Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

2.1.1 Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Sự an toàn, ổn định của hệ thống các Tổ chức tín dụng đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định hệ thống tài chính và là một trong những yếu tố quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô

Hệ thống ngân hàng 2 cấp với sự đa dạng về sở hữu (nhà nước, tập thể, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần), loại hình (ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), tổ chức tài chính vi mô) và quy mô (lớn, vừa và nhỏ/vi mô). Với một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam, số lượng ngân hàng đang hoạt động hiện nay được xem là quá nhiều. Số liệu từ Ngân hàng nhà nước cho thấy, tính đến tháng 6/2021, Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại Nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hội; 1 ngân hàng phát triển; 37 ngân hàng thương mại cổ phần; 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHNNg); 5 ngân hàng liên doanh; 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 48 văn phòng đại diện Ngân hàng nhà nước;. Trong đó, số lượng các ngân hàng quy mô nhỏ tăng nhanh đã dẫn đến sự yếu kém của hệ thống ngành ngân hàng. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Bên cạnh việc cạnh tranh với nhau, thì các ngân hàng còn chịu sự cạnh tranh của các định chế tài chính khác. Hiện tại, ở Việt Nam có sự hiện diện của 17 công ty tài chính;13 công ty cho thuê tài chính;105 công ty chứng khoán;78 công ty môi giới chứng khoán; 2 công ty bảo hiểm nhà nước;16 công ty cổ phần bảo hiểm; 3 công ty liên doanh bảo hiểm; 17 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài; 1 công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia;10 công ty môi giới bảo hiểm. Các định chế tài chính này đã và đang có sự cạnh tranh khá quyết liệt với các ngân hàng thương mại trong một số lĩnh vực dịch vụ ngân hàng truyền thống như huy động vốn và cho vay. Trong đó, các Tổ chức tín dụng Việt Nam đóng vai trò chi phối với thị phần tín dụng 90,7% toàn hệ thống (NHTMNN: 50,84%, ngân hàng thương mại CP: 35,63%, công ty cho thuê tài chính: 0,62%, công ty tài chính: 2,22% và ác QTDND: 1, 39%) và với tài sản có chiếm 88,92% toàn hệ thống (NHTMNN: 39,23%; ngân hàng thương mại CP: 45,21%; công ty cho thuê tài chính: 0,43%; công ty tài chính: 3,07% và QTDND: 0,97%).

Điều đáng nói là, sự cạnh tranh chỉ hạn hẹp trong lĩnh vực truyền thống này đã mang lại hiệu ứng ngược, khi tạo ra những sản phẩm tín dụng chất lượng không cao, các ngân hàng chạy đua lãi suất huy động, dẫn đến chi phí vốn tăng cao, vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.

Tình trạng này thể hiện ở tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao (thường ở mức khoảng trên dưới 30%). Các tư liệu công bố gần đây cho thấy, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là 125 tỷ USD, tương đương 120% GDP. Đây được xem là dư nợ cho vay quá cao, trong khi các nước đều dưới 100% (Thái Lan 100%, Hàn Quốc 80%). Dư nợ tín dụng cao trong khi chất lượng tín dụng lại khá thấp. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Thời gian qua, mặc dù tín dụng giảm mạnh, năm 2022, con số này là 8,91%; 6 tháng đầu năm 2023 tín dụng mới chỉ tăng 3,31%v so với chỉ tiêu cả năm là 12%. Kinh tế suy giảm, chính sách tài chính, tiền tệ thực hiện theo hướng thắt chặt, nhưng chất lượng tín dụng bị giảm sút, biểu hiện rõ nhất là nợ xấu, nợ quá hạn tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, ngoài nguyên nhân bất ổn kinh tế tác động, thì phải kể đến một số nguyên nhân từ chính các ngân hàng thương mại, như cho vay chưa thực sự gắn với năng lực quản lý và sử dụng vốn vay…

Hình 2.1 :Tăng trưởng tín dụng từ năm 2018 đến 2022

NHVN vẫn là một kênh đáp ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đóng góp không nhỏ vào mức tăng GDP hàng năm. Khi tham gia sâu vào hội nhập, cạnh tranh đã thực sự là động lực to lớn cho cải cách, đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng. Chính sự cạnh tranh này đã tác động đến quản trị nội bộ và văn hóa rủi ro của ngân hàng theo hướng minh bạch hơn, tin cậy hơn, đặc biệt khi 4 ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nướci thực hiện cổ phần hóa, chuyển sang hoạt động theo mô hình cổ phần (CP).

Việc nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu, duy trì hệ số an toàn vốn tối thiểu, đầu tư công nghệ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, mở các chi nhánh ở nước ngoài… để phục vụ tốt hơn, hiệu quả hơn khách hàng cả trong và ngoài nước đều được các ngân hàng thương mại quan tâm và thực hiện bằng những biện pháp khác nhau. Theo báo cáo “Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ Việt nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025” thì đến cuối năm 2019, tổng số vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi tăng hơn 16 lần và các khoản vay tăng khoảng 14 lần so với năm 1997.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Tài Chính Ngân Hàng

2.1.2 Thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Bất kỳ một cuộc khủng hoảng tài chính nào cũng đều liên quan đến bốn vấn đề chính trong ngành ngân hàng, đó là: (1) Tính thanh khoản yếu kém; (2) Không đảm bảo vốn tự có; (3) Chất lượng tài sản kém; (4) Các vấn đề trong quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay cũng đang đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng này, có nguy cơ gây ra một sự đổ vỡ cho toàn hệ thống. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

2.1.2.1 Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại

Tăng trưởng tín dụng được cải thiện đáng kể từ 0,1% vào cuối Q1 lên 3,31% vào cuối Q2 và đạt 5,83% vào thời điểm 18/9. Động lực tăng trưởng chính trong Q2 đến từ nhóm ngân hàng thương mạiCP có thế mạnh về mảng bán lẻ như VPB, STB, ACB và EIB. BIDV và MBB là hai ngân hàng bán buôn có mức tăng trưởng nổi trội trong 6T2023, trong khi các NH có cổ phần Nhà nước chi phối còn lại không đạt được mức tăng khả quan. Tuy nhiên, tháng 7 và tháng 8 ghi nhận sự cải thiện trong hoạt động cho vay của VCB (2,8% tính đến cuối tháng 8) và chúng tôi kỳ vọng điều này cũng diễn ra với CTG.

Hình 2.3 Tăng trưởng tín dụng 2023 một số NH

Giai đoạn 2021-2022, ngành ngân hàng lao đao vì hậu quả của tình trạng tăng trưởng quá nóng với các điều kiện tín dụng được nới lỏng quá mức trước đó. Sang năm 2023, các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo hướng “tái tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của Tổ chức tín dụng, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD) nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ đó, cuối tháng 12/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống gần sát mục tiêu 12%Điều này thể hiện nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng bởi nếu nhìn vào tốc độ tăng tín dụng các tháng năm 2023 thì có thể thấy rằng, tín dụng mới chỉ bắt đầu tăng trưởng dương từ quý

Cơ cấu tín dụng đã từng bước hợp lý, hiệu quả và an toàn hơn, đã tập trung được vốn vào lĩnh vực SXKD, nhất là tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức hợp lý và các ngân hàng đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân hàng nhỏ.

Không chỉ có vậy, hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng đã có những biểu hiện an toàn và hiệu quả hơn. Tính đến cuối tháng 31/10/2023, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) có giảm nhẹ, nhưng vẫn ở mức khá cao với 13,64%, cao hơn nhiều so với quy định tối thiểu 9% mà Ngân hàng nhà nước đang áp dụng; thanh khoản đang được cải thiện và khá dồi dào so với giai đoạn trước; vốn điều lệ tăng 6,02%; vốn chủ sở hữu tăng 6,33% và ngày càng tiệm cận tới quy mô vốn điều lệ; tổng tài sản Có tăng 6,66% so với cuối năm 2022 Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Vấn đề nợ xấu , Tín dụng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng chất lượng tín dụng của các Tổ chức tín dụng thấp . Đến 31/12/2023, tính theo tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 12,5% như Ngân hàng Nhà nước công bố, tổng dư nợ là 3.477.267 tỷ đồng; tỷ lệ nợ xấu chỉ còn 3,79%, nhưng con số tuyệt đối tương ứng là 131.788 tỷ đồng, giảm 1% so với năm 2023 tỷ lệ nợ xấu 4.08%.

Tăng nợ xấu không chỉ ăn mòn lợi nhuận ngân hàng mà còn là nguyễn nhân căn bản gây nghẽn tín dụng trong thời gian qua. Quan sát diễn biến tỷ lệ nợ xấu từ đầu năm 2022 đến nay, có thể thấy xu hướng tăng vẫn là chủ đạo. Tỷ lệ nợ xấu chỉ giảm đáng kể vào những thời điểm chốt báo cáo tài chính quan trọng như tháng 6 và tháng 12, sau đó lại tăng trở lại. Điều này cũng đúng với diễn biến trong 8 tháng đầu năm 2023 khi tỷ lệ nợ xấu giảm dần từ mức 4,67% vào tháng 4 xuống 4,46% vào tháng 6 trước khi tăng trở lại mức 4,64% vào tháng 8.

Hình 2.4: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NH

Việc xử lý nợ qua VAMC cũng đã có những tiến triển nhất định. Tính đến ngày 24/12, VAMC đã mua được gần 32.000 tỷ đồng dư nợ gốc của gần 30 Tổ chức tín dụng. Dự kiến, năm 2014 VAMC sẽ mua khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Nhờ sự nỗ lực của Chính phủ cũng như sự quyết liệt của từng Tổ chức tín dụng trong việc xử lý nợ xấu nên nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8.86% tổng dư nợ cuối năm 2022 xuống còn 4.55% đến tháng 11/2023.

Có thể kể ra 2 nguyên nhân chính làm nảy sinh các khoản nợ xấu:

Nền kinh tế gặp khó khăn, GDP tăng trưởng chậm lại, ảnh hưởng trực tiếp từ khủng hoảng kinh tế thế giới làm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nước khó khăn. Cụ thể, các chỉ số về hàng tồn kho tăng lên đến 23% (năm 2021- ngành công nghiệp), sức tiêu thụ kém (mức tiêu dùng bán lẻ chỉ tăng 4,7% năm 2021).

Các ngân hàng thương mại trước đây chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, lợi nhuận, cấp tín dụng tràn lan và không kiểm soát được rủi ro của danh mục tín dụng.

5 nhóm giải pháp đồng bộ xử lý nợ xấu và phòng ngừa, hạn chế nợ xấu gia tăng trong tương lai cần triển khai từ nay đến năm 2028 được xác định gồm nhóm giải pháp đối với tổ chức tín dụng, nhóm giải pháp đối với khách hàng của tổ chức tín dụng, nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, nhóm giải pháp về thanh tra, giám sát và giải pháp thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) với sự tham gia rộng rãi của hệ thống các tổ chức tín dụng, khách hàng vay vốn và các cấp, các ngành, chính quyền các địa phương.

2.1.2.2  Tỷ lệ vốn an tòan tối thiểu Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Khu vực Đông Á là 12,3%. Đây cũng là mức một số ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt được. CAR của nhiều ngân hàng thương mại đã vượt 9% mà Ngân hàng nhà nước đặt ra tại Thông tư 13. Ví dụ, đến thời điểm Hệ số an toàn vốn tối thiểu (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro (Capital Adequacy Ratio – CAR) là tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nó được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. Thông qua tỉ lệ này, có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành như thế nào. Theo Thông tư số 13/2020/TT-NHNN ngày 20/05/2020 , trong đó quy định nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng thương mại từ 8% lên 9% (thay thế cho quyết định 457/2015/QĐ-NHNN) .

Trước yêu cầu tăng cường quản lý rủi ro, theo thông lệ quốc tế, việc nâng hệ số CAR bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp. Theo quy định của Ngân hàng nhà nước, từ năm 2018 hệ số an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng phải đạt 8%, theo tiêu chuẩn của Basel I do Ủy ban giám sát các ngân hàng Basel ban hành. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng hệ số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến theo tiêu chuẩn của Basel II đã ở mức 12%. Một số thống kê gần đây cho thấy hệ số CAR tại các ngân hàng thương mại của khu vực châu Á – Thái Bình Dương bình quân hiện nay là 13,1%, của 31/12/2020 : VCB xấp xỉ 10%; ACB: 10,6%; Eximbank: 17,8% : Hahubank: 12,29%; Techcombank: 13,1%…Nhưng, nếu theo cách tính hệ số an toàn vốn tối thiểu của Basel (có tính đến vốn dành cho rủi ro thị trường) thì số các ngân hàng thương mại VM đạt chuẩn chắc chắn sẽ không nhiều.

Theo báo cáo Ngân hàng nhà nước về các số liệu cơ bản về tình hình hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng tính đến 31-5-2023 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống đạt 14,25%. Tỷ lệ này đã được cải thiện so với trước đó một tháng, vào cuối tháng 4 CAR toàn hệ thống ở mức 13,41%.

2.1.2.3 Thanh khỏan của hệ thống ngân hàng thương mại Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Trong thời kỳ cuối năm 2017 sang đầu năm 2018, các ngân hàng thương mại Việt Nam lạc vào cuộc đua lãi suất huy động, đỉnh điểm là tháng 2 năm 2018, sau rất nhiều cuộc họp của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước, cuộc đua lãi suất vẫn rất gay gắt kể cả sau khi bỏ trần lãi suất, áp dụng lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản nhưng một số ngân hàng thương mại CP vẫn duy trì lãi suất tiền gửi kỳ hạn tháng trên 19%/năm. Cá biệt có ngân hàng chạy đua lãi suất tiền gửi 24 giờ với lãi suất 20%/năm. Thực trạng đó cho thấy áp lực cạnh tranh lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại CP Việt Nam rất gay gắt khi có bất kỳ biến cố khó khăn nào của nền kinh tế xảy ra. Lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng của dân cư không tăng lên đáng kể trong khi số dư tiền gửi của các ngân hàng chạy lòng vòng sang nhau. Vậy nên, khi ngân hàng sáp nhập lại, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ và yếu bị các ngân hàng lớn thâu tóm thì số lượng các ngân hàng thương mại Việt nam sẽ giảm xuống, khi đó áp lực cạnh tranh lãi suất sẽ giảm xuống, năng lực tài chính được cải thiện đáng kế, sẽ khó có thể diễn ra cuộc chạy đua lãi suất huy động tương tự như hồi tháng 2 năm 2018. Các ngân hàng nhỏ sẽ bị ngân hàng lớn thâu tóm từ đó hình thành nên những ngân hàng lớn mạnh hơn trước, chi phí huy động sẽ giảm xuống đáng kể so với trước khi thực hiện sáp nhập làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng tốt hơn, dẫn đến năng lực cạnh tranh tăng lên đủ sức vượt qua những biến cố khó khăn của nền kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống được Ngân hàng nhà nước xác định ở mức 12%. Tính đến ngày 18/9/2023, chỉ số này đã đạt 5,83% so với cuối năm 2022. Để đạt kế hoạch, mỗi tháng còn lại của năm, tốc độ tăng tín dụng phải đạt ít nhất 2% so với tháng liền kề.

Với tốc độ tăng trưởng đó, cùng với nhu cầu tiền mặt trong những tháng cuối năm của người dân cao khiến không ít ý kiến lo ngại về thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng điều này khó xảy ra vì hệ thống ngân hàng vẫn đang dư quá nhiều vốn, muốn đẩy mạnh cho vay. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Về vấn đề này, Ngân hàng nhà nước cho rằng vấn đề thanh khoản hiện nay là yên tâm nhất, vì dù lãi suất huy động VND các kỳ hạn đã giảm khoảng 2 – 5%/năm nhưng các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn hút được tiền gửi khá tốt. Cụ thể, đến giữa tháng 9/2023, tiền gửi VND của dân cư vẫn tăng 13,78% so với cuối năm 2022.

Một điểm nhấn rất đáng chú ý về vấn đề này được Hoàn Trần và Thuân Nguyễn (2021) bình luận là vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng còn thể hiện ở việc nhiều cán bộ tín dụng được giao nhiệm vụ huy động đã mặc cả với khách hàng để có được vốn tiết kiệm và thật sự rất hiếm nơi đâu như ở Việt Nam, người gửi tiết kiệm lại được “mặc cả” với ngân hàng về lãi suất

2.1.2.4 Mất cân đối kỳ hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại

Sự mất cân đối giữa kỳ hạn tiền gửi và cho vay đã và đang trở nên nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Cụ thể, các khoản cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn và có quy mô lớn hơn nhiều so với các khoản tiền gửi có cùng kỳ hạn. Điều này được giải thích là do nhiều ngân hàng trong một thời gian dài đã được sử dụng như là “sân sau” của các ông chủ ngân hàng, thực hiện việc cho vay vào những dự án đầu tư dài hạn, trong đó chủ yếu là bất động sản dẫn tới sự mất cân đối về kỳ hạn. Trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tiền rẻ xuất hiện và các dòng tiền ngắn hạn có thể quay vòng liên tục để tài trợ gối đầu cho các dự án dài hạn mà không gặp phải vấn đề về thanh khoản. Nhưng khi chính sách tiền tệ thắt chặt trở lại, vòng quay vốn ngắn hạn bị hạn chế khiến nó bị đứt đoạn, dẫn tới rủi ro thanh khoản lớn buộc các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, phải huy động bằng mọi giá, đưa mặt bằng lãi suất lên cao.

Những vấn đề nêu trên cho thấy hệ quả nợ xấu, xuất phát từ nhiều lý do nhưng trong đó có sự mất cân đồi về kỳ hạn, đã trở nên nghiêm trọng, có thể dẫn tới sự đổ vỡ hệ thống nếu không có những giải pháp kịp thời. Kể cả khi việc mất thanh khoản của các ngân hàng nhỏ có được sự cứu trợ mạnh mẽ từ phía ngân hàng nhà nước, thì sự tồn tại một hệ thống ngân hàng với cả hai thị trường một và thị trường hai đều hoạt động rầm rộ là điều đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Chúng ta thật sự đang sống trong một nền kinh tế mà ở đó tồn tại một hệ thống ngân hàng trong đó chức năng dẫn dắt vốn trong nền kinh tế phải được thực hiện qua nhiều cầu trung gian, đẩy chi phí chung trong nền kinh tế lên tới mức quá cao, làm cho nhiều doanh nghiệp trở nên khó khăn, đình đốn sản xuất và thất nghiệp.

2.1.2.5 Vấn đề sở hữu chéo Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Sở hữu chéo là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng và nợ xấu hiện nay. Luật các Tổ chức tín dụng quy định một số trường hợp không được cung cấp tín dụng (thành viên hội đồng quản trị, Tổng giám đốc/Phó Tổng giám đốc của Tổ chức tín dụng,…), một số trường hợp bị hạn chế cấp tín dụng và giới hạn cấp tín dụng (không vượt quá 15% vốn tự có đối với một khách hàng và không quá 25% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan). Tuy nhiên, trên thực tế bằng nhiều kỹ thuật khác nhau không ít đối tượng không tuân thủ các quy định an toàn hoạt động tín dụng.

Về vấn đề sở hữu chéo cổ phần của cổ đông lớn giữa các Tổ chức tín dụng, Luật Các Tổ chức tín dụng có các quy định chặt chẽ về giới hạn sở hữu cổ phần, góp phần, góp vốn, mua cổ phần nhưng trên thực tế có trường hợp lách các quy định này thông qua ủy thác, giao vốn cho bên thứ ba để vẫn có quyền kiểm soát, chi phối hoạt động của TCTD. Nhiều ngân hàng thương mại thành lập các công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, cho thuê tài chính và phi ngân hàng không có hiệu quả và tăng thêm rủi ro cho các ngân hàng thương mại, đồng thời gây khó khăn hơn cho công tác quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý.

Việc kiểm tra, thanh tra để phát hiện và xử lý vấn đề sở hữu chéo rất khó khăn do thiếu bằng chứng pháp lý. Sự đan xem sở hữu vố Tổ chức tín dụng này với Tổ chức tín dụng khác dẫn đến không chỉ vấn đề vốn điều lệ tăng không thực chất mà còn giảm hiệu quả quản trị ngân hàng, gia tăng xung đột lợi ích, đồng thời làm cho rủi ro có tính hệ thống lớn hơn khi Tổ chức tín dụng hoặc cổ đông lơn của Tổ chức tín dụng này gặp khó khăn thì sẽ ảnh hưởng tới không chỉ một Tổ chức tín dụng.

2.1.2.6 Quy mô vốn của ngân hàng còn rất nhỏ , hiệu quả họat động chưa cao theo chuẩn quốc tế. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Nhìn chung, quy mô vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mỏng. Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất toàn hệ thống như Agribank, Vietcombank, Vietinbank hay BIDV cũng chỉ vào khoảng trên 800 triệu USD, thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực (như Ngân hàng Bangkok Thái Lan hơn 3 tỷ USD, Ngân hàng Mandiri của Indonesia hơn 2 tỷ USD, Ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ USD). Mặt khác, Basel III còn quy định tỷ lệ giới hạn đối với vốn cấp 1 và vốn cổ phần phổ thông- điều mà quy định của Việt Nam hiện chưa đề cập đến. Hơn nữa, các chuẩn mực đo lường vốn và phân loại tài sản của Basel III khắt khe hơn nhiều so với quy định hiện hành của Việt Nam. Quy mô tổng tài sản còn rất nhỏ, dịch vụ sản phẩm ngân hàng nghèo nàn, năng lực cạnh tranh kém là những nét cơ bản của hệ thống ngân hàng trong nước. Đứng trên góc độ quản lý, để các ngân hàng yếu tồn tại là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và sự tăng trưởng của các ngành khác.

Hình 2.5 : Quy mô ngành ngân hàng của Việt Nam và một số quốc gia

2.1.2.7 Năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam so với khu vực thế giới còn rất thấp

Năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng được biểu thị qua các mặt sau: Năng lực tài chính; Năng lực thị phần; Năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực; Năng lực cạnh tranh về công nghệ; Năng lực cạnh tranh về kênh phân phối; Năng lực cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ; Năng lực cạnh tranh thương hiệu.

Như đã phân tích ở trên, với quy mô nhỏ và hiệu quả hoạt động chưa cao đã dẫn đến những sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở các mảng năng lực tài chính, năng lực thị phần, năng lực cạnh tranh nhân lực, năng lực canh tranh công nghệ, mở rộng dịch vụ và thương hiệu so với các nước trong khu vực. Có thể thấy rõ sự yếu kém trong năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong nội bộ ngành ngân hàng Việt Nam. Với sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài, sức ép cạnh tranh đè nặng lên các ngân hàng trong nước. Mặc dù có hệ thống phân phối rộng lớn, cũng như có lịch sử lâu đời và các khách hàng truyền thống, nhưng các ngân hàng trong nước khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài về mức độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, về nguồn nhân lực, về trình độ quản trị hoạt động và vấn đề quản lý rủi ro.

Theo công bố của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) vừa công bố báo cáo “The Financial Development Report” đánh giá sự phát triển của hệ thống tài chính trên toàn thế giới, trong đó có những đánh giá về Việt Nam.Về tổng thể, Việt Nam xếp thứ 52/62 trên thế giới với các hạng mục riêng lẻ như sau: thứ 53 về môi trường thể chế, thứ 56 về môi trường kinh doanh và mức ổn định tài chính, thứ 32 về dịch vụ ngân hàng, thứ 51 về dịch vụ phi ngân hàng, thứ 37 về thị trường tài chính và thứ 43 về độ mở của thị trường tài chính.

Hình 2.6: Các chỉ số chính Việt Nam năm 2021

2.2 Thực trạng việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

2.2.1 Văn bản pháp lý liên quan tái cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Theo Cơ cấu lại tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2028 “định hướng cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đề án”

Định hướng đối với ngân hàng thương mại NN: “nâng cao vai trò, vị trí chi phối của các ngân hàng thương mại NN; bảo đảm các ngân hàng thương mại NN thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các Tổ chức tín dụng, có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có năng lực quản trị tiên tiến, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2028 hình thành được 1–2 ngân hàng thương mại NN đạt trình độ khu vực về quy mô, quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh.

Định hướng đối với ngân hàng thương mại chấn chỉnh, sắp xếp lại, bảo đảm hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả, đúng pháp luật và cùng với các ngân hàng thương mại NN giữ cho hệ thống các Tổ chức tín dụng ổn định và phát triển vững chắc. Tổ chức tín dụng phải cạnh tranh lành mạnh, hoạt động công khai , minh bạch , áp dụng đầy đủ các chuẩn mực về quản trị và an toàn hoạt động ngân hàng theo qui định pháp luật. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động và quản trị, đặc biệt là chất lượng tài sản, công nợ, vốn tự có và mức độ an toàn của từng ngân hàng, các ngân hàng này sẽ được phân loại làm 3 nhóm: lành mạnh, thiếu thanh khoản tạm thời và yếu kém. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Đề án cũng đưa ra giải pháp cơ cấu lại 3 nhóm ngân hàng nêu trên. Trong đó, nội dung cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém bao gồm: lành mạnh hóa về tài chính; cơ cấu lại hoạt động; cơ cấu lại hệ thống quản trị; cơ cấu lại pháp nhân và sở hữu.

Một số định hướng cụ thể đến năm 2028 của hệ thống ngân hàng như sau:

Đạt được mức vốn tự có để bù đắp rủi ro tín dụng , rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II ( 8%), nhưng thực tế theo thông tư 13 quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động của Tổ chức tín dụng hiện nay là 9%

Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với huy động vốn về mức không quá 85% ( đối với nhóm ngân hàng thương mại NN không quá 90%)

Phấn đấu để tỷ lệ nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại NN dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế toán của Việt Nam và không đưa ra chỉ tiêu về nợ xấu đối với ngân hàng thương mại CP , công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính

Tăng tính minh bạch hóa thông qua áp dụng cơ chế mới về công bố thông tin của các Tổ chức tín dụng , phát triển hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực cuả Ủy ban Basel

2.2.2 Thực trạng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, cả nước hiện có 52 ngân hàng thương mại được cấp phép hoạt động và 50 chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, đưa tổng số lên hơn 100 ngân hàng. Do số lượng tăng lên quá nhanh trong thời gian qua, nên tính chất và mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng trở nên gay gắt.

Bên cạnh việc cạnh tranh với nhau, thì các ngân hàng còn chịu sự cạnh tranh của các định chế tài chính khác. Hiện tại, ở Việt Nam có sự hiện diện của 17 công ty tài chính;13 công ty cho thuê tài chính;105 công ty chứng khoán;78 công ty môi giới chứng khoán; 2 công ty bảo hiểm nhà nước;16 công ty cổ phần bảo hiểm; 3 công ty liên doanh bảo hiểm; 17 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài; 1 công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia;10 công ty môi giới bảo hiểm. Các định chế tài chính này đã và đang có sự cạnh tranh khá quyết liệt với các ngân hàng thương mại trong một số lĩnh vực dịch vụ ngân hàng truyền thống như huy động vốn và cho vay. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Điều đáng nói là, sự cạnh tranh chỉ hạn hẹp trong lĩnh vực truyền thống này đã mang lại hiệu ứng ngược, khi tạo ra những sản phẩm tín dụng chất lượng không cao, các ngân hàng chạy đua lãi suất huy động, dẫn đến chi phí vốn tăng cao, vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.

Đó cũng là những nguyên nhân khiến môi trường tín dụng trong nhiều giai đoạn rất bất ổn.

Thực tế, vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã được đặt ra trước đó. Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến việc tái cấu trúc không được thực thi triệt để. Đến nay một nôc lực quan trọng về mặt pháp lý là Quyết định 254 của Thủ tướng ban hành ngày 01/03/2028 về Đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2028”. Quyết định này tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém, và đề ra một loạt chỉ tiêu cần phải đạt được cho đến năm 2028 . Mục tiêu của đề án này nhằm cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các Tổ chức tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình; đồng thời, tăng cường khả năng cạnh tranh trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.

Tháng 10/2021, Trung ương Đảng quyết định tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có điểm ngắm là hệ thống ngân hàng. 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu được xác định và khoanh vùng gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank, Tienphongbank, GP Bank, Navibank, TrustBank và Western Bank. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Năm 2022, 5 ngân hàng trong diện này gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank và Tienphongbank cơ bản đã triển khai xong phương án tái cơ cấu. Trong đó, 3 nhà băng gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa được chấp thuận hợp nhất với nhau thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-SCB với quy mô tổng tài sản hơn 150.000 tỷ đồng. Đây là trường hợp đầu tiên được hợp nhất tự nguyện kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố chủ trương tái cơ cấu toàn diện hệ thống ngân hàng vào tháng 10/2021. Năm 2022, SCB lãi trước thuế 77 tỷ đồng. Hiện nay, nhà băng này đang dần hoạt động ổn định.

Với trường hợp Tienphongbank, Ngân hàng Nhà nước chấp thuận phương án tự cơ cấu, chủ yếu là sắp xếp lại nhân sự, kế hoạch và định hướng chiến lược kinh doanh. Với cổ đông chiến lược là Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI, TienPhong Bank đã tận dụng thế mạnh của cổ đông này mở rộng hoạt động sang lĩnh vực kinh doanh vàng.

Ngày 28/8/2022, thương hiệu Habubank chính thức biến mất trên thị trường, ngân hàng cổ phần đầu tiên của Hà Nội sáp nhập SHB của bầu Hiển. Một trong những điểm được chú ý nhất ở “cuộc hôn nhân” này là nợ xấu của Habubank. Tỷ lệ nợ quá hạn của SHB sau khi sáp nhập với Habubank là 21,32%. Đến 30/6/2023, tổng tài sản của SHB đạt 104.524 tỷ đồng; giúp SHB rút ngắn được thời gian phát triển kinh doanh để đạt mục tiêu trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn, nhưng vấn đề nợ xấu vẫn chưa có nhiều cải thiện. Lãnh đạo SHB tin tưởng và khẳng định rằng nợ xấu của nhà băng này sẽ giảm xuống thấp hơn 5% trên tổng dư nợ đến cuối năm 2023 như kế hoạch đã đề ra

Trong 8 tháng đầu năm 2023, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục trình Thủ tướng cho ý kiến và phê duyệt thêm phương án cơ cấu của 3 ngân hàng yếu kém khác gồm Navibank, TrustBank và Western Bank. Trong đó, Ngân hàng Western Bank được hợp nhất với PVFC thành Ngân hàng Đại Chúng PVcomBank vào những ngày cuối tháng 9, đưa quy mô tài sản nhà băng mới lên trên 100.000 tỷ đồng. Vốn điều lệ 9.000 tỷ đồng được duy trì trong 2 năm 2023 và 2014. Dự kiến, sau đó trong 2028, ngân hàng sẽ tiếp tục tăng vốn lên 12.000 tỷ đồng Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Với Navibank, Ngân hàng Nhà nước cho phép nhà băng này tự tái cấu trúc bằng chính nguồn lực của mình mà không cần phải sáp nhập với ngân hàng nào khác. Đến cuối tháng 6, ngân hàng này tăng trưởng tín dụng trở lại với tốc độ 8,6%, tuy nhiên nợ xấu chưa sự cải thiện mà tiếp tục chiều hướng xấu đi, chiếm 6,1% tổng dư nợ. Lợi nhuận đang sụt giảm mạnh, quý II/2023 phát sinh khoản lỗ hơn 11 tỷ đồng và kéo lợi nhuận 6 tháng đầu năm chỉ bằng 11% so với cùng kỳ năm trước.

Nhà băng cuối cùng trong nhóm 9 ngân hàng yếu kém cần xử lý là GPBank. Hiện ngân hàng này đang được Ngân hàng Nhà nước xem xét, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về phương án tự củng cố, chấn chỉnh trên cơ sở có sự tham gia vốn của tổ chức nước ngoài.

Riêng với TrustBank cũng được Thống đốc chấp thuận phương án sử dụng nguồn lực từ Tập đoàn Thiên Thanh để tái cơ cấu, mà không sử dụng vốn ngân sách. Đến ngày 24/5, TrustBank cũng chính thức được đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam.

Hiện nay tái cấu trúc rông hơn mua bán, sáp nhập ngay cả ngân hàng thương mại mạnh cũng cần tái cấu trúc về cơ cấu tài chính (sở hữu chéo, quản trị, điều hành….). Các trường hợp tái cấu trúc ngân hàng thương mại Việt Nam theo khuynh hướng hợp nhất ( trường hợp SCB ), sáp nhập ( trường hợp SHB và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội), thâu tóm ( trường hợp Sacombank) và tự tái cấu trúc ( trường hợp NH Tiên Phong) .

2.2.3 Thương vụ hợp nhất ba ngân hàng: NH Thương mại cổ phần Sài Gòn, NH Việt Nam Tín Nghĩa và NH Thương mại cổ phần Đệ Nhất

2.2.3.1 Bối cảnh Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Năm 2022, 5 ngân hàng trong diện này gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank và Tienphongbank cơ bản đã triển khai xong phương án tái cơ cấu. Trong đó, 3 nhà băng gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa được chấp thuận hợp nhất với nhau thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-SCB với quy mô tổng tài sản hơn 150.000 tỷ đồng. Đây là trường hợp đầu tiên được hợp nhất tự nguyện kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố chủ trương tái cơ cấu toàn diện hệ thống ngân hàng vào tháng 10/2021

Trước khi hợp nhất, ba ngân hàng nói trên lâm vào tình trạng mất khả năng thanh khoản trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu do họ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản), gặp khi thị trường biến động, nhất là khi nguồn vốn huy động ngắn hạn không còn dồi dào như trước nên rủi ro thanh khoản xảy ra.

Trước khi thông tin hợp nhất ba ngân hàng được công bố chính thức, đã có một loạt động thái chuẩn bị cho kế hoạch này. Đầu tiên là cam kết hỗ trợ thanh khoản của BIDV với Ficombank (hạn mức tín dụng là 5.000 tỷ đồng). Tiếp đó là thỏa thuận hợp tác chiến lược ký kết giữa Quỹ Đầu tư Australia Macquarie, tập đoàn tài chính đang quản lý số tài sản trị giá khoảng 317 tỷ USD, với cả ba ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank), Sài Gòn (SCB) và Tín Nghĩa (TinNghiaBank).

Bảng 2.1: Các chỉ tiêu tài chính cơ bản của 3 ngân hàng

Về chất lượng tài sản, nợ xấu của TinNghiaBank đang ở mức 1,7% tổng tín dụng tại thời điểm 30 tháng 9, trong đó, khoảng 374 tỉ đồng là khoản nợ không có khả năng thu hồi chiếm khoảng 89,15%. Trong khi đó, nợ xấu của Ficombank chiếm khoảng 2,2% vào cuối năm 2020. Trong 3 ngân hàng thì SCB có mức nợ xấu cao nhất, khoảng 12,46% tại thời điểm cuối 2020

Trước tình hình này, hội đồng quản trị của ba ngân hàng đã tự nguyện sáp nhập với nhau thành một ngân hàng dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), và cần tới sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thông qua khoản vay tái cấp vốn. Tổng số vốn hỗ trợ liên ngân hàng của BIDV cho ba nhà băng (tính đến tháng 12/2022) là trên 2.400 tỷ đồng (trên tổng số tài sản được ba nhà băng đem ra đảm bảo là 30.000 tỷ đồng).

Nguyên tắc hợp nhất ba ngân hàng Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

  • Đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt quyền lợi của người gửi tiền tại Ngân hàng tham gia hợp nhất
  • Không chấp thuận việc rút khỏi việc hợp nhất với bất cứ lý do gì ĐHĐCĐ của các Ngân hàng tham gia hợp nhất thông qua quyết định về việc hợp nhất theo điều kiện, thể thức họp và biểu quyết theo quy định của pháp luật hiện hành
  • Nghiêm cấm việc phân tán tài sản dưới mọi hình thức.
  • Không thực hiện việc chia tách cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu hay làm tăng hay giảm số cổ phiếu và/hoặc pha loãng giá trị sổ sách của cổ phiếu đang đang lưu hành dưới bất kỳ hình thức nào
  • Ngân hàng sau hợp nhất sẽ tiếp nhận và thực thi các quyền của chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản, thương hiệu, hình ảnh, tên gọi, mã chứng khoán, các tài sản sở hữu trí tuệ khác; chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ, các khoản thuế, nghĩa vụ tài chính; tiếp nhận toàn bộ các quyền và nghĩa vụ đối với các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại, lao động do Các Bên đã xác lập trước đó.

2.2.3.2 Diễn biến Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

  • Lộ trình hợp nhất ba ngân hàng
  • Lộ trình hợp nhất ba ngân hàng như sau:

Hình 2.7: Lộ trình sáp nhập ba ngân hàng

Phương án hợp nhất ba ngân hàng

  • Hợp nhát tài chính và hoán đổi cổ phiếu
  • Các Bên thống nhất tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu phổ thông của ba Ngân hàng là 1:1 (mỗi cổ phiếu phổ thông của một ngân hàng sẽ được hoán đổi thành một cổ phiếu của SCB* theo nguyên tắc ngang bằng mệnh giá). Trong mọi trường hợp không áp dụng chuyển đổi thành tiền;
  • Báo cáo kiểm toán 9 tháng đầu năm 2021 của từng ngân hàng sẽ là cơ sở cho việc hợp nhất các số liệu kế toán và chuyển giao tài sản. Các biến động tài sản trong khoảng thời gian từ 0 giờ ngày 01 tháng 10 năm 2021 tới Ngày hợp nhất sẽ được các Ngân hàng theo dõi riêng và chuyển giao toàn bộ số liệu cho SCB*.
  • Giá trị sổ sách của 03 Ngân hàng tham gia hợp nhất sẽ được chuyển giao cho SCB* vào ngày hợp nhất và vốn điều lệ của SCB* sẽ bằng tổng vốn điều lệ của 3 Ngân hàng tham gia hợp nhất theo Kết quả kiểm toán hợp nhất do Ngân hàng nhà nước chỉ định
  • Hợp nhất hoạt động Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.
  • Áp dụng hệ thống Kiểm tra, Kiểm soát và Kiểm toán nội bộ của SCB cho SCB
  • Hợp nhất Hệ thống thông tin quản lý và hệ thống truyên dữ liệu SmartBank tiến tới sang hệ thống Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy tình hình thực tế
  • Ngay sau thời điểm hợp nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao động ký hợp đồng với SCB, TNB, FCB sẽ trở thành lao động của SCB.
  • Báo cáo kiểm toán 9 tháng đầu năm 2021 của từng ngân hàng sẽ là cơ sở cho việc hợp nhất và các số liệu kế toán và chuyển giao tài sản
  • Mỗi bên sẽ chịu chi phí của mình phát sinh liên quan đến việc hợp nhất
  • Phối hợp triển khai
  • Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng nhà nước và các cơ quan hữu quan thực hiện công tác truyền thông để đảm bảo mục tiêu không tác động tới tâm lý gửi tiền;
  • Các bên ký Hợp đồng hợp tác chiến lược với BIDV trong các lĩnh vực: Quản trị,

Điều hành, Kiểm soát, Nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, Tín dụng, Tài trợ thương mại, Thanh toán trong nước và Thanh toán quốc tế, Ngân quỹ, Thanh toán thẻ, Quan hệ trao đổi và cung cấp thông tin, đào tạo… theo đó các khoản vay của BIDV hỗ trợ thanh khoản cho 03 ngân hàng tham gia hợp nhất và ngân hàng sau hợp nhất được áp dụng như khoản cho vay đặc biệt theo quy định tại Điều 151 Luật Các Tổ chức tín dụng 2020. BIDV sẽ tham gia toàn diện và sâu rộng để hỗ trợ thanh khoản, quản trị cho ngân hàng trước và sau hợp nhất và thực thi hiệu quả chương trình tái cơ cấu ngân hàng; Các bên, cổ đông lớn của các bên có trách nhiệm phối hợp, hoàn thiện các thủ tục pháp lý cần thiết để đảm bảo BIDV có thể cử nhân sự tham gia vào Hội đồng quản trị, BKS, Ban Điều hành của ngân hàng sau hợp nhất;

Quá trình triển khai Đề án Hợp nhất và Tái cơ cấu sẽ được thường xuyên giám sát bởi Tổ Giám sát do Ngân hàng nhà nước thành lập và trực tiếp chỉ đạo; Các bên có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Tổ giám sát trước, trong và sau hợp nhất; Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Các bên sẽ phối hợp với Tổ chức kiểm toán độc lập do Ngân hàng nhà nước chỉ định thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính cho niên độ kế toán kết thúc ngày 31/12/2021 (riêng từng ngân hàng và hợp nhất các ngân hàng) và các nội dung khác theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước. Số liệu kiểm toán hợp nhất các ngân hàng tại thời điểm 0h ngày 1/1/2022 là sẽ được sử dụng là số đầu kỳ cho Ngân hàng sau hợp nhất;

Xử lý tài chính

  • Xử lý và kiếm soát nợ xấu
  • Đối với nợ tín dụng có tài sản bảo đảm
  • Chủ động bàn bạc với khách hàng thống nhất số vốn và lãi phải thanh toán cho Ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tìm người mua tài sản để giải quyết nợ hoặc thỏa thuận về giá tài sản để phát mại theo các hình thức như tự bán công khai trên thị trường
  • Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay có phán quyết của Tòa án và đang thi hành án, tập hợp báo cáo Ngân hàng nhà nước để có ý kiến với Cơ quan thi hành án nhanh chóng định giá phát mại
  • Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay hoặc tài sản tiếp quản chưa đầy đủ thủ tục pháp lý, tập hợp báo cáo Ngân hàng nhà nước để có ý kiến với các Cơ quan chức năng có thẩm quyền hoàn thiện hồ sơ pháp lý để có thể bán tài sản thu hồi nợ

Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm:

  • Bán lại nợ để thu hồi vốn theo quy chế mua bán nợ thông thường.
  • Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp
  • Mục tiêu là giữ tỷ lệ xấu luôn dưới 2% trên tổng dư nợ

Tăng vốn Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

  • Tích cực tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài để phát hành thêm tăng vốn
  • Xây dựng phương án phát hành cho cổ đông mới có mục tiêu đầu tư dài hạn;
  • Phát hành trái phiếu chuyển đổi để tăng vốn cấp 2, qua đó bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn chung CAR
  • Mục tiêu của SCB* là đến 2014, vốn điều lệ lên khoảng xấp xỉ 16.000 tỷ VND, trong đó cổ đông mới chiếm ~6.000 tỷ vốn điều lệ (tương đương ~37,5%).

Nâng cao năng lực quản trị

  • Phân định rõ và quán triệt vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, cổ đông và Ban điều hành để quá trình ra quyết định của mỗi cấp là khoa học, hiệu quả và phục vụ cho mục tiêu lâu phát triển lâu dài của Ngân hàng, không chồng chéo, can thiệp quá sâu vào chức năng, nhiệm vụ của nhau. Việc phân định này sẽ được thể hiện rõ ràng hơn qua sửa đổi điều lệ, phân cấp phân quyền trong các quyết định tín dụng, nhân sự, tài chính…
  • Xây dựng hệ thống phân cấp, phân quyền trong quản trị, điều hành các hoạt động nhằm tăng tính trách nhiệm của cá nhân đồng thời phát huy được năng lực sáng tạo phục vụ tổ chức;
  • Tạo môi trường tốt để công tác kiểm tra giám sát đi vào thực chất, giúp cho chủ sở hữu, cho các cấp điều hành đi đúng con đường phát triển của Ngân hàng;
  • Tăng cường tính minh bạch trong hoạt động;

Phát triển nguồn nhân lực Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

  • Tận dụng vị thế mới sau hợp nhất để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ lành nghề thông qua tuyển dụng mới và sắp xếp lại.
  • Tìm kiếm cơ hội nhận hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp hoặc hỗ trợ đào tạo từ các Ngân hàng lớn có kinh nghiệm để qua đó có thể nâng cao trình độ cán bộ, đào tạo tốt hơn qua công việc thực tế.
  • Xây dựng chính sách đãi ngộ và môi trường làm việc theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp. Trong môi trường lớn hơn nhiều về quy mô nhân sự và quy mô tài chính, các chính sách nhân sự cần được xây dựng lại để đạt được mục tiêu khuyến khích trên phạm vi rộng, rõ ràng minh bạch và chuẩn mực

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro

  • Xác định các rủi ro chính yếu của SCB* sau khi hợp nhất là rủi ro tín dụng và rủi ro tác nghiệp.
  • Hình thành mô hình tổ chức và nhân sự tương ứng cho hoạt động quản lý rủi ro (là một phần của hoạt động cơ cấu lại mô hình tổ chức nêu dưới đây);
  • Sẵn sàng áp dụng các thông lệ quản lý rủi ro tiên tiến;
  • Đề nghị hỗ trợ kỹ thuật từ ngân hàng trong nước có kinh nghiệm để việc xây dựng, triển khai các quy trình, quy chế gắn với mô hình tổ chức quản lý rủi ro được nhanh chóng thực hiện
  • Hiện đại hóa công nghệ thông tin
  • Khẩn trương lựa chọn một giải pháp chung thích hợp phục vụ hoạt động
  • SCB* trước mắt tìm kiếm, đề nghị Ngân hàng trong nước có kinh nghiệm trong hoạt động công nghệ hỗ trợ giúp như tư vấn kỹ thuật, chia sẻ tài nguyên…. trên nguyên tắc các bên cùng có lợi.
  • Về trung hạn, tập trung xây dựng đề án hiện đại hóa công nghệ dự kiến triển khai ngay từ 2023 – 2014.

Cơ cấu lại mô hình tổ chức

Việc cơ cấu lại mô hình tổ chức sẽ được triển khai dựa trên những nguyên tắc sau:

Phân định rõ các khối kinh doanh, quản lý rủi ro và hỗ trợ từ Hội sở chính xuống đến các Chi nhánh về chức năng, nhiệm vụ và thể hiện đầy đủ trong các quy trình, quy chế nghiệp vụ;

Hoạt động tiếp thị, bán, phân phối sản phẩm dịch vụ là phân tán theo các địa bàn, nhưng hoạt động quản lý rủi ro, xử lý tác nghiệp được tập trung hóa từng bước phù hợp với trình độ quản lý và nhân sự thực tế. Thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng sẽ đạt được sự linh hoạt, nhanh nhạy trong kinh doanh nhưng lại tăng cường được quản lý rủi ro cho cả hệ thống.

Bảng 2.2: Báo cáo tài chính của một số ngân hàng

2.2.3.3 Kết quả hợp nhất ba ngân hàng Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Ngày 01/01/2022, ngân hàng mới với tên NH Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đã chính thức hình thành và đi vào hoạt động. Thông tin cụ thể về ngân hàng sau sáp nhập như sau:

  • Tên: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn.
  • Tên bằng tiếng Anh: Sai Gon Commercial Joint Stock Bank
  • Tên giao dịch tiếng Việt: Ngân hàng Sài Gòn
  • Tên giao dịch tiếng Anh: Sai Gon Commercial Bank
  • Tên viết tắt: SCB
  • Trụ sở chính: 927 Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh
  • Vốn điều lệ: 10,583,801,040,000 VND
  • Tổng số cổ phần đang lưu hành: 1,058,380,104 cổ phần Lĩnh vực kinh doanh: kế thừa và thực hiện tất cả những hoạt động kinh doanh hiện tại của SCB, TNB và FCB – những hoạt động mà một ngân hàng thương mại được phép thực hiện theo các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành
  • Tổng tài sản trên 150.000 tỷ đồng và trên 200 đơn vị, chi nhánh, phòng giao dịch gồm : có 1 hội sở chính, 1 sở giao dịch, 49 chi nhánh, 119 phòng giao dịch, 54 quỹ tiết kiệm, 1 công ty trực thuộc..
  • Cơ cấu sở hữu của ngân hàng sau hợp nhất chiếm áp đảo là các cá nhân trong nước với 85,17% (gồm 3.679 cổ đông); cổ đông là tổ chức trong nước sở hữu 14,41% và 0,41% còn lại là cổ phiếu quỹ.

Hình 2.8: Cơ cấu sở hữu của ngân hàng SCB sau hợp nhất Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

2.2.3.4 Đánh giá thương vụ sáp nhập ba ngân hàng

Sau khi được hợp nhất từ 3 ngân hàng là SCB, TinNghiaxBank, FicomBank thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) từ cuối năm 2021, đến nay ngân hàng này đã có những bước cải thiện khá tốt.

Hầu hết các ngân hàng sau sáp nhập đều có sự tăng lên về quy mô nguồn vốn và tài sản. Đơn cử trường hợp đầu tiên của SCB, xuất phát điểm với tình hình tài chính bi đát, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản, chỉ sau 1 năm hoạt động (tính đến 31.12.2022), ngân hàng đã nâng tổng mức tài sản lên hơn 149.000 tỷ đồng, gấp gần 2 lần tổng tài sản ban đầu, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên hơn 11.000 tỷ, gấp gần 3 lần vốn chủ của ngân hàng SCB trước khi hợp nhất. Đến hết quý 1/2023, ngân hàng đã thanh toán khoản vay tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước từ hơn 18.000 tỉ đồng còn 2.800 tỉ đồng; hoàn trả khoản vay hỗ trợ từ ngân hàng Đầu tư phát triển (BIDV) gần 2.500 tỉ đồng…

Hình 2.9 :Tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) giai đoạn 2020 – 2022

Sau khi được hợp nhất từ 3 ngân hàng là SCB, TinNghiaBank, FicomBank thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) từ cuối năm 2021, đến nay ngân hàng này đã có những bước cải thiện khá tốt.

Tuy nhiên xét về , nếu nhìn vào hệ số lợi nhuận sau thuế/ tổng doanh thu cũng như các hệ số về khả năng sinh lời ROA, ROE thì phải chăng lợi nhuận của các ngân hàng đang có được chưa thực sự dựa trên năng lực, mà đơn thuần chỉ nhờ sự “bành chướng” về quy mô và nguồn vốn .Chỉ số ROA, ROE tại ngân hàng SCB giảm từ 0,49% năm 2020 xuống 0,04% năm 2022 đối với ROA và 5,98% xuống còn 0,56% đối với ROE, kéo theo sự sụt giảm thu nhập cổ phiếu SCB từ 665 đồng/cổ phiếu xuống còn 60 đồng/cổ phiếu cũng trong giai đoạn này. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Hình 2.10: Chỉ số ROA, ROE của ngân hàng SCB giai đoạn 2020 -2022

Trong điều kiện nền kinh tế nhiều biến động như hiện nay, việc tồn tại với vị thế yếu kém với những khoản nợ xấu khổng lồ có thể khiến ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản trong thời gian ngắn. Sáp nhập lại với nhau để có thể cùng giải quyết những vấn đề chung mang tính hệ thống và hạn chế những vấn đề mang tính phi hệ thống sẽ giúp các ngân hàng có xác suất tồn tại cao hơn việc tự đứng một mình.

Không chỉ thế, chọn thời điểm thích hợp giúp cho việc sáp nhập này được hỗ trợ từ Ngân hàng nhà nước nên khá thuận buồm xuôi gió.

2.2.4 Thương vụ Sáp nhập SHB và Habubank

2.2.4.1 Bối cảnh

Thương vụ SHB – Habubank diễn ra hoàn toàn thị trường vì Habubank chỉ nhận được “lệnh” phải tự tìm đối tác để sáp nhập, thay vì bị chỉ định như một số ngân hàng khác.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến ngân hàng phải tiến tới phương án như hiện nay đó là gánh nặng của các khoản nợ vay từ nhóm khách hàng Vinashin đã khiến kết quả tài chính cũng như chất lượng tài sản của ngân hàng từ năm 2021 đến nay bị suy giảm rất nhiều. Habubank đã cho Vinashin vay 2.745 tỉ đồng, thêm 600 tỉ đồng trái phiếu do tập đoàn phát hành mà ngân hàng mua, tổng cộng 3.345 tỉ đồng, bằng 83% vốn điều lệ (Nguồn: Đề án sáp nhập Habubank – SHB, tr. 10). Theo quy định của ngành ngân hàng, một tổ chức tín dụng không được cho vay một khách hàng quá 15% vốn tự có. Riêng chi phí huy động vốn hằng năm Ngân hàng phải trả để duy trì dư nợ này đã làm Ngân hàng phát sinh chi phí đến khoảng 500 tỷ đồng/năm.

Hiệu quả hoạt động quản trị điều hành không hiệu quả dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.Trong năm 2021 và đầu năm 2022, tình hình tài chính của Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội rất kém, chất lượng tín dụng xấu, Ngân hàng luôn thường trực nguy cơ mất khả năng chi trả và thực tế đã mất khả năng thanh toán.

Theo đó, tính đến ngày 29/2, tỷ lệ nợ xấu của Habubank lên đến 16,06% (theo đánh giá của chuẩn mực kế toán Việt Nam), và thậm chí lên đến 32,06% nếu đánh giá đặc biệt theo quan điểm mức độ rủi ro tiềm ẩn.

Trong năm 2021, Habubank là ngân hàng đầu tiên báo lỗ với lỗ riêng lẻ trong quý IV hơn 41 tỷ đồng và lỗ hợp nhất là 54,6 tỷ đồng.Lũy kế năm này, mặc dù lợi nhuận trước thuế đạt 347,5 tỷ đồng nhưng cũng đã giảm tới 42% so với năm 2020. Lãi cả năm đạt 262,29 tỷ đồng, song giảm 45% so năm trước. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Tại thời điểm 31/12/2021, tổng tài sản của Habubank đạt 41.868 tỷ đồng, tăng 3.880 tỷ đồng so với cuối năm trước. Vốn điều lệ tăng từ 3.000 tỷ đồng lên 4.050 tỷ đồng. Nợ xấu đến hết năm 2021 lên tới 4,7%.Cũng trong năm này, Habubank tăng trưởng tín dụng âm 4,57% so năm 2020.

Với thực trạng khó khăn của Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội cần phải thực hiện các giải pháp toàn diện để giúp Ngân hàng vượt qua giai đoạn hiện nay. Cốt lõi của giải pháp là Ngân hàng phải có nguồn vốn mới để bổ sung hoạt động. Sau khi thảo luận và cân nhắc kĩ lưỡng, Ban Lãnh đạo Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội đã quyết định lựa chọn giải pháp Sáp nhập Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội vào Tổ chức tín dụng khác sẽ tốt hơn để hỗ trợ cho các cổ đông và CBNV của Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội trong giai đoạn tiếp theo.

Ngày 28/8/2022, thương hiệu Habubank chính thức biến mất trên thị trường, ngân hàng cổ phần đầu tiên của Hà Nội sáp nhập SHB của bầu Hiển, qua sáp nhập SHB

Về phía SHB, năm 2021, ngân hàng đạt hơn 753 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 52% so với năm trước và hoàn thành 95% kế hoạch.

Tại thời điểm 31/12/2021, tổng tài sản của ngân hàng đạt 70.992 tỷ đồng, tăng 39% so với đầu kỳ. Mức tăng trưởng tín dụng đạt 20% và tỷ lệ nợ xấu toàn ngân hàng ở mức 2,1%.

Tuy nhiên, ở lĩnh vực chứng khoán, SHB lỗ 15,88 tỷ đồng từ mua bán chứng khoán và 11,18 tỷ đồng từ đầu tư chứng khoán so mức lãi lần lượt năm 2020 là 9,52 tỷ đồng và 56,69 tỷ đồng.

2.2.4.2 Diễn biến Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Nguyên nhân và lý do SHB sáp nhập Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội

  • Tập trung dư nợ cho vay các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin trước đây

Đây là vấn đề cốt lõi làm cho Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn hiện nay. Tổng dư nợ cho vay và trái phiếu cho các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin bao gồm: Dư nợ cho vay 2.745.347 tỷ , mua trái phiếu doanh nghiệp Vinashin 600.000 tỷ, tổng cộng 3.345.347 tỷ. Việc tập trung cho vay nhóm khách hàng này quá nhiều tương đương 83% vốn điều lệ ngân hàng dẫn đến khi suy thoái kinh tế ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề.

  • Tình hình suy thoái kinh tế chung dẫn đến tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn của khách hàng cao

Ngoài trường hợp Vinashin, một số khách hàng của Ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng trong thời gian vừa qua do tình trạng kinh tế khủng hoảng, sản xuất bị đình trệ và thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, doanh thu bán hàng sụt giảm.

  • Hệ thống quản trị rủi ro không phát hiện và ngăn ngừa các hành vi gian lận của khách hàng

Thời gian vừa qua đã chứng kiến rất nhiều vụ gian lận thương mại trong hoạt động ngân hàng mà nạn nhân chủ yếu là các Tổ chức tín dụng, Ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Ngân hàng bị liên quan đến hai vụ lừa đảo/gian lận từ phía khách hàng liên quan đến tài sản đảm là các giấy tờ có giá.

Hiệu quả hoạt động quản trị điều hành không hiệu quả dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng. Trong năm 2021 và đầu năm 2022, tình hình tài chính của Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội rất kém, chất lượng tín dụng xấu, Ngân hàng luôn thường trực nguy cơ mất khả năng chi trả và thực tế đã mất khả năng thanh toán.

  • Áp lực về tăng trưởng trong bối cảnh hoạt động kinh doanh ngân hàng bị chi phối rất nhiều bởi các quy định của Ngân hàng Nhà nước dẫn đến Ngân hàng thực hiện các giao dịch có rủi ro cao
  • Thị trường tài chính của Việt Nam còn sơ khai, chưa thực sự phát triển khiến cho Ngân hàng không có cơ hội để tiếp cận và sử dụng các công cụ hữu hiệu để bảo hiểm các rủi ro lãi suất,rủi ro tỷ giá…, từ đó, ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Lợi ích từ việc sáp nhập

  • Giúp SHB và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội có cơ hội hợp tác để giải quyết các vấn đề gây ra khó khăn tài chính Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội trong thời gian qua;
  • SHB và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội có cơ hội để cùng điều hành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh tốt hơn sau giai đoạn sáp nhập;
  • Nhận được sự hỗ trợ và quan tâm của Ngân hàng nhà nước trong quá trình sáp nhập do việc sáp nhập nằm trong chương trình tái cơ cấu hệ thống hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
  • Mở rộng khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là hoạt động bán lẻ do mạng lưới phân phối dịch vụ, vị thế lớn hơn;
  • Bổ sung lợi thế về quy mô trong phát triển kinh doanh, trong quản lý chi phí.
  • Xung đột về khác biệt văn hóa doanh nghiệp của hai ngân hàng
  • Khó khăn về tài chính trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay cần rất nhiều sự nỗ lực của Ban Lãnh đạo hai ngân hàng.

Tình hình tài chính SHB trước khi sáp nhập

Xét về mặt giá trị tuyệt đối, tổng tài sản của SHB liên tục tăng trong những năm qua với mức tăng năm sau cao hơn năm trước.

  • Chất lượng tài sản

Chất lượng tài sản của SHB trong những năm gần đây khá tốt. Tốc độ tăng trưởng tài sản của Ngân hàng chủ yếu phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng tín dụng và các khoản đầu tư

Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng trên 40% trong 3 năm qua nhưng không ảnh hưởng quá lớn đến chất lượng tín dụng. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Ngoài hoạt động tín dụng, một phần chiếm tỷ trọng lớn trong tổng danh mục tài sản của SHB là các khoản đầu tư. Đây là các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá và góp vốn đầu tư dài hạn. Tổng giá trị thuần của danh mục đầu tư tại thời điểm cuối năm 2021 là 15.448.512 triệu đồng (tháng 2 năm 2022 là 14.366.058 triệu đồng), trong đó, giá trị thuần của giấy tờ có giá đầu tư sẵn sàng để bán chiếm tới hơn 80,83%, còn lại là chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn và các khoản đầu tư dài hạn khác. Các khoản đầu tư này một mặt tạo thu nhập cho Ngân hàng, đồng thời đã tạo điều kiện mở rộng quan hệ và xây dựng mạng lưới các công ty có liên kết, tạo tiền đề cho việc phát triển thành tập đoàn tài chính đa ngành của Ngân hàng tương lai.

Với mục đích kinh doanh hàng hóa tiền tệ, Ngân hàng luôn duy trì mức tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác ở mức khoảng 25% tổng giá trị tài sản nhằm đảm bảo tính thanh khoản, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về tiền tệ trong hoạt động kinh doanh của SHB.

  • Cơ cấu tài sản

Trong những năm gần đây, do quy mô của SHB ngày càng phát triển, nền kinh tế bị ảnh hưởng lớn bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các hệ lụy đi kèm với các chính sách thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước, để tự đứng vững trên thị trường, SHB đã nỗ lực đa dạng hóa danh mục tài sản của mình để giảm thiểu rủi ro. Mặc dù hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản (41% cuối năm 2021), tỷ trọng của các khoản mục đầu tư, có mức tăng đáng kể từ 18,76% năm 2019 lên 21,77% năm 2021.

Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng trong năm 2021 tăng 19,64% so với năm 2020 trong khi tăng trưởng tín dụng bình quân của toàn hệ thống Ngân hàng theo ước tính là khoảng từ 12%- 13%. Ngoài ra, SHB đã được Ngân hàng nhà nước Việt Nam công nhận thuộc Nhóm 1 – Nhóm các Ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả và được tăng trưởng tín dụng 17% trong năm 2022.

Trong năm 2021 tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng là 2,23%. Tỷ lệ này vẫn ở mức hợp lý trong tình hình nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng gặp nhiều khó khăn và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn hệ thống Ngân hàng (theo Ngân hàng nhà nước công bố là 3,39% vào cuối tháng 10/2021).

2.2.4.3 Kết quả Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Cùng với sự “biến mất” của thương hiệu Habubank, Ngân hàng SHB sau sáp nhập cũng đứng vào hàng ngũ những ngân hàng có vốn điều lệ lớn với 9.000 tỷ đồng, tổng tài sản tính đến quý 2/2023 ước đạt khoảng hơn 104.000 tỷ đồng, gấp đôi tổng tài sản SHB trước khi sáp nhập, nhờ đó SHB đã trở thành 1 trong 10 ngân hàng Thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam về quy mô và thị phần, Tỷ lệ nợ quá hạn của SHB sau khi sáp nhập với Habubank là 21,32%

Thông tin chung Ngân hàng SHB sau khi sáp nhập

Bảng 2.3: Thông tín ngân hàng SHB sau sáp nhập

Cơ cấu tổ chức

Sau sáp nhập, NHSN sẽ xây dựng mô hình tổ chức như mô tả trong hình phía sau đây theo định hướng tổ chức của một ngân hàng hiện đại, trong đó có hình thành các khối kinh doanh, quản lý rủi ro, hỗ trợ…nhằm tăng cường năng lực quản trị, điều hành của Ngân hàng.

Cơ cấu nhân sự dự kiến của NHSN ngay khi sáp nhập

Về cơ bản, Ngân hàng sáp nhập vẫn giữ nguyên cơ cấu nhân sự hiện tại của SHB, có bổ sung thêm một số cá nhân có năng lực quản trị và năng lực chuyên môn từ Ngân hàng thương  mại cổ phần Nhà Hà Nội mà SHB đánh giá đáp ứng đủ điều kiện để tham gia điều hành. Cơ cấu nhân sự của Hội đồng quản trị, BKS cuối cùng sẽ được Đại Hội đồng cổ đông quyết định.

  • Bảng 2.4: Nhân sự dự kiến của NHSN ngay khi sáp nhập
  • Bảng 2.5: Cổ đông dự kiến của NHSN ngay khi sáp nhập

2.2.4.4 Đánh giá thương vụ Sáp nhập SHB và Habubank

Thương vụ Ngân hàng Habubank sáp nhập vào SHB là một cuộc M&A tương đối đúng bản chất và được diễn ra một cách khá “thân thiện” và “tích cực” Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Xét về yếu tố kỹ thuật, việc Habubank sáp nhập vào SHB đã giúp cho quy mô của SHB tăng lên đáng kể cả về tổng tài sản, số lượng chi nhánh cũng như cơ sở khách hàng.

Nếu có một chiến lược tích hợp hậu sáp nhập một cách bài bản thì SHB có thể tạo gia các giá trị mới từ việc tăng quy mô, thị phần, ưu đãi thuế và khả năng cạnh tranh từ đó tăng giá trị cho cổ đông và cải thiện chất lượng thương hiệu cho SHB.

Tuy nhiên, các vấn đề mà SHB gặp phải trong quá trình hậu sáp nhập cũng không phải nhỏ. Ẩn sau những “điểm sáng” trên là “sự biến mất” của các tổ chức tín dụng kéo theo sự hao tổn về tiền bạc và công sức mà các tổ chức tín dụng đã bỏ ra trong quá trình xây dựng thương hiệu, như Habubank đã tồn tại trên thị trường hơn 20 năm trước khi sáp nhập.

Đồng thờì, tình trạng “ngắc ngứ” với đống nợ xấu từ các ngân hàng yếu kém là tình trạng phổ biến của các ngân hàng hiện nay. Ngân hàng SHB mới đây vừa phải giải trình với UBCKNN về mức chênh lệch lợi nhuận sau thuế trong quý 2/2023, giảm từ 753.000 tỷ đồng năm 2021 (thời điểm trước khi sáp nhập) xuống còn khoảng 141.000 tỷ đồng vào quý 2/2023. Nguyên nhân là do chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng thêm bởi các món vay quá hạn được chuyển từ Habubank. Tương tự trường hợp của SHB, lợi nhuận ròng sau thuế của SCB sau 1 năm hợp nhất, cũng giảm rõ rệt, từ 409.000 tỷ đồng xuống chỉ còn gần 64.000 tỷ.

Hậu quả là hệ số ROA và ROE của các ngân hàng sau sáp nhập giảm liên tục. Đối với ngân hàng SHB, trước khi sáp nhập, hai chỉ số vẫn ở mức khá cao, tuy nhiên, chỉ sau 1 năm sáp nhập, hai chỉ số này giảm về gần mức 0. Điều này dẫn đến lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu cũng giảm nghiêm trọng, từ 2.382 đồng/ cổ phiếu năm 2020 xuống còn – 363 đồng/ cổ phiếu vào quý 2/2023 sau gần 2 năm sáp nhập.

 Hình 2.11:Chỉ số ROA, ROE của SHB giai đoạn 2020 – quý 2/2023.

2.2.5 Thương vụ Sacombank Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

2.2.5.1 Bối cảnh

Sacombank được thành lập ngày 21/12/1991 với vốn điều lệ ban đầu là 3tỷ đồng. Sacombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) đầu tiên được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) từ việc hợp nhất Ngân hàng Phát triển Kinh tế Gò Vấp cùng với 03 hợp tác xã tín dụng là tân Bình, Thành Công và Lữ Gia, với mạng lưới hoạt động chủ yếu ở vùng ven, phạm vi kinh doanh đơn điệu . Kể từ khi thành lập Sacombank đạt những bước tiến rõ rệt khi trở thành ngân hàng hàng đầu Việt Nam Sau 22 năm phát triển hiện nay vốn điều lệ Sacombank đã tăng hơn 12.000 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế (làm tròn số) tăng dần qua các năm :năm 2019 của Sacombank là 2,175 tỉ đồng, 2020 là 2,560 tỉ đồng, năm 2021 là 2,740 tỉ đồng, năm 2022 là 2.800 tỉ đồng, 9 tháng đầu năm 2023 là 2.217 tỉ đồng đạt 79% kế hoạch năm. Hiện nay Sacombank có 4281 điểm giao dịch tại 48/63 tỉnh thành tại Việt Nam và 2 nước Lào, Campuchia. Tuy nhiên , thực tế trong thời gian qua nhiều nhà đầu tư, nhiều người tỏ ra khá lo ngại không phải vì hoạt động kinh doanh của Sacombank mà ở hoạt động của một số công ty con và những công ty có liên quan với ngân hàng này.

2.2.5.2 Diễn biến thương vụ thâu tóm Sacombank

Tính đến ĐHCĐ Sacombank năm 2021, những cổ đông lớn của STB gồm: REE 3.66%, Dragon Capital 6.66%, ANZ 9.78% và ban điều hành của ngân hàng này nắm 9%.

Ngày 4-8-2021, Dragon Capital – cổ đông chiến lược nước ngoài tại Sacombank – bắt đầu bán toàn bộ hơn 61 triệu cổ phiếu STB (ưứng 6.66%) mà sau năm tổ chức này nắm giữ.

Trước tình hình đó, từ tháng 7/2021, hàng loạt động thái mua bán hàng chục triệu cổ phiếu STB xuất phát từ các công ty của gia đình họ Đặng ( liên quan người nhà Chủ tịch Sacombank) được khởi động. Khi đó, giá cổ phiếu STB đã rơi xuống đáy là 11.600 đồng. Thành Thành Công, vợ ông Đặng Văn Thành làm chủ tịch được chuyển nhượng cá nhân 15 triệu cổ phiếu STB. Sau đó Bourbon Tây Ninh (SBT) dự kiến mua 7,5 triệu, hai công ty con Thành Thành Công mua 13,2 triệu cổ phiếu STB.

Từ ngày 15/11/2021, Sacombank bắt đầu mua lại 100 triệu cổ phiếu STB để làm cổ phiếu quỹ. Đây được xem là động thái tự vệ của ngân hàng này trước nguy cơ bị thâu tóm ngày càng lộ diện.

Từ 16/11 đến 16/12/2021, STB bất ngờ đăng ký mua vào lượng cổ phiếu quỹ kỷ lục là 100 triệu đơn vị. Nếu tính theo giá tại thời điểm đó, STB sẽ phải chi hơn 1,300 tỷ đồng (theo báo cáo tài chính quý III/2021, STB có thặng dư vốn và số dư các quỹ là 2,824 tỷ đồng). Khi đó, Chủ tịch Đặng Văn Thành tuyên bố sẽ tiếp tục mua cho đến khi giá của cổ phiếu này về đúng giá trị thực (không dưới 20,000 đồng), đồng thời khẳng định, cho tới thời điểm chốt danh sách cổ đông vào tháng 8/2021, không có ai nắm giữ tới 30% cổ phần của Sacombank. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Ngày 6/1/2022, Công ty cổ phần Cơ điện lạnh REE (REE) bán toàn bộ 42.139.266 cổ phiếu STB, tương đương 3.92% vốn cổ phần của Sacombank cho một nhóm nhà đầu tư nội địa Ngày 9/1, Ngân hàng Australia and New Zealand Banking Group Limited (ANZ) – cổ đông nước ngoài lớn nhất của Sacombank từ 2015 – đăng ký bán toàn bộ hơn 103.256.415 cổ phiếu STB, tương đương 9.61% cổ phần của Sacombank. Người nhận chuyển nhượng là Eximbank, tỉ lệ nắm giữ sau giao dịch này là 9.73% vốn cổ phần của Sacombank.

Trước thềm HĐCĐ Sacombank 2022, ngày 17/2 Eximbank – cổ đông nắm giữ 9.73% vốn cổ phần của Sacombank – gửi văn bản cho Sacombank và các cơ quan chức năng, chính thức tuyên bố là đại diện ủy quyền của hơn 51% vốn cổ phần của Sacombank (còn liên minh của ông Đặng Văn Thành đang nắm giữ khoảng 36%) và đưa ra yêu cầu thay đổi ban lãnh đạo Sacombank.

Tuy nhiên , có thể thấy ngay được động tác cuộc đua giành quyền kiểm soát này lên giá cổ phiếu của Sacombank từ mức đáy 11.600 đồng đến ngày 21/2 thị giá STB đã tăng 64%.

Hoạt động thâu tóm là một quá trình và Eximbank đã làm, như mua gom cổ phiếu và thiết lập quyền đại diện cổ đông; Eximbank chính thức công khai việc “thâu tóm” Sacombank khiến thị trường không khỏi ngỡ ngàng về một tiền lệ mới trong mua bán, sáp nhập ngành ngân hàng ở Việt Nam. Đó không phải là thỏa thuận hợp nhất mà thâu tóm từ từ bằng cách gom cổ phiếu và vận động cổ đông lớn. Hợp nhất, sáp nhập, thâu tóm ngân hàng đã không còn là chuyện mới mẻ ở Việt Nam. Nhưng cách thâu tóm theo kiểu mua cổ phiếu cá nhân như việc Eximbank đã làm với Sacombank thì chưa có trong tiền lệ.

2.2.5.3 Kết quả thương vụ thâu tóm Sacombank

Kết quả cuộc họp HĐCĐ ngày 26/05/2023 Ở phiên biểu quyết, với sự đồng thuận gần như tuyệt đối, Đại hội thống nhất cho 5 thành viên Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2021 – 2028 từ nhiệm, nhiệm kỳ tới của Sacombank chỉ còn giữ lại 2 ghế thành viên HĐQT nhiệm kỳ cũ của ông Đặng Văn Thành và con trai là Đặng Hồng Anh.

nội dung bỏ phiếu , 8 ứng viên trong danh sách đề cử vào ghế Hội đồng quản trị Sacombank công bố trước đó đều trúng cử như dự kiến. Cụ thể, Ngân hàng Phương Nam giữ 3 ghế, đại diện của Eximbank trúng cử 1 ghế, CTCK Phương Nam giữ 1 ghế. Ba gương mặt còn lại thuộc về đại diện của CTCK Rồng Việt, một đề cử của chính Sacombank và một thành viên Hội đồng quản trị độc lập. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Giai đoạn cuối của quá trình thâu tóm, nhóm cổ đông lớn và nhóm cổ đông sáng lập đạt được nhiều thỏa thuận mang tính hoà bình, nhưng nhìn trên tổng thể ở giai đoạn đầu, cuộc thâu tóm Sacombank vẫn mang màu sắc không thân thiện.

Dù hoạt động thâu tóm mới mẻ, nhưng Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng kịp chứng kiến nhiều thương vụ có tính chất tương tự không đạt mục tiêu như mong đợi, tiêu biểu như các thương vụ Descon – Bình Thiên An, Dược Viễn Đông – Dược Hà Tây….

Sacombank có thể cũng sẽ gặp nhiều khó khăn phía trước: sự xung đột về văn hóa công ty; mức độ hợp tác của khối nhân sự trung, cao cấp với các nhân tố mới; các rủi ro tiềm ẩn khi nhóm cổ đông lớn tiếp quản ngân hàng với rủi ro nhận được “liều độc dược” (nợ xấu hay các khoản tín dụng dễ dãi)…

Dấu hỏi về khả năng Sacombank trở thành người một nhà với một số ngân hàng khác trong tương lai. Sự quan tâm này có lý khi nhìn vào danh sách thành viên mới Hội đồng quản trị của Sacombank có tới 4/10 gương mặt là lãnh đạo cũ hoặc gián tiếp gắn bó với Ngân hàng Phương Nam. Đáng chú ý là ĐHCĐ thường niên của Phương Nam diễn ra trước đó, cũng thông qua chủ trương mở rộng qua con đường sáp nhập.

Thương vụ thâu tóm lớn nhất Thị trường chứng khoán Việt Nam hồi một đã hạ màn, nhưng hiệu quả và động năng được tạo ra vẫn còn là ẩn số.

2.2.5.4 Đánh giá thương vụ Sacombank

Thương vụ Ngân hàng Eximbank đại diện cho nhóm cổ đông lớn mua thâu tóm Sacombank mang màu sắc thương mại M&A thù nghịch. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Vụ thâu tóm ngân hàng Sacombank.Đây cũng chính là điều kiện để sở hữu chéo chằng chịt, vốn ảo và tỷ lệ nợ xấu cao trong ngành ngân hàng. Cũng là điều kiện để một số người lách luật “tuồn” vốn ngân hàng ra ngoài. Luật các Tổ chức tín dụng quy định,ngân hàng không được cấp tín dụng cho những thành viên Hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc… ngân hành, luật không cấm cấp tín dụng cho những công ty mà các thành viên Hội đồng quản trị là cổ đông lớn. Nên ngân hàng cứ cho các công ty của họ vay mà không hề vi phạm. Đó chính là đường đi ra “sân sau” của dòng vốn ngân hàng. Nó giúp các cá nhân có đủ lượng tiền mặt khổng lồ để thực hiện thâu tóm ngân hàng hay thực hiện các thương vụ với số vốn lớn

Sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng ngày càng trở nên nghiêm trọng, là một nguyên nhân dẫn đến giải ngân vốn dựa trên quan hệ thay vì hiệu quả sử dụng. Việc sở hữu chéo cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp nắm ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Như vậy, ba trường hợp sở hữu chéo tiêu cực đều có nguy cơ dẫn đến việc các ngân hàng thương mại sẽ tiến hành thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng. Và trong trường hợp này, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu trong hệ thống tăng cao.

Việt Nam, việc kiểm duyệt nguồn tiền bị thả lỏng nên mới có chuyện một trong những ngân hàng lớn nhất Việt Nam như Sacombank bị thâu tóm mà cơ quan quản lý không hề hay biết.

2.2.6 Trường hợp tự tái cấu trúc của Ngân hàng Tiên Phong

2.2.6.1 Bối cảnh Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Tienphong Bank nằm trong nhóm các ngân hàng phải tái cơ cấu do tình hình quản trị, kinh doanh bộc lộ nhiều yếu kém, tỷ lệ nợ xấu 6.4% chất lượng tín dụng và tài sản giảm sút nghiêm trọng , có khả năng mất vốn, hàm chứa nhiều rủi ro. Tính đến thời điểm 29.2.2022, Tienphong Bank lỗ lũy kế lên tới 1.503 tỉ đồng với các khoản lỗ đến từ mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, tình trạng khá bi đát. Khi đó nguồn vốn đầu tư chứng khoán chiếm 40% tổng tài sản, khoảng 6.338 tỉ đồng nhưng có 799 tỉ đồng là khoản đầu tư khó đòi do mua trái phiếu CTCK Stock Mart (293 tỉ đồng), kỳ phiếu NH Việt Nam Tín Nghĩa (500 tỉ đồng). Ngoài ra còn 800 tỉ đồng khoản phải thu khó đòi từ các hợp đồng đặt cọc mối giới chứng khoán với một loạt CTCK như CK Phương Đông, CK Sacombank và bảo lãnh mua trái phiếu của các Cty này. Hệ quả là trạng thái thanh khoản của NH vào thời điểm cuối tháng 2.2022 với kỳ hạn 1 tháng trở lên là âm, từ 8 ngày đến 30 ngày âm 3.257 tỉ; từ 30 đến 180 ngày âm 4.593 tỉ. Chỉ tiêu trạng thái tiền mặt còn 8,38%.

2.2.6.2 Diễn biến phương án tự tái cơ cấu

Phương án tái cơ cấu hoạt động chủ yếu là sắp xếp lại nhân sự, kế hoạch và định hướng chiến lược kinh doanh, không có NH khác hợp nhất với TienphongBank. Với cổ đông chiến lược là Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI, TienPhong Bank sẽ tận dụng thế mạnh của cố đông này để mở rộng hoạt động sang lĩnh vực kinh doanh vàng; tập trung hỗ trợ tài chính cho các đơn vị trực thuộc Công ty FPT- một cố đông lớn của TienphongBank.

Thứ nhất, Tiên Phong là ngân hàng non trẻ nhất trong số 9 ngân hàng yếu kém. Năm 2018, ngân hàng này ra đời, trong khi các ngân hàng còn lại đều ra đời từ những năm 1990, phần lớn là do chuyển đổi mô hình hoạt động từ ngân hàng nông thôn lên thành thị.

Thứ hai, Tiên Phong được xem là một trong những ngân hàng khởi xướng việc tái cấu trúc ngân hàng bằng cách thay đổi cơ cấu cổ đông.

Ngay lập tức, cơ chế được thay đổi hoàn toàn. Ban điều hành mới bắt tay rà soát lại khoảng 3.000 văn bản, bỏ 1.000 văn bản, thêm khoảng 200 văn bản, bổ nhiệm một Phó Tổng Giám đốc phụ trách kiểm soát rủi ro. Cơ chế quản trị cũng được thay đổi theo hướng phân cấp, phân quyền và gắn trách nhiệm. “Cơ chế quản trị mới quy định cụ thể về các cấp phê duyệt trong các bộ phận quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng là hội đồng tín dụng, ủy ban đầu tư, ủy ban tín dụng nhằm giảm thiểu mọi rủi ro có thể xảy ra” Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Chiến lược tứ trụ được các lãnh đạo TPBank nhắc đến khá nhiều và được xem là cốt lõi trong hoạt động kinh doanh thời kỳ hậu tái cấu trúc. Theo đó, 4 mũi nhọn kinh doanh là công nghệ cao và công nghệ thông tin; vàng; công nghiệp phụ trợ; ngân hàng điện tử và ngân hàng ưu tiên:

Đầu tiên là cổ đông sáng lập FPT, cũng như Softbank, vốn có lợi thế trong lĩnh vực công nghệ thông tin, có thể giúp TPBank phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử và các công nghệ mới nhất trong hoạt động ngân hàng. Còn Tập đoàn Tái Bảo hiểm Việt Nam (Vinare) và Mobifone đều là những cái tên đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động của họ.

Cổ đông mới Doji cũng mang về cho TPBank một lợi thế cạnh tranh lý tưởng, đó là sự liên kết trong mảng kinh doanh vàng. Nhờ Doji, TPBank trở thành ngân hàng thứ 6 được Ngân hàng Nhà nước cho phép tham gia thị trường vàng, dù ngân hàng này trước đó chưa từng tham gia lĩnh vực này.

Chiếc trụ thứ ba, cũng gắn liền với Doji, là hoạt động tài trợ vốn cho xuất khẩu, nông nghiệp và công nghiệp phụ trợ. Là những lĩnh vực đặc biệt quan trọng mà Việt Nam còn rất thiếu nhằm tạo ra thế chủ động trong sản xuất cho các doanh nghiệp lớn

Dịch vụ ngân hàng ưu tiên, tập trung vào nhóm khách hàng thu nhập cao, là chiếc trụ cuối cùng. TPBank cho biết họ chủ động thu hẹp phân khúc vào nhóm khách hàng có tổng tài sản từ 5 triệu USD trở lên (trên 100 tỉ đồng). Rõ ràng việc tự thu hẹp lại đối tượng khách hàng là một bước đi khôn ngoan của TPBank, vì ngân hàng này hiện sở hữu mạng lưới giao dịch khá khiêm tốn.

2.2.6.3 Đánh giá thương vụ tự tái cơ cấu Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Sau 2 năm thực hiện tái cơ cấu theo chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước, TienPhongBank đã trở thành Ngân hàng thương mại đầu tiên thực hiện xong đề án tái cơ cấu. Vượt tiến độ hơn 1 năm, không chọn phương án sáp nhập, ngân hàng này đã tự khắc phục những vấn đề của mình liên quan đến vốn, nhân sự, nợ xấu. Vốn điều lệ của ngân hàng đã tăng từ 3.000 tỉ đồng lên tới 5.550 tỉ đồng, lũy kế từ tái cơ cấu đến nay ngân hàng đã tạo ra gần 500 tỉ đồng lợi nhuận. Đặc biệt, vốn huy động dân cư tăng lần, tăng trưởng tín dụng tăng gấp đôi, nợ xấu giảm từ 6,4% xuống còn 2,7%, số lượng khách hàng tăng hơn 3 lần

Yếu tố mang tính quyết định giúp ngân hàng này tái cơ cấu thành công là nhờ xác định được chiến lược tái cơ cấu đúng đắn. Cụ thể, trên cơ sở nguyện vọng của các cổ đông, Tien Phong Bank đã xây dựng một số định hướng cho phương án tái cơ cấu gồm 3 giai đoạn.

Trong đó, giai đoạn 1 tập trung vào khắc phục các vấn đề hiện tại của ngân hàng, kêu gọi vốn đấu tư mới nhằm làm lành mạnh bảng cân đối kế toán, với thời gian dự kiến tiến hành xong trước tháng 9/2022. Giai đoạn 2 tập trung vào củng cố, nâng cấp các hoạt động kinh doanh và quản trị rủi ro, thời gian dự kiến triển khai từ tháng 9/2022 đến hết năm 2023. Giai đoạn 3 tập trung phát triển và ổn định, kinh doanh có lãi, an toàn, hiệu quả theo chiến lược mới với thời gian dự kiến từ năm 2023 đến hết 2028.

Từ trường hợp thành công của Tien Phong Bank trong tự tái cơ cấu, có thể thấy, đây là một trong những biện pháp mà các Tổ chức tín dụng yếu kém hiện nay cần lưu tâm. Giờ không còn là lúc giấu giếm những yếu kém của mình, thay vào đó, các Tổ chức tín dụng nên mạnh dạn và thẳng thắn vấn đề hiện nay của mình với các đối tác. Quan trọng l hơn, cần đưa ra được chiến lược hoạt động hiệu quả; cách thức giải quyết nợ xấu và lợi ích liên quan của các nhóm cổ đông (nếu có); lộ trình lành mạnh hóa, có những mục tiêu rõ ràng và minh bạch để các đối tác xem xét về khả năng hợp tác rót vốn vào.

Kinh nghiệm tái cơ cấu của Tien Phong Bank cho thấy, sau khi tái cơ cấu, các ngân hàng này đã “thay máu” toàn bộ hệ thống quản trị. Rất khó có sự cải tiến cho ngân hàng đó, nếu bộ máy quản trị cũ vẫn giữ nguyên vẹn.

2.3 Đánh giá chung về thực trạng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

2.3.1 Thuận lợi

Hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã được triển khai nhanh chóng, Các biện pháp được thực hiện từ năm 2021 đến nay đã giúp hoạt động ngân hàng bước đầu được cơ cấu lại theo hướng lành mạnh hơn. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại cơ bản được bảo đảm, lãi suất liên ngân hàng được duy trì ở mức ổn định. Xử lý căn bản những Tổ chức tín dụng yếu kém, xử lý một phần nợ xấu, cơ cấu lại một bước nhỏ sở hữu các ngân hàng thương mại.

Tình hình kinh tế vĩ mô trong nước đang có những chuyển biến khả quan và có dấu hiệu phục hồi, tạo ra những tiền đề thuận lợi cho tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại trong thời gian tới như lạm phát đã được kiềm chế ở mức thấp, tăng trưởng GDP có xu hướng tăng đều qua từng quý (ước đạt 5,14% trong 9 tháng năm 2023), thị trường bất động sản có những dấu hiệu tích cực, đem lại hy vọng phục hồi trong năm 2014.

Hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và kiều hối có bước tiến đáng kể

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại dồi dào và đang được củng cố, thị trường tiền tệ ổn định, lãi suất cho vay có xu hướng giảm; thị trường bất động sản có nhiều tín hiệu ấm dần lên.

2.3.2 Khó khăn Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Cơ sở pháp lý và cơ sở dữ liệu không đầy đủ làm cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại dài hơn dự kiến, dẫn đến chi phí gia tăng làm giảm hiệu quả chương trình tái cấu trúc .

Tỷ lệ các ngân hàng thương mại trong nước trong tình trạng nợ xấu cao khó khăn trong việc tìm đối tác tái cấu trúc các ngân hàng thương mại trong nước phải trông chờ ngân hàng nước ngoài.

Việc phụ thuộc vào ngân hàng thương mại nước ngoài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề an ninh tiền tệ quốc gia.

Hoạt động xử lý nợ xấu mới chỉ bắt đầu, thực hiện còn chậm và thiếu triệt để. Và, quy mô nợ xấu của toàn hệ thống hiện ở mức rất cao, điều này đòi hỏi cần phải huy động nguồn lực lớn để xử lý. Việc công bố số nợ xấu của các Tổ chức tín dụng còn thiếu chính xác và chưa công khai, minh bạch.

Vẫn còn một số ngân hàng nhỏ chưa quan tâm đến vấn đề tái cấu trúc vì hầu hết những ngân hàng này yếu kém , hoạt động không hiệu quả nên đây là những ngân hàng đầu tiên bị sáp nhập hoặc giải thể trong quá trình tái cấu trúc. Điều này gây khó khăn cho Chính phủ trong công cuộc tái cấu trúc ngân hàng thương mại.

2.3.3 Hạn chế

Tuy nhiên quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua còn nhiều hạn chế: bản thân ngân hàng thương mại đã không trích lập đầy đủ, trung thực dự phòng rủi ro nên việc xử lý nợ xấu lành mạnh, an toàn hệ thống mà Ngân hàng nhà nước chưa xử lý dứt điểm trong thời gian qua. Ngoài ra ngân hàng thường xuyên xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro khiến lợi nhuân ngân hàng bị ảnh hưởng dẫn đến hệ quả xấu trong hoạt động kinh doanh và giảm lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Hệ thống quản trị của các ngân hàng thương mại VN vẫn bộc lộ nhiều nhược điểm như: vai trò thực tế của Hội đồng quản trị và Ban điều hành chưa được phân biệt rõ ràng; chưa coi trọng vấn đề quản trị rủi ro; quản trị công ty tại các ngân hàng thương mại chưa được quan tâm đúng mức và chưa được coi là mô hình thực sự cần thiết cho phát triển kinh doanh; rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu vắng các thành viên độc lập là những người có uy tín, có kinh nghiệm trong các Ủy ban thuộc Hội đồng quản trị.

Việc phát triển sản phẩm của các ngân hàng thương mại VN còn tồn tại những vấn đề như: số lượng sản phẩm chưa phong phú, nhất là nghiệp vụ ngân hàng quốc tế; chưa chú trọng nhiều đến cạnh tranh về chất lượng phục vụ và công nghệ mà chủ yếu nhờ mở rộng mạng lưới, cạnh tranh về giá cả và lãi suất.

Tỷ trọng nhân sự có trình độ từ đại học trở lên của các ngân hàng thương mại VN ngày càng gia tăng và chiếm tỷ lệ rất cao, chằng hạn tỷ lệ này ở ACB là 93%, của Techcombank là 93,33%. Tuy nhiên, hiện tại, đội ngũ nhân lực trong các ngân hàng thương mại VN đang tồn tại một số hạn chế: thiếu hụt nghiêm trọng kiến thức về ngân hàng như một ngành kinh doanh, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu khả năng tư duy sáng tạo,… Mặc dù các ngân hàng thương mại VN đã ý thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nhưng do hạn chế về vốn, kinh nghiệm nên việc triển khai còn chưa đạt hiệu quả cao, mức độ hiện đại còn thua kém so với các chi nhánh Ngân hàng nhà nước và ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

2.3.4 Nguyên nhân

Theo đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2028 cho rằng “ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng là quá trình thường xuyên , liên tục nhằm khắc phục những khó khăn , yếu kém và chủ động đối phó với nhưng thách thức để các tổ chức tín dụng không ngừng phát triển một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới”. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Tiến trình tái cơ cấu còn nhiều trở ngại bởi vấn đề sở hữu chéo và lũng đoạn ngân hàng hiện rất lớn và vẫn kéo dài, nguồn gốc vốn góp còn thiếu minh bạch và thiếu chế tài xử lý các vấn đề sở hữu. Sở hữu chéo có thể giúp các ngân hàng cho vay theo quan hệ mà hệ quả là nảy sinh rất nhiều khoản nợ xấu; sở hữu chéo tạo ra rủi ro mang tính hệ thống vì vấn đề thanh khoản và khả năng trả nợ của một ngân hàng có thể kéo theo những vấn đề tương tự ở rất nhiều các ngân hàng khác; sở hữu chéo có thể dẫn tới tình trạng tăng vốn ảo nên nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh giá đúng mức.

Công tác quản trị ngân hàng và quản trị rủi ro còn nhiều yếu kém.

Tình hình kinh tế trong giai đoạn khó khăn cùng với niềm tin thị trường giảm sút đã gây tác động rất lớn đến quá trình tái cấu trúc các ngân hàng thương mại.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Sau 25 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, 16 năm Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông – Nam Á (ASEAN), 10 năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và 5 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực và đạt thành quả to lớn nhất từ trước tới nay.

Điểm nổi bật của kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường đã được xác lập và ngày càng hoàn thiện, tốc độ tăng trưởng GDP cao 7-8%.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vô cùng to lớn và làm thay đổi hoàn toàn hình ảnh Việt Nam trong vòng 2 thập kỷ trở lại đây, kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ nhiều khó khăn, nhiều bất cập cần nhanh chóng xử lý như lạm phát cao; tỷ lệ đầu tư/GDP cao; chỉ số ICOR cao; nợ nước ngoài tăng nhanh, khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam thấp. Trong bối cảnh đó kinh tế Việt Nam cần kịp thời xử lý các vấn đề đang tồn tại và giải pháp đưa nền kinh tế cần phải tái cấu trúc, đó là tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính. Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng.

Và hiện nay 9 ngân hàng thương mại yếu kém đã lần lượt tái cấu trúc nhưng chặn đường tái cơ cấu cả hệ thống ngân hàng vẫn còn gian nan . Vì vậy phần tiếp theo phải tìm ra giải pháp để góp phần hoàn thiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp hạn chế tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thực trạng về tái cấu trúc hệ thống Ngân Hàng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993