Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: thực trạng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan, kết quả thực thi pháp luật và những tồn tại trong quá trình xây dựng văn hóa pháp luật hải quan dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Từ khi thành lập ngành năm 1945 đến nay, tuy đến năm 2001 mới ban hành Luật hải quan, nhưng từ khi thành lập văn hóa pháp luật hải quan đã được hình thành và phát triển qua các thời kỳ và ngày càng được hoàn thiện cùng với những cải cách, đổi mới từ hệ thống pháp luật cho đến hiện đại hóa hơn nữa những quy trình thủ tục và điều kiện để thực hiện pháp luật hải quan trong một môi trường tự động hóa ngày càng phát triển.
2.1. Thực trạng về tổ chức hải quan Việt Nam từ khi thành lập đến nay (1945) đến nay
2.1.1 Giai đoạn 1945 – 1954
Thành lập Hải quan Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa mới khai sinh, tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngày 10/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được uỷ quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 – SL thành lập “Sở thuế quan và thuế gián thu” khai sinh ngành hải quan Việt Nam. Với:
Nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó, Ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt, hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Hệ thống tổ chức:
Trung ương: Sở thuế quan và thuế gián thu (sau đổi thành Nha thuế quan và thuế gián thu) thuộc Bộ tài chính.
Địa phương: Bắc, Trung, Nam bộ, mỗi miền đều có: Tổng thu Sở thuế quan; Khu vực thuế quan; Chính thu Sở thuế quan; Phụ thu Sở thuế quan.
Tình hình đất nước: Giai đoạn này cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; Hải quan Việt Nam phối hợp cùng các lực lượng thực hiện chủ trương bao vây kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch. Nhiệm vụ chính trị của Hải quan Việt nam thời kỳ này là bám sát và phục vụ kịp thời nhiệm vụ của Cách mạng, tạo nguồn thu cho Ngân sách quốc gia, kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm.
Trong giai đoạn này do yêu cầu nhiệm vụ chính trị là đấu tranh dành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như kiện toàn bộ máy cơ quan hải quan vẫn còn sơ sài, các quan hệ kinh tế còn chưa phát triển. Tuy nhiên trong thời kỳ khó khăn nhưng có những yếu tố tích cực như: sự đoàn kết dân tộc để đấu tranh dành độc lập, đạo đức cách mạng, đạo đức con người được đề cao, tuy còn sơ khai nhưng đã hình thành văn hóa pháp luật nói chung và văn hóa pháp luật hải quan nói riêng. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2 Giai đoạn 1954 – 1975:
Nhiệm vụ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Chính phủ giao cho Bộ Công thương quản lý hoạt động ngoại thương và thành lập Sở Hải quan ( thay ngành thuế xuất, nhập khẩu) thuộc Bộ Công thương.
Hệ thống tổ chức:
Trung ương: Sở Hải quan
Địa phương: Sở Hải quan liên khu, thành phố, Chi sở Hải quan tỉnh, Phòng Hải quan cửa khẩu.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của Ngành Hải quan, ngày 27/2/1960 Chính phủ đã đã có Nghị định 03/CP (do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ) ban hành Điều lệ Hải quan đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt nam.
Ngày 17/6/1962 Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 490/TNgT/QĐ – TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan thuộc Bộ ngoại thương.
Giai đoạn này Hải quan Việt nam được xác định là công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hoá phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hoá viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới.
Năm 1973 Hiệp định Pari được ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại của Mỹ miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện triển khai công tác khi miền Nam được giải phóng
Thời kỳ này toàn ngành Hải quan được tặng thưởng 2 Huân chương Lao động Hạng hai và Hạng Ba, 11 đơn vị và cá nhân được tặng Thưởng Huân chương Lao động và Huân chương chiến công các hạng.
Nhìn chung gia đoạn này hệ thống pháp luật hải quan còn chưa được hình thành đầy đủ, ngày 27 tháng 02 năm 1960 Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định quy định về Điều lệ hải quan, bắt đầu hình thành các khái niệm và định hình về hoạt động hải quan thì văn hóa pháp luật hải quan được nâng thêm một bước, văn hóa pháp luật nói riêng và mọi hoạt động văn hóa khác đều nằm trong nền văn hóa đấu tranh dành độc lập dân tộc.
2.1.3 Giai đoạn 1976 – 1986 Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Hải quan thống nhất lực lượng và triển khai hoạt động trên phạm vi cả nước.
Sau khi thống nhất đất nước Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả n-ước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, Sân bay quốc tế, Bưu cục ngoại dịch, Trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày 5/3/1979 quyết định chuyển tổ chức Hải quan địa phương thuộc UBND tỉnh, thành phố về thuộc Cục Hải quan Bộ Ngoại thương.
Thời kỳ này tính chất các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới có biểu hiện phức tạp và phổ biến. Ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước phê chuẩn Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 thành lập Tổng cục Hải quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng; và ngay sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 139/HĐBT ngày 20/10/1984 ban hành Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Hải quan Việt Nam được xác định là “Công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước CHXHCN Việt nam, thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngăn ngừa chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn chính sách của nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước”. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Hệ thống tổ chức Hải quan: Tổng cục Hải quan; Hải quan tỉnh, thành phố; Hải quan Cửa khẩu và Đội kiểm soát Hải quan.
Đây là một giai đoạn khó khăn của Đất nước ta nói chung. Sau khi thống nhất đất nước, về mặt tổ chức thì đã có sự thống nhất, nhưng hệ thống pháp luật vẫn còn sơ sài. Về mặt quản lý nhà nước nói chung là quản lý bằng chỉ tiêu, phong trào, đặc trưng của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Nền kinh tế bị tụt hậu do chiến tranh, do cơ chế quản lý nên các mặt hàng trong nước đều khan hiếm, việc vận chuyển và buôn bán hàng lậu qua biên giới đường hàng không, đường bộ, đường biển rất phức tạp. Có thể nói đây là giai đoạn văn hóa pháp luật hải quan đi xuống thấp nhất. Nhà nước độc quyền kinh tế, ngoại thương, cơ quan hải quan là công cụ “chuyên chế” của nhà nước, là lực lượng bán vũ trang vv, qua đó có thể thấy việc chấp hành các chính sách về hải quan là miễn cưỡng, mọi hoạt độc xuất nhập khẩu hàng hóa là của nhà nước, người dân luôn tìm mọi cách để đưa hàng hóa từ nước ngoài về nước để đáp ứng nhu cầu khan hiếm hàng hóa trong nước. Tình trạng này còn kéo dài cho đến vài năm sau khi công cuộc đổi mới đất nước theo nền kinh tế thị trường (sau năm 1986).
2.1.4 Giai đoạn 1986 – 2002
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đất nước, chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Nhiệm vụ: Yêu cầu đối với Hải quan Việt Nam lúc này là thực hiện quản lý Nhà nước về Hải quan trước tình hình: Hoạt động giao lưu hợp tác với nước ngoài phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật, hạn chế, khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu khá lớn tạo nguồn thu thuế xuất nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ lệ từ 20 – 25% GDP, tình trạng buôn lậu gia tăng, nhập lậu tài liệu phản động, ấn phẩm đồi truỵ, chất nổ, ma tuý khá nhiều.
Ngày 24/2/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh Hải quan. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia làm 8 chương, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/1990.
Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt nam là “Quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt nam qua biên giới”. Bộ máy tổ chức của Hải quan Việt nam được xác định rõ tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ Trưởng” Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Hệ thống tổ chức: Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; Hải quan Cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan.
Cơ sở vật chất của Hải quan Việt Nam được nâng cấp một bước: đã trang bị máy soi nghiệp vụ, máy và chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý, tàu cao tốc chống buôn lậu trên biển.
Công tác đào tạo bồi dưỡng công chức được lưu ý hơn: Trường nghiệp vụ Hải quan thành lập năm 1986, Trường nghiệp vụ Hải quan 1 ( Hà Nội) thành lập năm 1988; sau hợp nhất 2 trưởng thành Trường Hải quan Việt Nam và Năm 1996 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định thành lập Trường Cao đẳng Hải quan. Từ năm 1986 đến năm 1999 đã bồi dưỡng nghiệp vụ cho 4.626 cán bộ, gửi đào tạo đại học tại chức 1.750 cán bộ.[26]
Hải quan Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) từ ngày 01/07/1993 và từ đó đã mở rộng quan hệ với tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan khối ASEAN.
Ghi nhận bước trưởng thành của Hải quan Việt Nam, Hội đồng Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Ngành, Huân chương các hạng cho một số Hải quan cấp tỉnh Hải quan Việt nam nhân dịp 45 năm kỷ niệm ngày thành lập ngành Hải quan.
Từ 1990 đến 2000 toàn ngành Hải quan tích cực triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tập trung đột phá vào khâu cải cách thủ tục Hải quan tại cửa khẩu, thực hiện tốt các nội dung: Sắp xếp lại và thành lập thêm các địa điểm thông quan, công khai hoá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thủ tục Hải quan, phân luồng hàng hoá “Xanh, Vàng, Đỏ”, thiết lập đường dây điện thoại nóng, sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản, quy chế, quy trình thủ tục hải quan nhằm thực hiện các nội dung của đề án cải cách.
Trong 2 năm 1999 – 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2 Dự án với nước ngoài: Dự án VIE – 97/059 do UNDP tài trợ về “tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý XNK và hội nhập quốc tế” và Dự án nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ ( TDA) và Công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI”. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Từ năm 1993 đến 2001 toàn ngành tập trung xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật Hải quan, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến tháng 5/2001 Dự thảo Luật Hải quan lần thứ 18 đã được hoàn chỉnh và trình kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khoá 10 để thông qua thay thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990. Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành Hải quan nhân dịp 50 năm ngày thành lập Hải quan Việt nam ( 10/9/1945 – 10/9/1995).[26]
Nói chung giai đoạn này mới khởi đầu cho công cuộc đổi mới đất nước nên còn nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong cách quản lý mới, những tàn dư của chế độ quản lý bao cấp vẫn chưa hoàn toàn được xóa bỏ. Hệ thống pháp luật hải quan mới được xây dựng chưa hoàn chỉnh. Ý thức pháp luật của doanh nghiệp, hành khách xuất nhập cảnh còn chưa cao, điều kiện, cơ sở vật chất cho việc quản lý nhà nước về hải quan còn thấp kém, trình độ cán bộ, công chức còn hạn chế nên dẫn tới văn hóa pháp luật hải quan vẫn còn nhiều hạn hẹp. Luật hải quan ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới, mở ra những điều kiện thuận lợi để xây dựng văn hóa pháp luật hải quan cho những năm sau này.
2.1.5 Từ năm 2002 đến nay
Năm 2002, về mặt tổ chức hải quan chuyển từ khối nội chính sang khối kinh tế. Tổng cục hải quan không còn là cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ nữa mà chuyển sang Bộ tài chính. Bộ máy tổ chức về cơ bản vẫn giữ nguyên, cơ sở vật chất được đầu tư mạnh mẽ, đội ngũ cán bộ công chức hải quan thường xuyên được tập huấn đào tạo, bổ sung cả về chất và lượng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế của đất nước, Hải quan Việt Nam luôn thể hiện sự nhanh nhẹn đi đầu trong quan hệ quốc tế. Là thành viên của tổ chức hải quan thế giới WCO, hải quan Việt Nam luôn tham gia hợp tác chặt chẽ với hải quan các nước ASEAN và các nước trên thế giới về việc chống buôn lậu, gian lận thương mại, về công ước bảo vệ động thực vật hoang dã quý hiếm, về xác định mã số tính thuế cho hàng hóa, đẩy mạnh phát triển khu vực hàng rào phi thuế quan, thúc đẩy tự do thương mại giữa các nước trong khối ASEM và thế giới. Đặc biệt trong thời gian gần đây được sự viện trợ của hải quan Nhật Bản, chúng ta đang đưa vào thực hiện thủ tục thông quan điện tử tự động VNACCS, được sự kỳ vọng lớn của các cơ quan nghiệp, hứa hẹn sẽ mang lại một cơ chế chuyên nghiệp – minh bạch – hiệu quả
2.2. Thực trạng về hệ thống pháp luật hải quan Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Tháng 05 năm 2006 Quốc hội khóa XI đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan năm 2001, bắt đầu công cuộc cải cách hiện đại hóa hải quan, đưa hải quan điện tử vào thực hiện, quản lý bằng phương pháp quản lý rủi ro, thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan bằng phương pháp máy móc hiện đại thay cho phương pháp thủ công.
Nền kinh tế phát triển kèm theo hàng hóa xuất, nhập khẩu ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, lượng hành khách xuất nhập cảnh gia tăng, các loại hình doanh nghiệp cũng phong phú là những đặc trưng của giai đoạn hiện nay tất cả những điều trên tạo nên yêu cầu xây dựng văn hóa pháp luật hải quan ngày càng cấp thiết, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa ngành hải quan.
Ngay sau khi Luật Hải quan được ban hành đến trước thời điểm có hiệu lực thi hành, Tổng cục Hải quan đã chủ động, tích cực triển khai các nội dung của Luật vào cuộc sống, theo đó, đã trình Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm một số quy định của Luật Hải quan tại Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh, Cục Hải quan TP.Hải Phòng và Tổng cục Hải quan đã ban hành một số quy trình để thống nhất thực hiện.
Kể từ khi Luật có hiệu lực thi hành đến nay, hệ thống các văn bản để cụ thể hóa Luật Hải quan đã được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, đảm bảo tất cả những quy định của Luật đều được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
các văn bản quy phạm pháp luật có cấp độ pháp lý khác nhau, như: Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định và Thông tư của Tổng cục Hải quan (khi còn thẩm quyền ban hành), Thông tư và Quyết định của Bộ Tài chính .
Trong quá trình soạn thảo, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hải quan được đăng tải trên website của Tổng cục Hải quan hoặc website của Bộ Tài chính để lấy ý kiến tham gia của các tổ chức, cá nhân liên quan; sau khi được ký ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật đều được đăng Công báo Chính phủ, niêm yết tại các địa điểm làm thủ tục hải quan và được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Một số văn bản quy phạm pháp luật về hải quan đã được dịch ra tiếng nước ngoài để in sách phát hành hoặc đăng trên website Hải quan nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng tiếp cận.
Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành, đã mang lại những kết quả nhất định, thể hiện ở các mặt sau đây: Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Một là, Luật Hải quan đã tạo khung pháp lý cơ bản, đồng bộ với các chuẩn mực Hải quan quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập giai đoạn 2001 – 2005; góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về hải quan và hiện đại hóa hoạt động quản lý hải quan, chuyển một bước từ phương thức quản lý thủ công sang phương thức quản lý hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin và thủ tục hải quan điện tử.
Nhiều khâu trung gian không cần thiết đã được loại bỏ; rút ngắn thời gian tiến hành thủ tục hải quan; giảm bớt các giấy tờ phải nộp, phải xuất trình; đơn giản hóa, công khai hóa thủ tục hải quan; giảm sự phiền hà, ách tắc hàng hóa, phương tiện vận tải tại cửa khẩu và thông quan được thuận lợi, nhanh chóng hơn; từng bước áp dụng ưu tiên làm thủ tục hải quan đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan. Những quy định cải cách thủ tục hành chính của Luật Hải quan, như: quy định người khai hải quan được khai và nộp tờ khai hải quan trước khi hàng hóa đến cửa khẩu; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được thông quan trong trường hợp chờ kết quả giám định hoặc phân tích, phân loại để xác định mã số hàng hóa làm cơ sở cho việc tính thuế, nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời vẫn thực hiện được các biện pháp quản lý nhà nước cần thiết. Giấy tờ trong hồ sơ hải quan đã được giảm bớt, nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu quản lý nhà nước về hải quan. Doanh nghiệp chỉ còn phải nộp và xuất trình các chứng từ tối thiểu cho yêu cầu quản lý của hải quan. So với trước đây, thời gian thông quan đã được giảm bớt. Cụ thể là, đối với lô hàng miễn kiểm tra thì thời gian thông quan chỉ còn từ 5 đến 15 phút, lô hàng phải kiểm tra thực tế thì thời gian thông quan tối đa khoảng 120 phút.
Phương thức quản lý hải quan hiện đại được đẩy mạnh áp dụng nhằm đáp ứng, phục vụ kịp thời tình hình phát triển hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; chuyển dần từ phương thức quản lý thủ công sang phương thức quản lý hải quan hiện đại, thông qua việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, máy móc tiên tiến, công nghệ thông tin vào thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan; áp dụng các biện pháp kiểm tra, kiểm soát gián tiếp bằng thu thập thông tin, “giảm tiền kiểm” chuyển sang “hậu kiểm”. Đơn cử, một số phương thức quản lý hải quan hiện đại đã được triển khai, đó là: Áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro. Bắt đầu từ 01/01/2006, kỹ thuật quản lý rủi ro đã được áp dụng trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thương mại; giải toả được ách tắc tại khâu đăng ký tờ khai do các thông tin về nợ thuế và chủ hàng sẽ được hệ thống máy tính xác định; đảm bảo khách quan trong việc quyết định hình thức, mức độ kiểm tra, cũng như việc lựa chọn ngẫu nhiên lô hàng phải kiểm tra. Trên cơ sở việc xây dựng, cập nhật, quản lý các hồ sơ rủi ro và hồ sơ doanh nghiệp, đã giúp cho cán bộ, công chức Hải quan quản lý, theo dõi các đối tượng có rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan, đồng thời, thiết lập tiêu chí phục vụ việc phân luồng kiểm tra trong thông quan và chuyển giao kiểm tra sau thông quan. Áp dụng thủ tục hải quan điện tử. Kể từ năm 2005, khi bắt đầu triển khai thí điểm thủ tục hải quan điện tử đến nay, đã đạt được hiệu quả nhất định, tác động tích cực đến hoạt động xuất, nhập khẩu; thúc đẩy quá trình điện tử hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Thủ tục hải quan điện tử đã góp phần đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ hải quan. Tờ khai hải quan điện tử được chấp nhận và là căn cứ pháp lý để thông quan hàng hóa. Đối với lô hàng được phân luồng xanh, doanh nghiệp chỉ phải khai tờ khai điện tử. Thời gian thông quan giảm, tỷ lệ phân luồng xanh tăng, giảm việc tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp và công chức hải quan trong khâu thông quan. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994. Từ 2002 đến 2005: đã áp dụng 4 phương pháp xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994. Năm 2004, bỏ hoàn toàn phương pháp xác định trị giá theo bảng giá tối thiểu. Từ năm 2006 đến nay, thực hiện đầy đủ 6 phương pháp xác định trị giá theo Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994 và áp dụng với tất cả kim ngạch hàng nhập khẩu. Thực hiện kiểm tra sau thông quan. Đã tạo ra biện pháp quản lý phù hợp cho công tác quản lý hải quan hiện đại; giúp cho doanh nghiệp nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật; góp phần tích cực chống thất thu thuế hàng hóa xuất, nhập khẩu; từng bước có tác dụng ngăn ngừa, răn đe đối với các chủ thể cố ý vi phạm pháp luật hải quan. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Hai là, Luật Hải quan đã tạo điều kiện để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh chủ quyền đất nước.
Trách nhiệm, thẩm quyền, nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan của cơ quan hải quan được quy định đầy đủ hơn. Trong địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan chủ trì phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Ngoài địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan phối hợp với các lực lượng chức năng phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Nhiều giải pháp đồng bộ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới trong và ngoài địa bàn hoạt động hải quan đã được thực hiện có kết quả. Công tác phối hợp giữa cơ quan hải quan với các lực lượng chức năng được tăng cường theo hướng tích cực, hiệu quả. “Số vụ vi phạm phát hiện, bắt giữ và xử lý của ngành Hải quan tăng qua các năm: năm 2010 – 11.150 vụ, thu nộp ngân sách 68.100 triệu đồng; năm 2011 – 18.666 vụ, thu nộp ngân sách 158.338 triệu đồng; năm 2012 – 23.268 vụ, thu nộp ngân sách 240.087 triệu đồng. Từ năm 2010 – 2012, ngành Hải quan đã khởi tố 30 vụ, chuyển cơ quan Công an khởi tố 198 vụ vi phạm” [3]
Ba là, Luật Hải quan đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để ngành Hải quan thực thi nhiệm vụ thu đúng, thu đủ các sắc thuế liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và thu khác vào ngân sách quốc gia.
Luật Hải quan đã quy định tương đối đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia quản lý, thu, nộp thuế. Thủ tục đăng ký, nộp thuế, miễn giảm thuế… được quy định và thực hiện theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch. Cơ chế người khai hải quan tự khai, tự tính, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm về nội dung kê khai thuế; ân hạn thuế gắn với yêu cầu chấp hành tốt pháp luật. Nguồn thu về thuế từ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được bảo đảm, ngành Hải quan cơ bản hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch thu ngân sách nhà nước giao. “Năm 2002, đã thu được 36.794,10 tỷ đồng bằng 126% so với năm 2001 và bằng 110% so với dự toán là 33.300,00 tỷ đồng; Năm 2006: đã thu được 61.013,49 tỷ đồng bằng 115% so với năm 2005 và bằng 109% so với dự toán là 56.000,00 tỷ đồng; Năm 2010: đã thu được 131.500,00 tỷ đồng bằng 126% so với năm 2009 và bằng 138% so với dự toán là 131.500,00 tỷ đồng; Năm 2011 thu đạt trên 216.000 tỷ đồng bằng 119,99% so với năm 2010 và bằng 120% so với dự toán là 180.700 tỷ đồng. Riêng năm 2012, do tác động của cắt giảm thuế theo lộ trình, tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 5,03% giảm hơn so với dự kiến 1,47% nên số thu chỉ đạt 197.845 tỷ đồng bằng 91,59% so với năm 2011 và bằng 88,4% so với dự toán thu là 223.900 tỷ đồng” [3]. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Bốn là, Luật Hải quan đã đáp ứng được yêu cầu từng bước hội nhập kinh tế quốc tế ở thời điểm ban hành và có hiệu lực.
Luật Hải quan đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để triển khai Hiệp định cơ chế một cửa ASEAN 2005; Khung tiêu chuẩn đảm bảo an ninh thương mại toàn cầu (FOS) của Tổ chức Hải quan thế giới; Công ước về hỗ trợ hành chính lẫn nhau về vấn đề hải quan (Công ước Johanesburg); Công ước vận tải đường bộ quốc tế (Công ước TIR). Thực hiện các cam kết trong ASEAN về thủ tục hải quan, như: Hành lang xanh; Tờ khai chung ASEAN; Danh mục biểu thuế chung ASEAN,… Triển khai thực hiện các nội dung liên quan của Hiệp định giữa Chính phủ các nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Trung Quốc và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hoá và người qua lại biên giới trong khuôn khổ Hợp tác Tiểu vùng sông Mê-Kông mở rộng (Hiệp định GMS); tăng cường liêm chính cho cán bộ, công chức hải quan theo Tuyên bố Arusha về liêm chính hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới.
Năm là, Luật Hải quan đã tạo cơ sở bước đầu để xây dựng, kiện toàn tổ chức, bộ máy, lực lượng Hải quan Việt Nam từng bước hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả; công chức hải quan được nâng cao về trình độ, năng lực, phẩm chất, với định hướng phát triển nhằm ngang tầm với Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hệ thống tổ chức, bộ máy của ngành Hải quan được thiết lập, bước đầu đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công tác quản lý hải quan trong giai đoạn vừa qua. Cơ quan hải quan các cấp được quản lý, điều hành theo nguyên tắc tập trung thống nhất, nguyên tắc quản lý nhà nước theo ngành và theo phân cấp địa bàn quản lý hành chính. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan hải quan, công chức hải quan được quy định tương đối đầy đủ, đồng bộ và được phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể. Về cơ bản, từng cán bộ lãnh đạo, công chức hải quan từ Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố, Chi cục Hải quan cửa khẩu và tổ, đội đều được cá thể hoá vai trò, trách nhiệm; tạo điều kiện phát huy năng lực và có ý thức khi thi hành công vụ. Hầu hết công chức toàn Ngành đã nhận thức rõ, thực hiện nhiệm vụ theo pháp luật và phương thức quản lý hải quan mới, tự giác nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu công việc.
Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại đáng kể trong hệ thống pháp luật hải quan như:
Một số quy định của Luật Hải quan về chế độ quản lý hải quan không còn phù hợp với thực tiễn; chưa thực sự tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Chế độ quản lý hải quan được xác lập trên cơ sở chính sách quản lý mặt hàng đối với 13 loại hình xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển khẩu, quá cảnh. Luật Hải quan hiện hành chỉ quy định chung về thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Tuy nhiên, chưa có những quy định riêng phù hợp với đặc thù của từng loại hình hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải. Bên cạnh đó, Luật Hải quan hiện hành đã quy định về kiểm tra, giám sát hải quan riêng hàng hoá, phương tiện vận tải, nhưng thiếu quy định về giám sát hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu để gia công, sản xuất xuất khẩu; hàng tạm nhập tái xuất.
Quá trình thực hiện Luật Hải quan đã cho thấy, một số quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đã bộc lộ bất cập, không đáp ứng yêu cầu quản lý hải quan trong thực tiễn. Quy định hồ sơ hải quan gồm 5 loại: tờ khai, hóa đơn thương mại, hợp đồng mua bán; giấy phép xuất, nhập khẩu (nếu có) và các chứng từ khác theo quy định của pháp luật; một số chứng từ bắt buộc phải có trong hồ sơ; phải nộp ngay các chứng từ kèm theo tờ khai khi làm thủ tục hải quan. Thực tế cho thấy, một số chứng từ chỉ sử dụng khi cần để kiểm tra tính chính xác của khai hải quan; khi áp dụng thủ tục hải quan điện tử do chứng từ nộp kèm tờ khai có dung lượng lớn nên gây chậm tốc độ xử lý của hệ thống và hệ thống chỉ kiểm tra tiêu chí tờ khai, chưa thể kiểm tra được thông tin trên các chứng từ; không tạo thuận lợi và cần thiết khi hồ sơ hải quan được miễn kiểm tra. Quy định việc đăng ký làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ở hình thức thương mại hoặc phi thương mại không chặt chẽ, không hợp lý, dẫn đến lợi dụng để tránh kiểm tra, giám sát hoặc có lô hàng làm thủ tục hải quan ở hình thức thương mại nhưng có số lượng nhỏ, giá trị và mức thuế thấp, nhưng chi phí làm thủ tục cao hơn mức thuế phải nộp. Quy định được khai bổ sung, sửa chữa tờ khai trong thông quan, nhưng không quy định được sửa chữa, bổ sung sau thông quan, nên phát sinh bất cập khi có yêu cầu được khai bổ sung, sửa chữa tờ khai và không ảnh hưởng đến số thuế đã nộp, song không có cơ chế xem xét, giải quyết. Quy định khi có lý do chính đáng, được sử dụng tờ lược khai hàng hóa để thông quan đối với hàng hóa phục vụ yêu cầu khẩn cấp, tuy nhiên, quy định chưa cụ thể và rõ ràng, thiếu nhất quán giữa Luật Hải quan với văn bản hướng dẫn thi hành.
Chuẩn mực của Công ước Kyoto (sửa đổi năm 1999) khuyến nghị cơ quan hải quan cho phép doanh nghiệp được áp dụng cơ chế phân loại trước về mã số, xác định trị giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa trước khi làm thủ tục nhập khẩu. Luật Hải quan hiện hành chưa quy định cho các trường hợp này. Nếu chuẩn mực này được áp dụng sẽ tạo thuận lợi cho thương mại, giúp doanh nghiệp chủ động phương án kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ; cơ quan hải quan sẽ tăng hiệu quả quản lý thu thuế; giảm tranh chấp giữa doanh nghiệp với Hải quan về áp mã số, xác định trị giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa khi làm thủ tục thông quan.
Chế độ ưu tiên thủ tục hải quan đối với doanh nghiệp xuất, nhập khẩu hàng hoá được xác định trong Khung tiêu chuẩn về an ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (FOS) và Công ước Kyoto sửa đổi năm 2009 của Tổ chức Hải quan Thế giới. Các nước như Nhật Bản, Úc, Canada, Mexico, Thụy Điển,… cũng khẳng định rõ trong Luật Hải quan của họ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chế độ này mới chỉ được quy định trong Thông tư của Bộ Tài chính. Nên, cơ chế pháp lý của chế độ quản lý hải quan này còn ở mức thấp, thiếu tính ổn định và chưa đáp ứng chuẩn mực trong các văn bản trên của Tổ chức Hải quan Thế giới.
Một số quy định của Luật Hải quan chưa tạo thuận lợi cho việc áp dụng các phương pháp quản lý hải quan hiện đại; quản lý hải quan tập trung; việc áp dụng công nghệ thông tin, tự động hóa trong hoạt động quản lý hải quan còn hạn chế
Thu thập phân tích thông tin, quản lý rủi ro chưa được quy định và thể hiện đúng bản chất của phương thức này trong hoạt động quản lý hải quan. Thực tế cho thấy, thu thập, phân tích thông tin không chỉ phục vụ cho các hoạt động chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, mà còn để phục vụ yêu cầu quản lý hải quan một cách toàn diện. Ngoài ra cơ quan hải quan hỗ trợ, cung cấp cho doanh nghiệp; trao đổi, cung cấp cho các cơ quan khác của Nhà nước và các thành viên khác của các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập và phục vụ cho mục đích an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội… Tuy nhiên, Luật Hải quan hiện hành chưa quy định cụ thể về thông tin hải quan. Quy định quản lý rủi ro mới chỉ được thể hiện trong quy định về kiểm tra hải quan, theo đó: “kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan…” và kiểm tra thực tế hàng hoá trên cơ sở “kết quả phân tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát hải quan, từ cơ quan, tổ chức, cá nhân và Hải quan các nước mà xác định có khả năng vi phạm pháp luật về hải quan”. Có thể thấy, quản lý rủi ro mới chỉ áp dụng trong kiểm tra hải quan, chưa nêu khái niệm quản lý rủi ro; chưa quy định nội hàm, nguyên tắc, nội dung quản lý rủi ro nên việc hiểu, áp dụng không thống nhất cả trong và ngoài ngành Hải quan đã làm hạn chế tính hiệu lực, hiệu quả của phương pháp này. Việc triển khai, áp dụng quản lý rủi ro mới chỉ tập trung vào khâu trong thông quan. Các thủ tục khác, như: tiếp nhận xử lý thông tin trước thông quan; kiểm tra sau thông quan; thủ tục hải quan đối với hành lý, phương tiện xuất, nhập cảnh, giám sát hải quan và thủ tục về thuế, thanh khoản,…áp dụng còn hạn chế hoặc chưa được áp dụng. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Luật Hải quan quy định kiểm tra sau thông quan đối với 02 trường hợp: khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc căn cứ kết quả phân tích, thu thập thông tin. Quy định này của Luật Hải quan chưa thể hiện được tính chủ động của cơ quan hải quan; bản chất của kiểm tra sau thông quan là một khâu tiếp theo, liên tục của kiểm tra hải quan sau khi hàng hóa được thông quan để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đồng thời, phát hiện sai sót công vụ của bản thân cơ quan hải quan, công chức hải quan ở khâu trong thông quan; quy định này cũng chưa thể hiện được sự kết nối giữa các khâu trước, trong và sau thông quan. Mặc dù, không quy định kiểm tra sau thông quan của cơ quan hải quan tiến hành tại trụ sở cơ quan hải quan hay tại trụ sở doanh nghiệp, nhưng quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 32 Luật Hải quan được hiểu là chỉ kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo Luật Quản lý thuế, ngoài kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp, còn kiểm tra tại trụ sở cơ quan quản lý thuế và là công việc thường xuyên, không phải ra quyết định kiểm tra. Thực tế, có lúc đã cho rằng: kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp và tại trụ sở hải quan đều phải ban hành quyết định kiểm tra sau thông quan. Chính vì quy định không rõ ràng, nên phát sinh khiếu kiện về kết quả kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan. Có trường hợp, Tòa án đã xét xử, bác bỏ kết luận kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan do không ban hành quyết định kiểm tra.
Một số quy định của Luật Hải quan chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ đảm bảo hiệu quả cho hoạt động quản lý hải quan
Luật Hải quan hiện hành chỉ quy định về việc kiểm tra hồ sơ trước khi đăng ký tờ khai hải quan, mà chưa quy định rõ địa điểm, thời điểm đăng ký tờ khai hải quan; trong khi thời điểm đăng ký tờ khai là căn cứ để xác định chính sách thuế, chính sách quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật thuế, pháp luật về quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Việc không quy định rõ địa điểm đăng ký tờ khai, dẫn đến tình trạng hàng về một cửa khẩu, nhưng thủ tục hải quan lại được thực hiện ở một cửa khẩu khác, gây khó khăn trong công tác quản lý hải quan.
Luật Hải quan quy định trị giá hải quan sử dụng làm cơ sở cho việc tính thuế và thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, tuy nhiên, không quy định cụ thể mà dẫn chiếu thực hiện theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, theo đó, trị giá hải quan được xác định “theo hợp đồng”. Quy định xác định trị giá hải quan “theo hợp đồng” không phù hợp với quy định của Hiệp định xác định trị giá của WTO. Thực tế, trị giá theo hợp đồng, trong một số trường hợp không bao gồm đầy đủ các chi phí phát sinh liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu, mà các chi phí này là bộ phận cấu thành trị giá tính thuế. Ngoài ra, một số chi phí khác, tuy có nêu trong hợp đồng, nhưng sẽ được loại trừ khi xác định trị giá tính thuế.
Khai báo thông tin trước về hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, hành khách và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh đến và rời khỏi cửa khẩu là thông lệ quốc tế được thực hiện ở nhiều nước. Các cơ quan quản lý nhà nước tại cửa khẩu, như Cảng vụ, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, an ninh, cảnh sát cửa khẩu, nếu có được những thông tin này sẽ có phương án làm thủ tục phù hợp, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh; đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc gia. Tuy nhiên, Luật Hải quan chưa quy định hoạt động này. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Luật Hải quan quy định cứng các trường hợp hàng hoá thuộc diện kiểm tra, miễn kiểm tra hải quan, nên đã bị lợi dụng các trường hợp được miễn kiểm tra để gian lận, buôn lậu, trốn thuế. Các căn cứ để quyết định hình thức kiểm tra, miễn kiểm tra được quy định cứng, không phù hợp với các chuẩn mực về kiểm tra hải quan của Công ước Kyoto sửa đổi. Quy định phải thông báo cho chủ hàng biết và phải có đại diện tổ chức vận tải, đại diện uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gần nhất khi kiểm tra hải quan trong trường hợp vắng mặt người khai hải quan là không phù hợp thực tế và làm trì hoãn công tác kiểm tra hải quan của cơ quan hải quan.
Quy định giám sát hải quan nhằm bảo đảm nguyên trạng hàng hoá, phương tiện tải thuộc đối tượng quản lý hải quan chưa hoàn toàn phù hợp với yêu cầu quản lý hải quan hiện đại (một số trường hợp như nguyên liệu sản xuất của doanh nghiệp chế xuất, phương tiện vận tải nước ngoài di chuyển trong lãnh thổ Việt Nam không thể đáp ứng yêu cầu nguyên trạng ….). Mặt khác, do khối lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được lưu giữ và ra vào các khu vực cảng, cửa khẩu rất lớn, nên với phương thức giám sát như quy định hiện hành khó có thể thực hiện được. Trong khi đó, các doanh nghiệp có liên quan như: doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho bãi, doanh nghiệp xếp dỡ… tuy tham gia vào quá trình vận chuyển, lưu giữ, giao nhận hàng hóa, nhưng chưa được quy định trách nhiệm giám sát hải quan.
Luật Hải quan quy định “thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu” là một trong những nhiệm vụ quan trọng phục vụ cho công tác quản lý điều hành kinh tế vĩ mô, xây dựng, hoạch định chính sách quản lý và thuế hàng hoá xuất, nhập khẩu, đánh giá tác động của chính sách thương mại, quản lý cạnh tranh và chống phá giá, chuyển giá; tuy nhiên, không quy định việc thực hiện nhiệm vụ này như thế nào.
Một số quy định của Luật Hải quan chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ đảm bảo hiệu quả hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
Luật Hải quan quy định địa bàn hoạt động của cơ quan hải quan, song thực tế quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh vấn đề vướng mắc, đó là: Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Thứ nhất thủ tục hải quan được thực hiện tại trụ sở cơ quan hải quan, nhưng việc giám sát hải quan thực hiện tại các địa điểm khác. Ví dụ: Các tuyến đường vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh đang chịu sự giám sát của hải quan, khu vực được phép lưu giữ hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan chưa được quy định thuộc địa bàn hoạt động hải quan.
Thứ hai trên thực tế hiện nay, do đặc thù điều kiện kinh tế – xã hội của một số địa phương, ở những thời điểm nhất định, cơ quan có thẩm quyền cho phép một số mặt hàng được xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu phụ hoặc lối mở. Tại những nơi này, không có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thường xuyên, không có hoạt động của cơ quan hải quan, tuy nhiên, khi có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá tại đây, cơ quan hải quan phải bố trí lực lượng để làm thủ tục cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định. Những nơi này chưa được quy định là địa bàn hoạt động hải quan.
Thứ ba một số địa điểm lưu giữ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, như: kho bảo quản hàng hóa chờ hoàn thành thủ tục hải quan, khu vực cách ly lưu giữ hàng hóa để thực hiện việc kiểm dịch, nơi tập kết hàng hóa chờ làm thủ tục xuất khẩu… chưa được quy định là địa bàn hoạt động hải quan.
Luật Hải quan quy định trách nhiệm của Hải quan trong việc phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tuy nhiên, không cụ thể, không làm rõ giới hạn những nhiệm vụ cơ bản, những lĩnh vực nghiệp vụ phải làm. Luật chưa quy định đảm bảo pháp lý cho một số hoạt động phải tiến hành không chỉ trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, mà phải cả ở ngoài địa bàn, như: trinh sát, xác minh thông tin, điều tra nắm tình hình, tiếp nhận thông tin tố giác tội phạm buôn lậu…, nên chưa tạo cơ chế trong trường hợp cơ quan hải quan cần phải truy đuổi, bắt giữ hàng buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới di chuyển từ bên trong ra ngoài địa bàn hoạt động hải quan; dẫn đến nhiều trường hợp, khi tiếp cận được địa điểm tập kết thì tang vật vi phạm bị đã tẩu tán, do phạm vi địa bàn hoạt động hải quan còn hạn chế, làm giảm hiệu quả công tác điều tra, phòng, chống buôn lậu. Thẩm quyền đối với hoạt động này chỉ mới được định danh, chưa quy định nội hàm, như: quyền tạm hoãn khởi hành, dừng phương tiện để khám xét; một số quy định cho hoạt động kiểm soát mới định chế ở văn bản dưới luật, nên bảo đảm pháp lý chưa cao; chưa quy định trách nhiệm, quyền hạn trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá của các cơ quan nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
Một số quy định của Luật Hải quan thiếu đồng bộ, thống nhất với quy định của Luật khác liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Luật Hải quan và Luật Quản lý thuế quy định không thống nhất về khai bổ sung về thuế. Đơn cử, Luật Quản lý thuế chỉ đề cập đến việc khai bổ sung về thuế sau khi hàng hoá đã được thông quan. Thực tế phát sinh một số trường hợp: người khai hải quan yêu cầu được khai bổ sung sau khi hàng hoá đã thông quan, nhưng không ảnh hưởng đến số thuế, không ảnh hưởng đến chính sách quản lý mặt hàng. Tuy nhiên, Luật Hải quan không quy định khai bổ sung trong trường hợp này, nên không có cơ chế để cơ quan hải quan xem xét, giải quyết.
Luật Hải quan không phân định rõ nội dung và thủ tục thực hiện kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan và kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Quản lý thuế thì kiểm tra sau thông quan được thực hiện tại trụ sở cơ quan quản lý thuế và trụ sở người nộp thuế; chỉ ban hành quyết định kiểm tra thuế khi tiến hành kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế. Do đó, dẫn đến không thống nhất cách hiểu việc áp dụng các quy định này giữa cơ quan hải quan và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, giữa cơ quan hải quan và doanh nghiệp, nên thực tế đã phát sinh nhiều tranh chấp không đáng có.
Luật Thương mại quy định một số loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng chưa được Luật Hải quan quy định về thủ tục hải quan, như: hàng hoá gia công cho thương nhân nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công; hàng hoá chuyển khẩu, kinh doanh tạm nhập tái xuất, vận chuyển đa phương thức; hàng trung chuyển,…
Một số quy định của Luật Hải quan chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện cho hoạt động hợp tác quốc tế về hải quan; chưa nội luật hoá đầy đủ các chuẩn mực hải quan quốc tế đã cam kết phải nội luật tại các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập
Luật Hải quan quy định cơ quan hải quan có trách nhiệm thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích của Nhà nước Việt Nam tại Tổ chức Hải quan Thế giới; và quy định quyền tổ chức thu thập thông tin ở ngoài nước liên quan đến hoạt động hải quan. Thực tế cho thấy, ngoài thực hiện nhiệm vụ ở Tổ chức Hải quan Thế giới, cơ quan hải quan còn có trách nhiệm thực hiện hợp tác quốc tế về hải quan tại các tổ chức quốc tế như: ASEAN, APEC, ASEM, GMS,… nhưng chưa được Luật Hải quan quy định.
Theo cam kết giữa với ASEAN đến năm 2012, Việt Nam sẽ thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN. Việc xây dựng, thực hiện các cơ chế này đồng nghĩa với việc thiết lập Chính phủ điện tử và tăng cường cải cách, giảm chi phí cho thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do Luật Hải quan chưa có chế định một cửa quốc gia, một cửa ASEAN, nên hiện nay, việc triển khai, xây dựng cơ chế này được thực hiện theo các quy định cam kết, thỏa thuận tại điều ước quốc tế.
Kể từ năm 1993, Việt Nam là thành viên Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu được xây dựng trên cơ sở Danh mục của Công ước Hài hoà mô tả và mã hoá hàng hoá (Công ước HS). Tuy nhiên, việc xây dựng Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu một số mặt hàng chi tiết ở cấp độ 8 số, 10 số chưa tuân thủ nguyên tắc Công ước HS, mà theo mục đích sử dụng. Một số quy định của Biểu thuế còn phức tạp, chưa tương thích với chuẩn mực quốc tế và khu vực; chưa được đơn giản hoá để đáp ứng quản lý hải quan hiện đại và cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế, áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro. Một số quy định tại Phụ lục về hướng dẫn phân loại hàng hóa, áp dụng mức thuế theo Biểu thuế chưa phù hợp với các quy tắc của Công ước HS. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Công ước Kyoto khuyến nghị cơ quan hải quan cho phép doanh nghiệp được áp dụng cơ chế phân loại trước về mã số, xác định trị giá tính thuế, xuất xứ hàng hoá trước khi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là chuẩn mực quốc tế về tạo thuận lợi thương mại, giúp doanh nghiệp chủ động tính toán trước hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ; giúp cơ quan hải quan tăng hiệu quả quản lý hành thu; giảm tối đa các trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan về việc áp mã, xác định giá tính thuế, xuất xứ hàng hoá khi làm thủ tục thông quan. Tuy nhiên, Luật chưa có quy định về các nội dung này.
Khung tiêu chuẩn về an ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (FOS) và Công ước Kyoto sửa đổi năm 2009 của Tổ chức Hải quan Thế giới. Luật Hải quan các nước như Nhật Bản, Úc, Canada, Mexico, Thụy Điển,… quy định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có quá trình tuân thủ pháp luật tốt và áp dụng chế độ ưu tiên hải quan khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Luật Hải quan hiện hành chưa nội luật hoá chuẩn mực này.
Tóm lại bên cạnh những kết quả tích cực thu được việc nhận thức những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực thi pháp luật hải quan góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hải quan hiện đại, chuẩn mực trong quá trình xây dựng văn hóa pháp luật về hải quan.
2.3. Thực trạng về ý thức pháp luật, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực hải quan Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
2.3.1. Về cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, du lịch
2.3.1.1. Cải cách thủ tục hành chính về hải quan
Qua hơn 10 năm thi hành, công tác cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan đã có những kết quả bước đầu rất có ý nghĩa thực tiễn. Một số lượng lớn thủ tục hành chính về hải quan còn quá nhiều khâu, nhiều loại giấy tờ không hợp lý, chồng chéo, dễ bị lợi dụng, lạm dụng đã được rà soát để loại bỏ hoặc sửa đổi; nhiều thủ tục hành chính mới được ban hành theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản, thuận lợi, hướng tới xây dựng một nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, vừa tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội, được đông đảo nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và dư luận xã hội đồng tình. Ngành Hải quan đã rà soát, hệ thống hoá và công khai 239 thủ tục hành chính, đưa ra phương án sửa đổi, bổ sung 127 thủ tục hành chính. Dự kiến cắt giảm chi phí tuân thủ 705 tỷ đồng/năm. Thực thi Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hoá thủ tục hành chính, ngành Hải quan đã tham mưu, trình cấp thẩm quyền sửa đổi, ban hành mới 23 văn bản quy phạm pháp luật trong tổng số 24 văn bản quy định thủ tục hành chính về hải quan; đã thực thi phương án đơn giản hoá 125/135 thủ tục. Sau khi rà soát, thực thi các phương án sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, hiện nay thủ tục hành chính toàn ngành Hải quan còn: 184 thủ tục.
2.3.1.2. Đơn giản, giảm thiểu chứng từ thuộc hồ sơ hải quan
So với thời điểm trước khi có Luật Hải quan, Hồ sơ hải quan được đơn giản hoá, giảm bớt giấy tờ không cần thiết, như: hợp đồng đối với hàng xuất khẩu; chứng nhận xuất xứ hàng hóa đối với nhóm hàng được hưởng thuế suất ưu đãi; giấy thông báo thuế. Chứng từ thuộc Hồ sơ hải quan được giảm thiểu tối đa, đơn giản hoá các hình thức trình, nộp chứng từ; nhiều chứng từ trước đây phải nộp, trình bản chính, nay được trình hoặc nộp bản sao hoặc bản phô tô; bỏ tờ khai đối với hành khách xuất, nhập cảnh không có hàng hóa thuộc diện phải khai báo hải quan, giảm bớt các giấy tờ không cần thiết như hợp đồng đối với hàng xuất khẩu, C/O (chứng nhận xuất xứ hàng hóa) đối với hàng hưởng thuế suất ưu đãi và giấy thông báo thuế. Doanh nghiệp chỉ phải nộp, xuất trình số chứng từ tối thiểu cho cơ quan hải quan, như: lô hàng bình thường thì xuất khẩu phải nộp 3 loại giấy tờ, nhập khẩu phải nộp 4 loại giấy tờ. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
2.3.1.3. Đơn giản hóa, giảm bớt các khâu, các bước trong thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan
Ngành Hải quan đã tiến hành nhiều biện pháp để cải tiến thủ tục hải quan, quy trình nghiệp vụ, sắp xếp lại bộ máy và dây chuyền thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; từng bước áp dụng các khuyến nghị, thông lệ hải quan quốc tế. Thủ tục hải quan, các quy trình nghiệp vụ đối với từng loại hình quản lý được ban hành tương đối đầy đủ, cơ bản phù hợp với thực tế quản lý hải quan. Thủ tục hải quan đã cơ bản được thực hiện đơn giản, hài hoà dựa trên phương pháp quản lý rủi ro, áp dụng công nghệ thông tin và điện tử, đẩy mạnh kiểm tra sau thông quan. Xác lập thủ tục hải quan cho từng loại hình hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Trách nhiệm của người khai hải quan được nâng cao; phân định rõ trách nhiệm giữa người khai hải quan và công chức Hải quan; trách nhiệm của công chức Hải quan ở từng khâu của quy trình thủ tục được cá thể hoá nên đã khắc phục được tình trạng gây phiền hà, sách nhiễu trước đây.
Đổi mới, tăng cường áp dụng phương thức quản lý rủi ro trong kiểm tra hải quan. Từ năm 2013 trở đi, thủ tục hải quan điện tử được chính thức áp dụng trên toàn bộ 34 Cục hải quan tỉnh, thành phố (từ năm 2005 đến 2012, thí điểm áp dụng thủ tục hải quan điện tử tại 21 Cục); thực hiện rộng rãi khai hải quan qua mạng; từng bước trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại, tiên tiến trong kiểm tra, giám sát. Lô hàng thuộc diện miễn kiểm tra hải quan được thông quan ngay sau khi dữ liệu được chuyển đến cơ quan hải quan (hiện nay, số lượng lô hàng thuộc diện này chiếm khoảng 50% trên tổng số lượng tờ khai).
Cải cách, đơn giản hóa thủ tục hải quan, bỏ bớt khâu trung gian: hàng hoá thuộc luồng đỏ còn 4 bước, luồng vàng còn 3 bước và luồng xanh chỉ còn 2 bước. Kiểm tra hải quan được thực hiện theo phương châm: giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm. Tiêu chí xác định hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa trên cơ sở quá trình chấp hành pháp luật của người khai hải quan và các tiêu chí liên quan đến mặt hàng. Kiểm tra thực tế hàng hoá có trọng điểm, mở rộng diện miễn kiểm tra hoặc kiểm tra xác suất; bãi bỏ việc kiểm tra tràn lan. Tỉ lệ phần trăm các lô hàng chịu sự kiểm tra thực tế đã giảm xuống gần tiêu chí theo kế hoạch đặt ra. Cụ thể, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá trước năm 2000 là 100%, đến 2012 còn khoảng 11,46%, giảm 88,54% so với năm 2000). Qua đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa của nền kinh tế với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh qua các năm“năm 2001 kim ngạch xuất nhập khẩu: 31,2 tỷ đôla Mỹ; năm 2006 đạt: 84,7 tỷ đô la, tăng 171,47% so với năm 2001; năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần: 228,360 tỷ đôla Mỹ, tăng 631,73 % so với năm 2001” [3].
2.3.1.4. Giảm thiểu, rút ngắn tối đa thời gian thông quan Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Thời gian thông quan đã được cải thiện hơn rất nhiều so với giai đoạn trước khi ban hành Luật Hải quan. Quá trình tổ chức thực hiện thủ tục hải quan được quán triệt theo mục tiêu: “tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; đơn giản hóa, công khai hóa và từng bước hiện đại hóa các khâu trong thủ tục hải quan” [26]; chống tiêu cực, phiền hà, ách tắc; giảm các chi phí không cần thiết, nhưng vẫn bảo đảm quản lý hải quan chặt chẽ, đúng pháp luật, nên thời gian thông quan (từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi thông quan) được rút ngắn. Chẳng hạn, “năm 2010, thời gian xử lý tổng thể quản lý hải quan tại cảng biển, từ khi hàng đến đến khi giải phóng hàng là 7,78 ngày (bằng 186 giờ 48 phút), giảm 7% so với năm 2004 (bằng 8,41 ngày); thời gian xử lý từ khi đăng ký tờ khai đến khi giải phóng hàng tại cảng biển là 14 giờ 16 phút (giảm được 75%) so với 56 giờ 55 phút (năm 2004); thời gian xử lý phân luồng các tờ khai so với năm 2004 giảm đáng kế: luồng xanh giảm 86%, luồng vàng giảm 82% và luồng đỏ giảm 67%” [3]. Có thể thấy, đây là một bước tiến vượt bậc trong quản lý hải quan hiện đại, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, trong khi lưu lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng tăng.
2.3.1.5. Minh bạch hóa, công khai hóa các quyền, nghĩa vụ của người khai hải quan, công chức hải quan khi thực hiện thủ tục hải quan
So với trước đây, quyền lợi của doanh nghiệp, người khai hải quan khi thực hiện thủ tục hải quan được thể hiện rõ tại Luật Hải quan, như: “Được cơ quan hải quan cung cấp thông tin liên quan đến việc khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và hướng dẫn làm thủ tục hải quan”, được “xem trước hàng hoá, lấy mẫu hàng hoá dưới sự giám sát của công chức hải quan trước khi khai hải quan”, “Khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của cơ quan hải quan, công chức hải quan”, “Yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh do cơ quan hải quan, công chức hải quan gây ra theo qui định của pháp luật” đã góp phần quan trọng trong việc dân chủ hoá một bước hoạt động kinh tế, xã hội liên quan đến lĩnh vực hải quan. Tương ứng với các quyền của người khai hải quan, Luật đã cá thể hoá trách nhiệm của công chức hải quan trong thi hành công vụ, như: “Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, qui trình nghiệp vụ hải quan và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”, “Lấy mẫu hàng hoá với sự có mặt của người khai hải quan”…
2.3.2. Về hiện đại hóa quản lý hải quan, áp dụng các phương thức quản lý hải quan hiện đại Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
2.3.2.1. Khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển đại lý làm thủ tục hải quan
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện, hệ thống đại lý làm thủ tục hải quan bước đầu đã hình thành, có tính chuyên nghiệp, đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, đó là: tạo ra một cơ chế quản lý chặt chẽ có hiệu quả; nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động khai báo, làm thủ tục hải quan; cơ quan hải quan có điều kiện cải tiến quy trình thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hoá các bước trong quy trình tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra hàng hoá…
Đồng thời, đại lý làm thủ tục hải quan mang lại cho doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa những lợi ích thiết thực, đó là: tiết kiệm, giảm được chi phí không cần thiết, như: phải duy trì một lực lượng nhân viên làm nhiệm vụ khai hải quan; do mang tính chuyên nghiệp cao nên hạn chế được các sai sót, nhầm lẫn trong khai báo mã số, xuất xứ hàng hóa và trị giá hải quan…; giảm bớt được các đầu mối khai báo, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động từ cả hai phía chủ hàng và cơ quan hải quan; tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý hải quan, cung cấp thông tin đầy đủ, xác thực cho chủ hàng có nhu cầu và phân định rạch ròi trách nhiệm, nghĩa vụ giữa chủ hàng với người đại lý làm thủ tục hải quan trong khi xảy ra vi phạm hoặc tranh chấp.
Tính đến năm 2012, Tổng cục Hải quan và Học viên Tài chính đã đào tạo được 3270 nhân viên về nghiệp vụ khai hải quan, số nhân viên đã tham gia dự thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan là 2973 người và đã được cấp chứng chỉ 2095 người; Tổng cục Hải quan đã cấp 267 thẻ nhân viên đại lý hải quan cho 126 đại lý hải quan thuộc địa bàn quản lý của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Khánh Hoà, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ,…[26]
2.3.2.2. Tăng cường thực hiện kiểm tra sau thông quan Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Được triển khai kể từ ngày 01/01/2002, hoạt động kiểm tra sau thông quan đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ quản lý nhà nước về hải quan. Bước đầu, hoạt động kiểm tra sau thông quan đã dần đi vào nề nếp, làm chuyển biến thay đổi về nhận thức của công chức trong toàn ngành Hải quan, cũng như đối tượng, cơ quan, tổ chức có liên quan về phương thức quản lý hải quan tiên tiến và kiểm tra hải quan hiện đại.
Công tác kiểm tra sau thông quan được tiến hành theo nguyên tắc quản lý rủi ro, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các hồ sơ thuộc diện ưu tiên, ưu đãi, miễn kiểm tra. Từ năm 2002 đến năm 2012, đã tiến hành “9.347 cuộc kiểm tra sau thông quan (1.109 cuộc kiểm tra tại trụ sở DN; 8.238 cuộc kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan), đã phát hiện 3.288 vụ vi phạm (trong đó: 2.835 vụ phạm về thuế; 126 vụ vi phạm về chính sách quản lý mặt hàng). Đã tiến hành phúc tập 26.596.000 hồ sơ, phát hiện 6.022 vụ vi phạm”[3].
Đã ra quyết định truy thu từ kiểm tra sau thông quan 3.199 tỷ đồng; truy thu từ phúc tập hồ sơ 413,4 tỷ đồng; phạt vi phạm hành chính 3.288 vụ (số tiền phạt 223,8 tỷ đồng); góp phần tích cực vào việc chống thất thu thuế, chống gian lận thương mại, kiểm chế nhập siêu, cải cách hành chính, hiện đại hóa ngành Hải quan. Cho đến nay, đã thực thu vào ngân sách nhà nước được 2.675,5 tỷ (từ ấn định thuế 2.133,3 tỷ; từ phúc tập hồ sơ 375,5 tỷ; từ phạt 166,7 tỷ) [26].
Việc áp dụng cơ chế kiểm tra sau thông quan đã chỉ ra rằng: trách nhiệm công vụ của công chức làm thủ tục hải quan bao hàm cả ở trong và sau khi hàng hoá đã được thông quan. Từ đó, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm pháp lý, tinh thần kỷ luật, tuân thủ các quy trình thông quan của đội ngũ công chức làm các thủ tục trong giai đoạn thông quan hàng hoá. Qua hoạt động kiểm tra sau thông quan, kết hợp với tuyên truyền, hướng dẫn đã giúp cho doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, đó là: sau khi được kiểm tra sau thông quan các doanh nghiệp đã nhận thức được giảm thiểu kiểm tra trong thông quan không có nghĩa là cơ quan hải quan buông lỏng quản lý, có thể lợi dụng để vi phạm pháp luật, mà tiếp tục chịu sự kiểm tra sau thông quan, tạo ra ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn; Kiểm tra sau thông quan đã chỉ ra nhiều sai sót về thực hiện pháp luật, chính sách hải quan mà doanh nghiệp chưa biết, chưa nắm vững, từ đó giúp họ củng cố, tìm hiểu rõ các quy định để không tiếp tục vi phạm, tránh được vi phạm do lỗi vô ý; Nhiều vi phạm được phát hiện, xử lý đúng pháp luật đã cảnh tỉnh, nhắc nhở doanh nghiệp, răn đe, ngăn ngừa các vi phạm do lỗi cố ý. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
2.3.2.3. Tích cực triển khai, áp dụng phương pháp quản lý rủi ro
Phương pháp quản lý rủi ro được thực hiện trên cơ sở thu thập, phân tích thông tin nghiệp vụ hải quan, đánh giá rủi ro để xác định, lựa chọn đối tượng kiểm tra hải quan.
Ngay từ năm 2005, cơ chế phân tích, đánh giá rủi ro, tiêu chí phân luồng được ngành Hải quan thiết lập, triển khai tại 3 cấp: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải quan. Bộ tiêu chí để đánh giá rủi ro ban đầu (năm 2006) gồm 75 tiêu chí. Đến năm 2008, Bộ Tài chính quy định chuẩn hóa các tiêu chí thành 04 loại: tiêu chí quy định; tiêu chí phân tích; tiêu chí tính điểm và tiêu chí lựa chọn ngẫu nhiên; Tổng cục Hải quan đã chi tiết hóa thành bộ tiêu chí quản lý rủi ro thành 85 nhóm. Đến nay, toàn Ngành đã xây dựng, cập nhật và đưa vào áp dụng tổng số 9095 tiêu chí quản lý rủi ro để thực hiện phân luồng tờ khai hải quan phù hợp với từng cấp, đơn vị. Tiêu chí quản lý rủi ro lạc hậu được loại bỏ, tiêu chí mới được xây dựng, cập nhật thường xuyên. Đến tháng 05/03/2013, toàn Ngành đang áp dụng 2503 tiêu chí quản lý rủi ro để kiểm soát phân luồng tờ khai; cập nhật, kiểm soát trên hệ thống quản lý rủi ro được: 18.011 hồ sơ doanh nghiệp. Từ đó, giúp công chức hải quan quản lý, theo dõi các đối tượng có rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan, thiết lập tiêu chí để phân luồng kiểm tra trong thông quan và chuyển giao kiểm tra sau thông quan.
Thông qua việc áp dụng hệ thống quản lý rủi ro đã: đánh giá, phân loại rủi ro (phân luồng) đối với từng lô hàng, hỗ trợ đắc lực cho Chi cục Hải quan quyết định hình thức, mức độ kiểm tra hàng hoá; giảm thiểu thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí phát sinh trong quá trình làm thủ tục hải quan. Năm 2005, thời gian thông quan trung bình của 01 lô hàng xuất nhập khẩu là khoảng 05 giờ; năm 2006: thời gian thông quan trung bình 01 lô hàng xuất khẩu không vi phạm tối thiểu là 5-10 phút, tối đa 40-60 phút; lô hàng nhập khẩu không vi phạm tối thiểu là 5-15 phút, tối đa 120-150 phút. Cải thiện, từng bước minh bạch môi trường thương mại trên cơ sở nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp. Thống kê cho thấy, tháng 01/2006: 16% doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan; tháng 6/2006: 29% doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan; tháng 12/2006: 39% doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan. giảm tỷ lệ kiểm tra hàng hoá; giảm áp lực về khối lượng công việc cho cơ quan hải quan trong điều kiện lưu lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng. Tỷ lệ kiểm tra hàng hoá, năm 2005: miễn kiểm tra 40,2%; kiểm tra thực tế 59,8%; đến tháng 31/12/2012, tỷ lệ phân luồng xanh 63,25%; tỷ lệ phân luồng vàng 25,29%; tỷ lệ phân luồng đỏ 11,46%. Tỷ lệ doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan: 80,56%.[26]
Năm 2012, thông qua hệ thống phân luồng đã phát hiện 11.653 tờ khai phạm pháp luật, trong đó: tờ khai vi phạm thuộc luồng vàng (diện kiểm tra chi tiết): 0,17%; tờ khai vi phạm thuộc diện kiểm tra thực tế hàng hóa (luồng đỏ): 2%; tờ khai các loại chuyển luồng để kiểm tra thực tế (luồng đỏ): 1,39%. [3] Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
2.3.2.4. Về ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện thủ tục hải quan điện tử
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trang thiết bị hiện đại vào quản lý nhà nước về hải quan
Ngành Hải quan bước đầu áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hải quan, giải toả được ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu lớn, cũng như tại khâu đối chiếu nợ thuế; xây dựng được hệ thống cung cấp thông tin về quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp phục vụ Chi cục trưởng quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá; thực hiện khai báo điện tử thí điểm ở một số Cục Hải quan tỉnh, thành phố; áp dụng quản lý hàng gia công trên hệ thống máy tính; thực hiện nối mạng máy tính giữa cơ quan hải quan với các cơ quan khác tại khu vực cảng biển. Trong đó, tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, như: mở rộng thủ tục hải quan điện tử; áp dụng quản lý rủi ro trong thông quan; thực hiện thí điểm thành công hình thức thanh toán điện tử về thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác với hệ thống kho bạc – các ngân hàng thương mại. Hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin được tăng cường, trong đó, ngành Hải quan đã triển khai đồng bộ 08 hệ thống dữ liệu là: quản lý đăng ký tờ khai hải quan, quản lý hàng hoá gia công trên máy tính, khai báo điện tử đối với loại hình gia công, quản lý thông tin vi phạm pháp luật hải quan, quản lý theo dõi nợ thuế, thông tin cưỡng chế thuế, giám sát hàng hoá tại cảng biển và quản lý thông tin dữ liệu giá tính thuế. Việc này giúp cơ quan hải quan nhanh chóng có thông tin ban đầu về hàng hoá, hành khách, tàu biển; tạo điều kiện làm thủ tục hải quan nhanh chóng đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh.
Bên cạnh đó, ngành Hải quan còn đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ yêu cầu quản lý, như: máy soi hàng hoá, hành lý, hệ thống camera giám sát, cân ôtô tại các địa bàn trọng điểm, như: giai đoạn 2002-2004 đã lắp đặt 01 hệ thống camera tại sân bay quốc tế Nội Bài, 27 máy soi hành lý cố định và 06 máy soi hành lý di động, 02 cân ôtô… Năm 2009-2012, trang bị hệ thống máy soi container tại cảng Cát Lái-TP.Hồ Chí Minh; cảng Hải Phòng, cửa khẩu quốc tế đường bộ Lao Bảo-Quảng Trị…[3]
- Chủ động triển khai, khuyến khích áp dụng thủ tục hải quan điện tử
Ngày 20/6/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử. Việc thí điểm thực hiện thủ tục hải quan điện tử theo Quyết định này gần 04 năm (2005-2009) tại 02 Chi cục Hải quan điện tử thuộc Cục Hải quan TP.Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh, mặc dù bước đầu đã đạt được những thành công nhất định, tuy nhiên vẫn khó mở rộng và sức lan tỏa còn hạn chế. Vì vậy, năm 2009, tại Quyết định số 103/2009/QĐ-TTg sửa đổi bổ sung Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trương chuyển mô hình thí điểm Chi cục Hải quan điện tử (chỉ thực hiện thủ tục hải quan điện tử) sang mô hình Chi cục Hải quan áp dụng đồng thời cả 2 phương thức thủ tục hải quan điện tử và thủ công mở rộng tại 20 Cục Hải quan tỉnh, thành phố. “Đến 31/12/2012, số doanh nghiệp đăng ký tham gia thủ tục hải quan điện tử đạt 59.000 doanh nghiệp; số tờ khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử đến 31/12/2012 đạt 4,426 triệu tờ khai chiếm tỷ lệ trên 86,97% so với tổng số tờ khai toàn quốc (trên 5,089 triệu tờ khai). Kim ngạch xuất nhập khẩu thực hiện bằng thủ tục hải quan điện tử năm 2012 đạt 214,53 tỷ USD chiếm tỷ lệ 95,11% so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu toàn quốc”[26].
Ngày 23/10/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2012/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại, có hiệu lực kể từ 01/01/203. Đến nay (11/3/2013), thủ tục hải quan điện tử được triển khai tại tất cả 34/34 (100%) Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Số Chi cục đã thực hiện hải quan điện tử là 125/168 (chiếm 57,14%) Chi cục toàn Ngành. Hiện đã có 17/34 Cục Hải quan có tỷ lệ tờ khai hải quan điện tử chiếm tỷ lệ 100%. Số lượng doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử đạt 28.948 doanh nghiệp chiếm 92,88% tổng số số doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu trên toàn quốc. Thời gian thông quan lô hàng xuất, nhập khẩu trung bình: luồng xanh từ 3-15 phút; luồng vàng từ 10-60 phút; luồng đỏ phụ thuộc thời gian kiểm tra thực tế hàng hóa.
Thực hiện thủ tục hải quan điện tử đã tác động tích cực đối với công tác quản lý hải quan, như: quy trình thủ tục đơn giản, hài hòa, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực quốc tế; giảm thời gian thông quan, chi phí và thủ tục hành chính, giấy tờ cho doanh nghiệp; tăng sức cạnh tranh, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng; giúp nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức Hải quan, giảm phiền hà, sách nhiễu; đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng doanh nghiệp: giảm thiểu số lượng giấy tờ phải nộp hoặc xuất trình; giảm được chi phí đi lại làm thủ tục hải quan; giảm tiếp xúc trực tiếp giữa công chức Hải quan và người khai hải quan. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Mặc dù mới áp dụng, nhưng cộng đồng doanh nghiệp đã thấy được lợi ích khi lựa chọn thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Qua lấy ý kiến, hầu hết các doanh nghiệp đều đồng tình, ủng hộ chủ trương mở rộng thủ tục hải quan điện tử, đánh giá cao và tích cực ứng dụng phương thức này.
2.3.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng phương tiện kỹ thuật, khoa học công nghệ hỗ trợ cho hoạt động kiểm tra hải quan
Nếu trong năm 2002, công tác phân tích, phân loại chỉ xử lý được 124 mẫu thì từ năm 2003 đến nay, đã tiếp nhận, xử lý và tiến hành phân tích, phân loại theo yêu cầu của các đơn vị Hải quan địa phương trên 65 ngàn mẫu hàng hóa. Lượng mẫu yêu cầu phân tích, phân loại gia tăng mạnh mẽ: năm 2005 tăng gấp 1,8 lần năm 2004; các năm tiếp theo tăng gấp khoảng 1,2 lần năm trước; mỗi năm thường tiếp nhận, xử lý khoảng 10 ngàn mẫu/năm [3].
Hiệu quả của công tác phân tích, phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho thấy: kết quả phân tích, phân loại đã làm thay đổi khoảng 41-52% mã số hàng hóa theo khai báo của chủ hàng, trong đó, theo hướng tăng thuế khoảng 12,8-25,2%, giảm thuế khoảng 6,2-14,8%, còn lại là thay đổi mã số khác, nhưng không thay đổi thuế suất. Có những mặt hàng thay đổi thuế suất tăng từ 0% lên 50%. Như vậy, với khoảng 24-30% của tổng lượng trên 82.349 mẫu hàng hóa đã phân tích, phân loại thì khoảng trên 18 ngàn mẫu đã điều chỉnh mã số theo hướng tăng thuế. Các đơn vị Hải quan địa phương sử dụng gần như 100% thông báo kết quả phân tích, phân loại để thông quan hàng hóa. Có thể nhận thấy, công tác phân tích, phân loại đã góp phần tích cực vào việc chống thất thu thuế, chống gian lận thương mại, đóng vai trò tích cực đối với việc thu đúng, thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước. Đa số kết quả phân tích, phân loại đều được doanh nghiệp chấp nhận, việc khiếu nại được hạn chế tới mức thấp nhất.
2.3.3. Hiện đại hoá, tin học hóa công tác thống kê hải quan
Nếu như trong giai đoạn từ 1996-2001, số liệu thống kê hải quan chỉ báo cáo cho 04 cơ quan là Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê và Văn phòng Chính phủ. Tuy nhiên, kể từ năm 2002 đến nay, đã tăng lên trên 40 đầu mối nhận báo cáo. Thông tin thống kê hải quan ngày càng được phổ biến sâu rộng đến người sử dụng trong và ngoài nước thông qua Cổng Thông tin điện tử ngành Hải quan. Thống kê hải quan đã đáp ứng ngày càng tăng các yêu cầu số liệu, năm sau nhiều hơn năm trước khoảng 10%. Những năm gần đây, trung bình mỗi năm, hoạt động thống kê hải quan đã nhận và xử lý khoảng 300 yêu cầu số liệu không định kỳ của các đơn vị trong và ngoài ngành Hải quan, phục vụ kịp thời cho công tác điều hành của Chính phủ trong quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, đầu tư nước ngoài, kìm chế lạm phát, chống nhập siêu, xây dựng chính sách thuế, xây dựng biểu thuế, chống bán phá giá từ nước ngoài.
Nhờ các ứng dụng công nghệ thông tin, công tác thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng rút ngắn độ trễ của số liệu từ khoảng 1 tuần xuống còn 2-3 ngày. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống kê hải quan đã giảm thiểu báo cáo không cần thiết; bỏ chế độ báo cáo giấy của Hải quan tỉnh, thành phố chuyển thành báo cáo điện tử; việc truyền nhận dữ liệu tờ khai từ cấp địa phương lên Tổng cục Hải quan trở nên nhanh chóng, hàng ngày. Đến nay, đã hoàn toàn bỏ chế độ báo cáo thống kê định kỳ cho cục Hải quan các tỉnh, thành phố. Điều đó không chỉ thể hiện tính hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin, mà còn thể hiện sự quan tâm của các cơ quan liên quan đến số liệu thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô.
2.3.4. Đảm bảo thu đúng, thu đủ các nguồn thu cho ngân sách quốc gia theo chỉ tiêu được giao Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Các thủ tục hành chính về thuế, như: đăng ký, nộp thuế, miễn giảm thuế… được quy định và thực hiện theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch hơn. Việc quy định cơ chế người nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, ân hạn thuế gắn với yêu cầu chấp hành tốt pháp luật được thực hiện đã khuyến khích doanh nghiệp tích cực tuân thủ pháp luật về hải quan và về thuế, tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm thiểu nợ thuế xấu. Việc áp dụng quản lý rủi ro trong công tác quản lý thuế đã nâng cao quyền, trách nhiệm của người nộp thuế, đồng thời, giúp cho cơ quan hải quan giảm bớt các công việc cụ thể, tập trung vào quản lý, giám sát thu, sang tập trung vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, giám sát tuân thủ pháp luật của người nộp thuế thông qua công tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thi hành pháp luật của người nộp thuế. Quy định về quản lý rủi ro, phân loại hồ sơ hoàn thuế giúp cho cơ quan hải quan ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể, không kiểm tra một cách tràn lan, tránh lãng phí tiền bạc, nguồn lực và áp lực lên doanh nghiệp, đồng thời, tạo cơ sở để cải cách hiện đại hoá Hải quan, áp dụng hải quan điện tử.
Nguồn thu về thuế từ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được bảo đảm; nhiều năm liền, ngành Hải quan luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch thu ngân sách nhà nước giao (Phụ lục 2 đính kèm).
2.3.5. Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan
2.3.5.1. Triển khai thực thi có hiệu quả hoạt động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
Các năm qua, ngành Hải quan đã triển khai đầy đủ, kịp thời đến tất cả các đơn vị Hải quan các cấp: Luật Hải quan, các văn bản quy định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ban 127-TW; các biện pháp để phòng, chống buôn lậu, kiềm chế lạm phát, bình ổn giá, kiềm chế nhập siêu, tăng cường công tác phòng, chống buôn lậu trong các dịp tết nguyên đán; chống xuất lậu xăng dầu, than, khoáng sản; chống nhập lậu gia súc gia cầm, pháo nổ, thuốc lá,…
Công tác phối hợp giữa cơ quan hải quan với các lực lượng chức năng được đẩy mạnh, tăng cường và có hiệu quả trong việc phòng, chống buôn lậu phát hiện, bắt giữ, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan. Cơ chế phối hợp giữa ngành Hải quan với lực lượng chức năng đã được triển khai trong thực tế, như: Quy chế phối hợp lực lượng Hải quan và Bộ đội Biên phòng; Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Quy chế phối hợp giữa Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát trong phòng, chống tội phạm; Quy chế phối hợp giữa Tổng cục Hải quan và Cục quản lý thị trường; Thông tư quy định về về quan hệ phối hợp giữa Hải quan và Cảnh sát biển; Thoả thuận phối hợp giữa Tổng cục Hải quan và Tổng cục II-Bộ Quốc phòng trong thực hiện công tác tình báo, thu thập thông tin hải quan. Thực hiện theo đó, Cục Hải quan tỉnh, thành phố đã tổ chức triển khai ký kết các quy chế, kế hoạch phối hợp với các lực lượng chức năng tại các địa bàn địa phương; định kỳ, tổ chức giao ban, sơ kết, tổng kết đánh giá công tác phối hợp.
Đồng thời, ngành Hải quan tăng cường cảnh báo, chỉ đạo các Hải quan địa phương chủ động và phối hợp với các đơn vị chức năng tại địa bàn triển khai thực hiện các biện pháp đấu tranh, phòng, chống buôn lậu; triển khai lực lượng chống buôn lậu trên các tuyến; tiến hành các biện pháp điều tra, sàng lọc đối tượng… để chủ động áp dụng các biện pháp đấu tranh thích hợp; chủ động xây dựng các chuyên đề tập trung đấu tranh vào các chuyên án trọng điểm… Các Cục Hải quan tỉnh, thành phố đã chủ động xây dựng và triển khai các kế hoạch công tác kiểm soát hàng năm có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa bàn hoạt động; xây dựng các phương án đấu tranh với các đối tượng, địa bàn, tuyến trọng điểm, nổi cộm; phối hợp với các lực lượng chức năng trong việc tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, vận động quần chúng, trao đổi thông tin, tổ chức đấu tranh, ngăn chặn hoạt động buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép trên các tuyến biên giới. Mặt khác, chú trọng phối hợp, trao đổi thông tin với các lực lượng hữu quan trên địa bàn hoạt động. Đồng thời, đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục cho nhân dân về pháp luật hải quan, không tham gia tiếp tay cho buôn lậu.
Tính từ năm 2002 đến tháng 12/2012, toàn ngành Hải quan đã phát hiện, bắt giữ, xử lý 156.317 vụ việc, giá trị hàng hoá vi phạm ước tính trên 5.211,69 tỷ VNĐ và xử lý hình sự trên 515 vụ.[3] Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Có thể thấy hoạt động phòng, chống buôn lậu của ngành Hải quan đã góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, an ninh kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay. Đồng thời, nó cũng cho thấy, công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới của Hải quan Việt Nam đã góp phần đáng kể làm lành mạnh môi trường kinh tế đối ngoại, đưa các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh vào nề nếp.
2.3.5.2. Triển khai có hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới
Từ khi Luật Hải quan có hiệu lực, đặc biệt là từ năm 2007 đến nay, công tác thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã được triển khai có hiệu quả từ việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, các quy trình nghiệp vụ áp dụng, đến việc triển khai nghiên cứu, nắm tình hình địa bàn và đấu tranh, bắt giữ, xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ tại các địa bàn trọng điểm trong cả nước. Nhận thức của công chức Hải quan về chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được nâng cao, được các doanh nghiệp và Hiệp hội ngành nghề ghi nhận là địa chỉ đáng tin cậy để bảo vệ có hiệu quả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Ngành Hải quan đã và đang thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất, nhập khẩu liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ với gần 330 đối tượng, bao gồm: nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý. “Theo thống kê, từ năm 2007 đến nay, toàn Ngành đã kiểm soát, phát hiện hơn 250 trường hợp hàng hoá bị nghi ngờ vi phạm về sở hữu trí tuệ , xử lý 30 vụ việc vi phạm, trị giá hàng hoá vi phạm gần 14,2 tỷ đồng, xử phạt vi phạm hành chính gần 8 tỷ đồng” [3].
2.3.6. Triển khai thực thi các điều ước quốc tế
Với chủ trương nội luật hoá tối đa các chuẩn mực tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ hoặc điều ước quốc tế Việt Nam chuẩn bị gia nhập, nhiều chuẩn mực tại các Điều ước đã được nội luật hoá vào pháp luật hải quan, như: Công ước Kyoto về đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999), Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT), Công ước quốc tế về hệ thống điều hoà mô tả và mã hoá hàng hoá (Công ước HS), Hiệp định thực thi Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – GATT (gọi là Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994). Trong quá trình xây dựng thủ tục hải quan điện tử, thủ tục hải quan, kiểm tra sau thông quan và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ngành Hải quan đã và đang tiếp tục nội luật hoá các chuẩn mực của các điều ước quốc tế để thực hiện các cam kết khi ký kết hoặc gia nhập, đáp ứng mục tiêu cải cách, phát triển, hiện đại hoá hải quan trong tình hình mới.
2.3.6.1. Đẩy mạnh nội luật hóa các chuẩn mực của Công ước quốc tế về đơn giản và hài hóa thủ tục hải quan (Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999). Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan tại Luật Hải quan đã tuân thủ phần lớn các chuẩn mực của Công ước này. Rà soát cho thấy, trong tổng số 148 chuẩn mực của Công ước này, “Luật Hải quan và văn bản chỉ tiết thi hành phù hợp hoàn toàn với 121 chuẩn mực (chiếm 81,2%); phù hợp một phần với 23 chuẩn mực (chiếm 16,1%) và còn 4 chuẩn mực chưa phù hợp (chiếm 2,7%)” [3]. Trong số các chuẩn mực của Công ước Kyoto 1999 mà Luật Hải quan đã phù hợp, thì một số chuẩn mực đã được nội luật hóa như: thủ tục hải quan điện tử; sửa đổi bổ sung tờ khai hải quan ngay cả sau khi việc kiểm tra tờ khai hàng hoá đã bắt đầu; lấy mẫu hàng hoá ở mức tối thiểu cần thiết; số thuế tối thiểu không phải nộp thuế; áp dụng quản lý rủi ro trong công tác quản lý hải quan; xử phạt vi phạm hành chính…
2.3.6.2. Đẩy mạnh nội luật hóa các chuẩn mực tại Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS).
Theo hiệp định TRIPS (từ Điều 51 đến Điều 60), Luật quốc gia thành viên phải ban hành thì cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý đề nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giả mạo hoặc vi phạm bản quyền có thể xảy ra, được đệ đơn cho các cơ quan có thẩm quyền, là cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử, yêu cầu đình chỉ tại cơ quan hải quan để ngăn chặn các hàng hoá đó vào lưu thông tự do; có thể cho phép đệ đơn như vậy đối với hàng hoá xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác….
Các điều khoản của Luật Hải quan về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, cơ bản đã phù hợp với các quy định nêu trên của TRIPS, như: phạm vi kiểm tra, giám sát hải quan; nguyên tắc, điều kiện tạm dừng làm thủ tục hải quan. Đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, tại Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005, Chính phủ đã cụ thể hoá thủ tục tạm dừng làm thủ tục hải quan; “thời hạn, phạm vi tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan và kiểm tra xác định tình trạng pháp lý của hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm; các trường hợp tiếp tục làm thủ tục hải quan và xử lý các bên liên quan”[2]; trách nhiệm của chủ sở hữu quyền và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền. Qua đó, nâng cao hiệu quả tối đa công tác bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể quyền hữu trí tuệ tại biên giới.
2.3.6.3. Tích cực nội luật hóa các quy định, chuẩn mực của một số điều ước quốc tế khác. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Từ 2002 đến 2005, cơ quan hải quan đã triển khai áp dụng 04 phương pháp xác định trị giá tính thuế của Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994, trên cơ sở cụ thể hóa tại các điều khoản của Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 (bảo lưu 2 phương pháp là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính toán); 90% tổng số kim ngạch hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam đã được áp dụng 04 phương pháp xác định trị giá này. Năm 2004, đã bỏ hoàn toàn phương pháp xác định trị giá hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo bảng giá tối thiểu. Từ năm 2005 đến nay, Chính phủ ban hành Nghị định 155/2005/NĐ-CP thay thế Nghị định số 60/2002/NĐ-CP, và tiếp đó là Nghị định 40/2007/NĐ-CP, cơ quan hải quan đã được giao nhiệm vụ áp dụng tất cả 6 phương pháp xác định trị giá đối với tất cả hàng hoá nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994.
Từ năm 2002 đến năm 2011, Việt Nam đã ký kết, gia nhập và tuân thủ toàn bộ Công ước HS; Ký kết Nghị định thư thực hiện Danh mục Biểu thuế hài hoà ASEAN (AHTN). Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam đã tuân thủ theo Công ước HS ở cấp độ 6 số và tuân thủ theo AHTN ở cấp độ 8 số, có chi tiết ở cấp độ 10 số theo đặc thù hàng hoá Việt Nam. Từ năm 2012 trở đi, Biểu thuế nhập khẩu sẽ thống nhất hoàn toàn theo AHTN ở cấp độ 8 số. Đồng thời, ngành Hải quan đang nỗ lực thực hiện Hiệp định cơ chế một cửa ASEAN 2005; Khung tiêu chuẩn đảm bảo an ninh thương mại toàn cầu (FOS) của Tổ chức Hải quan thế giới; Công ước về hỗ trợ hành chính lẫn nhau về vấn đề hải quan (Công ước Johanesburg); Công ước vận tải đường bộ quốc tế (Công ước TIR). Thực hiện các cam kết trong ASEAN về thủ tục hải quan, như: Hành lang xanh; Tờ khai chung ASEAN; Danh mục biểu thuế chung ASEAN,… Triển khai thực hiện các nội dung liên quan của Hiệp định giữa Chính phủ các nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Trung Quốc và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hoá và người qua lại biên giới trong khuôn khổ Hợp tác Tiểu vùng sông Mê-Kông mở rộng (Hiệp định GSM); tăng cường liêm chính cho cán bộ, công chức Hải quan theo Tuyên bố Arusha về liêm chính hải quan của Tổ chức Hải quan Thế giới [3]. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Có thế thấy, sau hơn 10 năm thực hiện, Luật Hải quan đã đi vào cuộc sống, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải, các hoạt động đầu tư, du lịch; bảo vệ các quyền, lợi ích Nhà nước; góp phần bảo vệ an ninh cộng đồng, an toàn xã hội; mang lại lợi ích cho tổ chức, cá nhân liên quan; góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những vụ vi phạm pháp luật hải quan thể hiện sự phức tạp trong ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận không nhỏ công chức ngành hải quan và của đối tượng tham gia quan hệ pháp luật hải quan khác. Một bộ phận công chức hải quan vẫn còn cố ý gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu, chậm trễ công việc để nhận tiền trái quy định từ doanh nghiệp. Điển hình như gần đây khi ngành hải quan đang triển khai thực hiện thông quan điện tử cho các lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu, do hệ thống mạng chưa ổn định, hệ thống mới vận hành doanh nghiệp còn chưa thông thạo một số công chức ngành hải quan đã lợi dụng, giải thích sai pháp luật để hạch sách và vòi tiền doanh nghiệp.
Một vụ việc khác là Lúc 18h40 ngày 16.11, máy bay China Airlines quá cảnh tại sân bay Tân Sơn Nhất và nhận thêm lô hàng 438kg của đại lý Korchina Logistics. Lúc 23h cùng ngày, máy bay cất cánh và sang tới sân bay quốc tế Đào Viên lúc 3h20 ngày 17.11 thì lô hàng bị cơ quan chức năng Đài Loan bắt giữ với số heroin được dự đoán có giá trị lên tới 300 triệu USD [26].
Theo nguồn tin từ Cục Điều tra chống buôn lậu – Tổng cục Hải quan, hiện đã xác định đơn vị làm thủ tục cho lô hàng là Đội hàng hóa xuất thuộc hải quan sân bay Tân Sơn Nhất. Trong vụ vận chuyển 229kg ma túy này, bọn vận chuyển ma túy đã phủ sôcôla ra bên ngoài bánh heroin nên chó nghiệp vụ cũng “bó tay”.
Vào ngày 28.7, tại vùng biển giáp ranh giữa Thanh Hóa và Nam Định, lực lượng chống buôn lậu của hải quan bắt quả tang tàu Giang Châu 1 (quốc tịch Campuchia) đang bơm bán xăng trái phép cho 3 tàu Việt Nam là Hoàng Sơn 08, Hoàng Sơn 09 và Minh Châu 08. Tại tàu Giang Châu 1, cơ quan chức năng phát hiện có 9 người Trung Quốc, thuyền trưởng tàu này là ông Chen Xing Chun khai, ngày 27.7, Công ty TNHH một thành viên xăng dầu hàng không mở tờ khai xuất, tái xuất 1.350 tấn xăng A92 cho Công ty TNHH Hồng Phát, Trung Quốc. Sau đó, tàu Giang Châu 1 cập cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh nhận số xăng nói trên để vận chuyển tái xuất đi cảng Phòng Thành, Trung Quốc. Sáng 28.7, tàu Giang Châu 1 rời cảng Vũng Áng nhằm hướng Phòng Thành nhưng sau đó “bẻ ghi” vào vùng biển Thanh Hóa, Nam Định để bán lại số xăng nói trên cho tàu Việt Nam. Đáng chú ý, vào thời điểm bị bắt quả tang, cơ quan chức năng phát hiện trên tàu Giang Châu 1 có tới 1.650 tấn xăng A92 thay vì 1.350 tấn như trong tờ khai. Cơ quan chức năng xác định các bên liên quan đã thực hiện hành vi buôn lậu trên cơ sở lợi dụng chính sách tạm nhập, tái xuất. Một nguồn tin của Thanh Niên ở Tổng cục Hải quan cho biết, thủ đoạn buôn lậu này là khi một cá nhân, đơn vị nào đó thực hiện tạm nhập xăng dầu sẽ được hưởng chính sách không phải nộp thuế ngay, số xăng dầu này sau đó trên danh nghĩa là tái xuất nhưng thực tế là bán ra bên ngoài. Bằng cách này, cá nhân đơn vị không phải nộp thuế nhập khẩu xăng dầu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT [26]. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Chính phủ nói chung và ngành hải quan cũng như các cơ quan chức năng đang cố gắng thực hiện những biện pháp chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy hành chính nhà nước. Một loạt các chính sách về kê khai tài sản, luân chuyển cán bộ, đào tạo, giáo dục, tuyên truyền, thực hiện nghiêm khắc với những hành động tiêu cực. Trong đó xây dựng văn hóa pháp luật nói chung và văn hóa pháp luật hải quan nói riêng sẽ trở thành một biện pháp hiệu quả và có tính bền vững cao. Khi xây dựng nhà nước pháp quyền ở trong đó những lợi ích chính đáng của người dân, của doanh nghiệp và Nhà nước được hài hòa, được bảo vệ, sự thượng tôn pháp luật được đề cao, lối sống theo pháp luật trở thành những quy chuẩn xã hội thì những hành vi vi phạm cũng sẽ bị lên án mạnh mẽ, và tự mất đi như một tất yếu. Đó chính là định hướng để đưa ra những giải pháp đề xuất để xây dựng văn hóa pháp luật hải quan trong thời kỳ đổi mới hội nhập. Luận văn: Thực trạng Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com