Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, có chiều dài đường bờ biển là 130 km, có 6 cửa biển, giàu nguồn lực hải sản với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam.
Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′ đến 15°25′ Bắc, từ 108°06′ đến 109°04′ Đông, tựa vào dãy Trường Sơn, hướng ra Biển Đông (với chiều dài bờ biển 144 km) phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam (với chiều dài địa giới 98 km), phía Nam giáp tỉnh Bình Định (với chiều dài địa giới 83 km), phía Tây Nam giáp tỉnh Kon Tum (với chiều dài địa giới 79 km), phía Đông giáp biển Đông. Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 883 km về phía Bắc và cách Tp Hồ Chí Minh 838 km về phía Nam. Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía Tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển, đồi núi chiếm phần lớn diện tích, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Khí hậu là nhiệt đới điển hình, nhiệt độ trung bình 25-26,5°, nền nhiệt độ cao, ít biến động. Có 4 con sông chính, lớn nhất là sông Trà Khúc, sông Vệ, sông Trà Bồng và Trà Câu. Đất đai trong địa bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn ngày. Nhìn chung, đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần nâng cao đời sống kinh tế cho người dân trong tỉnh.
Đơn vị hành chính tỉnh Quảng Ngãi chính thức được thành lập vào năm 1832, đến sau cuộc thắng lợi Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên thành tỉnh Lê Trung Đình. Năm 1946, lấy lại tên cũ là tỉnh Quảng Ngãi. Tháng 12/1975, Quốc Hội khóa V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất trong đó có tỉnh Nghĩa Bình trên cơ sở hợp nhất giữa tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Ngày 01/7/1989, Quảng Ngãi được tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình và tái thành lập lại tỉnh Quảng Ngãi. Đến nay, tỉnh Quảng Ngãi gồm có 14 huyện, thành phố, trong đó có 6 huyện miền núi, 01 hải đảo, 01 thành phố và 06 huyện đồng bằng với 184 xã, phường, thị trấn với diện tích là 5.152,49 km2. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, với bao biến cố thăng trầm, vượt lên trên mọi hy sinh tổn thất to lớn và nặng nề, quân và dân tỉnh Quảng Ngãi đã kề vai sát cánh bên nhau, bền bỉ đấu tranh, lần lượt đập tan các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, lập nên những chiến công oanh liệt góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà, đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Quảng Ngãi ngày càng được rèn luyện và trưởng thành, từng bước được bồi đắp lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào các chính sách và pháp luật của Nhà nước, được trang bị những kiến thức khoa học, tri thức pháp luật để có thái độ đúng đắn và ý thức chấp hành tốt những quy định của pháp luật.
Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống, trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.055.154 người, thứ hai là Người Hrê với hơn 115.268 người, thứ ba là Người Cor với hơn 28.110 người, Người Kdong có 17.713 người, cùng với các dân tộc ít người khác như Hoa, Mường, Tày, Thái…
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy Đảng ở địa phương, Quảng Ngãi đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch đúng định hướng, quy mô kinh tế tăng lên đáng kể, các ngành, thành phần, vùng kinh tế đều phát triển, nhất là ngành công nghiệp và Khu kinh tế Dung Quất phát triển mạnh, đã và đang là động lực to lớn, trực tiếp thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 22.234 tỷ đồng, tăng 4.474 tỷ đồng so với năm 2010, tăng bình quân 4.6%/năm. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 7,2%/năm. Lĩnh vực văn hoá – xã hội có bước chuyển biến tiến bộ. Các hoạt động văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, công tác định canh định cư, xóa đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả quan trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Quốc phòng – an ninh được bảo đảm; chính trị – xã hội ổn định; lực lượng vũ trang được tăng cường. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên; các tổ chức trong hệ thống chính trị được kiện toàn và hoạt động có hiệu quả hơn. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố. Nhìn chung, Quảng Ngãi về cơ bản đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ngãi cũng còn nhiều hạn chế: Kinh tế phát triển chưa thật bền vững; chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn thấp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn phát triển chậm; nông nghiệp phát triển chưa toàn diện; loại hình dịch vụ thiếu đa dạng; sản xuất giữa các vùng còn chênh lệch lớn. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đồng bộ. Quản lý nhà nước về quy hoạch, bảo vệ tài nguyên, môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản chưa theo kịp yêu cầu. Lĩnh vực văn hoá – xã hội phát triển chưa tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế…. Đây chính là những thách thức lớn đối với tỉnh Quảng Ngãi, trong đó với vai trò là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính của địa phương, UBND tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục có những giải pháp để vừa phát huy thế mạnh của địa phương, đồng thời vừa khắc phục được những khó khăn, tồn tại. Một trong những giải pháp quan trọng đó là xây dựng ban hành các cơ chế, chính sách hiệu quả, phù hợp với đặc điểm địa phương. Chính vì vậy, dự báo trong những năm tiếp theo, số lượng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi xây dựng, ban hành có thể tăng về mặt số lượng và đa dạng về các lĩnh vực. Việc tăng về số lượng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh, điều này gắn liền với trách nhiệm phải nâng cao năng lực, kỹ năng của cán bộ, công chức là người trực tiếp tham mưu, xây dựng của các sở, ban, ngành có chức năng quản lý các ngành, lĩnh vực tại địa phương, nhằm từng bước đưa hoạt động xây dựng, ban hành văn bản của UBND tỉnh vào nề nếp, chất lượng được nâng cao góp phần thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu phát triển kinh – xã hội của tỉnh mà Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần XIX đã đề ra.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.2. Thực trạng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ngãi:
2.2.1. Các văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi quy định, hướng dẫn về văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Trong thời gian qua, để tăng cường hiệu quả và nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh đúng theo quy định của Luật năm 2004, nay theo Luật năm 2015; Nghị định số 91/2006/NĐ-CP, nay theo Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành các văn bản để điều chỉnh hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh, cụ thể như: Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND ngày 19/01/2007 quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh; Chỉ thị số 17/2009/CT-UBND ngày 13/10/2009 về việc tăng cường và nâng cao chất lượng công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Quyết định số 05/2012/QĐ-UBND ngày 19/3/2012 về việc bổ sung quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh ban hành kèm theo Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND ngày 19/01/2007 của UBND tỉnh; Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 về việc sửa đổi, bổ sung Quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh ban hành kèm theo Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND ngày 19/01/2007 của UBND tỉnh; Chỉ thị số 23/2007/CT-UBND ngày 28/9/2007 về việc củng cố tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp các huyện, thành phố và Ban Tư pháp các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 160/QĐ-UBND ngày 05/10/2010 về việc phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ Ngành Tư pháp Quảng Ngãi, giai đoạn 2010-2015; Chỉ thị số 12/2012/CT-UBND ngày 19/6/2012 về xây dựng, kiện toàn tổ chức pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nghiệp Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 34/2012/QĐ-UBND ngày 15/10/2012 phê duyệt Đề án thành lập mới, củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn và doanh nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, để hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đạt hiệu quả, chất lượng, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động về kiểm tra, xử lý và rà soát hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể như: Chỉ thị số 10/2007/CT-UBND ngày 11/4/2007 về tăng cường công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 11/2007/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 về đảm bảo kinh phí chi cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; Quyết định số 182/QĐ-UBND ngày 24/01/2007 về công nhận đội ngũ Cộng tác viên kiểm tra văn bản cấp tỉnh; Quyết định số 1393/QĐ-UBND ngày 14/8/2008 về việc công nhận đội ngũ Cộng tác viên kiểm tra văn bản tỉnh Quảng Ngãi đợt 2; Chỉ thị số 03/2011/CT-UBND ngày 28/01/2011 về tăng cường công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (thay thế Chỉ thị số 10/2007/CT-UBND); Quyết định số 17/2011/QĐ-UBND ngày 30/8/2011 ban hành Quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 26/2012/QĐ-UBND ngày 13/08/2012 quy định nội dung chi và mức chi cho công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPP trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (Thay thế Quyết định số 11/2007/QĐ-UBND).
Trên đây là những cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Quảng và Quảng Ngãi cũng là một trong những tỉnh đi đầu trong việc ban hành những quy định cụ thể về xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở các văn bản của Trung ương liên quan đến lĩnh vực này. Việc ban hành các văn bản này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động xây dựng văn bản của địa phương, góp phần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh khi ban hành.
2.2.2. Tình hình hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Đối với tỉnh Quảng Ngãi, thì hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh luôn được các cấp chính quyền quan tâm, chỉ đạo. Vì vậy, thực tế trước khi Luật năm 2004 ra đời, trong bối cảnh chưa có quy định pháp luật cụ thể quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với chính quyền địa phương, thì hoạt động xây dựng văn bản của UBND cấp tỉnh được các sở, ban, ngành tự thực hiện, chưa có quy định nào thống nhất tuân thủ thực hiện, vì vậy có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không trải qua các khâu như lấy ý kiến, thẩm định, trước khi ban hành, nội dung chất lượng còn sơ sài, chưa phân biệt văn bản quy phạm hay không quy phạm, thể thức văn bản cũng chưa có quy định nào hướng dẫn. Sau khi Luật năm 2004 được ban hành, thì hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chính thức được điều chỉnh, tiếp đó để hướng dẫn cụ thể Luật năm 2004 Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2006/NĐ-CP và Văn Phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BNV-VPCP.
Như vậy, hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh phải thực hiện theo trình tự, thủ tục soạn thảo ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Luật năm 2004. Theo đó, để cụ thể các quy định về trình tự, thủ tục ban hành tại Luật năm 2004 và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND ngày 19/01/2007 quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh.
Qua thời gian triển khai thực hiện hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh theo Luật năm 2004 thì hoạt động này đã dần dần đi vào nề nếp, ổn định, đảm bảo qua các khâu trong quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật năm 2004, các sở, ban, ngành vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện như: Công tác xây dựng còn ở thế bị động, chưa chủ động bám sát chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời tham mưu soạn thảo. Còn phải phụ thuộc nhiều vào việc chờ hướng dẫn và giao nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương dẫn đến thời gian cho việc soạn thảo không được bảo đảm, chất lượng văn bản ban hành chưa được cao. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không có trong Chương trình vẫn còn xảy ra, việc điều chỉnh Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa được thực hiện,…. và song song việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đang được quy định tại hai Luật. Tuy cùng điều chỉnh về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhưng nội dung của hai Luật này lại có những quy định không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau. Để khắc phục tình trạng này, Luật năm 2015 được ban hành và có hiệu lực từ 01/7/2016. Luật năm 2015 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật năm 2008 và Luật năm 2004, hợp nhất thành một Luật áp dụng thống nhất cho việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ Trung ương đến địa phương và Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, thống nhất 5 nghị định hiện hành vào thành một nghị định (Nghị định số 24/2009/NĐ-CP, Nghị định số 91/2006/NĐ-CP; Nghị định số 100/2010/NĐ-CP, Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, Nghị định số 16/2013/NĐ-CP. Bên cạnh đó đưa một số nội dung về nghiệp vụ trong một số thông tư lên nghị định như: Thông tư số 25/2011/TT-BTP, Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP,…). Như vậy, về cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh đã được Trung ương quy định cụ thể rõ ràng. Sau khi Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ban hành, UBND tỉnh đã quán triệt và chỉ đạo các sở, ban, ngành khi tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo Luật năm 2015 .
Tóm lại, tình hình hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi hiện nay cơ bản được tổ chức thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật năm 2015 từ khâu: xây dựng dự thảo; tổ chức lấy ý kiến góp ý; đăng tải lên Cổng thông tin điện tử tỉnh; tổng hợp ý kiến góp ý gửi Sở Tư pháp thẩm định và trình UBND tỉnh xem xét, quyết định. Do vậy, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đúng quy định của pháp luật và có tính khả thi cao.
2.2.3. Công tác bảo đảm điều kiện thực hiện hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh
2.2.3.1. Về công tác chỉ đạo, đôn đốc Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác chỉ đạo, đôn đốc trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh do các sở, ban, ngành tham mưu, xây dựng luôn được UBND tỉnh Quảng Ngãi thực hiện thường xuyên, kịp thời. Sở Tư pháp với tư cách là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Để thực hiện nhiệm vụ này, hàng năm UBND tỉnh đều giao Sở Tư pháp tham mưu tổ chức một số hội nghị cấp tỉnh và trực tiếp đến các huyện để phổ biến, triển khai tập huấn công tác xây dựng, thẩm định và kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo quy định, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp ban hành 03 văn bản hướng dẫn trực tiếp về nghiệp vụ xây dựng, thẩm định; kiểm tra, xử lý văn bản và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, khi Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ban hành, có nhiều nội dung mới, khó, mang tính kỹ thuật cao, Sở Tư pháp đã tham mưu Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 5832/KH-UBND ngày 16/11/2015 và nhiều văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện. Thực hiện nhiệm vụ được giao Sở Tư pháp đã chủ động tham mưu cho UBND tổ chức 03 hội nghị: 01 hội nghị phổ biến, quán triệt Luật năm 2015 và 01 hội nghị phổ biến, quán tiệt chuyên sâu nội dung của Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và 01 hội nghi tập huấn kỹ năng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành và HĐND, UBND các huyện, thành phố. Nhận thức được tầm quan trọng của các văn bản này, một số sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch, tiếp tục tổ chức triển khai, phổ biến, quán triệt nội dung cơ bản của Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, địa phương mình [51].
Thực hiện quy định tại Điều 28 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP hàng năm Sở Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh và các cơ quan, tổ chức có liên quan lập và trình Chủ tịch UBND tỉnh danh mục quyết định của UBND quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước để các sở, ban, ngành trên cơ sở đó thực hiện tham mưu UBND tỉnh kịp thời. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
2.2.3.2. Về phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế quy định: “Tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là đơn vị chuyên môn, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực được giao và tổ chức thực hiện công tác pháp chế quy định tại Nghị định này” và Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định: “1. Về công tác xây dựng pháp luật: a) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương; b) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan phối hợp với Sở Tư pháp lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; …”. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, để triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung của Nghị định, từng bước kiện toàn, củng cố về mô hình tổ chức và hoạt động của đội ngũ những người làm công tác pháp chế tại địa phương, góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác pháp chế trong công tác quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật, UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 12/2012/CT-UBND ngày 19/6/2012 về xây dựng, kiện toàn tổ chức pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nhiệp nhà nước tỉnh Quảng Ngãi. Để có cơ sở cho việc triển khai thành lập Phòng Pháp chế ở 14 cơ quan chuyên môn và bố trí người làm công tác pháp chế, từng bước đưa công tác pháp chế trên địa bàn tỉnh thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp với vai trò là cơ quan giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác pháp chế đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quyết định số 34/2012/QĐ-UBND ngày 15/10/2012 phê duyệt Đề án thành lập mới, củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn và doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Đến cuối năm 2014, đã có 06 cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh thành lập Phòng Pháp chế gồm: Sở Nội vụ; Sở Giao thông Vận tải; Sở Xây dựng; Sở Lao động – Thương binh và Xã hội; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, sau khi thực hiện Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và các Thông tư liên tịch của Bộ, ngành Trung ương, thì đến thời điểm hiện nay chỉ còn 01 cơ quan chuyên môn có Phòng Pháp chế là Sở Giao thông Vận tải và ngoài các cơ quan chuyên môn có Thanh tra tỉnh thành lập Phòng Tổng hợp, pháp chế, giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra (Phòng Nghiệp vụ 5, bố trí 05 biên chế kiêm nhiệm); Đội Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp thuộc Phòng tham mưu Công an tỉnh được bố trí 04 biên chế chuyên trách [50]. Hiện nay số lượng người làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh gồm 10 biên chế (02 chuyên trách, 08 kiêm nhiệm), về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đa số công chức làm công tác pháp chế đều qua đào tạo luật [48]. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Quyết định số 16/2015/QĐ-UBND ngày 17/4/2015 của UBND tỉnh ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi thì Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Hiện nay, nhiệm vụ này được giao cho Phòng Văn bản pháp quy thực hiện. Phòng Văn bản pháp quy được bố trí 05 biên chế tốt nghiệp đại học luật. Đối với công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Phòng có chức năng tham mưu Lãnh đạo Sở phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh trình UBND tỉnh phê duyệt, điều chỉnh chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh; phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh lập dự thảo Dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh để UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật; Tham gia xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh do cơ quan chuyên môn khác của UBND tỉnh chủ trì soạn thảo; Thẩm định dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của HĐND và UBND tỉnh theo quy định của pháp luật; Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh và Bộ Tư pháp. Như vậy, với nhiệm vụ khá quan trọng liên quan trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các sở, ban, ngành nhưng hiện nay khối lượng công việc của Phòng phụ trách khá lớn, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa tách riêng mà vẫn chung với công tác kiểm tra, rà soát hệ thống hóa, công tác pháp chế. Do vậy, công chức của phòng vừa trực tiếp làm công tác xây dựng, vừa làm công tác thẩm định, góp ý, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế (đặc biệt trước tháng 7 năm 2015 Phòng còn phụ trách tham mưu trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật và quản lý xử lý vi phạm hành chính; sau đó lĩnh vực này được tách ra thành lập Phòng riêng; đồng thời còn phụ trách cả công tác kiểm soát thủ tục hành hiện nay công tác này đã chuyển về Văn phòng UBND tỉnh) trong khi biên chế không tăng so với đầu việc được giao đã làm cho thời gian đầu tư thực hiện công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bị chi phối khá nhiều cho nên ảnh hưởng một phần đến chất lượng trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh.
Ngoài ra, thực tiễn hiện nay hoạt động tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh tại các sở, ban, ngành phần lớn do công chức tại các phòng, ban chuyên môn thực hiện. Theo báo cáo kết quả rà soát số lượng cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật hiện nay trên địa bàn tỉnh có 279 người trong đó có 220 người tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Về trình chuyên ngành đào tạo gồm: đào tạo luật 246 người và chuyên ngành khác 113 người. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Nhìn chung, nguồn nhân lực phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh hiện nay tương đối nhiều, tuy nhiên về chất lượng của nguồn nhân lực này vẫn chưa đạt yêu cầu, trình độ chuyên, môn nghiệp vụ trong lĩnh vực công tác còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu, thiếu tính ổn định.
2.2.3.3. Về tài chính, ngân sách phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do ngân sách nhà nước bảo đảm, được tổng hợp chung vào dự toán ngân sách chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị. Đối với kinh phí bố trí cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh được thực hiện từ năm 2007 theo Thông tư liên tịch số 09/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 15/11/2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND và Thông tư liên tịch số 09/2007/TTLT-BTC-BTP đã hết hiệu lực, được thay thế bởi Thông tư liên tịch số 47/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 16/3/2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Hiện nay, việc bố trí kinh phí cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh thực hiện theo Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Theo đó, mức chi soạn thảo đề cương chi tiết dự thảo quyết định của UBND tỉnh: Văn bản mới hoặc thay thế: mức chi 950.000 đồng/đề cương; Văn bản sửa đổi, bổ sung: mức chi 650.000 đồng/đề cương; Chi soạn thảo quyết định của UBND: Văn bản mới hoặc thay thế: mức chi 3.200.000 đồng/dự thảo văn bản; Văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều: mức chi 2.700.000 đồng/dự thảo văn bản [4]; … trên sở quy định này đã tạo điều kiện cho địa phương có cơ sở pháp lý thực hiện bố trí kinh phí, đồng thời việc bố trí kinh phí cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ một phần kinh phí trong hoạt động xây dựng văn bản cũng như nâng cao trách nhiệm cá nhân trong tham mưu thực hiện công tác này. Tuy nhiên, nhìn chung kinh phí chi cho công tác văn bản nói chung, hoạt động xây dựng văn bản nói riêng hiện nay ở tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, chưa tạo được động lực cho người làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, vì vậy một phần cũng ảnh hướng đến chất lượng của văn bản khi xây dựng. Hiện tại, đối với kinh phí chi cho hoạt động xây dựng văn bản tại Sở Tư pháp đã được dự toán hàng năm và thực hiện chi rất hiệu quả, nhưng tại các sở, ban, ngành thì chưa được bố trí kinh phí riêng cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
2.3. Những kết quả và tồn tại, hạn chế trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ngãi Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Hiếp pháp năm 2013 được ban hành, hàng loạt các Luật và văn bản dưới luật thay đổi để phù hợp với Hiếp pháp. Tại Quảng Ngãi trong thời gian này Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XIX diễn ra và thông qua Nghị quyết đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể để phát triển kinh tế – xã hội tỉnh giai đoạn 2015 – 2020. Trước tình hình thay đổi chung của cả nước và của tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, nhu cầu tham mưu xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thực hiện Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XIX và để giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội cụ thể ở địa phương là cần thiết, rất lớn và các cơ quan có chức năng quản lý ngành, lĩnh vực của địa phương đã thực hiện tham mưu, xây dựng để trình UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thực hiện. Cụ thể, giai đoạn 2013 – 2017 có những kết quả sau:
- Năm 2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 23/02/2013 ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2013 trong đó dự kiến ban hành 78 văn bản [38].
- Năm 2014, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 26/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2014 trong đó dự kiến ban hành 74 văn bản [38].
- Năm 2015, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 06/QĐ-UBND ngày 07/01/2015 ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2015 trong đó dự kiến ban hành 74 văn bản và Quyết định số 254/QĐ-UBND ngày 13/8/2015 về việc bổ sung Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2015 trong đó bổ sung 02 dự thảo văn bản [39].
- Năm 2016, 2017 thực hiện Luật năm 2015, Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh không còn thực hiện, thay vào đó các sở, ban, ngành khi tham mưu xây dựng văn bản lập đề nghị gửi Văn phòng UBND tỉnh và Văn phòng UBND tỉnh chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp để xem xét kiểm tra việc đề nghị ban hành quyết định, báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định. Trong năm 2016 lập 71 đề nghi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, 2017 lập 100 đề nghi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật [40,41]. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Theo đó, giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, số lượng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh được các sở, ban, ngành gửi Sở Tư pháp thẩm định 397 dự thảo quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật, cụ thể: năm 2013: 77 quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật; năm 2014: 75 quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật; năm 2015: 74 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2016: 71 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2017: 100 quyết định quy phạm pháp luật. Qua thẩm định, UBND tỉnh đã ban hành 344 văn bản quy phạm pháp luật cụ thể: năm 2013: 59 văn bản (58 quyết định và 01 chỉ thị); năm 2014: 67 quyết định; năm 2015: 64 văn bản (63 quyết định và 01 chỉ thị); năm 2016: 72 quyết định; năm 2017: 82 quyết định. Số văn bản có chứa thủ tục hành chính được ban hành trong giai đoạn này có 5 văn bản quy phạm pháp luật.
So với một số tỉnh trong khu vực như:
Tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, số lượng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh được các sở, ban, ngành gửi Sở Tư pháp thẩm định 310 dự thảo quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật, cụ thể: năm 2013: 17 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2014: 25 quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật; năm 2015: 52 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2016: 105 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2017: 109 quyết định quy phạm pháp luật. Qua thẩm định, UBND tỉnh đã ban hành 250 văn bản quy phạm pháp luật cụ thể: năm 2013: 17 văn bản; năm 2014: 23 quyết định, chỉ thị; năm 2015: 37 văn bản; năm 2016: 89 quyết định; năm 2017: 84 quyết định [60].
Tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, số lượng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh được các sở, ban, ngành gửi Sở Tư pháp thẩm định 221 dự thảo quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật, cụ thể: năm 2013: 42 quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật; năm 2014: 53 quyết định và chỉ thị quy phạm pháp luật; năm 2015: 46 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2016: 38 quyết định quy phạm pháp luật; năm 2017: 42 quyết định quy phạm pháp luật. Qua thẩm định, UBND tỉnh đã ban hành 171 văn bản quy phạm pháp luật cụ thể: năm 2013: 31 văn bản (30 quyết định và 01 chỉ thị); năm 2014: 41 quyết định; năm 2015: 38 văn bản (37 quyết định và 01 chỉ thị); năm 2016: 30 quyết định; năm 2017: 31 quyết định [61].
Ngoài ra, để hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đảm bảo thống nhất với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đã ban hành và giúp cho các cơ quan tham mưu xây dựng có cơ sở xác định những văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đã ban hành còn hiệu lực, hết hiệu lực và không còn phù hợp, hàng năm UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành thực hiện việc rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành, qua đó loại bỏ, xác định những quy phạm pháp luật còn hiệu lực, hết hiệu lực và không còn phù hợp, tạo điều kiện tốt nhất để các cơ quan nhà nước, cũng như các tổ chức, công dân tiếp cận có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Theo đó, giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 UBND tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện rà 973 văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh ban hành, cụ thể: năm 2013 rà soát 102 văn bản; năm 2014 rà soát 436 văn bản; năm 2015 rà soát 112 văn bản; năm 2016 rà soát 147 văn bản và năm 2017 rà soát 176 văn bản. Qua rà soát có 475 văn bản còn hiệu lực thi hành, 145 văn bản hết hiệu lực toàn bộ, 28 văn bản hết hiệu lực một phần và 325 văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới cho phù hợp [37] Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Từ kết quả trên, có thể thấy dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và của các ngành có liên quan ở địa phương, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện thường xuyên. Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh đã tuân thủ thẩm quyền và trình tự, thủ tục xây dụng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Luật. Trên địa bàn tỉnh đã tổ chức nhiều hội nghị triển khai luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đến các ngành, các cấp trong cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh ban hành kịp thời phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Nội dung các văn bản tham mưu xây dựng, ban hành đều phù hợp với chủ trương của Đảng, phù hợp với Hiến pháp và quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo tính công khai, minh bạch và thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Văn bản ban hành phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương và có tính khả thi cao, qua đó góp phần quan trọng vào việc củng cố, hoàn thiện pháp luật, cải cách thể chế hành chính trên địa bàn tỉnh, đồng thời định hướng và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định an ninh-quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện Luật năm 2004 và Luật năm 2015, trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2017, các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng một lượng lớn các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng tham mưu UBND tỉnh về ngành, lĩnh vực mà mình quản lý thực hiện. Việc tham mưu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh với một số lượng tương đối lớn đã góp phần trong việc cùng với Trung ương giải quyết các vấn đề bức xúc hiện nay của xã hội, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cũng như xây dựng thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Qua thực tiễn cho thấy hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh kể từ khi đã có Luật điều chỉnh dần đi vào nề nếp, ổn định, chất lượng được nâng cao. Trong quá trình tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh các sở, ban, ngành chủ trì soạn thảo thực hiện tốt sự phối hợp đặc biệt với Sở Tư pháp từ khâu lập đề nghị xây dựng quyết định, góp ý và quan trọng nhất là khâu thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, qua đó để thực hiện tốt hơn việc hoàn thiện dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trình UBND tỉnh ban hành. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp chế và cán bộ trực tiếp làm công tác tham mưu xây văn bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ và tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn những tồn tại, hạn chế như:
Một là, về đánh giá tác động khi có chính sách: Trong khoa học pháp lý được hiểu là Đánh giá dự báo tác động pháp luật (Tiếng Anh gọi là RIA – Regulatory Impact Assessement) “Quá trình thực hiện từng bước một cách logic nhằm phân tích, đánh giá và so sánh để lựa chọn phương án giải quyết các vấn đề về mặt chính sách trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định sẽ can thiệp như thế nào để giải quyết vấn đề của xã hội” [18, tr. 9]. Thực tế, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh khi xây dựng thường ít chú ý đến hoạt động đánh giá các chính sách mà dự thảo đề cập, do vậy dẫn đến khi được ban hành áp dụng vào trong quản lý nhà nước tại địa phương phát sinh những sai sót không phù hợp với thực tiễn.
Hai là, việc tổng kết thực tiễn chưa thực sự được chú ý, thiếu đánh giá về văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; Chưa tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội trước khi xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Thực tiễn hiện nay tại các sở, ban, ngành khi tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh thì việc tổng kết thực tiễn những nội dung liên quan mà dự thảo đề xuất trong thời gian thực hiện trước đây có những gì bất cập, có những gì hạn chế, những nội dung nào thực hiện chưa tốt và áp dụng có phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương hay không các cơ quan soạn thảo thực hiện rất sơ sài, có trường hợp không thực hiện. Thường khi văn bản của Trung ương sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng một văn bản khác có liên quan đến nội dung văn bản đã ban hành của UBND tỉnh thì địa phương thực hiện sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp với văn bản Trung ương. Hay trong quá trình thực hiện gặp vướng mắc, phát sinh từ thực tiễn thì thực hiện tham mưu xây dựng văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Cụ thể, năm 2015 Sở Xây dựng xây dựng, tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định ban hành Quy định một số nội dung liên quan đến cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó, nội dung dự thảo quyết định triển khai thực hiện các quy định của Luật Xây dựng ngày 18/6/2014 và Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng và để thay thế Quyết định số 477/2008/QĐ-UBND ngày 30/12/2008 của UBND tỉnh ban hành Quy định về cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay không còn phù hợp. Việc tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quy định một số nội dung liên quan đến cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn tỉnh là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Sở Xây dựng trong quá trình xây dựng dự thảo quyết định không thực hiện việc tổng kết thực hiện Quyết định số 477/2008/QĐ-UBND trong thời gian qua cho nên dẫn đến dự thảo khi chuyển qua Sở Tư pháp thẩm định thì chất lượng chưa đạt yêu cầu, có nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn trong công tác quản lý về cấp giấy phép của địa phương. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Ba là, hoạt động tổ chức lấy ý kiến chưa sát với đối tượng được điều chỉnh, đối tượng tác động, đối tượng lấy ý kiến hẹp hoặc có lấy ý kiến góp ý nhưng chưa đảm bảo thời gian theo quy định. Bên cạnh đó, dự thảo được lấy kiến chủ yếu tập trung vào các cơ quan nhà nước, còn các đối tượng là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân là những đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của văn bản chưa được triển khai lấy ý kiến. Chất lượng ý kiến góp ý không cao còn mang tính hình thức, nội dung góp ý sơ sài cho xong trách nhiệm. Đặc biệt có một số đơn vị được lấy ý kiến cũng chưa nhiệt tình, chưa thể hiện được trách nhiệm của mình trong việc phối hợp, góp ý, không có ý kiến trả lời bằng văn bản. Đồng thời, hoạt động phản biện xã hội chưa được chú ý trong quá trình xây dựng văn bản, cơ quan soạn thảo thường không gửi lấy ý kiến của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh hoặc có gửi nhưng chất lượng góp không cao. Do vậy, vấn đề phản biện xã hội trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hay bị bỏ qua, dẫn đến chất lượng của văn bản khi ban hành chưa cao, chưa sát với thực tiễn.
Bốn là, dự thảo văn bản có quy định về thủ tục hành chính nhưng chưa thực hiện đúng quy định về việc đánh giá thủ tục hành chính: Ngày 23/9/2014, Sở Tư pháp nhận được Công văn số 1440/SXD-QLN&BĐS ngày 22/9/2014 của Sở Xây dựng về việc thẩm định dự thảo “Quyết định ban hành Quy định một số nội dung về quản lý sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi”. Nội dung dự thảo quy định về thủ tục hành chính tại Điều 14, Điều 17, Điều 20 và Điều 2 thì qua xem xét nội dung về thủ tục hành chính được quy định tại các Điều 14, Điều 17, Điều 20 và Điều 21 dự thảo đã thể hiện được một số nội dung theo yêu cầu về quy định thủ tục hành chính tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính. Các quy định về thủ tục hành chính đã được cơ quan soạn thảo đánh giá tác động, tuy nhiên nội dung quy định về thủ tục hành chính trong dự thảo Quy định còn nhiều vấn đề không thống nhất, chưa chính xác, rõ ràng và không chi tiết, dẫn đến chưa phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 8 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP: “Khi được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phân cấp hoặc ủy quyền về việc quy định hoặc hướng dẫn quy định về thủ tục hành chính, Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải bảo đảm quy định đầy đủ, hướng dẫn rõ ràng, chi tiết, cụ thể về các bộ phận tạo thành của thủ tục hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều này”. Cụ thể như sau: Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Nội dung tại Điều 14 quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục bán nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước: Về trình tự, thủ tục thực hiện bán nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước quy định tại khoản 2, được cơ quan soạn thảo phân chia trách nhiệm và thời gian thực hiện của các đơn vị, bộ phận có liên quan, tuy nhiên về thời gian và thẩm quyền thực hiện trong nội dung Điều 17 chưa phù hợp với Nghị định số 34/2013/NĐ-CP và Thông tư 14/2013/TT-BXD, cụ thể: Tại điểm d khoản 1 Điều 31 Nghị định số 34/2013/NĐ-CP và khoản 9 Điều 34 Thông tư số 14/2013/TT-BXD quy định về thời gian giải quyết việc bán nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước là không quá 45 ngày, kể từ ngày đơn vị quản lý vận hành nhà ở nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBND cấp tỉnh ban hành quy trình cụ thể về bán nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước để áp dụng trên địa bàn, bảo đảm đơn giản về thủ tục, nhanh chóng về thời gian và quy định rõ thời hạn, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị có liên quan trong từng khâu giải quyết hồ sơ bán nhà ở cũ. Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo quy định tổng thời gian giải quyết việc bán nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước là 45 ngày làm việc, trong đó tại điểm e, g và h quy định ngày, không phải ngày làm việc, như vậy tổng thời gian giải quyết bao gồm cả ngày làm việc và ngày nghỉ là 63 ngày (09 tuần x 2 ngày nghỉ = 18 ngày) là không phù hợp với quy định của Bộ Xây dựng là nhanh chóng về thời gian; Nội dung điểm h quy định về thời hạn mà người mua nhà ở cũ liên hệ với đơn vị quản lý vận hành để ký hợp đồng mua bán nhà ở cũ, nếu không ký hợp đồng thì sẽ bị hủy Quyết định bán nhà được cơ quan soạn thảo quy định là trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có giấy mời, đề nghị cần quy định cụ thể là kể từ ngày nhận được giấy mời hay ngày phát hành giấy mời. Bởi vì, thời hạn này liên quan rất lớn đến trách nhiệm và quyền lợi của người được mua nhà; Tại điểm g quy định đơn vị quản lý vận hành có trách nhiệm mời người được mua nhà đến để thực hiện ký hợp đồng mua bán nhà ở là không đúng thẩm quyền ký kết hợp đồng mua bán nhà ở được quy định tại khoản 7 Điều 34 Thông tư 14/2013/TT-BXD: “Sau khi có Quyết định bán nhà ở, cơ quan quản lý nhà ở thực hiện ký kết hợp đồng mua bán nhà ở theo mẫu quy định và hướng dẫn người mua nhà nộp các nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước tại Kho bạc nhà nước địa phương nơi có nhà ở”. Như vậy, thẩm quyền ký kết hợp đồng mua bán nhà ở là cơ quan quản lý nhà ở, tại khoản 1 Điều 2 dự thảo quy định là Sở Xây dựng.
Nội dung tại Điều 20, 21 quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục bàn giao, tiếp nhận nhà ở cũ do cơ quan, đơn vị tự quản: Tại điểm c Khoản 1 Điều 20 quy định về hồ sơ bàn giao nhà ở cũ của cơ quan, đơn vị có bản vẽ hiện trạng đất chưa phù hợp với Luật Đất đai năm 2013; Nội dung khoản 2 Điều 21 về trình tự và thời gian giải quyết việc bàn giao nhà ở cũ, cơ quan soạn thảo chỉ quy định thời hạn giải quyết của Sở Xây dựng, chưa có thời gian giải quyết tại UBND tỉnh là chưa phù hợp. Đồng thời, về thời hạn giải quyết thì tại khoản 2 quy định là ngày làm việc, tuy nhiên tại khoản 3, 4, 5 lại không quy định ngày làm việc là không thống nhất. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, đối với dự thảo văn bản có quy định về thủ tục hành chính nhưng nội dung về hồ sơ, thời gian thực hiện và thẩm quyền giải quyết chưa thực hiện đầy đủ, cụ thể, rõ ràng của một thủ tục hành chính đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, nếu thủ tục hành chính được UBND tỉnh ban hành sẽ phát sinh những vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện, tính khả thi không cao và không phù hợp với quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP của Chính phủ là phải bảo đảm quy định đầy đủ, hướng dẫn rõ ràng, chi tiết, cụ thể về các bộ phận tạo thành của thủ tục hành chính.
Năm là, về chất lượng của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi tham mưu xây dựng: Mặc dù hàng năm các sở, ban, ngành tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh với số lượng tương đối nhiều, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có văn bản điều chỉnh riêng. Các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh trên các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, tài nguyên.. đã kịp thời ban hành các văn bản để quản lý, điều hành. Đồng thời, HĐND tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù riêng của địa phương phát triển nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân phát triển kinh tế, các quy định về lĩnh vực văn hóa xã hội, giáo dục, y tế, phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự, giữ vững ổn định xã hội đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng các thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Các văn bản quy định về cơ chế chính sách đặc thù để thu hút, ưu đãi khuyến khích đầu tư, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế phát triển đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức và công dân. Có thể nói, công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh thực sự góp phần quan trọng vào việc củng cố, hoàn thiện pháp luật, cải cách thể chế hành chính ở tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, qua công tác thẩm định cho thấy chất lượng của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi tham mưu, xây dựng vẫn chưa cao, vẫn còn nhiều dự thảo bị cơ quan thẩm định từ chối thẩm định, cụ thể: Giai đoạn từ năm 2013 – 2017, Sở Tư pháp đã từ chối thẩm định 102 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh do các sở, ban, ngành tham mưu không thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật năm 2004 hiện nay Luật năm 2015, trong đó năm 2013 từ chối thẩm định 27 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, năm 2014 từ chối 19 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, năm 2015 từ chối thẩm định 05 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, năm 2016 từ chối thẩm định 16 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và năm 2017 từ chối thẩm định 35 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể được nêu trong Bảng 2.2.
Đây là một số lượng không nhỏ, chứng tỏ công tác xây dựng văn bản QPPL chưa được các cơ quan tham mưu đầu tư đặc biệt là người cán bộ, công chức trực tiếp soạn thảo. Cụ thể, thực tế qua các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chuyển Sở Tư pháp thẩm định thì dự thảo có những sai sót sau: Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo tham mưu không đúng thẩm quyền: Ngày 04/9/2013, Sở Tư pháp nhận được Công văn số 563/STTT ngày 30/8/2013 của Sở Thông tin và Truyền thông về việc thẩm định dự thảo “Quyết định ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin báo chí”, theo đó dự thảo Quy chế về thẩm quyền ban hành văn bản quy định tại Điều 9 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg ngày 04/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ thì: “Căn cứ vào Quy chế này, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành quy định cụ thể cho ngành, địa phương mình”. Như vậy, theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg thì Thủ tướng Chính phủ giao cho Chủ tịch UBND tỉnh ban hành quy định cụ thể về Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin báo chí ở địa phương. Như vậy, khi tham mưu xây dựng cơ quan soạn thảo không xác định được thẩm quyền ban hành, tham mưu dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo quy định lại các văn bản của cấp trên và văn bản cấp trên không giao trách nhiệm quy định văn bản tại địa phương: Theo đề nghị của Sở Tài chính tại Công văn số 744/STC-QLGCS ngày 05/4/2016 thẩm định dự thảo Quyết định về việc Quy định thực hiện thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng theo hình thức xây dựng – chuyển giao (BT) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Qua xem xét nội dung của dự thảo nêu trên được Sở Tài chính soạn thảo trên cơ sở nội dung quy định của Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế Nhà nước thanh toán bằng quỹ đất cho Nhà đầu tư khi thực hiện Dự án đầu tư xây dựng theo hình thức Xây dựng – Chuyển giao và Thông tư số 183/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thanh toán bằng quỹ đất cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án đầu tư Xây dựng – Chuyển giao quy định tại Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg. Căn cứ khoản 2 Điều 5 Luật năm 2008 quy định “Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác”. Do vậy, việc Sở Tài chính quy định lại những nội dung của Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg và Thông tư số 183/2015/TT-BTC là không phù hợp với quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, tại Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy trình, thủ tục Nhà nước thanh toán bằng quỹ đất cho Nhà đầu tư theo quy định và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 183/2015/TT-BTC quy định rất cụ thể về cách thức xác định giá trị dự án BT; giá trị quỹ đất thanh toán; quy trình, thủ tục thanh toán và phương thức thực hiện việc thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư. Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg và Thông tư số 183/2015/TT-BTC không giao trách nhiệm cho UBND tỉnh ban hành quy định việc thực hiện thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng theo hình thức xây dựng – chuyển giao (BT).
Văn bản có nhiều nội dung không phù hợp với quy định của cấp trên: Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Theo đề nghị của Sở Giao thông vận tải tại Công văn số 2218/SGTVT-VTPC ngày 22/8/2017 về việc thẩm định dự thảo Quyết định ban hành Quy định tổ chức, quản lý và phạm vi, tuyến đường, thời gian hoạt động của xe chở người bốn bánh có gắn động cơ trong phạm vi hạn chế trên địa bàn huyện Lý Sơn. Dự thảo có sai sót sau: Tên gọi, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Quyết định quy định tổ chức, quản lý và phạm vi, tuyến đường, thời gian hoạt động của xe chở người bốn bánh có gắn động cơ trong phạm vi hạn chế trên địa bàn huyện Lý Sơn là chưa phù hợp với quy định của pháp luật và trách nhiệm được Thủ tướng Chính phủ giao và Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn. Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 20 Thông tư số 86/2014/TT-BGTVT ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về điều kiện đối với xe chở người bốn bánh có gắn động cơ và người điều khiển tham gia giao thông trong phạm hạn chế quy định “Phạm vi, tuyến đường hoạt động và thời gian hoạt động đối với xe chở người bốn bánh có gắn động cơ do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định” và Khoản 1 Điều 23 Thông tư số 86/2014/TT-BGTVT giao trách nhiệm cho Sở Giao thông vận tải “Báo cáo, xây dựng và trình UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành quy định phạm vi, tuyến đường và thời gian hoạt động đối với xe theo quy định tại Điều 20 Thông tư này và phù hợp tình hình thực tế của địa phương”. Như vậy, theo quy định của Thông tư số 86/2014/TT-BGTVT thì UBND tỉnh có thẩm quyền quy định phạm vi, tuyến đường và thời gian hoạt động đối với xe chở người bốn bánh có gắn động cơ trong phạm vi hạn chế. Do đó, nội dung dự thảo bổ sung quy định về tổ chức, quản lý (điều kiện đối với xe và lái xe) đối với xe chở người bốn bánh có gắn động cơ và lái xe là không phù hợp với quy định tại Thông tư số 86/2014/TT-BGTVT. Trên cơ sở đề nghị của Bộ Giao thông vận tải, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại Công văn số 2143/TTg-KTN ngày 29/11/2016 và Công văn số 887/TTg-CN ngày 21/6/2017 giao trách nhiệm cho Bộ Giao thông vận tải “Ban hành Quy định tạm thời về quản lý hoạt động thí điểm xe 4 bánh có gắn động cơ để chở khách tham quan, du lịch trong khu vực hạn chế tại các tỉnh, thành phố” và “Giao UBND các tỉnh, thành phố có liên quan quy định về thời gian hoạt động trong ngày, lộ trình tuyến đường được phép hoạt động trên địa bàn…”. Đồng thời, tại Công văn số 8187/BGTVT-VT ngày 25/7/2017 của Bộ Giao thông vận tải đã đề nghị UBND tỉnh Quảng Ngãi giao cho Sở Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Công an tỉnh và UBND huyện xây dựng và trình UBND tỉnh ban hành quy định phạm vi, tuyến đường và thời gian hoạt động đối với xe theo quy định tại Điều 20 Thông tư số 86/2014/TT-BGTVT và phù hợp tình hình thực tế của địa phương. Nội dung sai như: Nội dung tại Khoản 4 Điều 3 giải thích từ ngữ đối với đơn vị kinh doanh vận tải là tổ chức, cá nhân sử dụng xe chở người bốn bánh hoạt động chở khách tham quan, du lịch trong phạm vi hạn chế trên địa bàn huyện Lý Sơn, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận đầu tư và cho phép hoạt động theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 4 dự thảo lại quy định Doanh nghiệp, Hợp tác xã và hộ kinh doanh là chưa phù hợp. Đồng thời, tại Khoản 3 Điều 4 quy định đơn vị kinh doanh vận tải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc phê duyệt chủ trương đầu tư và được cấp Giấy phép kinh doanh vận tải là chưa phù hợp; Nội dung Điều 4, Khoản 1 quy định đơn vị kinh doanh vận tải gồm Doanh nghiệp, Hợp tác xã và Hộ kinh doanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh là chưa phù hợp. Bởi vì, theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP khi đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;…
Về thể thức, kỹ thuật trình bày: Nhiều dự thảo tham mưu xây dựng khi gửi Sở Tư pháp thẩm định có sai sót về thể thức rất nhiều như trình bày các điều khoản, hiệu lực thi hành, viện dẫn văn bản, trình bày các căn cứ, sai thời điểm có hiệu lực, thành phần nơi nhận không đầy đủ… không đúng với Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Sáu là, việc tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của luật năm 2004 là phải đăng ký trong chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của UBND tỉnh, nhưng thực tế hàng năm có trên 50% số lượng văn bản tham mưu xây dựng nằm ngoài chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh. Hiện nay theo Luật năm 2015, thì lập đề nghị xây dựng quyết định của UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, việc lập đề nghị của các cơ quan vẫn chưa đảm bảo các nội dung theo quy định tại Khoản 2 Điều 127 Luật năm 2015.
Bảy là, việc thực hiện trình tự, thủ tục khi tham mưu xây dựng vẫn chưa đảm bảo qua các bước như: văn bản chưa đăng cổng thông tin điện tử 30 ngày để lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (cụ thể từ ngày 01/7/2016, Luật năm 2015 có hiệu lực khi chuyển hồ sơ qua Sở Tư pháp thẩm định thì Sở Tư pháp đã làm văn bản từ chối thẩm định khi chưa thực hiện đăng tải lên cổng thông tin). Bên cạnh đó, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật gửi thẩm định không đúng quy định làm ảnh hưởng đến thời gian thẩm định như dự thảo gửi thẩm định thời gian gấp, không đảm bảo thời gian theo quy định tại Luật năm 2015, theo quy định tại Luật năm 2015 thời gian thẩm định 10 ngày nên có trường hợp đối với dự thảo quyết định liên quan đến nhiều lĩnh vực Giám đốc Sở Tư pháp không có thời gian để thành lập hội đồng tư vấn thẩm định như theo quy định tại Khoản 1 Điều 121 Luật năm 2015 và bị động cho cơ quan thực hiện chức năng thẩm định. Ngoài ra, hồ sơ trình UBND tỉnh thường không có tờ trình mà chỉ có công văn đề nghị ban hành hay có tờ trình đề nghị ban hành văn bản quy phạm nhưng còn sơ sài chưa thể hiện được quá trình xây dựng, nội dung cơ bản cũng như giải trình một số nội dung khi có ý kiến khác nhau của các cơ quan. Theo quy định tại Luật năm 2015 thì hồ sơ trình gồm có: Tờ trình về dự thảo Quyết định theo mẫu số 03 Mẫu số 3 Phụ lục V ban hành kèm theo Nghị định số 34/2016/NĐ-CP; Dự thảo quyết định; Báo cáo thẩm định và báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định đối với dự thảo quyết định do các sở, ban, ngành trình; Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bản chụp ý kiến góp ý; tài liệu khác nếu có. Tuy nhiên, qua thực tiễn hồ sơ trình vẫn còn trường hợp cơ quan trình dự thảo chưa thực hiện đúng như các thành phần hồ sơ này.
Tám là, một số sở, ngành chưa chủ động trong việc đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh liên quan đến ngành, lĩnh vực mà mình quản lý, mà chỉ thực hiện đề nghị ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi phát sinh yêu cầu hoặc khi có văn bản chỉ đạo, đôn đốc của Chủ tịch UBND cấp tỉnh mới thực hiện. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Chín là, sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định văn bản chưa thật sự chặt chẽ: Yếu tố phối hợp trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng trong thực hiện các giai đoạn của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành đảm bảo nâng cao chất lượng trong hoạt động xây dựng, tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện hoạt động này, đồng thời phối hợp tốt sẽ giúp hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trở nên dễ dàng hơn, phối hợp góp ý, phối hợp thẩm định, phối hợp để giải trình, phối hợp để trình văn bản. Tuy nhiên, sự phối hợp này vẫn còn hạn chế, cụ thể như cơ quan soạn thảo gửi hồ sơ thẩm định không đầy đủ, thiếu các tài liệu cơ bản như văn bản của Đảng liên quan trực tiếp đến lĩnh vực điều chỉnh của dự thảo, báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của các cơ quan, đối tượng có liên quan, văn bản mà dự thảo quy định sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ,… Bên cạnh đó, sự phối hợp, giải trình ý kiến đối với những vấn đề có nội dung quy định phức tạp trong quá trình thẩm định cũng chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi đơn giản thông qua điện thoại, chứ chưa tiến hành mời đại diện của cơ quan soạn thảo, các cơ quan có liên quan đến nội dung quy định của dự thảo để cùng thảo luận hoàn chỉnh dự thảo.
Mười là, việc xây dựng văn bản thường chỉ giao cho cá nhân trực tiếp xây dựng mà chưa chú trọng đến việc thành lập tổ soạn thảo hoặc thành lập tổ soạn thảo nhưng chỉ mang tính hình thức: Thực tế thực trạng này hiện nay tồn tại khá phổ biến trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Khi cơ quan soạn thảo được Chủ tịch UBND tỉnh giao trách nhiệm thực hiện tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh về ngành, lĩnh vực mình quản lý, lúc này cơ quan soạn thảo sẽ giao trách nhiệm cho phòng có chức năng về lĩnh vực liên quan tham mưu xây dựng mà cụ thể là giao cho công chức làm việc tại phòng thực hiện. Ví dụ như cơ quan soạn thảo là Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện tham mưu xây dựng Quyết định ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, thì Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ giao nhiệm vụ tham mưu cho Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn thám tham mưu xây dựng. Do vậy, dẫn đến những quy định trong văn bản thường mang ý chí cá nhân của người soạn thảo rất lớn dẫn đến hạn chế về chất lượng khi ban hành. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Mười một, một số văn bản sau khi được ban hành chưa phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, không mang tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, thậm chí trái với Luật dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ. Văn bản quy phạm pháp luật nhưng ban hành dưới hình thức văn bản cá biệt. Có thể thấy được thực trạng này qua dẫn chứng phân tích các văn bản của UBND tỉnh ban hành sai sót sau:
Quyết định số 48/2013/QĐ-UBND ngày 27/9/2013 của UBND tỉnh về việc quy định mức thu học phí đối với các trường trung cấp nghề, cao đẳng công lập thuộc tỉnh quản lý năm học 2013-2014 và năm học 2014-2015 có nội dung không phù hợp và mâu thuẫn, không thống nhất:
Tại khoản 3 Điều 1 quy định về khu vực được hiểu là phân chia các đối tượng học sinh, sinh viên theo khu vực để các trường xác định mức thu học phí là phù hợp với Nghị quyết số 15/2013/NQ-HĐND nhưng chưa phù hợp với Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ, vì Nghị định số 49/2010/NĐ-CP chỉ chia khu vực đối với học sinh mầm non và phổ thông, còn đối với các trường Cao đẳng và Trung cấp nghề thì chia theo nhóm ngành đào tạo. Mặt khác, Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định đối tượng điều chỉnh là các cơ sở giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy, nếu phân chia đối tượng học sinh, sinh viên theo khu vực để thu học phí là chưa phù hợp.
Ngoài ra, tại điểm b khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/11/2010 của Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định đối tượng được miễn học phí là học sinh, sinh viên có cha, mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2013-2015 thì huyện Lý Sơn và 43 xã thuộc 6 huyện miền núi của tỉnh theo Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg ngày 11/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 (Chương trình 135 giai đoạn II) sẽ được miễn học phí. Như vậy, học sinh, sinh viên có cha, mẹ thường trú tại huyện Lý Sơn và 43 xã thuộc 6 huyện miền núi của tỉnh sẽ được miễn học phí. Nên nội dung quy định tại điểm c khoản 3 Điều 1 Quyết định chia đối tượng nộp học phí gồm các xã thuộc huyện miền núi, huyện Lý Sơn thuộc khu vực 3 là không phù hợp, vì các trường hợp này đã được miễn học phí theo quy định của pháp luật. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Quyết định số 48/2013/QĐ-UBND có nội dung mâu thuẫn, không thống nhất: Tại dấu hoa thị của khoản 4 Điều 1 quy định “Riêng đối với Trường Trung cấp nghề Đức Phổ mức thu học phí thấp hơn so với khu vực 1 là 50.000 đồng/HSSV/tháng”, nội dung này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 15/2013/NQ-HĐND, tuy nhiên quy định này chưa được cụ thể, khó hiểu, gây khó khăn trong tổ chức triển khai thực hiện. Bởi vì, nếu Trường Trung cấp nghề Đức Phổ thu học phí thấp hơn so với khu vực 1 là 50.000 đồng/HSSV/tháng, quy định này chỉ đúng trong trường hợp áp dụng cho đối tượng ở khu vực 1 và 2. Nếu áp dụng cho đối tượng ở khu vực 3 thì sẽ phát sinh điểm bất cập, mâu thuẫn về mức thu học phí.
Bên cạnh đó, nội dung viện dẫn thực hiện theo Nghị định số 74/2013/NĐ-CP chưa được cụ thể và rõ ràng: Tại điểm a, b Khoản 5 Điều 1 quy định đối tượng được miễn, giảm học phí, cơ chế miễn, giảm học phí được viện dẫn thực hiện theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 74/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 chưa được cụ thể và rõ ràng. Bởi vì, Điều 1 của Nghị định số 74/2013/NĐ-CP gồm có 15 khoản, riêng Điều 4 và 5 Nghị định số 49/2010/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung từ Khoản 1 đến Khoản 8 và Điều 7 Nghị định số 49/2010/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 11 Điều 1 Nghị định số 74/2013/NĐ-CP, các khoản còn lại của Nghị định số 74/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung các nội dung không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định số 48/2013/QĐ-UBND.
Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND ngày 03/6/2014 của UBND tỉnh quy định chính sách đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và những người có trình độ sau đại học chuyên ngành y, dược đang công tác tại các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh Quảng Ngãi ban hành là để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 08/2014/NQ-HĐND ngày 29/4/2014 của HĐND tỉnh về chính sách đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và những người có trình độ sau đại học chuyên ngành y dược đang công tác tại các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Nội dung tại khoản 3 Điều 1 Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND quy định chính sách đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và những người có trình độ sau đại học chuyên ngành y, dược ngoài việc hưởng lương, phụ cấp và các chế độ, chính sách theo quy định hiện hành của Nhà nước, còn được hưởng chính sách đãi ngộ thêm của tỉnh với mức từ 0,7; 1,0; 1,2; 1,4; 1,7 đến 2,0 lần mức lương cơ sở/tháng, nhưng chưa có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực là chưa phù hợp với quy định tại Khoản 6 Điều 10 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP “Ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành,…Riêng những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực” (Nay là tại Khoản 3 Điều 21 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016).
Quyết định số 300/QĐ-UBND ngày 15/9/2015 của UBND tỉnh ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trên đị bàn tỉnh Quảng Ngãi trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đăng ký sau thành lập: nội dung của Quy chế kèm theo có chứa các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật), được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi địa phương như: đối tượng áp dụng là các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh; UBND các huyện, thành phố; cơ quan quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương đặt tại tỉnh Quảng Ngãi; …, nhưng được UBND tỉnh ban hành dưới hình thức văn bản cá biệt là không phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 1 Luật năm 2004 và khoản 1 Điều 2 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP. Đồng thời, nội dung của Quy chế cơ bản quy định lại các nội dung quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC- BNV ngày 28/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ ban hành Quy chế phối hợp mẫu giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập, tuy nhiên Thông tư liên tịch số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV là văn bản quy phạm pháp luật. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Mười hai, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh mặc dù đã có sự quan tâm, bố trí nhưng chưa tương xứng, chưa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội. Không đủ chi phí cho hoạt động phục vụ công tác xây dựng và ban hành văn bản (như khảo sát, điều tra, đánh giá tác động). Do đó, việc huy động, mời thêm các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào công tác xây dựng văn bản khó thực hiện được, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh mới được thực sự quan tâm kể tư khi Luật năm 2004 ban hành, tuy nhiên vẫn chưa thực sự chuyên sâu, nên vẫn chưa có được nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai áp dụng thực hiện, vẫn gặp nhiều lúng túng trong quá trình tham mưu xây dựng.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương điều chỉnh về các lĩnh vực như đầu tư, đất đai, xây dựng, nhà ở,…hiện nay rất nhiều, cồng kềnh. Đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành thì lượng văn bản phải sửa đổi, bổ sung, thay thế và bãi bỏ rất lớn cho nên dẫn đến cơ quan tham mưu soạn thảo không thể kiểm soát được hết mà những văn bản này là văn bản để địa phương khi xây dựng, ban hành cần phải căn cứ để áp dụng thực hiện.
Thực tế nền kinh tế chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề mới phát sinh, phức tạp mà pháp luật thì không thể nào điều chỉnh kịp thời.
Trước khi Luật năm 2015 ban hành thì có sự tồn tại hai luật Luật năm 2004 và Luật năm 2008 nên dẫn tới tình trạng Luật năm 2008 có những nội dung điều chỉnh cả hoạt động ban hành văn bản của chính quyền địa phương, nhưng vẫn đang được hiểu là Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương. Do đó, những nguyên tắc, yêu cầu đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Luật năm 2008 không được quan tâm thực hiện trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật địa phương, Luật năm 2008 bỏ hình thức chỉ thị không còn quy phạm pháp luật, trong khi đó Luât năm 2004 thì chỉ thị là quy phạm pháp luật,…
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ nhất, về nhận thức: Mặc dù hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã và đang nhận được sự quan tâm chỉ đạo thực hiện của các cấp có thẩm quyền nhưng hiện nay vẫn còn một số cơ quan, người có thẩm quyền có nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về hoạt động này. Vẫn còn một số sở, ban, ngành chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những tác động mà văn bản quy phạm pháp luật mang lại cho đời sống, nên chưa chủ động lập đề nghị xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý. Vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là trách nhiệm của Sở Tư pháp nên dẫn đến nhiều sở, ban, ngành tham mưu soạn thảo còn sơ sài, thiếu trách nhiệm, sau đó đợi chuyển Sở Tư pháp thẩm định giúp hoàn chỉnh toàn bộ về mặt nội dung và hình thức cho cơ quan soạn thảo. Chính từ nhận thức trên, dẫn đến chưa đầu tư nhiều về thời gian, con người cho hoạt động xây dựng, ban hành văn bản; chưa thể hiện trách nhiệm cao đối với các dự thảo văn quy phạm pháp luật được phân công phụ trách xây dựng.
Thứ hai, Các sở, ban, ngành khi tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh chưa thống nhất cách hiểu về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, từ đó chưa phân biệt được văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật nên đã xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành mà không đảm bảo yêu cầu về trình tự, thủ tục, hình thức và nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, hiện nay chưa có quy định thỏa đáng về xử lý trách nhiệm trong việc tham mưu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có sai sót. Thực tế tại tỉnh Quảng Ngãi trong hoạt động tham mưu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh chưa có trường hợp nào xử lý trách nhiệm do cơ quan tham mưu xây dựng có sai sót, thông thường văn bản sau khi ban hành qua quá trình thực hiện có sai sót thì cơ quan có thẩm quyền kiến nghị xử lý để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới thay thế, chưa xử lý trường hợp nào cụ thể trách nhiệm cá nhân hay tập thể cơ quan tham mưu xây dựng. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng trong quá trình xây dựng, khi trách nhiệm tham mưu sai chưa có biện pháp xử lý.
Thứ tư, về tổ chức, biên chế: Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật không đơn giản là một hoạt động nghiệp vụ thông thường mà nó còn là một hoạt động mang tính chất nghiên cứu khoa học. Theo tác giả Võ Trí Hảo “Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm như tính sáng tạo cao, phức tạp, có mối quan hệ với chính trị trực tiếp hơn, có tác động lâu dài, nhiều chiếu trên lên các quan hệ xã hội” [16, tr 143]. Chính vì vậy để triển khai thực hiện được hoạt động này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật đông đảo, có kinh nghiệm, am hiểu pháp luật và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đồng thời cũng phải có một đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý để có thể kịp thời tư vấn và cho ý kiến trong quá trình xây dựng. Trên thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ đảm nhận hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế lực lượng cán bộ chuyên sâu mỏng, trình độ chuyên môn chưa cao.
Thực tế hiện nay công chức trực tiếp tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại các sở, ban, ngành ngoài trình độ chuyên môn về lĩnh vực mình công tác thì vẫn còn một số không có trình độ chuyên ngành luật cho nên việc nhận thức vấn đề còn hạn chế. Sau khi Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và một loạt các Thông tư của các Bộ, ngành hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan chuyên môn ban hành thì cơ cấu tổ chức, biên chế của Phòng pháp chế, bố trí công chức phụ trách pháp chế gặp nhiều khó khăn, 14 cơ quan chuyên môn theo quy định phải có thành lập phòng pháp chế, tuy nhiên trong quy định tại các thông tư hướng dẫn không có nên các cơ quan chuyên môn trước đó có thành lập nhưng sau phải bỏ, chỉ còn bố trí công chức phụ trách kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức làm công tác pháp chế ở các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh phần lớn là kiêm nhiệm, nên về chuyên môn nghiệp vụ pháp chế của đội ngũ những người làm công tác này còn nhiều hạn chế; bên cạnh đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp chế có trình độ chuyên ngành luật, vẫn còn những công chức làm công tác pháp chế nhưng có trình độ chuyên ngành khác. Do vậy, việc thực hiện nhiệm vụ công tác pháp chế ít được quan tâm, chủ yếu tập trung giải quyết công việc chuyên môn. Công chức làm công tác pháp chế chưa được tập huấn thường xuyên và chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc sau khi được cử đi tập huấn nghiệp vụ, nhưng vì yêu cầu công tác đã chuyển sang làm bộ phận khác, dẫn đến hiệu quả hoạt động của công tác pháp chế không cao, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Công chức làm công tác pháp chế không ổn định, thường xuyên thay đổi do yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, nên chưa có kinh nghiệm trong công tác pháp chế và không có điều kiện để được học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ pháp chế.
Đồng thời, theo chức năng nhiệm vụ thì Sở Tư pháp pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Tham gia xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh do cơ quan chuyên môn khác của UBND tỉnh chủ trì soạn thảo và nhiệm vụ này được giao cho Phòng Văn bản pháp quy. Tuy nhiên, hiện nay Phòng Văn bản pháp quy trực thuộc Sở Tư pháp biên chế có 05 công chức, trong đó ngoài phụ trách mảng công tác xây dựng pháp luật còn phải phụ trách mảng công tác kiểm tra, rà soát hệ thống hóa, pháp chế,… nên công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa được đầu tư chuyên sâu, dành nhiều thời gian. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Việc hạn chế về biên chế, tổ chức trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động này. Vì thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ làm công tác này theo hướng chuyên nghiệp cho nên việc tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa có những cơ chế, chính sách nổi trội, đặc thù để phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ năm, một số nội dung trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định mang tính kỹ thuật cao như về đánh giá tác động chính sách, khảo sát, lập hội đồng thẩm định dẫn đến gây khó khăn cho người tham gia soạn thảo còn lúng túng trong quy trình. Bên cạnh đó, một số nội dung quy định chưa hợp lý dẫn đến người thực hiện chỉ thực hiện mang tính hình thức. Cụ thể như: Việc đăng tải lấy ý kiến trên cổng thông tin điện tử thực tế khi đăng tải rất ít tổ chức, cá nhân nào quan tâm góp ý, chỉ đăng tải cho gọi là đúng trình tự thủ tục, có những dự thảo đơn gian, nội dung không phức tạp như đăng tải 30 ngày gây kéo dài thời gian để trình văn bản cho cơ quan thẩm quyền ảnh hướng đến hoạt quản lý chung của tỉnh. Việc tiếp thu ý kiến đóng góp chưa được thực hiện nghiêm túc, còn hình thức, cơ quan soạn thảo chưa định hướng những nội dung cần tập trung lấy ý kiến. Việc thành lập Hội đồng thẩm định đối với những dự thảo có liên quan nhiều lĩnh vực vẫn chưa chất lượng, công tác phối hợp trong việc thành lập hội đồng chưa đạt yêu cầu, chất lượng kiến của các cơ quan tham gia hội đồng thẩm định không cao, cơ bản vẫn tùy thuộc vào ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp.
Thứ sáu, hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại các sở, ban, ngành vẫn còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, thụ động, chưa chịu khó nghiên cứu, trong đó năng lực bám sát, hiểu biết về đời sống kinh tế – xã hội, khả năng nắm bắt tình hình thực tiễn để vận dụng trong quá trình tham mưu xây dựng còn hạn chế đặc biệt thiếu đội ngũ cán bộ, công chức chuyên sâu trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Đội ngũ cán bộ pháp chế tại các sở, ngành chưa phát huy được vai trò của mình trong công tác tham mưu thực hiện nghiệp vụ pháp chế. Đội ngũ công chức làm công tác thẩm định hiện nay còn mỏng, chưa được tăng cường trong khi đó số lượng văn bản thẩm định ngày càng tăng, nội dung thẩm định rất phức tạp, đa dạng nhiều ngành, lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn cao ngoài chuyên môn tốt nghiệp chuyên ngành luật còn phải am hiểu thực tiễn, kiến thức về các lĩnh vực khác.
Thứ bảy, việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác này vẫn còn hạn chế. Mặc dù thời gian qua, Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp có tổ chức một số hội nghị tập huấn về công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế tại các sở, ban, ngành nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vì số lượng tham gia tập huấn còn hạn chế, việc truyền đạt lại kiến thức đã được tập huấn cho những người không tham gia trực tiếp, những cán bộ ở cơ sở là hết sức khó khăn do thiếu kỹ năng và kiến thức nghiệp vụ. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tám, về nguồn kinh phí thực hiện: Hiện nay, kinh phí bảo đảm cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước, hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở đơn vị nào thì do ngân sách nhà nước cấp cho đơn vị đó bảo đảm. Tuy nhiên, đối với kinh phí chi cho hoạt động xây dựng văn bản tại Sở Tư pháp đã được dự toán hàng năm và thực hiện chi hiệu quả, nhưng tại các sở, ban, ngành thì chưa được bố trí kinh phí riêng trong dự toán ngân sách hàng năm của đơn vị cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Do hạn chế về kinh phí mà việc triển khai thực hiện xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể như: việc trang bị các phương tiện làm việc phục vụ cho hoạt động xây dựng văn bản, chi trả tiền khảo sát đánh giá tác động, chi trả tiền họp góp ý văn bản, chi trả tiền soạn thảo văn bản.
Thứ chín, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể xã hội khi tham gia phản biện xã hội đối với các văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều hạn chế; hoặc chưa được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện theo đúng quy định, không gửi lấy ý kiến trong khi đó theo quy định tại Khoản 4 Điều 25 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật: “Gửi hồ sơ dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương đến Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan địa phương đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; hồ sơ dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến”.
2.4.3. Kinh nghiệm đúc kết Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Từ việc xác định đúng những thực trạng trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh, thời gian qua tỉnh Quảng Ngãi đã tập trung kiện toàn thể chế về hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và thể chế các hoạt động liên quan, hỗ trợ cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như kiểm tra, rà soát hệ thống hóa; tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của lãnh đạo các sở, ban, ngành trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Thực hiện ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho các cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh đó, phối hợp giải đáp những vướng mắc, khó khăn của các cơ quan, đơn vị trong quá trình tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Xác định những vấn đề bức xúc trong thực tiễn, kịp thời phản ánh đúng thực trạng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất cơ quan có thẩm quyền tăng cường chỉ đạo và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện văn bản pháp luật. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh, tại Quảng Ngãi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động khá phức tạp, mang tính sáng tạo cao, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, kinh phí và nhất là đối với người cán bộ, công chức trực tiếp tham mưu xây dựng văn bản phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu, có kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác, am hiểu thực tiễn tại địa phương và có kỹ năng tốt trong thực hiện quy trình, thủ tục soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, vì đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn luôn biến đổi.
Thứ hai, thể chế về trình tự thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng, phù hợp và quy định pháp luật điều chỉnh về ngành, lĩnh vực thông suốt, thống nhất, cụ thể về nội dung, thẩm quyền, không mâu thuẫn, chồng chéo là yêu cầu hết sức quan trọng để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động xây dưng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền.
Thứ ba, cơ quan tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện tốt vai trò tham mưu, tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền, nhất là công tác tổ chức, giao nhiệm vụ, cơ chế phối hợp, chỉ đạo và kiểm tra trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Phải kịp thời tổ chức các hoạt động sơ, tổng kết rút kinh nghiệm, đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân ưu điểm, tồn tại, hạn chế nhằm đề ra các giải pháp khắc phục, nâng cao chất lượng trong hoạt động này.
Thứ tư, sự nhận thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước ở địa phương là một hoạt động tất yếu để quản lý, điều hành và mức độ quan tâm của cấp ủy đảng, của HĐND, UBND các cấp là tiền đề để các cơ quan có chức năng tham mưu xây dựng.
Thứ năm, trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thẩm định, cơ quan soạn thảo, Văn phòng UBND tỉnh và các cơ quan có liên quan đến văn bản quy phạm pháp luật cần tham mưu xây dựng rất quan trọng đảm bảo cho văn bản được soát xét một cách toàn diện về tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi của văn bản, qua đó góp phần hoàn thiện dự thảo văn bản ngay từ khâu bắt đầu xây dựng đến khâu trình ký văn bản.
Thứ sáu, bên cạnh các điều kiện về thể chế, sự nhận thức quan tâm của các cấp chính quyền, năng lực của người tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thì điều kiện về kinh phí bảo đảm cho hoạt này cũng hết sức cần thiết. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cơ quan tham mưu xây dựng cần phải có kinh phí để tổng kết, khảo sát, đánh giá tác động của văn bản, kinh phí hỗ trợ cho người soạn thảo, kinh phí tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kinh phí thuê chuyên gia trong việc xây dựng dự thảo, … Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Tóm lại, Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một bộ phận hữu cơ của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đồng thời là sản phẩm quan trọng của hoạt động đó và là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu góp phần tạo nên thể chế nền hành chính Nhà nước. Sự đổi mới và bước phát triển được thể hiện từ việc tham mưu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách cho đến thực hiện các quy trình trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì vậy, công tác xây dựng văn bản đã chứng minh được vai trò, hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc quản lý, chấp hành và điều hành trên tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh và là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển đi lên của tỉnh nhà. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan công tác văn bản vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa phát huy hết hiệu quả vai trò để làm đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, đặc biệt là việc phát triển Khu kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, công tác xã hội, an sinh trên địa bàn tỉnh để đưa tỉnh ta thoát ra khỏi tỉnh nghèo trong khu vực và cả nước.
Với vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác văn bản, đồng thời để đánh giá đúng thực trạng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh, xác định rõ nguyên nhân, tồn tại để từ đó có những giải pháp tăng cường hiệu quả, hiệu lực, nâng cao chất lượng công tác văn bản trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, việc xem xét nghiên cứu tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế để nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các sở, ban, ngành trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là quan trọng và cần thiết, đưa tỉnh Quảng Ngãi sớm trở thành một tỉnh mạnh về mọi mặt, đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện, nâng cao. Luận văn: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com