chất và thể lực (vì đi làm sớm ít được tham gia học tập).
Theo một nghiên cứu gần đây của ILO ở Việt Nam năm 2009, trẻ em giúp việc gia đình ở độ tuổi còn nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao (22,6% trẻ em giúp việc gia đình ở độ tuổi dưới 15; 43,1% trẻ em giúp việc gia đình phải làm việc hơn 85 giờ/tuần…), xứng đáng được xem là một trong những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất [42].
3.2.2. Trong lĩnh vực việc làm và học nghề
Theo tuổi dân số, nước ta được xếp là dân số trẻ. Hàng năm lực lượng lao động bổ sung của nước ta vào khoảng 1,3 triệu người. Nhưng ước tính có khoảng 3 triệu người thất nghiệp, gần 10 triệu người thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định. Tỷ lệ lao động nông nhàn cao đã làm tăng đáng kể dòng người bỏ nông thôn ra thành thị.
Môi trường sống đô thị đầy phức tạp đã không ngừng tác động đến những tâm hồn trẻ thơ, nhanh chóng đẩy các em vào con đường tệ nạn. Không ít kẻ xấu lợi dụng trẻ đường phố để có được nguồn thu từ những việc làm bất chính bằng cách lôi kéo các em vào con đường phạm tội trộm cắp, mai túy, mại dâm [11].
“Chính phủ mới đây mở một cuộc khảo sát về tình hình trẻ em tham gia lao động ở thành phố Hồ Chí Minh. Khảo sát cho thấy tỉ lệ lao động là trẻ em đang làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh là khá cao” [18]. Nhằm ngăn chặn tình trạng trẻ em chưa thành niên bỏ học đi làm, đầu năm 2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa triển khai dự án về xóa bỏ lao động trẻ em và các hình thức lao động tồi tệ nhất. Dự án được dự kiến triển khai trong vòng 48 tháng với số tiền ước tính lên tới hàng chục tỉ đồng.
Nhưng điều trái ngược là tỷ lệ lao động trẻ em lại tăng và nhất là ở các hình thức lao động nặng nhọc, độc hại… Một nghiên cứu gần đây do ILO tiến hành ước tính có 2.162 trẻ em làm thuê giúp việc gia đình tại TP. Hồ Chí Minh, trong số đó 69,7% trẻ em nữ và 30,3% trẻ em nam. Nhìn chung, số lượng trẻ em giúp việc gia đình ở Việt Nam trong thời gian qua tăng liên tục với tốc độ nhanh. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, năm 2001, chỉ có khoảng 1.820 em, đến năm 2008 đã tăng lên 3.150 em và năm 2009 là 3.997 em. Đây là con số báo cáo chứ trên thực tế số lượng có thể cao hơn nhiều. Cũng giống như hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, ở Việt Nam cũng tồn tại hiện tượng một số trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở vùng nông thôn, miền núi, phải làm các công việc lao động chân tay nặng nhọc như làm việc trong mỏ đá, mỏ khai thác khoáng sản khác hoặc trong các làng nghề truyền thống… Lấy ví dụ về trẻ em lao động ở các làng nghề. Kết quả của một công trình nghiên cứu về điều kiện làm việc và vệ sinh lao động của trẻ em ở một số làng nghề của Việt Nam do ILO tài trợ được công bố năm 2009 cho thấy việc sử dụng lao động trẻ em diễn ra một cách khá phổ biến ở các làng nghề được khảo sát [42].
3.2.3. Trong lĩnh vực hợp đồng lao động Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Một hiện tượng phổ biến xảy ra trong thực tế là chủ sử dụng lao động không đăng ký với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội địa phương về việc sử dụng trẻ em chưa đủ 15 tuổi làm việc tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh theo mẫu – kèm theo Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH ngày 11/9/1999 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Điều kiện bắt buộc đối với người sử dụng lao động trong trường hợp nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc là phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Và sự đồng ý này phải bằng văn bản mới có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, tình trạng rất phổ biến hiện nay là việc nhận và sử dụng lao động chưa thành niên hầu như không ký kết hợp đồng và không có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Về hình thức thuê mướn lao động: chỉ tập trung vào hai hình thức thỏa thuận miệng với gia đình và thỏa thuận miệng với người lao động. Chỉ có tỷ lệ rất nhỏ (1,27%) đối với các cháu làm gia nhân là có ký hợp đồng lao động.
Một cuộc điều tra về trẻ em làm thuê do Trung tâm Thống kê Lao động – Xã hội tiến hành với sự giúp đỡ của UNICEF Việt Nam xem xét thực tế tình hình lao động của 265 em độ tuổi từ 6 đến 17 đang làm thuê trong các nghề nặng nhọc, độc hại ở 153 hộ, cơ sở, doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn 78 xã, phường của 13 tỉnh, thành phố thuộc 8 vùng, lãnh thổ, cho thấy: 153 chủ sử dụng lao động có sử dụng trẻ em dưới 18 tuổi làm việc, thì có 102 người ký hợp đồng lao động khi thuê trẻ em làm việc (66,7%); 51 người (33,3%) không ký hợp đồng [41].
Như vậy, nhìn chung, rất ít khi các em có hợp đồng chính thức, chủ yếu là thỏa thuận miệng với người sử dụng lao động, trong đó có thống nhất một số quyền lợi nhất định. Từ chỗ những thỏa thuận “tù mù” như vậy, các em ở thế dễ bị lạm dụng bóc lột. Ví dụ như có loại hình “hợp đồng trọn gói” với các em bán mỳ gõ. Phần đông những người chủ này là người Quảng Ngãi. Họ thường về quê thuê trẻ em phụ giúp bán mỳ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thông thường, chủ ký hợp đồng với cha mẹ và trả tiền công ngay cho gia đình. Sau đó, đứa trẻ sống với chủ và ăn uống do chủ lo. Trong trường hợp đứa trẻ bỏ việc trước khi hết hạn hợp đồng, cha mẹ các em phải có trách nhiệm hoàn lại số tiền đã ứng trước. Trẻ em làm nghề này phải làm việc vất vả và nếu chẳng may bị bắt được em nào lơ là công việc thì chủ sẽ trừ tiền công. Nói tóm lại, đây là một hình thức lao động giống như cầm cố.
Đối với một số ít trường hợp có ký kết hợp đồng lao động, thì nội dung cũng hết sức sơ sài, trong hợp đồng không mô tả được cụ thể công việc mà người lao động phải hoàn thành. Có những trường hợp người chủ sử dụng lao động giữ cả hai bản hợp đồng như công ty nhôm, nhựa Kim Hằng ở thành phố Hồ Chí Minh.
Trong pháp luật lao động, hợp đồng lao động là chế định cơ bản và quan trọng nhất, được ví như xương sống của Luật lao động, vì hợp đồng lao động là cơ sở pháp lý từ đó làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động. Thêm nữa, nội dung của hợp đồng lao động, theo quy định tại điều 29 của Bộ luật lao động, có liên quan đến hầu hết các chế định khác của Luật lao động như việc làm, tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động… Từ thực tế của việc giao kết hợp đồng lao động đối với lao động chưa thành niên trên đây, cho thấy sự vi phạm những quy định pháp luật là rất phổ biến, điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của loại lao động yếu thế, rất cần được bảo vệ này.
3.2.4. Đối với thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Bộ luật còn quy định với người lao động chưa thành niên thời gian làm việc tối đa không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần. Tuy nhiên, theo số liệu một cuộc khảo sát tại thành phố Hồ Chí Minh của Viện Nghiên cứu Thanh niên về lao động chưa thành niên cho thấy rằng, chỉ có 20% làm việc dưới 7 giờ/ngày; 60% làm việc từ 7 đến 10 giờ/ngày; 14% phải làm việc 10 đến 12 giờ/ngày, đặc biệt hơn 6% phải làm việc trên 12 giờ/ngày. Đặc biệt, vào mùa nhiều hàng, nhất là dịp cuối quý, cuối năm, số giờ lao động thường tăng cao. Riêng đối với nghề giầy dép, có thể phải làm đến 20 tiếng một ngày vào vụ cao điểm [41].
Nhìn chung, thời gian làm việc hàng ngày của các em phụ thuộc hoàn toàn vào yêu cầu của chủ sử dụng lao động. Các em không có sự lựa chọn thời gian làm việc phù hợp với thể lực của bản thân. Công việc trong các cơ sở nấu thủy tinh được phân làm 3 ca trong vòng 24 giờ đồng hồ bởi vì lò nung phải luôn giữ ở nhiệt độ cao nếu không sẽ tốn nhiều thời gian và phải đốt lò lại. Người chưa thành niên làm trong các cơ sở này thường làm theo ca ban ngày từ 6 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Một số em nhận làm thêm buổi tối để có thêm thu nhập.
Đối với trẻ em dưới 15 tuổi được nhận vào làm việc theo những ngành nghề, công việc theo quy định của Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH ngày 11/9/1999 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì thời gian làm việc không được quá 4 giờ ngày hoặc 24 giờ một tuần và không được sử dụng trẻ em làm thêm giờ vào ban đêm. Tuy nhiên, qua những số liệu khảo sát cho thấy rằng nhiều em phải lao động, làm việc vượt thời gian quy định, thậm chí gấp đôi thời gian cho phép.
Một điều đáng chú ý là tuy thời gian làm việc của các em không kém hơn thời gian làm việc của người lao động khác, song thu nhập của các em thấp hơn lao động người lớn rất nhiều. Bên cạnh lý do năng suất thấp, chất lượng lao động chưa cao, còn có lý do chủ quan áp đặt từ phía người sử dụng lao động mà các em buộc phải chấp nhận.
Theo Điều 74 Bộ luật lao động thì chế độ nghỉ phép hàng năm đối với lao động chưa thành niên cũng như đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt là 14 ngày làm việc. Trường hợp người lao động chưa thành niên có dưới 12 tháng làm việc (bao gồm cả thời gian học nghề, tập nghề, thời gian thử việc theo hợp đồng lao động) thì thời gian nghỉ phép (nghỉ hàng năm) được tính theo tỷ lệ tương ứng với số thời gian làm việc. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay, đặc biệt là cơ sở tư nhân có sử dụng lao động chưa thành niên, có một “Luật bất thành văn” là nghỉ việc ngày nào, trừ công ngày đó. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Kết quả của một công trình nghiên cứu về điều kiện làm việc và vệ sinh lao động của trẻ em ở một số làng nghề của Việt Nam do ILO tài trợ được công bố năm 2009 cho thấy, thời giờ làm việc áp dụng cho những trẻ em làm việc toàn bộ thời gian là 8 tiếng/ngày, tuy nhiên trên thực tế các em thường phải làm việc nhiều giờ hơn [42].
Cũng theo ILO công bố qua nghiên cứu trẻ em làm nghề đánh cá các em thường phải làm việc hơn 7 giờ/ngày trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Các em thường bị bỏ mặc không ai chăm nom và thường không được đi học.
Trong bài viết: “Bí sử nơi trái bóng” cũng đưa ra những thông tin tương tự: “Những đứa trẻ 10 đến 12 tuổi ở đây đều rất sung sướng. Bây giờ cũng rất khó để tìm thợ mới trẻ” [17].
Như vậy thực tiễn thực hiện các quy định đối với lao động trẻ em, lao động chưa thành niên cho thấy là việc vi phạm các quy định về thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi đối với loại lao động này là rất phổ biến. Thường là các em chỉ biết chấp nhập hoặc bỏ việc chứ không biết kêu ai. Bởi tâm lý phổ biến của các em là có việc làm, có thu nhập đã là may mắn lắm rồi. Thậm chí, có em còn mong được làm thêm giờ để thêm thu nhập.
3.2.5. Trong lĩnh vực tiền lương, tiền công
Có thể nói lý do kinh tế là nguyên nhân chủ yếu khiến trẻ em chưa thành niên phải sớm tham gia lao động. Do vậy, tiền lương hoặc tiền công là cái mục đích chủ yếu các em nhắm tới. Tuy nhiên, theo quan niệm trẻ em thường làm việc yếu hơn người lớn, nên chủ sử dụng thường trả công ít hơn người lao động đã thành niên. Tuy nhiên, như đã trình bày, tại Điều 56, khoản 2 điều 132 Bộ luật lao động đã quy định: Đối với người lao động chưa thành niên, nếu cùng làm công việc như người lao động thành niên thì được trả lương như nhau. Đối với người đang học nghề, tập nghề, nếu trực tiếp làm ra sản phẩm thì được trả lương. Mức lương do hai bên thỏa thuận nhưng không thấp hơn 70% mức lương cấp bậc của người lao động cũng làm công việc đó.
Như vậy, trong lĩnh vực tiền lương, tiền công, thì những cơ sở sản xuất có sử dụng lao động trẻ em nói riêng và lao động chưa thành niên nói chung cũng thường không tuân thủ các quy định của pháp luật. Điều này cắt nghĩa rằng tại sao trong nhiều hợp đồng ký kết với lao động là trẻ em, lao động chưa thành niên các mục tiền lương, phụ cấp, ngày nghỉ hàng năm, phúc lợi, các khoản thưởng, nâng lương, bảo hiểm xã hội… thường là bỏ trống.
3.2.6. Trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động
Việc bảo hộ lao động nói chung, an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người lao động, đặc biệt là lao động chưa thành niên, lao động trẻ em được quy định rất nghiêm ngặt. Điều 122 Bộ luật lao động, Thông tư liên bộ số 09 – TT/LB ngày 13/4/1995 quy định các điều kiện lao động có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên. Đây là những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc phải tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ em. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Qua khảo sát trẻ em lao động làm thuê ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy hầu hết các cơ sở sản xuất, dịch vụ trong điểm khảo sát đều chật hẹp, thiếu ánh sang. Ngoài ra, từng loại công việc khác nhau có những bức xúc khác nhau, như nghề cơ khí thì độ ồn quá cao, nghề tái chế thủy tinh thì nóng, nghề làm nhang và chế biến nhựa thì bụi, chế biến thực phẩm thì ô nhiễm môi trường, làm giấy thì hít mùi keo, mùi da… Đó còn là việc các em phải đương đầu với nhiều tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, trí tuệ và tinh thần của các em.
Theo kết quả nghiên cứu của ILO tháng 12 năm 2009 cho thấy: 83,3-92,5% số lao động trẻ em được hỏi cho rằng các em phải làm việc trong điều kiện tiếng ồn quá lớn, 80-93.7% phàn nàn về tình trạng bụi bẩn ở nơi làm việc, 36,9-44,5% cho rằng điều kiện làm việc là tồi tệ [42].
Nhìn chung, việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động chưa thành niên, lao động trẻ em là rất bức xúc. Ở những doanh nghiệp lớn, việc chấp hành bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động tốt hơn thì loại hình doanh nghiệp này thì lại không sử dụng lao động trẻ em. Còn những loại hình doanh nghiệp đang sử dụng lao động trẻ em, lao động chưa thành niên thì đa phần chấp hành các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động lại rất kém, do sản xuất nhỏ lẻ, mô hình quản lý tùy tiện kiểu gia đình. Trước khi nhận việc, người lao động, kể cả người học nghề, tập nghề thường không được hướng dẫn, huấn luyện về an toàn lao động, nên nhiều trường hợp tai nạn đáng tiếc đã xảy ra đối với các em như tại Vĩnh Long, trong vụ 76 vụ tai nạn lao động do cối ép gạch gây ra trong thời gian qua, có khoảng 20% là lao động chưa thành niên, lao động trẻ em. Như trường hợp em Nguyễn Hữu Trầm, học sinh lớp 5 Trường Tiểu học An Phước B, huyện Long Hồ máy ép gạch đã cán nát tay phải của em gần sát nách. Nguyên nhân chính gây tai nạn là do máy ép gạch kiểu cũ thiếu an toàn, các em chưa được hướng dẫn đầy đủ về kỹ thuật vận hành máy.
3.2.7. Việc chấp hành pháp luật của người sử dụng lao động Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Vấn đề tuân thủ các quy định về pháp luật lao động nói chung và lao động chưa thành niên, lao động trẻ em nói riêng đối với người sử dụng lao động luôn là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Ở đây thể hiện lợi ích trái chiều giữa một bên là chủ sử dụng lao động đòi hỏi người lao động làm việc nhiều nhất, nhưng lại muốn trả công ít nhất, còn một bên là người lao động trẻ em, lao động chưa thành niên thường ở vào vị thế yếu cả về thể lực, nhận thức và trí lực.
Tình trạng người chưa thành niên được người sử dụng lao động nhận vào làm việc không có giao kết hợp đồng, hoặc giao kết hợp đồng miệng, chỉ mang tính chất hình thức là phổ biến. Và kể cả trong trường hợp có giao kết hợp đồng nhưng không có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu theo Điều 120 Bộ luật lao động. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, có thể là do cả 2 phía chưa hiểu biết pháp luật, hoặc cũng có thể người lao động nghĩ đơn giản là chỉ cần xin được việc là tốt lắm rồi, hoặc có biết nhưng lại e sợ người sử dụng gây khó dễ. Trong đó có một nguyên nhân chủ yếu là người sử dụng lao động biết luật quy định, nhưng vẫn lờ đi, nhập nhằng giữa học nghề, tập nghề và làm việc.
Các cuộc thanh tra, điều tra và khảo sát cũng cho thấy, người sử dụng lao động còn chưa chấp hành quy định về báo cáo tình hình tuyển dụng và sử dụng lao động (theo Điều 182 Bộ luật lao động), nhất là việc báo cáo tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (Điều 108 Bộ luật lao động) cho cơ quan lao động địa phương.
Người sử dụng lao động cũng chưa chấp hành quy định lập sổ theo dõi riêng để theo dõi lao động chưa thành niên theo quy định tại Khoản 1 Điều 119 Bộ luật lao động. Theo đó, phải ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khỏe định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu.
Tình trạng sử dụng lao động chưa thành niên quá 7 giờ/ngày, làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm vi phạm Điều 122 Bộ luật lao động còn diễn ra phổ biến. Một số công việc và điều kiện làm việc nặng nhọc độc hại, nguy hiểm quy định tại TT 09/LB-TT vẫn có hiện tượng vi phạm như Công ty nhôm nhựa Kim Hằng tại thành phố Hồ Chí Minh bố trí trẻ em đứng máy đột dập.
Ở các đơn vị được phép sử dụng lao động trẻ em dưới 15 tuổi, do đặc thù nghề nghiệp, đã chấp hành tốt các quy định pháp luật, như ở 2 đơn vị: Đoàn múa rối nước và Đoàn xiếc có 48 em đang học nghề và làm việc. Tuy nhiên, qua kết quả các cuộc điều tra thì hiện tượng bất chấp các quy định của pháp luật nói chung và Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH ngày 11/9/1999 vẫn thường xẩy ra; cụ thể như: Chưa lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh (kèm theo giấy khai sinh), giới tính, địa chỉ thường trú, trình độ văn hóa, công việc đang làm, họ tên và địa chỉ của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp và những điều kiện lao động áp dụng với trẻ em. Không đăng ký với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội địa phương về việc sử dụng trẻ em chưa đủ 15 tuổi làm việc tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh theo mẫu – kèm theo Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH. Chưa thực hiện việc khám sức khỏe cho trẻ em trước khi tuyển dụng và tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ, ít nhất 6 tháng 1 lần như quy định. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
3.2.8. Trong lĩnh vực thanh kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
Các quy định về xóa bỏ lao động trẻ em hiện nay có thể nói là tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, thế nhưng việc thực hiện các quy định này còn chưa nghiêm và thiếu đồng bộ. Nguyên nhân chính và chủ yếu vẫn là công tác quản lý nhà nước bị buông lỏng, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó chưa được quan tâm đúng mức và khi có vi phạm xảy ra thì việc xử lý chưa kịp thời hoặc biện pháp xử phạt chưa nghiêm khắc đến mức cần thiết. Hiện tại chưa có những quy định cụ thể về cách thức thanh tra và kiểm tra lao động trẻ em tại các cơ sở sản xuất – kinh doanh. Đến nay cũng chưa có số liệu cụ thể về việc xử lý theo quy định hiện hành những hành vi vi phạm các quy định về lao động chưa thành niên.
Trong những năm qua, Thanh tra Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em trước đây và nay là thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động đối với lao động chưa thành niên và lao động trẻ em tại 38 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong toàn tỉnh, thành phố. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được thanh tra không sử dụng lao động trẻ
Các doanh nghiệp sử dụng lao động chưa thành niên và lao động trẻ em chủ yếu là các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cơ sở sản xuất tư nhân.
3.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM Ở VIỆT NAM Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến lao động chưa thành niên, lao động trẻ em, lao động chưa thành niên tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn của các công ước quốc tế về lĩnh vực này.
Như đã phân tích, các tổ chức quốc tế, nhất là ILO đã có nhiều công ước đề cập đến lao động trẻ em. Tuy số công ước của ILO Việt Nam đã phê chuẩn còn khá khiêm tốn nhưng là những công ước khá quan trọng, nhất là công ước 138 về tuổi tối thiểu, công ước số 182 về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất… Nhìn chung, pháp luật Việt Nam, cụ thể là pháp luật lao động, trong đó có pháp luật đối với lao động chưa thành niên, lao động trẻ em đã tương đối phù hợp với những quy định của pháp luật quốc tế về tuổi tối thiểu, về điều kiện lao động, về tố tụng lao động… Như vậy, việc thực hiện tốt pháp luật về lao động chưa thành niên, lao động trẻ em cũng là tôn trọng và thực hiện những quy phạm pháp luật quốc tế đã phê chuẩn. Thực hiện quá trình “nội luật hóa”phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của nước ta.
Từ những quy định nằm rải rác ở các văn bản dưới luật, lao động chưa thành niên, lao động trẻ em đã một bước được luật hóa.
Nhìn lại lịch sử hình thành pháp luật về lao động chưa thành niên ở nước ta thấy rằng, cũng như những quy định pháp luật trong các lĩnh vực khác, đó là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau. Có những thời kỳ do các nguyên nhân như chiến tranh, điều kiện kinh tế – xã hội, chưa hội nhập quốc tế, nên pháp luật về lao động trẻ em, lao động chưa thành niên chỉ được đề cập một cách sơ bộ, khiêm tốn và nằm rải rác ở nhiều văn bản, chủ yếu ở cấp độ văn bản pháp quy. Chỉ kể từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới tư duy pháp lý, trong đó có việc ban hành luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Bộ luật lao động năm 1994 thì lao động chưa thành niên, lao động trẻ em mới thực sự được luật hóa. Bộ luật lao động và những văn bản liên quan đã đưa ra được một khung pháp lý cho vấn đề lao động trẻ em như tuổi tối thiểu được phép làm việc, giao kết hợp đồng lao động, tiền công, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, học nghề và tập nghề… cũng như các quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, quy định việc xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến lao động trẻ em.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ trẻ em khỏi bị lạm dụng và bóc lột như khuyến nghị của Ủy ban Quyền trẻ em, thể hiện trong việc bổ sung, sửa đổi và ban hành mới các văn bản pháp lý như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật lao động năm 1994 được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007 [36,tr. 110].
Đồng thời đẩy mạng các chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng lao động trẻ em.
Những phân tích trên đây cho phép rút ra nhận xét tổng quát là: Việc thực hiện pháp luật về việc xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam đã đạt được những hiệu quả nhất định. Nhìn chung, pháp luật đối với lao động chưa thành niên, lao động trẻ em đã được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thực hiện tương đối tốt. Từ đó, tạo một bước chuyển biến mới về nhận thức cũng như trong hành động việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động, góp phần phòng chống, xóa bỏ các vi phạm pháp luật lao động chưa thành niên, lao động trẻ em, đáp ứng với yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đảm bảo thực hiện các công ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Tuy vậy, các quy định pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em và việc chấp hành chúng trong thực tiễn đời sống cũng còn nhiều tồn tại, thể hiện trên cả văn bản pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện. Khiến cho các loại hình lao động trẻ em tồi tệ nhất có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây.
3.4. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM
Các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến lao động trẻ em, xóa bỏ lao động trẻ em tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế và đã đưa ra được một khung pháp lý cho vấn đề này như tuổi tối thiểu được phép làm việc, giao kết hợp đồng lao động, tiền công, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, học nghề và tập nghề…cũng như các quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, quy định việc xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến lao động trẻ em.
Tuy nhiên, chế độ pháp lý về phòng chống, xóa bỏ lao động trẻ em cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập cả về mặt văn bản pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện cần phải được nghiên cứu bổ sung sửa đổi. Đó là sự đòi hỏi vừa khách quan vừa chủ quan.
3.4.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ pháp lý về phòng chống, xóa bỏ lao động trẻ em
3.4.1.1. Về mặt chủ quan
Những lý do thuộc về bản thân những quy định pháp luật và áp dụng pháp luật dành cho xóa bỏ lao động trẻ em cần phải được hoàn thiện. Nói một cách khác đó là những tồn tại, bất cập của những quy định pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện chúng trong lĩnh vực lao động chưa thành niên, lao động trẻ em.
Trước hết, mặc dù hệ thống pháp luật về lao động chưa thành niên, lao động trẻ em, xóa bỏ lao động trẻ em đã được hình thành tương đối có hệ thống, nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ, thể hiện ở những điểm sau:
Về mặt thuật ngữ, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thống nhất, hoặc phân rõ được khái niệm “lao động trẻ em” và “lao động chưa thành niên”, cũng như các khái niệm lạm dụng sức lao động”, “lao động cưỡng bức”… Điều này gây không ít khó khăn cho việc soạn thảo văn bản pháp lý cũng như áp dụng văn bản, kể cả việc nghiên cứu, tuyên truyền về xóa bỏ lao động trẻ em. Ngay cả các chuyên gia về trẻ em và lao động trẻ em cũng lúng túng.
Thiếu một văn bản có hiệu lực pháp lý cao dành để điều chỉnh riêng đối với lao động trẻ em. Hiện nay mới chỉ có vẻn vẹn 4 điều luật nằm trong Bộ luật lao động quy định về lao động chưa thành niên, lao động trẻ em. Trong đó, có điều còn mang nặng về kêu gọi, chẳng hạn như Điều 121: Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khỏe, học tập trong quá trình lao động… [33].
Còn lại một số quy định nằm rải rác ở một số Nghị định hướng dẫn và một vài thông tư.
Hiện tại, đa phần luật pháp và chính sách về lao động mới chỉ trong phạm vi trẻ em có quan hệ lao động (tức là có thuê mướn lao động trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động (tức là có thuê mướn lao động trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động) mà chưa bao trùm hết đối với lao động chưa thành niên làm việc trong khu vực gia đình và trẻ em không có quan hệ lao động. Trong khi đó, đối tượng trẻ em lao động lại rất nhiều, kể cả ở thành thị cũng như nông thôn.
Chưa có cơ chế liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa quy định pháp luật và người thực thi pháp luật, cũng như cộng đồng xã hội để bảo vệ và giúp đỡ lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Thường thì, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền cứ ban hành các quy định, các tổ chức quốc tế cứ ra các công ước và tổ chức các diễn đàn. Còn các tổ chức và cá nhân có sử dụng lao động chưa thành niên, lao động trẻ em cứ sử dụng theo tiếng gọi lợi nhuận của cơ chế thị trường. Các tổ chức xã hội có chức năng bảo vệ trẻ em và các cơ quan thông tin đại chúng cứ lên tiếng cảnh báo. Còn các em thì cứ phải gánh chịu những thiệt thòi kéo dài, hết lớp này đến lớp khác.
Thiếu các quy định chặt chẽ về cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý những hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động chưa thành niên, lao động trẻ em. Chưa có một văn bản cụ thể quy định chi tiết về thanh tra đối với lao động đặc thù này. Việc xử lý các vi phạm lại càng yếu. Mới chỉ có những vụ xét xử hình sự liên quan đến giết người, trộm cướp, ma túy, mại dâm người chưa thành niên chứ rất hiếm các vụ xét xử của tòa án về “tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em”. Phần lớn các vụ vi phạm, thậm chí gây chết người, tàn tật…nhưng chỉ dừng ở mức phạt hành chính, hoặc hòa giải dân sự. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tâm lý của một số người chủ thích sử dụng lao động trẻ em, nhất là ở khu vực quản lý nhà nước bị buông lỏng. Bởi vì công của trẻ em thường thấp hơn của lao động người lớn, kể cả khi cùng làm công việc và có kết quả như nhau, trẻ em lại dễ bảo, ít hoặc không dám đòi hỏi quyền lợi, tổ chức đình công, không có tổ chức công đoàn và nhất là không dám khiếu nại.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao động chưa thành niên, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em trong cộng đồng dân cư, nhất là người lao động và người sử dụng lao động còn chưa được quan tâm đúng mức.
3.4.1.2. Về mặt khách quan Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Các tổ chức quốc tế, nhất là ILO đã thông qua nhiều công ước và khuyến nghị về lao động trẻ em, lao động chưa thành niên. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của ILO và chúng ta đã phê chuẩn một số công ước của tổ chức này. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội của một nước chậm phát triển nên số công ước mà ta phê chuẩn vẫn còn rất khiêm tốn. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu và phê chuẩn những công ước khác phù hợp với điều kiện và trình độ của nước ta. Điều này đã khiến chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật lao động nói chung và pháp luật dành cho lao động chưa thành niên, lao động trẻ em và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em mà các công ước chúng ta ký kết, gia nhập đã quy định để từng bước theo kịp pháp luật và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tương đối quan trọng và nhạy cảm này. Bởi trẻ em và lao động trẻ em không chỉ là một vấn đề pháp lý mà còn là một vấn đề đạo lý, không chỉ là một vấn đề quốc gia mà còn là một vấn đề quốc tế.
Hơn nữa, trong bối cảnh nước ta là một nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu cao cả vì con người do con người, mà trẻ em lại là chủ nhân tương lai của đất nước, cho nên việc hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên, lao động trẻ em và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em càng đặt ra bức xúc. …
3.4.2. Một số kiến nghị có tính chất giải pháp
3.4.2.1. Về mặt văn bản pháp luật
Thứ nhất, cần thống nhất cách dùng các thuật ngữ, các khái niệm, quan niệm về “trẻ em”, “người chưa thành niên”, “lao động trẻ em”, “lao động chưa thành niên”, quy định rõ khái niệm “xóa bỏ lao động trẻ em”.
Hiện nay, như đã đề cập còn có sự vênh về độ tuổi giữa quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [29, Điều 1] và Công ước về Quyền trẻ em năm 1989: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [38, Điều 1]. Theo chúng tôi, chúng ta nên sửa Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho tuổi tương xứng với Công ước về quyền trẻ em, tức là 18 tuổi. Như vậy, thì khái niệm lao động chưa thành niên về cơ bản trùng với khái niệm lao động trẻ em. Tuy nhiên, là trong lao động trẻ em lại phân ra nhiều cấp độ để áp dụng luật như độ tuổi từ đủ 15 đến 18 tuổi và độ tuổi dưới 15 tuổi. Nếu thống nhất được quy định như vậy, sẽ loại trừ được sự thiếu thống nhất trong cách hiểu cũng như áp dụng luật.
Chưa có quy định pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em để áp dụng trong thực tế nội hàm việc xóa bỏ lao động trẻ em.
Thứ hai, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi những văn bản dưới luật để tiếp tục cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật lao động liên quan đến lao động trẻ em.
Hiện tại, những quy định của Bộ luật lao động dành riêng cho lao động chưa thành niên chỉ vẻn vẹn có 4 điều, đã vậy lại chỉ áp dụng cho những người có tham gia quan hệ lao động. Trong khi đó, những trẻ em lao động có tham gia quan hệ lao động (trẻ em làm thuê) chỉ chiếm một bộ phận nhỏ so với trẻ em lao động nói chung, nhất là trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi kết cấu nơi sử dụng đại đa số lao động trẻ em. Cần làm sao để tất cả các em tham gia lao động được pháp luật bảo vệ và bảo vệ khỏi các hình thức lao động tồi tệ nhất. Đây là vấn đề khó, nhất là về mặt kỹ thuật lập pháp, nhưng không thể không xem xét để khắc phục. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu bổ sung danh mục nghề, công việc cấm sử dụng lao động trẻ em theo tinh thần của công ước ILO số 182.
Được biết, theo Bản phân tích, so sánh pháp luật lao động Việt Nam với Công ước 182 của ILO về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp đối với việc xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và Công ước số 138 về tuổi tối thiểu được đi làm việc thì cho thấy rằng giữa pháp luật Việt Nam và nội dung Công ước 182 không có gì khác biệt. Trước tiên, cần có việc nghiên cứu, rà soát lại Danh mục công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên, ban hành kèm theo Thông tư Liên bộ số 09/TT-LB; Danh mục nghề, công việc (đặc biệt) nặng nhọc độc hại, nguy hiểm ban hành kèm theo Quyết định số 190/1999/QĐ-BLĐTBXH và Danh mục nghề công việc và các điều kiện được nhận trẻ chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, ban hành kèm theo Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH.
Thứ tư, cần nghiên cứu để bổ sung các quy định của pháp luật về chế độ báo cáo thường kỳ đối với vấn đề sử dụng lao động trẻ em.
Cho đến nay, chưa có quy định cụ thể của pháp luật về vấn đề này. Trước hết, đây là nghĩa vụ của những đơn vị, cá nhân trực tiếp sử dụng lao động chưa thành niên, lao động trẻ em, đồng thời cũng là trách nhiệm của cơ quan quản lý các cấp.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật có liên quan đến lao động trẻ em ở các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân có sử dụng lao động trẻ em.
Trước hết cần sớm ban hành bổ sung Quy chế về tổ chức và hoạt động của thanh tra lao động về vấn đề lao động trẻ em. Do trẻ em là một đối tượng đặc biệt nên rất cần có một quy chế riêng quy định về việc thanh, kiểm tra. Đảm bảo việc thanh kiểm tra có tính liên tục và quy mô rộng khắp trong cả nước.
Thứ sáu, bổ sung các hành vi vi phạm pháp luật lao động chưa thành niên và tăng các mức hình phạt về việc vi phạm pháp luật đối với lao động trẻ em.
Theo chúng tôi, cũng cần phải nghiên cứu bổ sung cả đối với bộ luật hình sự. Như đã trình bày, hiện tại, mới chỉ có một điều 228 trong Bộ luật hình sự 2009 quy định về “Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em”
Thứ bảy, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, phê chuẩn và thực hiện công ước quốc tế trong lĩnh vực trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Như đã phân tích, những công ước quốc tế, chủ yếu là các công ước của tổ chức ILO, trong lĩnh vực lao động trẻ em khá nhiều. Chúng ta cần tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của hai tổ chức ILO và UNICEF. Hai tổ chức này đều thuộc hệ thống các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc, mỗi tổ chức có một mặt mạnh riêng: ILO là tổ chức bảo vệ cho quyền lợi của 3 bên: Chính phủ, giới sử dụng lao động và giới người lao động, còn UNICEF lại quan tâm trước hết đến trẻ em, đến các quyền trẻ em được ghi trong Công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn năm 1990. Vì vậy, việc hợp tác với hai tổ chức quốc tế này là điều cần thiết. Trước mắt chúng ta cần nghiên cứu tiến hành sớm việc phê chuẩn các công ước của các tổ chức trên.
3.4.2.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện và hỗ trợ
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em, lao động nói chung và pháp luật đối với lao động trẻ em, xóa bỏ lao động trẻ em.
Đây là một công việc rất quan trọng, bởi một điều rất đơn giản là: người ta có biết pháp luật quy định gì thì mới thực hiện nó. Từ trước đến nay, chúng ta đã tiến hành tuyên truyền khá nhiều về quyền trẻ em nói chung, nhưng về vấn đề quyền trẻ em trong lĩnh vực lao động thì còn hạn chế. Theo chúng tôi, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực lao động trẻ em cần được tiến hành với các đối tượng sau:
Trước hết là chính các em, những đối tượng được pháp luật bảo vệ. Ngoài việc cung cấp những nội dung về các quyền trẻ em nói chung cho các em, cần chú ý đến các quy định pháp luật về độ tuổi lao động, học nghề, tập nghề và các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; về các điều kiện và nội dung của hợp đồng học nghề và hợp đồng lao động; khiếu nại và về tố tụng trước tòa án… Có như vậy, các em mới có cơ sở để tự bảo vệ mình hoặc nhờ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bênh vực. Thực tiễn cho thấy, trước câu hỏi: Các em có biết là có Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật lao động không? thì phần lớn các em trả lời là không biết, hoặc là chỉ nghe nói là có bộ luật với tên như vậy, còn nội dung các quy định thế nào thì không rõ.
Cho người sử dụng lao động. Đây có thể là tổ chức và cá nhân trong mọi loại hình kinh tế, mọi khu vực, với các quy mô, ngành nghề rất đa dạng. Ngoài những nội dung phổ biến giống như đối với các em nói trên, cần chú ý đến các quy định về điều kiện sử dụng lao động, nhất là các quy định về lập sổ, đăng ký, khai báo…cũng như các quy định về bảo hộ lao động và xử phạt hành chính, xử lý hình sự. Bên cạnh đó, cũng lưu ý đến tổ chức của giới sử dụng lao động, để các tổ chức này, trong phạm vi hoạt động của mình vận động và khuyến khích các thành viên của mình thực hiện đúng các quy định pháp luật về lao động trẻ em, đồng thời nâng cao nhận thức của họ về ảnh hưởng tiêu cực lâu dài của việc lạm dụng lao động trẻ em đối với các doanh nghiệp, đơn vị. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Cho các cơ quan, tổ chức, đoàn thể hữu quan như công đoàn, mặt trận, đoàn thanh niên, hội phụ nữ và các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quần chúng và xã hội khác. Bởi vì, cuộc đấu tranh xóa bỏ việc lạm dụng sức lao động trẻ em là cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp nó đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội, nhất là có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất của các cơ quan, tổ chức hữu quan và của cả cộng đồng. Tuy nhiên, gia đình vẫn phải là chỗ dựa và là người bảo trợ chính của trẻ em lao động không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần, đạo đức, pháp luật…
Thứ hai, tăng cường chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế cho người nghèo, địa phương khó khăn để có tác động làm giảm tỷ lệ lao động trẻ em.
Để ngăn chặn từ xa hiện tượng do nghèo đói mà một số trẻ em phải sớm bán sức lao động để mưu sinh, đề nghị Nhà nước trong thời gian tới cần có những biện pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo; lấy trẻ em làm một trong những trọng tâm trong việc xây dựng và đánh giá các dự án, chương trình xóa đói giảm nghèo; phát triển mạnh hơn các trường dậy nghề gắn với việc làm cho đối tượng con nhà nghèo. Nhà nước đã có nhiều chương trình, biện pháp đối với trẻ em, như Chương trình hành động quốc gia vì Trẻ em giai đoạn 2001-2010 và Chính phủ đã đầu tư ngân sách cho các Bộ ngành và địa phương thực hiện tiếp chương trình (giai đoạn 2011-2015); Chương trình quốc gia ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 – 2010 (hiện đang thực hiện chương trình giai đoạn 2011-2015); Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm… Kết quả thực hiện các chương trình trên là đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn chung các chương trình này vẫn chưa thay đổi được cơ bản tình hình trẻ em và lao động trẻ em. Hy vọng rằng, với cam kết thực hiện Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam 2001-2010: Một là, đảm bảo tốt hơn nhu cầu và những quyền cơ bản của trẻ em, phấn đấu cho một môi trường an toàn để trẻ em Việt Nam có cơ hội được bảo vệ, chăm sóc, phát triển toàn diện, có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, tiến tới ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em, tập trung vào các lĩnh vực sức khỏe và dinh dưỡng cho tuổi thơ, nước sạch vệ sinh môi trường, giáo dục cơ bản có chất lượng, bảo vệ trẻ em…nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể.
Hai là, triển khai sâu rộng trong cả nước kế hoạch thực hiện chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011-2015 đạt hiệu quả.
Thứ ba, nâng cao và phối hợp về vai trò, chức năng, hoạt động của các cơ quan quản lý và các tổ chức trong lĩnh vực lao động trẻ em. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Ở đây, trước hết phải nhấn mạnh đến các cơ quan: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, ban hành và triển khai các chính sách về các lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội, đồng thời là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc hợp tác kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm với ILO về lĩnh vực lao động, việc làm, thị trường lao động. Chính phủ đã giao cho cơ quan này phối hợp xây dựng đề án về ngăn ngừa và hạn chế trẻ em lang thang kiếm sống và bị lạm dụng sức lao động, cũng như xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kiểm tra, giám sát và tổng hợp tình hình thực các chương trình, đề án cho trẻ em.
Trong sự phối hợp chung, bên cạnh hai cơ quan nói trên còn có sự tham gia của một số bộ, ngành khác mà các hoạt động của họ cũng có những tác động đáng kể tới lao động trẻ em như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế và các cơ quan bảo vệ pháp luật như hệ thống Viện Kiểm sát, Tòa án… Các bộ, các cơ quan này có chức năng trong việc xây dựng các văn bản pháp luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và xử lý các vi phạm lạm dụng sức lao động trẻ em.
Các tổ chức cũng có vai trò, chức năng liên quan đến lao động, trong đó có lao động trẻ em như: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam – tổ chức của người lao động; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng liên minh các Hợp tác xã Việt Nam – Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động. Ngoài ra, còn có các tổ chức chính trị xã hội khác có hoạt động liên quan đến trẻ em là lao động trẻ em: Trung ương đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam…
Vấn đề trẻ em và lao động trẻ em không những là một vấn đề pháp luật mà còn là vấn đề xã hội, chính trị do vậy cần có sự phối hợp rộng rãi và có hiệu quả hành động của các cơ quan và tổ chức. Từ trước đến nay, chúng ta đã phối hợp khá tốt nhưng giai đoạn tiếp theo cần được nâng cao và đạt hiệu quả hơn.
Thứ tư, nên chăng nhà nước cần quy định về việc các chính quyền cơ sở (phường, xã…) cần có biện pháp nắm vững số cơ sở, số hộ có thuê mướn sử dụng lao động trẻ em. Hướng dẫn họ làm các thủ tục đăng ký và ký kết hợp đồng lao động, hợp đồng học nghề, tập nghề (theo mẫu chung dành cho lao động trẻ em, lao động chưa thành niên) có sự chứng nhận của chính quyền địa phương. Trong hợp đồng cần ghi rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi bên trên những lĩnh vực chủ yếu và cần thiết.
Thứ năm, cần tăng cường hơn nữa công tác kết hợp thanh, kiểm tra các cơ sở, đơn vị có sử dụng lao động chưa thành niên, lao động trẻ em và áp dụng các chế tài cần thiết đối với những đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm.
Pháp luật có quy định, và trên thực tế cũng đã thực hiện được một số cuộc thanh, kiểm tra như: cuộc thanh tra về sử dụng lao động trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội do Thanh tra của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam phối hợp với Thanh tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành theo Quyết định số 144/QĐ-BT ngày 29/7/1997 của Bộ trưởng – Chủ nhiệm Ủy ban Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam; cuộc thanh tra, khảo sát tình hình lao động trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh do Đoàn Thanh tra Liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam tiến hành theo Quyết định số 238/QĐ-LĐTB&XH ngày 18/3/1998 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội… Tuy nhiên, các cuộc thanh tra như vậy còn quá ít ỏi và không thường xuyên. Hơn nữa, phần lớn các vi phạm khi được phát hiện cũng mới chỉ dừng ở mức nhắc nhở, hoặc phạt hành chính, nên nhìn chung hiệu quả thanh kiểm tra còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Viện kiểm sát, Tòa án…hầu như còn đứng ở ngoài cuộc.
KẾT LUẬN Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế phát triển chưa cao nhưng đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về việc thực hiện các quyền của trẻ em. Tuy nhiên, cũng do nền kinh tế chưa phát triển nên một số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đang sớm phải bán sức lao động để mưu sinh. Đó là một thực tế. Lao động trẻ em mặc dù đem lại một số lợi ích vật chất cho gia đình và cho các em nhưng nếu bị lạm dụng sẽ gây ra những hậu quả xấu về thể chất, trí lực, nhân cách, ảnh hưởng không tốt đến các em cũng như nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Bởi vậy, trong khi tạm chấp nhận một thực tế trẻ em lao động, nhà nước đã có những biện pháp bảo vệ họ, trong đó có biện pháp pháp luật. Nhìn chung, pháp luật dành cho lao động chưa thành niên, lao động trẻ em về cơ bản phù hợp với các công ước của Liên hợp quốc và ILO trong lĩnh vực này.
Vấn đề lao động trẻ em ngay từ rất sớm đã được đề cập đến trong các văn bản pháp luật của nhà nước như tại Sắc lệnh số 29/SL năm 1947. Sau đó, việc điều chỉnh lao động trẻ em, lao động chưa thành niên được quy định rải rác ở một số văn bản. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, do cơ chế hành chính, bao cấp, do chậm hội nhập quốc tế, nên nhìn chung các quy định pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật còn nhiều hạn chế.
Việc thực hiện những quy phạm về lao động chưa thành niên cũng đã đạt được nhiều kết quả rất đáng trân trọng và khích lệ. Nhất là đối với một quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển như Việt Nam. Điều đó nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của các cơ quan hữu quan, sự nỗ lực của toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về chủ quan và khách quan, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều khiếm khuyết cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc chấp hành những quy định pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại một số tổ chức, cơ sở chưa tốt. Việc thanh tra, kiểm tra, việc khen thưởng những đơn vị, cá nhân chấp hành tốt, cũng như xử lý những hành vi vi phạm chưa thật hiệu quả. Điều này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến người lao động chưa thành niên, lao động trẻ em, những người yếu thế trong việc tự bảo vệ mình. Như vậy, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xóa bỏ lao động trẻ em, lao động chưa thành niên, cũng cần phải hoàn thiện cơ chế áp dụng hữu hiệu chúng trong thực tiễn sinh động của đất nước ta hiện nay.
Hy vọng rằng, với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn dân, sự hợp tác quốc tế, hệ thống pháp luật về lao động, trong đó có pháp luật đối với lao động chưa thành niên sẽ ngày càng hoàn thiện, tạo thành một hành lang pháp lý bảo vệ có hiệu quả lao động trẻ em. Và cũng hy vọng rằng, cùng với tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” do Đảng ta đề ra thì lao động trẻ em, lao động chưa thành niên sẽ không còn là vấn đề “đáng quan tâm”, “đáng báo động” như hiện nay nữa. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com