Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu tại chi cục Hải quan cửa khẩu Cảng Hải Phòng KV3 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Khái quát quá trình hình thành cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu của việt nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam
Ở nước ta, trước thời điểm áp dụng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO phân ra 3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1 trước năm 2002: Cơ chế xác đánh giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trước khi thực hiện Luật hải quan
- Việt Nam chưa tham gia các cơ chế xác định trị giá tính thuế hiện đại trên thế giới như: BDV, GATT,… Thời kỳ này, cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu dựa trên các bảng giá tối thiểu do Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan ban hành và các Quyết định bổ sung giá tính thuế do các Cục Hải quan địa phương ban hành.Cụ thể là:
- Bộ tài chính ban hành Bảng giá tối thiểu đối với các nhóm mặt hàng thuộc danh mục Nhà nước quản lý về giá (khoảng 9-16 nhóm mặt hàng);
- Tổng cục Hải quan ban hành Bảng giá tối thiểu đối với các mặt hàng không thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý về giá;
- Cục Hải quan địa phương ban hành giá tính thuế đối với những mặt hàng mới phát sinh và áp dụng trong phạm vi của Cục Hải quan địa phương đó.
Giai đoạn 2: Cơ chế xác định giá tính thuế từ khi có Luật Hải quan (năm 2002) đến trước năm 2004 (hiệu lực của Thông tư 118/2003/TT-BTC)
Sự ra đời của Luật hải quan tạo tiền đề để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, trở thành thành viên của WTO và việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO trong xác định giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu là một tất yếu trong dòng chảy của tự do hoá thương mại toàn cầu. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Là giai đoạn quá độ từ cơ chế xác định giá tính thuế theo các bảng giá tối thiểu sang cơ chế xác định giá tính thuế phù hợp với tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình chuyển đổi được đánh dấu bằng Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2002, quy định việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.
Giai đoạn 3: Cơ chế xác định giá tính thuế thời kỳ từ năm 2004 (hiệu lực của Thông tư 118/2003/TT-BTC) đến nay
Đánh dấu từ sự ra đời của Thông tư số 118/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 8/12/2003, có hiệu lực từ 01/01/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 qui định xác định trị giá tính thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO. Cơ chế xác định giá tính thuế theo qui định này chia hàng hoá nhập khẩu cần xác định trị giá tính thuế thành hai nhóm:
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Trị Kinh Doanh
2.1.2. Thực trạng cơ sở pháp lý của cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo GATT tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3
Điều 22 phần IV Hiệp định trị giá GATT/WTO qui định về “Luật pháp quốc gia” khi tham gia Hiệp định như sau: “kể từ ngày áp dụng các qui định của Hiệp định này tại nước mình, mỗi nước thành viên phải đảm bảo các văn bản pháp luật, các qui định cùng các thủ tục hành chính của nước mình phù hợp với các qui định của Hiệp định này” [40, tr.162].
Trên tinh thần Hiệp định, để tiếp cận, áp dụng có bảo lưu và tiến tới áp dụng đầy đủ Hiệp định, ngay từ khi cam kết tham gia, Việt Nam đã luật hoá các qui định của Hiệp định, đưa vào điều luật, văn bản luật các qui định về xác định trị giá theo các phương pháp của Hiệp định để áp dụng trong phạm quốc gia.
- Cơ sở pháp lý quốc gia hiện nay được thể hiện qua các văn bản qui phạm pháp luật sau:
- Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2021/QH13 ngày 06/4/2021 quy định “Trị giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là trị giá hải quan theo quy định của Luật hải quan” và qui định “Chính phủ qui định cụ thể việc xác định trị giá tính thuế theo qui định tại Điều này” [5, tr.11].
- Điều 4 Luật Hải quan số 54/2019/QH13 ngày 23/6/2019 quy định “Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ cho mục đích tính thuế, thống kê hải quan” [8, tr.1].
- Khoản 2 Điều 1 Nghị định 59/2023/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan “Trị giá hải quan hàng nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên trên cơ sở áp dụng Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hoặc theo các cam kết quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết” [5, tr.25].
2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU TẠI CHI CỤC Hải quan cửa khẩu CẢNG HẢI PHÒNG KV3 HIỆN NAY Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
2.2.1. Thực trạng cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3
2.2.1.1. Nhóm cơ chế xác định trị giá tính thuế theo GATT
Thực hiện xác định trị giá tính thuế tuần tự theo các phương pháp xác định trị giá hải quan của Hiệp định và được luật hoá tại Nghị định 08/2020/NĐ-CP và Thông tư 39/2020/TT-BTC. Theo đó, trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo 6 phương pháp, với một trình tự bắt buộc từ phương pháp 1 đến phương pháp 6, tức là trước hết ưu tiên áp dụng phương pháp 1 (trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu), nếu không áp dụng được phương pháp 1 thì chuyển áp dụng phương pháp 2… cứ như vậy đến phương pháp cuối cùng. Khi xác định được trị giá tính thuế ở phương pháp nào thì dừng ngay lại ở phương pháp đó. Tuy nhiên Hiệp định cũng qui định có thể hoán đổi phương pháp 4 (trị giá khấu trừ) và phương pháp 5 (trị giá tính toán) cho nhau, nhưng việc hoán đổi chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp yêu cầu và được cơ quan hải quan chấp nhận.
Các phương pháp xác định như sau:
Một, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu (The Transaction Value)
Đây là phương pháp đầu tiên, quan trọng nhất, theo tổ chức Hải quan thế giới WCO thì có trên 90% tờ khai hàng hoá nhập khẩu tại các nước đã áp dụng đầy đủ GATT được xác định trị giá tính thuế theo phương pháp này (biểu đồ 2.1).
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ sử dụng phương pháp trị giá giao dịch tại các nước phát triển
Các khái niệm Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu trước hết phải trị giá giao dịch, đó là giá đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hoá nhập khẩu đó khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu sau khi đã được điều chỉnh theo qui định và các điều kiện. Trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu xác định theo công thức sau:
- “Trị giá giao dịch” là giá mà người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, sau khi đã được điều chỉnh các chi phí theo quy định [8, tr.1].
- “Giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán” được xác định bằng tổng số tiền mà người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, trực tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu [8, tr.1].
- “Giao dịch bán hàng xuất khẩu” là giao dịch trong đó có sự chuyển nhượng quốc tế về quyền sở hữu hàng hoá, tức là quyền sở hữu hàng hoá được dịch chuyển từ nước xuất khẩu về Việt Nam, qua lãnh thổ hải quan của Việt Nam. Yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét để áp dụng phương pháp này là bản chất của giao dịch đó có phải có sự chuyển nhượng quốc tế về quyền sở hữu hàng hoá. Những giao dịch sau không được coi là giao dịch bán hàng xuất khẩu, không xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch, gồm: (i) giáo dịch hàng đổi hàng; (ii) giao dịch gửi hàng để bán; (iii) giao dịch hàng quà tặng, quà biếu, hàng mẫu, hàng quảng cáo; (iv) giao dịch hàng hoá nhập khẩu của các đơn vị là văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân độc lập; (v) giao dịch hàng hoá thuê mượn [8, tr.2].
Điều kiện để áp dụng trị giá giao dịch
Trị giá giao dịch được áp dụng nếu thoả mãn đủ các điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất: Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá sau khi nhập khẩu, trừ một số hạn chế theo qui định như: việc dán nhãn mác bằng tiếng của nước nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu phải có giấy phép bán hàng tại nước nhập khẩu Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Điều kiện thứ hai: Giá cả hoặc hoạt động bán hàng không phụ thuộc vào những điều kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không xác định được trị giá của hàng hoá cần xác định trị giá tính thuế.
Điều kiện thứ ba: Sau khi bán lại, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng hoá nhập khẩu, người mua không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ doanh thu mà họ đạt được cho người bán dù trực tiếp hay gián tiếp do việc định đoạt hàng hoá nhập khẩu mang lại, không kể khoản chi phí điều chỉnh cộng theo quy định của Hiệp định.
Điều kiện thứ tư: Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch.
- Các yếu tố cấu thành trị giá giao dịch
- Giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, gồm có: + Giá ghi trên hoá đơn.
+ Các khoản thanh toán gián tiếp. + Các khoản chiết khấu giảm giá.
Có 3 loại chiết khấu giảm giá theo qui định bao gồm: Chiết khấu thương mại; chiết khấu số lượng; chiết khấu thanh toán.
- Các khoản chi phí điều chỉnh
Điều 13 Thông tư 39/2020/TT-BTC qui định cụ thể những khoản chi phí nào thuộc vào (nằm trong) trị giá giao dịch thì phải cộng vào trị giá hoá đơn và những khoản chi phí nào không thuộc về trị giá giao dịch thì điều chỉnh trừ ra nếu chúng đã nằm trong giá hoá đơn. Chi phí điều chỉnh có [8, tr.11]: (i) Các khoản điều chỉnh bắt buộc: Là những khoản điều chỉnh pháp luật các quốc gia tham gia Hiệp định đều phải qui định bắt buộc cộng vào giá thực tế đã thanh thoán hãy sẽ phải thanh toán. (ii) Các khoản điều chỉnh không bắt buộc: Là những khoản điều chỉnh mà tuỳ theo Pháp luật từng quốc gia tham gia Hiệp định mà có thể cộng hoặc loại trừ ra khỏi trị giá tính thuế. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Các khoản điều chỉnh khác: Là những khoản điều chỉnh được loại trừ ra khỏi trị giá tính thuế nếu giá hoá đơn có phản ảnh các chi phí này và do người mua phải chịu (gọi là các khoản phải trừ).
(Phụ lục 1: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch).
Hai, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt
Hàng hoá nhập khẩu trước hết được xem xét xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch, tuy nhiên trong một số trường hợp trị giá tính thuế không thể xác định theo trị giá giao dịch, khi đó phải áp dụng phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt.
Hàng hóa nhập khẩu về cơ bản giống nhau mọi phương diện nhưng có những khác biệt không đáng kể về bề ngoài như màu sắc, kích cỡ, kiểu dáng mà không làm ảnh hưởng đến trị giá của hàng hóa thì vẫn được coi là hàng hóa nhập khẩu giống hệt.” [9. tr.2].
Như vậy, hàng hoá giống hệt phải thoả mãn yêu cầu giống nhau về:
- Tính chất vật lý của hàng hoá như tiêu chuẩn bề mặt, vật liệu cấu thành, phương pháp chế tạo, tính năng và mục đích sử dụng,… của hàng hoá.
- Chất lượng hàng hoá.
- Danh tiếng của hàng hoá, chủ yếu là danh tiếng nhãn hiệu hàng hoá.
(Phụ lục 2: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt).
Ba, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự
Điều 2 Nghị định 39/2020/NĐ-CP định nghĩa: Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Hàng hoá tương tự là những hàng hoá dù không giống nhau về mọi phương diện nhưng có các đặc điểm giống nhau, được làm từ các nguyên liệu giống nhau, thực hiện các chức năng giống nhau và có thể thay thế cho nhau về mặt thương mại được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác theo sự ủy quyền của nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt Nam [9. tr 2 ].
Thông tư 39/2020/TT-BTC qui định:
Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu hoặc phương pháp trị giá giao dịch của hàng giống hệt thì trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự, với điều kiện hàng hoá nhập khẩu tương tự đã được cơ quan hải quan chấp nhận xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch, và có cùng các điều kiện mua bán, điều kiện về thời gian xuất khẩu với hàng hoá nhập khẩu đang xác định trị giá tính thuế [6. tr.8].
Bốn, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ
Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo 3 phương pháp trên đây thì trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo trị giá khấu trừ. Nội dung cơ bản của phương pháp này là căn cứ vào đơn giá bán hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu giống hệt hoặc hàng hoá nhập khẩu tương tự trên thị trường nội địa nước nhập khẩu và trừ (-) các chi phí hợp lý, lợi nhuận thu được sau khi bán hàng nhập khẩu.
Điều kiện lựa chọn đơn giá bán trên thị trường nước nhập khẩu
- Đơn giá bán trên thị trường nước nhập khẩu phải là đơn giá bán của hàng hoá nhập khẩu đang được xác định trị giá tính thuế, hàng hoá nhập khẩu giống hệt hoặc hàng hoá nhập khẩu tương tự, được bán nguyên trạng (không làm thay đổi bản chất hàng hoá như việc chế biến, gia công, tháo dỡ các chi tiết,…) như khi nhập khẩu.
- Lượng hàng hoá được bán ra với số lượng luỹ kế lớn nhất ở mức đủ để hình thành đơn giá.
- Hàng hoá được bán ra vào cùng thời điểm hay cùng kỳ với lô hàng nhập khẩu, ngay sau khi nhập khẩu nhưng không quá 90 ngày sau ngày nhập khẩu;
- Giao dịch bán hàng cho người mua không có quan hệ đặc biệt với nhau.
Nguyên tắc khấu trừ Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Việc xác định các khoản khấu trừ dựa trên cơ sở các số liệu kế toán, chứng từ hợp pháp, hợp lệ có sẵn và được ghi chép, phản ánh theo các quy định, chuẩn mực của kế toán nước nhập khẩu. Các khoản được khấu trừ là những khoản được phép hạch toán vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp theo pháp luật về kế toán nước nhập khẩu.
Các khoản được khấu trừ khỏi đơn giá bán hàng : (i) chi phí vận chuyển, phí bảo hiểm và chi phí cho các hoạt động khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá sau khi nhập khẩu tại nước nhập khẩu; (ii) các khoản thuế, phí và lệ phí phải nộp tại nước nhập khẩu khi nhập khẩu và bán hàng hoá nhập khẩu trên thị trường nội địa nước nhập khẩu ; (iii) hoa hồng hoặc chi phí chung liên quan đến các hoạt động bán hàng hoá nhập khẩu tại nước nhập khẩu.
Căn cứ để xác định các khoản khấu trừ là số liệu được ghi chép và phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán của người nhập khẩu, phù hợp với quy định, chuẩn mực của kế toán tại nước nhập khẩu. Số liệu này phải tương ứng với những số liệu thu được từ những hoạt động mua bán hàng hoá nhập khẩu cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại tại nước nhập khẩu.
Năm, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán
Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp trên thì trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo trị giá tính toán.
Phương pháp trị giá tính toán là phương pháp xác định trị giá tính thuế của hàng hoá dựa trên các chi phí liên quan đến việc sản xuất và bán hàng để xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Khi sử dụng phương pháp này phải dựa trên các yếu tố cấu thành trị giá tính toán của hàng hoá cùng với các thông tin có sẵn, khách quan vè định lượng được ở nước nhập khẩu.
Thông tư 40 qui định, trị giá tính toán của hàng hoá nhập khẩu bao gồm các khoản: (i) chi phí trực tiếp để sản xuất ra hàng hoá nhập khẩu; (ii) chi phí chung và lợi nhuận phát sinh trong hoạt động bán hàng hoá cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại với hàng hoá nhập khẩu đang xác định trị giá, được sản xuất ở nước xuất khẩu để bán hàng đến nước nhập khẩu; (iii) các chi phí vận chuyển, bảo hiểm và các chi phí có liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá nhập khẩu [6, tr.12-13].
Căn cứ để xác định trị giá tính toán Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Là số liệu được ghi chép và phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán của người sản xuất trừ khi các số liệu này không phù hợp các số liệu thu thập được tại nước nhập khẩu. Số liệu này phải tương ứng với những số liệu thu được từ những hoạt động sản xuất, mua bán hàng hoá nhập khẩu cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại do người sản xuất tại nước xuất khẩu sản xuất ra để xuất khẩu đến nước nhập khẩu.
(Phụ lục 5: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp tính toán).
Sáu, phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo suy luận (Phương pháp suy luận hay phương pháp dự phòng)
Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo thứ tự các phương pháp trên thì trị giá tính thuế được xác định theo phương pháp suy luận.
Phương pháp này cho phép sử dụng cách thức xác định trị giá hợp lý, nhất quán với nguyên tắc và qui định của Hiệp định trên cơ sở các tài liệu, số liệu khách quan, có sẵn ở nước nhập khẩu tại thời điểm xác định trị giá tính thuế.
Điều kiện để xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp suy luận
- Không có giao dịch bán hàng để xuất khẩu hoặc có giao dịch nhưng không đủ điều kiện để xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu.
- Không có hàng hoá giống hệt hoặc hàng hoá tương tự đã nhập khẩu hoặc sẽ nhập khẩu trong vòng 60 ngày.
- Không có hàng hoá nguyên trạng hoặc gia công một số bộ phận được bán tại nước nhập khẩu.
- Nhà sản xuất không biết hoặc từ chối cung cấp số liệu về chi phí liên quan đến sản xuất và bán hàng hoá xuất khẩu.
Phương thức xác định trị giá theo phương pháp suy luận
Trị giá tính thuế xác định theo phương pháp suy luận được xác định bằng cách áp dụng tuần tự và linh hoạt các phương pháp xác định trị giá tính thuế qui định từ phương pháp 1 đến phương pháp 6 của Hiệp định và dừng ngay tại phương pháp xác định được trị giá tính thuế.
(Phụ lục 6: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp suy luận).
2.2.1.2. Nhóm cơ chế xác định trị giá theo phương pháp quốc gia Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Những trường hợp xác định trị giá tính thuế theo phương pháp quốc gia thì tuỳ theo từng đối tượng hàng hoá nhập khẩu cụ thể mà qui định của Việt Nam có các phương pháp xác định trị giá khác nhau để vừa phù hợp với qui định của Hiệp định, vừa phù hợp với điều kiện quốc gia đảm bảo thu đúng, thu đủ, hạn chế thấp nhất trình trạng gian lận thương mại qua giá, thất thu cho NSNN. Cụ thể như sau:
Đối với hàng hoá nhập khẩu đã được miễn thuế, xét miễn thuế nhưng sau đó sử dụng vào mục đích khác với mục đích đã được miễn thuế, xét miễn thuế thì phải kê khai nộp thuế. Trong đó, trị giá tính thuế nhập khẩu được xác định trên cơ sở giá trị sử dụng còn lại của hàng hoá, tính theo thời gian sử dụng và lưu lại tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3 (tính từ thời điểm nhập khẩu theo tờ khai hải quan đến thời điểm tính lại thuế) và được xác định cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Xác định trị giá tính thuế hàng hoá miễn thuế chuyển mục đích sử dụng
- Đối với phế liệu thu được trong quá trình sản xuất hàng gia công cho phía nước ngoài mà bên thuê gia công bán lại cho phía Việt Nam, thì trị giá tính thuế được xác định như sau:
- Trường hợp có hợp đồng mua bán hàng hóa thì áp dụng các nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá tính thuế theo các phương pháp của GATT để xác định trị giá tính thuế.
- Trường hợp không có hợp đồng mua bán thì trị giá tính thuế được xác định như quy định trường hợp hàng hoá nhập khẩu không có hợp đồng mua bán (điểm 7 phần này). Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng đi thuê mượn thì trị giá tính thuế là giá thực trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài, phù hợp với các chứng từ hợp pháp hợp lệ có liên quan đến việc đi thuê mượn hàng hoá.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng đem ra nước ngoài sửa chữa, gia công thì trị giá tính thuế là chi phí thực trả theo hợp đồng ký kết với phía nước ngoài, phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ liên quan đến việc sửa chữa, gia công hàng hoá, tức là trị giá tính thuế sẽ là phần trị giá tăng thêm so với khi xuất khẩu.
- Hàng hoá nhập khẩu không có hợp đồng mua bán hàng hóa như: Hàng hoá mua bán trao đổi của cư dân biên giới; hàng hoá nhập khẩu của hành khách nhập cảnh, trong và ngoài tiêu chuẩn miễn thuế; hàng hoá là quà biếu, quà tặng, trong và ngoài định mức miễn thuế; hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ phát chuyển nhanh; và các loại hình khác không có hợp đồng mua bán hàng hóa, thì trị giá tính thuế được xác định theo qui định đối với từng trường hợp: (i) hàng hoá đơn lẻ; (ii) không phải là hàng đơn lẻ.
- Hàng hoá nhập khẩu thừa so với hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký với phía nước ngoài:
- Hàng nhập khẩu thừa giống hệt hoặc tương tự với hàng hoá nhập khẩu ghi trên hợp đồng thì trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu thừa được xác định theo phương pháp xác định trị giá tính thuế của số hàng hoá nhập khẩu ghi trên hợp đồng.
- Hàng nhập khẩu thừa khác với hàng hoá nhập khẩu ghi trên hợp đồng, nếu được phép nhập khẩu thì trị giá tính thuế được xác định trên nguyên tắc áp dụng tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế theo qui định của GATT nhưng không xác định theo phương pháp trị giá giao dịch.
- Hàng hoá nhập khẩu chưa phù hợp so với hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký với phía nước ngoài:
- Hàng hoá nhập khẩu chưa phù hợp về qui cách, nếu được phép nhập khẩu, thì trị giá tính thuế là trị giá thực thanh toán cho hàng hoá nhập khẩu.
- Hàng hoá nhập khẩu không đúng với hợp đồng mua bán, nếu được phép nhập khẩu, thì trị giá tính thuế được xác định trên nguyên tắc áp dụng tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định của GATT nhưng không xác định theo phương pháp trị giá giao dịch. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Hàng hoá nhập khẩu bị hư hỏng, tổn thất hoặc mất mát có lý do xác đáng trong quá trình vận chuyển, bốc xếp:
- Đối với số hàng hoá không bị hư hỏng, tổn thất hoặc mất mát, thì trị giá tính thuế là trị giá thực trả cho hàng hoá nhập khẩu (phần không bị hư hỏng, tổn thất, mất mát).
- Đối với phần hàng hoá bị hư hỏng, tổn thất thì trị giá tính thuế được tính theo trị giá tính thuế của số hàng nhập khẩu còn nguyên vẹn và được giảm phù hợp với mức độ tổn thất, hư hỏng hoặc mất mát, phù hợp với kết quả giám định và hồ sơ có liên quan.
- Hàng hoá nhập khẩu để bù đắp cho các tổn thất nêu tại điểm 10 thì trị giá tính thuế được xác định theo các phương pháp xác định qui định của GATT.
- Hàng nhập khẩu thực tế có sự chênh lệch về số lượng so với hoá đơn thương mại do tính chất của hàng hoá, phù hợp với điều kiện giao hàng và điều kiện thanh toán trong hợp đồng mua bán thì số tiền thuế nhập khẩu được xác định như sau:
Về xác định số lượng hàng thực xuất, thực nhập: Khi đã thực hiện giám định thì căn cứ kết quả giám định để xác định lượng hàng thực xuất, thực nhập.
Khi xác định trị giá tính thuế phải căn cứ vào hoá đơn thương mại và hợp đồng mua bán (điều kiện giao hàng, tỷ lệ dung sai, đặc tính tự nhiên của hàng hoá và điều kiện thanh toán). Trị giá tính thuế không được thấp hơn trị giá thực thanh toán ghi trên hoá đơn thương mại và các chứng từ có liên quan.
2.2.2. Thực trạng về khai báo và kiểm tra trị giá tính thuế hàng nhập khẩu ở Việt Nam và ở tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3
2.2.2.1. Cơ chế khai báo trị giá, tờ khai trị giá Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Áp dụng GATT, cơ chế khai báo trị giá là việc người nhập khẩu phải hoàn thành tờ khai trị giá và nộp cho cơ quan hải quan cùng với thời điểm nộp tờ khai hải quan.
Tờ khai trị giá là một mẫu khai báo do cơ quan hải quan ban hành áp dụng thống nhất cho cho quốc gia nước nhập khẩu, trong đó chứa đựng các thông tin cần thiết để xác định trị giá hải quan theo các phương pháp của Hiệp định trị giá GATT/WTO và đi kèm với tờ khai hải quan dưới dạng phụ lục hoặc tờ khai riêng biệt, chi tiết như:
- Về tư cách pháp nhân: Họ tên, địa chỉ người bán, người mua, người nhập khẩu uỷ thác hoặc khai thuê.
- Về điều kiện mua bán hàng hoá bao gồm: Điều kiện giao hàng (FOB, CIF,C&F, CIP…); Số, ngày tháng lập hoá đơn thương mai; Số, ngày tháng ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá;
- Phương pháp xác định trị giá: Người nhập khẩu phải khai báo phương pháp xác định trị giá của mình từ phương pháp 1 đến phương pháp 6.
- Các điều kiện để áp dụng trị giá giao dịch: Đó là các điều kiện áp dụng trị giá giao dịch theo Điều 1.1 của Hiệp định.
- Khai báo về trị giá, gồm: (i) giá hoá đơn, các khoản thanh toán gián tiếp, tỷ giá; (iii) các chi phí phải cộng; (iii) các chi phí được trừ.
- Trị giá hải quan được xác định: Phần nhà nhập khẩu khai báo, cam kết, ký tên,….
Mẫu tờ khai trị giá của Việt Nam ban hành theo Thông tư số 39/2020/QĐ-BTC ngày 25/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc quy định về trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
(Phụ lục III: Mẫu tờ khai trị giá hải quan HQ/2020-TG1). Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
2.2.2.2. Cơ chế kiểm tra trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu ở Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3
Qui trình kiểm tra trị giá: Thực hiện theo Quyết định 1966/QĐ-TCHQ ngày 10/7/2020 của Tổng cục Hải quan ban hành qui trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu [55, tr.68].
Theo qui trình này thì kiểm tra trị giá tính thuế được thực hiện ở 2 khâu:
- Khâu thông quan: Tức là kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu ngay sau khi người khai hải quan nộp tờ khai cho cơ quan hải quan.
- Khâu sau thông quan: Tức là kiểm tra trị giá khi đã kết thúc thủ tục hải quan, hàng hoá nhập khẩu đã được giải phóng.
Về nguyên tắc, toàn bộ hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng phải đánh thuế thì đều phải kiểm tra về trị giá, vì vậy việc kiểm tra ngay tại khâu thông quan là hết sức quan trọng vì một mặt vừa phải đảm bảo độ chính xác, vừa phải đảm bảo thời gian hoàn thành công việc. Kiểm tra trị giá tại khâu sau thông quan chỉ thực hiện trong trường hợp giá khai báo là thấp so vơi dữ liệu giá do cơ quan hải quan thu thập được nhưng qua kiểm tra, tham vấn cơ quan hải quan không đủ căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo của lô hàng nhập khẩu đó thì phải chuyển kiểm tra sau thông quan để kiểm tra tiếp; hoặc cơ quan kiểm tra sau thông quan, cơ quan điều tra chống buôn lậu phát hiện có dấu hiệu gian lận thương mại qua trị giá mà cần phải kiểm tra kịp thời để ngăn chặn.
(Phụ lục 10: Sơ đồ qui trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu).
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
2.3.1. Kết quả thực hiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu ở Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng Kv3
Qua thời gian hơn 6 năm triển khai và trên 4 năm áp dụng thực tiễn
GATT trong việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu tại
Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3, đã thu được một số kết quả sau:
Thứ nhất, từng bước ngày càng hoàn thiện cơ sở pháp lý cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3 theo Hiệp định trị giá GATT/WTO gồm các Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp lý khác.
(Phụ lục 8: Danh mục các văn bản Luật và các văn bản khác về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV3).
Thứ hai, cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu hiện hành đã góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, thể hiện được quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Thứ ba, rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu nhờ cơ chế cho phép người nhập khẩu tự khai báo, tự xác định trị giá tính thuế dựa trên các nguyên tắc và phương pháp của GATT/WTO. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc kê khai trị giá giao dịch đối với hàng hoá nhập khẩu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về Hải quan, nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp trong việc chủ động hạch toán về thuế, phí và các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Qui trình nghiệp vụ được hoàn thiện từng bước dần phù hợp và đầy đủ hơn với các nguyên tắc của Hiệp định GATT/WTO. Theo số liệu thống kê của ngành Hải quan thì đối tượng được áp dụng hệ thống xác định giá tính thuế dựa trên các nguyên tắc và phương pháp củ a GATT/WTO chiếm 90% tổng kim ngạch nhập khâu vào Việt Nam [ 47, tr.3]. Trong đó khoảng 99% các lô hàng nhập khẩu được xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch [47, tr.4], do vậy đã rút ngắn được thời thông quan hàng hoá, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời nâng cao trách nhiệm khai báo của doanh nghiệp.
Đối với công tác kiểm tra, tham vấn xác định trị giá: Đã và đang hoàn thiện các qui trình xác định trị giá theo quyết định 1966/QĐ-TCHQ phù hợp với qui trình thủ tục hải quan và nâng cao tính pháp lý về công tác kiểm tra trị giá của cơ quan hải quan.
Bảng 2.3: Số hồ sơ tham vấn và điều chỉnh trị giá hải quan
Đảm bảo thông tin về doanh nghiệp ngày càng đầy đủ, xác thực hơn. Hiện tại, ngành Hải quan đã xây dựng được hệ thống thông tin về doanh nghiệp như: Danh bạ doanh nghiệp, thông tin doanh nghiệp về vi phạm pháp luật hải quan, doanh nghiệp bị cưỡng chế làm thủ tục; thông tin về các doanh nghiệp đối tác nước ngoài.
Thứ tư, bước đầu xây dựng và hiện đại hoá cơ cở vật chất cho quản lý hải quan đáp ứng yêu cầu của thương mại quốc tế và xu thế hội nhập.
Phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo GATT là một phương pháp quản lý hiện đại dựa trên nền tảng cao về kỹ thuật, công nghệ đồng thời tuân thủ các thông lệ thương mại quốc tế. Để thực hiện tốt phương pháp trị giá hải quan đòi hỏi cơ quan hải quan phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phong phú được cập nhật thường xuyên, kịp thời về tình hình thương mại đang diễn ra trên toàn cầu.
Số lượng tờ khai năm 2022 tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2021, trong đó lượng tờ khai xuất có tỷ lệ tăng cao hơn số lượng tờ khai nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi về chính sách quản lý quy định tại Thông tư 38/2020/TT-BTC ngày 25/03/2020 của Bộ Tài chính. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Bảng 2.4: Số lượng tờ khai giai đoạn 2019 – 2023
Hiện tại Hải quan Việt Nam đã trang bị được khoảng 250 máy chủ, 4.800 máy tính cá nhân hoạt động trên hai hệ thống mạng LAN và mạng WAN. Nếu tính theo đầu người thì tỷ lệ máy vi tính được trang bị hiện nay khoảng 1,6 người/máy. Hệ thống mạng máy tính cục bộ (LAN- Local Area Network) được xây dựng ở hầu hết các văn phòng Cục Hải quan tỉnh, thành phố, Chi cục hải quan và các dây chuyền làm thủ tục hải quan. đến thời điểm hiện nay, 33 Cục Hải quan tỉnh và các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục và hầu hết các Chi cục (nơi có Internet) đều đã được trang bị mạng LAN.
Sơ đồ 2.2: Mạng WAN ngành hải quan
Ngành Hải quan cũng đã xây dựng và triển khai được một số “Hệ thống phần mềm ứng dụng” phục vụ công tác quản lý, điều hành các mặt nghiệp vụ hải quan nói chung, trị giá hải quan nói riêng như: cho công tác trị giá, hiện nay ngành hải quan triển khai các hệ thống sau:
Chương trình khai hải quan điện tử VNACCS/VCIS cho phép các doanh nghiệp có thể thực hiện thủ tục khai báo điện tử nhằm đơn giản hoá thủ tục hải quan, loại bỏ hồ sơ giấy và nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp. Hiện nay, việc khai báo điện tử đang được áp dụng trên toàn quốc.
Chương trình tin học quản lý hành chính (Cloudoffice) cho phép thực hiện chỉ đạo, điều hành qua mạng máy tính, đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả của công việc.
Chương trình quản lý tờ khai hải quan có nhiệm vụ thu nhập dữ liệu thông tin trên tờ khai hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu trên phạm vi toàn quốc. Trên cơ sở dữ liệu hàng hóa xuất nhập khẩu, có thể phân tích, dự báo, xây dựng kho dữ liệu điện tử hỗ trợ công tác trị giá hải quan. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Chương trình dữ liệu trị giá tính thuế (GTT02): Là phần mềm chủ đạo để áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan từ khâu kiểm tra trị giá khai báo đến xác định trị giá tính thuế hàng hóa xuất nhập khẩu..
Chương trình thông tin vi phạm pháp luật hải quan: Thu thập, xử lý thông tin về tình hình vi phạm pháp luật hải quan của các tổ chức, cá nhân.
Chương trình danh bạ doanh nghiệp đang trong quá trình xây dựng. Với thông tin liên tục được cập nhật thì cơ quan hải quan sẽ có được bản lý lịch trích ngang của mỗi doanh nghiệp. Thông tin này rất có ích cho việc Kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá.
Ngoài ra, còn các chương trình: Kế toán thuế 559, thông tin quản lý rủi
Các chương trình này được thiết kế liên kết, tích hợp với nhau trên nền tảng của qui trình thủ tục hải quan, kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.
Thứ năm, hạn chế căn bản việc áp đặt giá tính thuế, tạo sự công bằng trong kinh doanh thương mại, tôn trọng trị giá đàm phán giao dịch giữa người mua và người bán, khuyến khích thương mại quốc tế phát triển.
Thứ sáu, kiện toàn tổ chức xác định trị giá hải quan và từng bước nâng cao trình đội đội ngũ cán bộ Hải quan, tạo tiền đề cho công tác cải cách hành chính và hiện đại hoá quản lý Hải quan nước ta.
- Về nguồn lực con người: Đội ngũ cán bộ ngành Hải quan hiện tại có khoảng 8.000 người trong đó 1% có trình độ sau đại học, 60% tốt nghiệp đại học, 24% cao đẳng và trung cấp, 15% sơ cấp. Hệ thống tổ chức bao gồm:
- Các Vụ, Cục nghiệp vụ thuộc Tổng cục Hải quan có nhiệm vụ tham mưu giúp Tổng cục trưởng quản lý chỉ đạo hoạt động trong toàn ngành về các mảng chuyên môn, nghiệp vụ đối với các Cục Hải quan địa phương.
- Cục Hải quan các địa phương được tổ chức theo mô hình gồm các phòng, ban tham mưu, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và tương đương Đội Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Các Chi cục Hải quan là đơn vị thực hiện thủ tục hải quan gồm các đội thủ tục, đội văn phòng.
Công tác xác định trị giá hải quan
Đối với hàng nhập khẩu được quán triệt thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư số 39/2020/TT-BTC ngày 25/03/2020 của Bộ Tài chính. Kết quả trong năm 2022:
- Chuyển tham vấn giá cấp Cục: 604 trường hợp;
- Chuyển Chi cục kiểm tra sau thông quan: 85 trường hợp;
- Chuyển Bộ phận KTSTQ Chi cục: 344 trường hợp
Sau khi có các văn bản chấn chỉnh các Chi cục hải quan trực thuộc trong toàn Cục về công tác cập nhật giá tính thuế và công tác kiểm tra giá để xác định các tờ khai giá thấp… Chi cục đã quán triệt từng CBCC phải nghiêm túc thực hiện theo đúng ý kiến chỉ đạo của cấp trên, phải cập nhật giá ngay đối với tất cả các tờ khai nhập khẩu và cử cán bộ chuyên trách theo dõi việc cập nhật trị giá và kiểm tra giá tính thuế.
Công tác chống thất thu NSNN
- Qua công tác kiểm tra, rà soát mã số: 3.864 tỷ;
- Qua công tác kiểm tra trị giá: 43.41 tỷ;
- Qua công tác kiểm tra C/O: 45 triệu đồng.
Công tác kiểm tra sau thông quan
Chi cục đã triển khai công tác kiểm tra sau thông quan tại chi cục theo QĐ 462/QĐ-HQHP ngày 29/2/2021 của Cục Hải quan TP Hải phòng, quyết tâm thực hiện hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu dự toán, chỉ tiêu phấn đấu số thực thu NSNN qua công tác KTSTQ.
Công tác cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan
Có sáng kiến cải tiến: Tham gia Tổ nghiên cứu xây dựng đề tài “Quản lý Hải quan đối với loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu, chế xuất” của Cục Hải quan TP Hải Phòng. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Triển khai xây dựng, cài đặt hệ thống lưu trữ dữ liệu theo mô hình điện toán đám mây (Cloud Server) phục vụ công tác nghiệp vụ tại Chi cục
Tập trung nguồn lực để thực hiện có hiệu quả hệ thống VNACCS/VCIS, góp phần giảm thời gian thông quan, giải phóng hàng theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
Triển khai có hiệu quả chương trình cải cách thủ tục hành chính theo Chương trình ISO 9001:2000, toàn bộ các văn bản chính sách được sắp xếp có hệ thống, khoa học, đóng góp xây dựng quy trình thủ tục hải quan điện tử theo tiêu chuẩn ISO.
Kết quả triển khai thực hiện Tuyên ngôn phục vụ khách hàng.
Được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.6: Kết quả triển khai thực hiện Tuyên ngôn phục vụ khách hàng
- Về mô hình tổ chức hệ thống quản lý trị giá
Mô hình tổ chức hệ thống quản lý trị giá tính thuế của ngành Hải quan hiện nay được tổ chức thành 3 cấp:
- Cấp Hải quan trung ương: Tại cơ quan Tổng cục Hải quan không có phòng, ban riêng về trị giá mà chỉ có một tổ chuyên trách khoảng 17 cán bộ nằm trong Vụ kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu. Chức năng chủ yếu là hướng dẫn nghiệp vụ, cung cấp thông tin vĩ mô cho hải quan địa phương. Bộ phận giá được bố trí, phân công theo hướng chuyên sâu theo chương, nhóm mặt hàng để dần dần hình thành đội ngũ cán bộ giá có trình độ chuyên môn cao. Cán bộ, công chức làm công tác giá tại Tổng cục Hải quan mang tính ổn định cao và đều có thời gian công tác trong lĩnh vực trị giá từ 5 năm trở lên. Công tác đào tạo bồi dưỡng cũng được chú trọng, hiện đ ang đào tạo các giáo viên chuyên trách trong lĩnh vực trị giá.
- Cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Có 08 Cục Hải quan địa phương lớn được thành lập phòng trị giá tính thuế là: Cục Hải quan Hà Nội, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu. Các Cục Hải quan địa phương khác không có phòng trị giá mà chỉ bố trí bộ phận trị giá riêng (khoảng 2 -3 người) trực thuộc phòng Nghiệp vụ, ngoài công tác trị giá còn kiêm nhiệm một số công tác khác.
Nhiệm vụ chủ yếu của phòng trị giá hoặc bộ phận trị giá thuộc phòng Nghiệp vụ theo qui định tại Thông tư 39/2020/TT-BTC ngày 25/3/2020 là tham mưu cho Cục trưởng về các công tác: Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác, kiểm tra xác định trị giá tại các Chi cục. Tổ chức tuyên truyền về xác định trị giá tính thuế theo nội dung của Hiệp định trị giá GATT/WTO
- Tổ chức kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá tính thuế đối với các lô hàng có nghi vấn về giá khai báo thấp, mà chủ yếu là hàng hoá nhập khẩu thuộc “danh mục dữ liệu giá hàng hoá quản lý rủi ro” do Tổng cục ban hành, đó là những hàng hoá có thuế suất cao, trị giá lớn như ô tô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh… (các hàng hoá khác thường phân cấp cho các Chi cục tự kiểm tra, tham vấn và xác định trị giá);
- Rà soát, kiểm tra, thẩm định lại giá do các Chi cục thực hiện. Rà soát các hàng hoá thường xuyên làm thủ tục nhập khẩu tại các Chi cục trực thuộc để ban hành “danh mục dữ liệu giá các mặt hàng trọng điểm” thực hiện chung trong toàn Cục.
- Cấp Chi cục Hải quan: Tại các Chi cục Hải quan có các tổ giá nằm trong Đội nghiệp vụ (đối với các Chi cục thành lập đội) hoặc cán bộ làm công tác giá (kiêm nhiệm một số công tác khác). Các tổ giá (hoặc cán bộ giá) là lực lượng trực tiếp thực hiện kiểm tra, xác định trị giá tính thuế cho các lô hàn g nhập khẩu.
Sơ đồ 2.3: Mô hình tổ chức công tác xác định trị giá ngành Hải quan
2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu
2.3.2.1. Những khó khăn, hạn chế của cơ chế xác định trị giá tính thuế hiện hành
- Hạn chế về cơ sở pháp lý
Trước hết, việc ban hành văn bản hướng dẫn của ngành hải quan còn chậm, không kịp thời và thiếu đồng bộ: Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020; Thông tư 39/2020/TT-BTC hướng dẫn và 10/7/2020 mới có QĐ 1966/QĐ-TCHQ của Tổng cục Hải quan hướng dẫn về qui trình kiểm tra, xác định trị giá. Ngay văn bản hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra, xác định trị giá và văn bản qui định về tổ chức hệ thống xác định trị giá cũng thiếu đồng bộ, chẳng hạn như việc xây dựng, ban hành qui trình xác định trị giá tính thuế nhưng gần nửa năm sau mới ban hành văn bản qui định về con người thực hiện: ai làm, trình độ thế nào, đã được đào tạo các khoá tập huấn về công tác xác định trị giá hay chưa?… Hoặc có qui định nhưng không rõ ràng và thực hiện thiếu dứt khoát, chẳng hạn qui định của Ngành hải quan đối với công chức thừa hành là 3 năm phải đảo đổi, thuyên chuyển công tác một lần nên nhiều khi khó bố trí cán bộ có chuyên môn sâu về kiểm tra, xác định trị giá.
Sự thiếu đồng bộ còn thể hiện giữa văn bản ban hành của cơ quan hải quan, của Bộ Tài chính và các văn bản do các ngành khác hướng dẫn liên quan đến công tác xác định trị giá. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Thứ ba, nội dung các văn bản hướng dẫn của cơ quan hải quan có lúc còn chưa phù hợp với quy định của Luật, Thông tư, Hiệp định và chậm được thay đổi: Công văn 905/TCHQ-TXNK quy định việc ấn định thuế sau khi tham vấn mà doanh nghiệp không khai báo bổ sung là trái với quy định tạ Thông tư 38/2020/TT-BTC, do đó trên thực tế rất nhiều trường hợp truy thu thuế do xác định lại trị giá gặp nhiều kho khăn mà phần lớn là không thu được khoản chênh lệch thuế do xác định lại trị giá tính thuế cao hơn giá khai báo, gây ra khiếu nại, khiếu kiện kéo dài mà thuế thì vẫn không thu được.
- Thứ tư, ban hành một số văn bản pháp lý còn thiếu tính thực tế do đó cán bộ hải quan và doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong thực hiện: Quy định thẩm quyền tham vấn giá chủ yếu tập trung tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố (do phòng Trị giá hoặc bộ phận giá thuộc phòng Nghiệp vụ thực hiện) dẫn đến tình trạng làm việc quá tải dẫn đến hậu quả là: (i) cán bộ trị giá hải quan làm việc qua loa, không chính xác, nhiều khi ra quyết định trị giá mang tính áp đặt; (ii) do công việc quá nhiều nên các thông báo tham vấn gửi đi doanh nghiệp chậm hàng vài tháng kể từ ngày thông quan hàng hóa.
- Thứ năm, các chế tài qui định về xử phạt VPHC do khai báo không trung thực về giá tính thuế còn thiếu hoặc có qui định nhưng chung chung, không có hướng dẫn cụ thể nên không thực hiện được.
- Thứ sáu, một số vấn đề thiếu cơ sở pháp lý cho một số hoạt động hỗ trợ việc kiểm tra và xác định trị giá như: Chi phí thẩm định, giám định giá trong trường hợp doanh nghiệp xuất trình hoá đơn không phù hợp với giá bán thực tế trên thị trường nội địa, chi phí trưng cầu chuyên gia thẩm định giá, vấn đề sử dụng các thông tin giá do các cơ quan thương vụ, đại sứ quán, tình báo hải quan,… tại các nước cung cấp, chi phí giám định chứng từ nghi ngờ giá mạo,…
- Thứ bảy, cơ chế về quản lý tài chính, quản lý tiền tệ còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ: Việc kiểm tra các nguồn thanh toán của doanh nghiệp qua các kênh thanh toán còn rất khó khăn, đặt biệt hiện tượng sử dụng tiền mặt để thanh toán trong thương mại (cả nội địa lẫn quốc tế) còn diễn ra phổ biến rất kho khăn cho việc kiểm soát các khoản thanh toán của doanh nghiệp.
Những hạn chế trong hệ thống tổ chức và sử dụng nguồn lực con người
Chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ xác định trị giá đồng đều từ Tổng cục Hải quan xuống các Chi cục, mô hình tổ chức còn nhiều bất cập, chưa thống nhất trong toàn ngành Hải quan [47, tr.8].
Trình độ cán bộ giá còn yếu, còn thiếu về số lượng, nguồn tuyển dụng chưa hợp lý, chưa có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ giá lâu dài hoặc có đào tạo nhưng lại sử dụng chưa hợp lý.
Thiếu cán bộ giá chuyên sâu, có khả năng đào tạo, tập huấn và hướng dẫn nghiệp vụ xác định trị giá tính thuế ở tầm chuyên gia trong lĩnh vực này. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Công tác bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ giá trong toàn Ngành Hải quan còn chưa phù hợp, chưa mang tính chuyên sâu. Việc phối hợp trong công tác quản lý giá giữa 03 cấp: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan địa phương và các Chi cục Hải quan chưa được thực hiện hoặc được thực hiện nhưng mang tính sự vụ, manh mún, chưa có tính hệ thống [47, tr.9].
- Những hạn chế về quy trình nghiệp vụ xác định giá tính thuế
Qui trình kiểm tra xác định trị giá tính thuế ban hành tại Quyết định 1636/QĐ-TCHQ đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp hơn so với các qui trình trước đây, tuy nhiên qui trình này vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, hầu như chỉ chú trọng việc kiểm tra, xác định trị giá tại khâu thông quan và tập trung hướng dẫn các bước kiểm tra, xác định trị giá thực hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu. Việc kiểm tra từ xa tại Cục Hải quan tỉnh được đề cập không nhiều, không cụ thể. Đặc biệt việc kiểm tra của bộ phận giá của Vụ Kiểm tra thu thuế – Tổng cục hải quan hầu như không được đề cập trong qui trình này.
Thứ hai, mối quan hệ phối hợp trong việc kiểm tra, xác định trị giá giữa khâu thông quan và khâu sau thông quan (Chi cục kiểm tra sau thông quan, đội kiểm soát chống buôn lậu, phòng tham mưu điều tra, thanh tra) được qui định trong qui trình đã được đề cập nhưng chưa rõ nét, chưa qui định rõ các trường hợp nào chuyển hồ sơ về bộ phận kiểm tra sau, chuyển những hồ sơ nào, qui trình luân chuyển hồ sơ thế nào, nhất là khâu cung cấp các thông tin nghi ngờ. Trường hợp nào bộ phận kiểm tra sau thông quan có thể yêu cầu cung cấp hồ sơ để kiểm tra nếu có thông tin về dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp về giá mà không cần phải chờ Chi cục hay phòng giá chuyển theo phiếu chuyển nghiệp vụ.
Thứ ba, qui định về thẩm định hồ sơ, thẩm định về giá chưa được qui định trong qui trình như: Trường hợp nào phải thẩm định, thẩm định ở đâu, chi phí thẩm định do cơ quan hải quan hay doanh nghiệp chịu và chịu trong trường hợp nào (chẳng hạn, nếu doanh nghiệp sai thì doanh nghiệp phải chịu chi phí, doanh nghiệp đúng thì hải quan phải chịu)
Thứ tư, qui định về thời gian kiểm tra tham vấn trong khâu thông quan là 30 ngày (ngày theo lịch) kể từ ngày mở tờ khai hải quan là chưa phù hợp vì tại thông tư 39/2023/TT-BTC thì không còn khái niệm hiệu lực của tờ khai là 15 ngày kể từ ngày đăng ký.
Thứ năm, cũng như Thông tư 39, qui trình chưa đề cập đến việc xử phạt hành chính khi doanh nghiệp vi phạm khai báo giá thấp hơn thực tế mua bán dẫn đến việc tham vấn nhiều, ùn tắc hồ sơ. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Thứ sáu, qui trình hiện hành phân chia hàng hoá nhập khẩu làm 3 loại để tiến hành các bước kiểm tra, xác định trị giá khác nhau là bất cập: Hàng hoá thuộc diện quản lý rủi ro về giá (dữ liệu giá do Tổng cục Hải quan ban hành); hàng hoá trọng điểm (do Cục hải quan địa phương rà soát và ban hành) và hàng hoá khác. Trong đó qui định hàng hoá khác này không phải tham vấn, kể cả trường hợp có nghi ngờ về mức giá khai báo. Mức giá dữ liệu của hàng hoá quản lý rủi ro và hàng hoá trọng điểm cũng được ban hành theo dạng giá ”chuẩn” để làm cơ sở xác định nghi vấn về giá. Điều này dễ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp cố tình khai sai tên hàng, model, sai xuất xứ… để được xếp vào loại hàng khác nhằm tránh tham vấn của cơ quan hải quan.
Thứ bảy, qui định về phương pháp tham vấn chưa được đổi mới, chủ yếu theo ba rem định sẵn, không phát huy được tính sáng tạo của cán bộ làm công tác tham vấn, vì vậy hồ sơ tham vấn nhiều mà đạt hiệu quả công tác tham vấn còn rất thấp. Do vậy, hiện nay đa phần chấp nhận trị giá khai báo sau tham vấn (chiếm tỷ lệ từ 70 đến 80% trên tổng số lô hàng phải tham vấn giá), việc bác bỏ trị giá khai báo sau tham vấn chiếm tỷ lệ rất thấp chỉ đạt từ 20 đến 30% trên tổng số lô hàng tham vấn [47, tr.7].
- Những hạn chế về hệ thống thông tin dữ liệu giá
Hệ thống thông tin dữ liệu giá bước đầu đã đem lại hiệu quả nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý giá hiện nay. Cụ thể là:
- Đối với nguồn thông tin theo cơ sở dữ liệu giá GTT02: Còn có những bất cập về mặt hạ tầng thông tin, bao gồm: Trang thiết bị phần cứng, hệ thống phần mềm, kỹ năng khai thác,….
- Thiết bị, máy móc của ngành hải quan hiện nay chưa đáp ứng kịp đòi hỏi của công tác xác định trị giá. Tỷ lệ máy vi tính được trang bị phục vụ công tác còn thấp, trang thiết bị hỗ trợ còn chủ yếu mang tính thủ công.
- Các phần mềm kỹ thuật phục vụ công tác trị giá hiện nay chưa đồng bộ, mang tính chắp vá gây nhiều khó khăn cho cán bộ hải quan trong việc cập nhật và khai thác dữ liệu. Các phần mềm quản lý đăng ký tờ khai, quản lý trị giá GTT02, thống kê số liệu hải quan, kê khai hải quan điện tử, cưỡng chế thuế, kế toán thuế xuất nhập khẩu v.v.. hoạt động chưa hoàn toàn tương thích và tích hợp được với nhau. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Thông tin dữ liệu giá trong hệ thống GTT02 thiếu độ tin cậy cao, đa số mức giá khai báo của doanh nghiệp ở trạng thái “nghi ngờ” (dòng đỏ), dữ liệu giá ở trạng thái “dòng đen” hay “đã kiểm tra” có khoảng thời gian đến ngày tra cứu trong vòng 60 ngày là rất ít. Chưa tổ chức thu thập và cập nhật từ các nguồn thông tin khác như: giá bán trên các tạp chí, sách báo, giá trên internet, giá thị trường,… cũng như mức giá đã điều chỉnh sau tham vấn để hỗ trợ ngăn chặn xu hướng doanh nghiệp hạ thấp dần mức giá khai báo.
Việc đánh giá, phân loại các lô hàng nghi ngờ sau khi chấp nhận trị giá khai báo còn chưa chính xác, nhiều lô hàng nhập khẩu giống hệt tại cùng một Chi cục Hải quan trong cùng một thời điểm nhưng lô hàng có trị giá khai báo thấp hơn lại không xác định dấu hiệu nghi ngờ vào hệ thống.
Nhiều đơn vị cập nhật dữ liệu giá như: Cục Hải quan Quảng Nam, Cục Hải quan Nghệ An, Cục Hải quan Bình Dương,….[47, tr.10].
Nguồn thông tin dữ liệu giá hàng hoá quản lý rủi ro do Tổng cục ban hành và danh mực dữ liệu giá hàng trọng điểm do Cục Hải quan địa phương ban hành
Thứ nhất: Danh mục mặt hàng còn hạn chế, mức giá ban hành chưa nhiều và chưa sát giá thực, phải chỉnh sửa nhiều lần.
Thứ hai: Qui chế áp dụng dữ liệu chưa phù hợp với qui định của Hiệp định, như qui định thời điểm áp dụng dữ liệu cho tờ khai hải quan kể từ thời điểm nào đó về sau, tức là nếu tờ khai chỉ mở sau một vài ngày kể từ ngày hiệu lực của văn bản dữ liệu thì không được lấy dữ liệu của văn bản dữ liệu để so sánh, kiểm tra trị giá cho tờ khai đó, trong khi Hiệp định cho phép lấy dữ liệu trước thời điểm mở tờ khai 60 ngày, thậm chí đến 90 ngày.
Thứ ba: Danh mục và mức giá hàng trọng điểm chỉ được xây dựng và áp dụng trong phạm vi Cục Hải quan địa phương dẫn đến tình trạng cùng mặt hàng nhập khẩu nhưng mỗi Cục Hải quan xác định một mức giá khác nhau gây thiếu công bằng cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những đơn vị hải quan làm thủ tục trong nội địa thường xác định mức giá thấp để thu hút các doanh nghiệp về làm thủ tục nhằm mang lợi ích cho địa phương mình.
Nguồn thông tin giá nội địa như giá chào bán trên internet, thông tin nhanh thị trường hoặc khảo sát giá thực tế thị trường không chính xác Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Nguồn thông tin này thường không chính xác vì nhiều khi doanh nghiệp nhập khẩu lại chính là người đưa giá chào bán trên mạng với mức giá chào bán tương ứng với giá khai báo cộng thêm các khoản thuế, phí và một chút lợi nhuận để đánh lừa cơ quan hải quan nhất là những mặt hàng nhập khẩu do một hoặc một vài doanh nghiệp, cá nhân độc quyền phân phối và chi phối thị trường.
Hạn chế trong quan hệ phối hợp của hệ thống kiểm tra, kiểm soát trị giá tính thuế
- Sự phối hợp giữa các khâu nghiệp vụ trong nội bộ cơ quan hải quan chưa đáp ứng được yêu cầu cả về cơ chế phối hợp và thực tiễn thực hiện: Như sự phối giữa các Chi cục, phòng giá với bộ phận kiểm tra sau thông quan, bộ phận kiểm soát, điều tra chống buôn lậu trong việc trao đổi thông tin nghi vấn, cung cấp hồ sơ xác định trị giá; Sự phối hợp giữ các Cục Hải quan địa phương với nhau trong việc tham khảo mức giá xác định, học tập kinh nghiệm về kỹ năng, kỹ thuật tham vấn, xác định trị giá; về xác minh hồ sơ,… Sự chỉ đạo của bộ phận giá Tổng cục đến Cục Hải quan địa phương có nhiều trường hợp chưa sát và thiếu tính kịp thời.
- Công tác phối kết hợp với các ngành khác trong việc xác định trị giá tính thuế cũng chưa áp ứng yêu cầu.
Sự phối hợp giữa cơ quan hải quan với Ngân hàng trong việc cung cấp thông tin các khoản tiền thanh toán của doanh nghiệp tuy đã có qui chế phối hợp nhưng việc xác minh cũng rất khó khăn vì cơ chế quản lý tiền tệ của Việt Nam còn quá lỏng lẻo, doanh nghiệp có thể mở một lúc nhiều tài khoản ở các Ngân hàng khác nhau mà cơ quan hải quan không thể kiểm soát được.
2.3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, trở ngại của cơ chế x ác định giá tính thuế hiện hành Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Một, nhóm các nguyên nhân liên quan đến việc ban hành hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh về trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
- Giai đoạn đầu thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế xác định giá tính thuế chủ yếu dựa trên bảng giá tối thiểu sang áp dụng các cơ chế xác định giá tính thuế hiện đại trên thế giới, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm lập quy nhằm nội luật hoá các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực trị giá tính thuế hàng nhập khẩu, nhiều văn bản pháp q uy ban hành trong thời gian qua chưa tiên liệu hết các tình huống phát sinh trong thực tế dẫn đến tình trạng bất cập giữa quy định hiện hành và công tác thực tiễn tại các đơn vị Hải quan.
- Hải quan là cơ quan đang phải thực hiện rất nhiều loại văn bản liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khác nhau . Tính hệ thống và tính đồng bộ của các loại văn bản này chưa cao, thậm chí còn chồng chéo lẫn nhau, rất khó khăn cho việc thực hiện.
- Đồng thời vẫn tiếp tục áp dụng (trong phạm vi hạn chế) giá tính thuế tối thiểu đối với một số mặt hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và sản xuất trong nước như thuế tuyệt đối (không phụ thuộc vào giá khai báo là bao nhiêu) đối với xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu .
Hai, nhóm các nguyên nhân liên quan đến công tác tổ chức cán bộ và đào tạo nguồn lực con người
- Lãnh đạo nhiều đơn vị từ cấp Cục trở xuống chưa quan tâm đúng mức đến việc đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ trong lĩnh vực xác định trị giá. Việc đào tạo vẫn còn thụ động trông chờ vào kế hoạch của cấp trên. Việc bố trí cán bộ không đúng chuyên môn đào tạo, cán bộ làm công tác giá không có trình độ kiến thức về kinh tế, tài chính, kế toán hoặc ngoại thương nên năng lực xử lý nghiệp vụ bị hạn chế; Công tác tuyển dụng, đề bạt và luân chuyển, thuyên chuyển cán bộ không mang tính kế thừa, không gắn với mục đích chuyên sâu, cán bộ làm công tác giá tại một số địa phương chưa qua các khoá đào tạo về xác định trị giá tính thuế hoặc đã qua đào tạo nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn; cán bộ làm công tác giá một số nơi còn kiêm nhiệm các công tác khác nên không đủ thời gian nghiên cứu, xử lý chuyên sâu những vấn đề liên quan đến công tác xác định trị giá tính thuế. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Hệ thống tổ chức trong công tác quản lý giá tính thuế còn chưa đồng bộ và chưa được chú trọng đúng mức, chưa xây dựng được mối liên kết giữa các cấp Hải quan (Tổng Cục – Cục – Chi Cục). Lực lượng làm công tác xác định trị giá còn mỏng (tại Tổng cục khoảng 17 người, tại Cục Hải quan địa phương nơi có phòng trị giá khoảng 6 -8 người, nơi không có phòng giá khoảng 1-2 người), cán bộ giá tại Chi cục còn kiêm nhiệm nhiều việc khác.
- Trình độ, năng lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ làm công tác trị giá còn nhiều hạn chế, chưa am hiểu và thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ xác định giá tính thuế hiện hành.
Ba, nhóm các nguyên nhân liên quan đến quy trình nghiệp vụ và cơ chế xử lý hành chính
- Việc triển khai thực hiện các quy trình nghiệp vụ xác định trị giá tính thuế tại một số Cục Hải quan địa phương chưa tốt, chưa đầy đủ. Còn xuất hiện tư tưởng làm việc “cầm chừng, nghe ngóng” tình hình thực hiện tại các địa phương khác, xuất hiện tư tưởng “buông xuôi” không tổ chức hoạt động tham vấn giá hoặc chỉ tổ chức mang tính hình thức sau đó vẫn chấp nhận trị giá khai báo để “hút hàng” về địa phương mình làm thủ tục nhập khẩu.
- Chưa xây dựng được mối liên kết giữa các Cục Hải quan địa phương trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm khi tham vấn và đấu tranh bác bỏ trị giá khai báo đối với các lô hàng có nghi ngờ nên đã xuất hiện xu hướng các doanh nghiệp “chạy” từ địa phương này sang địa phương khác để khai báo trị giá thấp làm thất thu cho ngân sách Nhà nước.
- Công tác tuyên truyền về trị giá hải quan đến doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, chưa có hệ thống và hiệu quả không cao dẫn đến nhiều doanh nghiệp chưa am hiểu một cách đầy đủ, tường tận quy trình xác định trị giá tính thuế hiện hành nên nhận thức về quyền và nghĩa vụ còn hạn chế. Đa số các doanh nghiệp chỉ nhận thức về mặt quyền lợi (được áp giá tính thuế theo trị giá giao dịch thực tế, không bị áp đặt theo trị giá tối thiểu như trước kia) nhưng chưa tự giác thực hiện các nghĩa vụ như: Khai báo trung thực trị giá, cung cấp các thông tin về giá và trả lời các câu hỏi nghi vấn của cơ quan Hải quan trong quá trình tham vấn…
- Ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, có hiện tượng doanh nghiệp lợi dụng sự lỏng lẻo của chính sách giá để khai báo trị giá thấp nhằm mục đích trốn thuế gây thất thu cho ngân sách.
- Chế tài về xử lý hành chính trong việc doanh nghiệp khai thiếu thuế do giá khai báo thấp hơn giá thực tế mua bán chưa được qui định rõ ràng và trên thực tế toàn ngành Hải quan chưa xử phạt hành chính đối với doanh nghiệp nào với hành vi khai báo giá thấp hơn thực tế mặc dù đã tiến hành bác bỏ trị giá khai báo, xác định lại trị giá tính thuế, ấn định số thuế phải nộp cao hơn mức thuế khai báo và doanh nghiệp đã chấp nhận nộp phần thuế chênh lệch này.
Bốn, nhóm các nguyên nhân liên quan đến nguồn thông tin dữ liệu giá và hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin
Nguyên nhân về nguồn thông tin dữ liệu giá Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Nguồn thông tin dữ liệu phục vụ công tác tham vấn giá còn thiếu và yếu. Nguồn thông tin trong nước về giá hàng hoá bán ra hạn chế và không chính xác, thậm chí bị bưng bít nhất là đối với hàng hoá có thuế suất cao, trị giá lớn như ô tô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh,… Điều đó là do:
- Những loại hàng hoá này thường do một vài chủ đầu nậu kết nối, hiệp tác với nhau chi phối, khống chế việc nhập khẩu và bán hàng, giá bán hàng thường được thống nhất trên thị trường cả nước.
- Cơ chế quản lý hoá đơn của cơ quan thuế nội địa còn lỏng, việc doanh nghiệp bán hàng viết hoá đơn thấp hơn nhiều (thường chỉ bằng 60-70%) so với giá thực tế mua bán diễn ra phổ biến trên thị trường nội địa (thường giá bán ghi trên hoá đơn bán hàng nội địa chỉ xấp xỉ cao hơn giá thành hàng hoá nhập khẩu, tức là giá nhập khẩu + thuế các loại + chi phí quản lý). Cơ quan thuế nội địa cũng đã có những chế tài quản lý chẳng hạn qui định nếu doanh nghiệp ghi giá hoá đơn thấp hơn 10% giá bán thực tế thì áp giá bán thực tế để xác định thu nhập doanh nghiệp nhưng với gần 350.000 doanh nghiệp trong cả nước với nhiều thủ đoạn mua bán vòng vèo, việc thanh tra, kiểm tra chỉ đủ sức làm đại diện khoảng 7-10% thì việc kiểm soát giá của cơ quan thuế nội địa cũng không thể nào kiểm soát hết được.
- Chính sách thương mại điện tử cũng đã được luật hoá theo Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 nhưng hiệu ứng thực tế chưa cao. Việc Doanh nghiệp đưa “giá bán ma” tức là giá bán thấp hơn thực tế chào trên các trang Web thông dụng trong nước, thậm chí cả những trang Web nước ngoài hoặc trang Web của chính doanh nghiệp nhằm đối phó với cơ quan hải quan cũng đã diễn ra nhiều mà chưa có chế tài quản lý cũng như biện pháp ngăn chặn.
- Nguồn thông tin giá thu thập từ nước xuất khẩu và từ các hãng sản xuất hạn chế nhiều do Việt Nam chưa có các tuỳ viên hải quan, tình báo hải quan, cơ sở hay đặc tình của hải quan,… tại các nước xuất khẩu , chưa có cơ chế về việc cung cấp thông tin giá và thẩm định chứng từ, thẩm định doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài từ các đại sứ quán, từ các tuỳ viên thương mại, từ cơ quan tình báo hải quan khu vực, từ Uỷ ban định giá hải quan của WCO,… cho Hải quan Việt Nam. Nguồn dữ liệu giá xuất khẩu chủ yếu dựa vào thông tin trên các trang Web của các hãng sản xuất. Việc xác định các chi phí sản xuất, lưu thông phát sinh tại nước xuất khẩu làm căn cứ xác định trị giá tính thuế theo phương pháp tính toán đã được qui định tại Thông tư 39/2020/TT-BTC nhưng thực tế hầu như chưa thực hiện được vì không thu thập được những thông tin về các loại chi phí này.
- Nguồn dữ giá liệu hiện nay chủ yếu dựa trên các mức giá khai báo và giá tính thuế đã xác định được tổng hợp từ các Chi cục theo chương trình quản lý giá GTT02. Theo đánh giá hiện nay có tới 70% mức giá trong dữ liệu giá này là thấp hơn giá thực thế mua bán. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Nguyên nhân về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật công nghệ thông tin
- Việc đầu tư hệ thống mạng cục bộ (LAN), mạng diện rộng (WAN) của Ngành Hải quan thời gian qua được chú trọng nhưng chưa đồng bộ.
- Tình trạng “nghẽn mạch”, “rớt mạng” trong quá trình truyền, nhận thông tin về giá tính thuế giữa các cấp hải qu an vẫn còn xảy ra khá phổ biến trong thời gian qua.
- Hệ thống phần mềm quản lý giá tính thuế GTT02 còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu tác nghiệp thực tế như: Thiếu thông tin từ các nguồn thông tin thu thập từ trị giá khai báo của doanh nghiệp để phục vụ công tác kiểm tra, xác định trị giá của cơ quan Hải quan; danh mục dữ liệu giá GTT02 không được cập nhật, bổ sung kịp thời trên hệ thống để phục vụ công tác tra cứu, thực hiện; việc kết xuất thông thông tin phục vụ công tác thống kê, báo cáo chưa được tiện ích.
- Về mặt chủ quan còn do ý thức trách nhiệm của một bộ phần cán bộ công chức còn chưa cao, chưa thấy được tầm quan trọng của việc cập nhật đầy đủ, chính xác thông tin về trị giá vào hệ thống dữ liệu giá tính thuế của toàn Ngành. Việc cập nhật thông tin chưa thực hiện nghiêm túc theo qui trình thủ tục hải quan và qui trình xác định giá bởi vậy dữ liệu thường không đồng bộ và độ chính xác của dữ liệu không cao.
Năm, nhóm các nguyên nhân liên quan đến hệ thống kiểm tra, kiểm soát Ngành Hải quan chưa xây dựng quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, kiểm soát giá tính thuế cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang.
Theo chiều dọc: Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng làm công tác giá thuộc Hải quan các cấp (giữa Tổng cục Hải quan – các Cục Hải quan địa phương – các Chi cục Hải quan, giữa các cục Hải quan địa phương và giữa các Chi cục Hải quan với nhau). Phần mềm quản lý thông tin trị giá tính thuế của ngành Hải quan hiện nay chưa có chức năng cung cấp thông tin về tình hình tham vấn, kết quả xác định giá tính thuế, bác bỏ giá tính thuế, điều chỉnh giá tính thuế, tình hình gian lận thương mại giữa các địa phương với nhau, giữa Tổng Cục Hải quan với Hải quan địa phương để hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm tra, kiểm soát trị giá khai báo. Chưa xây dựng được “Sổ tay (hay cẩm nang) công tác kiểm tra, tham vấn xác định trị giá” làm kinh nghiệm chung cho toàn ngành.
- Chúng ta chưa thiết lập tốt mối quan hệ giữa Uỷ ban định giá Hải quan thuộc WCO và hải quan Việt Nam để được hỗ trợ về kỹ thuật tham vấn, thẩm định giá tại nước xuất khẩu, thẩm định chứng từ,…
Theo chiều ngang:
Chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng làm công tác xác định trị giá Hải quan với lực lượng kiểm tra sau thông quan trong việc kiểm tra các lô hàng sau tham vấn nhưng vẫn còn nghi ngờ về tính trung trực của trị giá khai báo; giữa lực lượng làm công tác xác định tri giá Hải quan với lực lượng điều tra chống buôn lậu để kịp thời phát hiện hình thức, phương thức thủ đoạn gian lận thương mại qua giá; giữa lực lượng làm công tác xác định trị giá Hải quan với các cơ quan như: Thuế nội địa, công an, ngân hàng, cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài,… để xác minh trị giá khai báo đối với những trường hợp phức tạp có dấu hiệu gian lận thương mại lớn, tổ chức kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng sau tham vấn nhưng vẫn còn nghi ngờ về tính trung thực của trị giá khai báo. Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Thực trạng xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu […]