Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1 Thực tiễn công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.1.1 Những kết quả đạt được
2.1.1.1.Kết quả trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật:
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương. Chính quyền các cấp đã rất quan tâm tới việc xây dựng và ban hành văn bản nói chung và văn bản quy phạm pháp luật nói riêng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước nhà nước bằng pháp luật trên địa bàn tỉnh.
Qua việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật hàng năm và thông qua các báo cáo tình hình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các huyện, thị xã trong tỉnh tác giả thấy rằng: Công tác ban hành văn bản đã được quan tâm đúng mức, có sự phát triển về số lượng, cũng như chất lượng ban hành và điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Có thể minh hoạ cụ thể về số lượng văn bản được ban hành trước khi có Nghị định 135/NĐ-CP của Chính Phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể như sau:
Trong 5 năm từ 1999-2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã ban hành 530 văn bản có chứa quy phạm pháp luật, trong đó Quyết định là 427 văn bản; Chỉ thị là 103 văn bản; và hàng ngàn văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thông thường khác.
Ở cấp huyện: theo báo cáo về kiểm tra công tác ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện: tại 21 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh (có 06 huyện không có số liệu báo cáo) trong 5 năm từ 1999-2003 đã ban hành: 22.791 văn bản có tính quy phạm pháp luật, trong đó Quyết định là 16.773 văn bản và 995 Chỉ thị và hàng ngàn văn bản hành chính thông thường khác. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Ở cấp xã: theo số liệu báo cáo của các xã thuộc 21 huyện, trong 5 năm từ 1999-2003 đã ban hành: 35.306 văn bản, trong đó Quyết định là 20.010 văn bản, Chỉ thị là 531 văn bản. Số lượng văn bản nêu trên do cấp xã ban hành chủ yếu là văn bản áp dụng pháp luật, loại văn bản quy phạm pháp luật chiếm số lượng rất ít hoặc thậm chí có nhiều xã hầu như không ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào.
Từ sau năm 2003 khi Nghị định 135/2003/NĐ-CP được ban hành, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật do UBND các cấp ban hành trong 5 năm từ 2004 – 2009 được tăng lên đáng kể (thể hiện qua số liệu kiểm tra văn bản ở phần sau).
Có thể nói, cùng với pháp luật của Nhà nước, văn bản quản lý nhà nước do UBND các cấp ban hành đã góp phần giữ gìn an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân, quy định cụ thể các cơ chế, chính sách, biện pháp tổ chức thực hiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn.
Căn cứ vào các văn bản pháp luật của Nhà nước, cũng như xuất phát từ tình hình thực tế ở địa phương, UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã cụ thể hoá những quy định của pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, kịp thời điều chỉnh bằng pháp luật trên những lĩnh vực mà pháp luật của Nhà nước còn chưa đầy đủ hoặc còn thiếu cụ thể.
Các văn bản do UBND các cấp ban hành ngày càng đáp ứng được yêu cầu về thể thức và nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật. Tình trạng văn bản không có chữ ký của người có thẩm quyền, không đóng dấu, không ghi số ký hiệu, không ghi ngày tháng ban hành…đến nay về cơ bản đã được chú ý khắc phục.
Trong hoạt động điều hành của mình, căn cứ vào các quy định của pháp luật UBND các cấp đã quan tâm tới việc ban hành Quy chế làm việc của mình, trong đó đều có những quy định về quy trình soạn thảo, thông qua, trình ký, phát hành văn bản theo thẩm quyền. Do vậy đã góp phần khắc phục được tình trạng ban hành văn bản sai thẩm quyền về hình thức và nội dung văn bản. Các văn bản trước khi ban hành đã được chú ý “kiểm duyệt” để loại bỏ những nội dung trái pháp luật và thiếu tính khả thi.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.1.2. Kết quả trong hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành
Căn cứ quy định tại Điều 10 Nghị định 135/2003/NDD-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, trong 5 năm Sở Tư Pháp Thanh Hoá (cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh) đã tiến hành tự kiểm tra các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá ban hành, cụ thể:
Kiểm tra theo thẩm quyền: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Từ những số liệu đã kiểm tra nói trên, chúng ta thấy rằng công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ khi bắt đầu triển khai (từ năm 2004) đến nay đã đạt được những kết quả, góp phần tích cực trong việc đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, từng bước lập lại trật tự, kỷ cương, nâng cao chất lượng của công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
2.1.2. Thực trạng công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận trong công tác ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Song, so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra, công tác ban hành văn bản của UBND các cấp còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót cần khắc phục kịp thời. Mặt khác, để triển khai nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do Chính Phủ giao, các cơ quan tư pháp (Sở Tư Pháp) đã tiến hành kiểm tra việc soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Theo số liệu thống kê nói trên cho thấy ở tỉnh Thanh Hoá, các văn bản trái pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực có nhiều văn bản sai trái là: xử lý vi phạm hành chính, ưu đãi, khuyến khích đầu tư, biên chế, phí, lệ phí, đóng góp xây dựng Quỹ, đất đai…Văn bản sai trái thuộc một trong năm nội dung: sai về căn cứ ban hành văn bản, sai về thẩm quyền ban hành văn bản, sai về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản, sai về thể thức, kỹ thuật trình bày, sai về thủ tục xây dựng, ban hành, đăng công bố văn bản. Cá biệt có những văn bản có trên hai nội dung sai trái. Có thể thấy rõ thực trạng này qua các dẫn chứng phân tích cụ thể dưới đây:
Văn bản soạn thảo, ban hành sai về căn cứ ban hành văn bản:
Để ban hành một văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản cần căn cứ vào hai loại văn bản: văn bản quy định thẩm quyền hình thức văn được ban hành và văn bản quy định thẩm quyền về nội dung được điều chỉnh.
Chẳng hạn, để ban hành quyết định về việc phê duyệt bộ thuế sử dụng đất nông nghiệp, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần căn cứ những văn bản sau: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
- Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003
- Căn cứ Luật Đất đai năm 2003
- Căn cứ Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Căn cứ Nghị định số 74/CP ngày 25/10/1993 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp;
- Theo đề nghị của Cục thuế tỉnh….
Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc UBND ban hành văn bản sai căn cứ là hết sức phổ biến. Các văn bản sai về viện dẫn căn cứ pháp lý thường xẩy ra trong trường hợp cơ quan xây dựng, soạn thảo văn bản đã viện dẫn căn cứ hết hiệu lực pháp luật hoặc văn bản được lấy làm căn cứ đã được thay thế bằng một văn bản khác, hoặc viện dẫn thiếu căn cứ pháp lý
Theo quy định của pháp luật: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 và được cụ thể hoá tại Thông tư số 01/2004/TT-BTP ngày 16/6/2004 của Bộ Tư Pháp về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 135/2003/NĐ-CP, “Căn cứ pháp lý làm cơ sở để ban hành văn bản quy phạm pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản đó hoặc những văn bản đã ban hành và đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản mới”
Song trong thực tế, rất nhiều văn bản do UBND cấp huyện và cấp xã ban hành đầu năm 2004 vẫn còn căn cứ và những văn bản đã hết hiệu lực pháp lý thi hành và được ban hành bởi một văn bản khác, như: Căn cứ Luật đất đai 1993, căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994, Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998 của Chính Phủ về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
Có nơi Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản nhưng lại không căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, trong khi đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản hoặc có ghi căn cứ, song không ghi rõ tên văn bản và ngày tháng ban hành.
Có những văn bản khi được ban hành lại căn cứ vào cả những văn bản không trực tiếp điều chỉnh đến nội dung văn bản ban hành, trường hợp này là viện dẫn căn cứ không đúng (Ví dụ: văn bản công nhận thành lập Hợp tác xã lại căn cứ vào Luật Doanh nghiệp) Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Có những nơi UBND huyện ban hành Quyết định lại căn cứ vào Quyết định của Chủ tịch UBND; hoặc Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND huyện lại căn cứ vào Tờ trình hoặc Công văn của HĐND, UBND cấp xã, mà đúng ra trong trường hợp này phải là “xét đề nghị” hoặc “theo đề nghị” thì đúng hơn.
Ngoài ra, không ít văn bản được chính quyền địa phương ban hành sai căn cứ do sử dụng văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ ban hành. Các căn cứ được sử dụng trong trường hợp này thường là: căn cứ vào công văn, thông báo ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ, hay căn cứ vào nội dung cuộc họp liên tịch giữa các cơ quan trong tỉnh, căn cứ vào chỉ thị, kế hoạch của Ban chấp hành Trung ương Đảng, căn cứ vào văn bản chưa có hiệu lực, căn cứ vào thực trạng địa phương, căn cứ vào kết luận của Uỷ ban thường vụ Tỉnh uỷ…
Hãn hữu có trường hợp UBND cấp huyện ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà không có căn cứ về nội dung, chẳng hạn ban hành văn bản về việc phê duyệt dự án đền bù, giải phóng mặt bằng tại một số xã trong huyện để xây dựng Khu đô thị mới. Quyết định này chỉ căn cứ vào một văn bản duy nhất là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và đề nghị của Chủ đầu tư mà không căn cứ vào những văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành mà nội dung của Quyết định này phải tuân thủ như: Luật đất đai năm 2003, Quyết định về ban hành khung giá các loại đất trên địa bàn tỉnh. Hoặc có một số Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chỉ căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mà không ghi căn cứ vào văn bản trực tiếp điều chỉnh nội dung Nghị quyết (Ví dụ: Nghị quyết về phê duyệt Đề án xã hội hoá hoạt động giáo dục, văn hoá thông tin, thể thao nhưng lại không căn cứ vào Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/04/2005 của Chính Phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao), Nghị quyết về việc trùng tu tôn tạo khu di tích lịch sử văn hoá…, nhưng lại không căn cứ vào Luật Di sản Văn Hoá; Nghị quyết về sáp nhập trường trung học cơ sở không căn cứ vào Luật Giáo dục…
Văn bản sai về thẩm quyền ban hành văn bản Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Thẩm quyền ban hành văn bản ở đây được xem xét ở 2 góc độ: thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
Thẩm quyền về hình thức: Theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 tại Điều 10 có quy định“ Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, UBND ra Quyết định, Chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó ”.
Như vậy, theo quy định trên văn bản có chứa quy phạm pháp luật do HĐND ban hành được thể hiện dưới hình thức Nghị quyết, UBND ban hành chỉ được thể hiện dưới hai hình thức: Quyết định, Chỉ thị của UBND. Tuy nhiên, trong thực tế đa số UBND cấp huyện và cấp xã vẫn còn nhầm lẫn thẩm quyền, hình thức ban hành văn bản của UBND và Chủ tịch UBND, nhất là loại Quyết định về giao đất, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phân bổ thu chi ngân sách địa phương (các văn bản trên hầu hết thể hiện dưới hình thức là quyết định của Chủ tịch UBND, song theo quy định của Luật ngân sách năm 2002; Luật đất đai năm 1993 và 2003 thì đây là Quyết định của UBND).
Vẫn có nơi văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch UBND nhưng lại thể hiện dưới hình thức văn bản của UBND như loại Quyết định về kỷ luật cán bộ, xử lý vi phạm hành chính, phê chuẩn kết quả bầu thành viên UBND cấp xã, kiện toàn các Ban chỉ đạo…
Cá biệt có nơi văn bản thuộc thẩm quyền của Ban chỉ đạo nhưng lại thể hiện dưới hình thức văn bản của Chủ tịch UBND.
Ở một số nơi, UBND vẫn dùng hình thức văn bản như: thông báo, Công văn có chứa quy phạm pháp luật thay cho hình thức Quyết định, nhất là trong lĩnh vực thu phí, lệ phí và giải quyết các khiếu kiện của dân.
Thẩm quyền về nội dung: Có nghĩa là cơ quan, người có thẩm quyền chỉ được ban hành cac văn bản có nội dung phù hợp với thẩm quyền của mình được pháp luật cho phép hoặc đã được phân công, phân cấp. Tuy vậy, trong thực tế có rất nhiều nơi HĐND, UBND cấp huyện và xã ban hành văn bản trái thẩm quyền về nội dung, như: quy định việc thu phí, lệ phí, xây dựng các loại quỹ; giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền. Cá biệt có nơi UBND xã tự ý ký hợp đồng cho một doanh nghiệp thuê đất; UBND huyện quyết định thành lập doanh nghiệp tư nhân; UBND huyện giao cho Ban chỉ đạo có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính…Ví dụ như:
Thông báo số 208/TB-UB ngày 01/04/2003 của UBND huyện T về mức thu phí vệ sinh môi trường khu vực Thị trấn T và các vùng phụ cận; Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Chỉ thị số 05/CT-UB ngày 04/08/2004 của Chủ tịch UBND huyện C về việc cấm thu lệ phí làm công tác khen thưởng thành tích kháng chiến quá mức quy định.
Nghị quyết số 17/2005/NQ-HĐND ngày 27/7/2005 của HĐND huyện X về việc xây dựng Quỹ phòng cháy, chữa cháy rừng; Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐND ngày 20/01/2006 của HĐND huyện H về xây dựng Quỹ phòng cháy, chữa cháy rừng: Hai văn bản này trái với Luật bảo vệ và phát triển rừng (khoản 3 Điều 11 Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định tên Quỹ là Quỹ bảo vệ và phát triển rừng và giao cho Chính Phủ quy định).
Quyết định số 142/QĐ-UBND ngày 15/02/2006 của Chủ tịch UBND huyện C về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006-2010 xã N. Tại khoản 2 Điều 3 quyết định giao cho UBND xã thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất là trái với quy định của Luật đất đai năm 2003 (thẩm quyền thu hồi đất, cho thuê đất thuộc thẩm quyền của UBND huyện và không được uỷ quyền).
Nghị quyết số 17/2006/NQ-HĐND ngày 17/01/2006 của HĐND huyện Đ về quy định tạm thời mức phụ cấp cho một số chức danh: Công an trực, Trưởng thú y xã và y tá thôn. Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, thì HĐND tỉnh quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ. Và ngày 21/10/2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn thì không có các chức danh: Công an trực, Trưởng thú y xã và y tá thôn. Vì vậy, việc HĐND huyện Đ tự đặt các chức danh này và quy định mức phụ cấp cụ thể cho từng chức danh đó là trái thẩm quyền.
Ngoài ra, qua kiểm tra tất cả các huyện cho thấy: HĐND cấp huyện đều ban hành Nghị quyết về thu đóng góp xây dựng trường. Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì HĐND cấp tỉnh mới có thẩm quyền quyết định các khoản đóng góp của nhân dân, HĐND cấp huyện không có thẩm quyền này.
Về nội dung văn bản: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Về nguyên tắc, văn bản do UBND các cấp ban hành không được trái với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, các văn ban của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương; văn bản của cấp dưới không được trái với văn bản của cấp trên. Văn bản cua UBND phải phù hợp với Nghị quyết của HĐND cùng cấp. Trong thực tế, qua kiểm tra việc ban hành văn bản của UBND cấp huyện theo Nghị định 135/2003/NĐ-CP cho thấy: UBND ban hành văn bản trái với quy định hiện hành của pháp luật, văn bản của UBND cấp huyện ban hành trái với Nghị quyết của HĐND cùng cấp, như:
Quyết định số 272/QĐ-CT ngày 07/05/2004 của Chủ tịch UBND Thị xã S về việc thành lập đoàn kiểm tra hành nghề y dược tư nhân (văn bản này giao Đoàn kiểm tra được quyền xử phạm hành chính);
Quyết định số 246/QĐ-UB ngày 22/4/2004 của UBND Thị xã S về việc đầu tư xây dựng và đóng góp kinh phí xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật theo quy định tại Phương án số 387/PA-UB ngày 30/06/2003. (Văn bản này không phù hợp với Nghị quyết số 03/NQ-HĐND ngày 16/01/2003 của HĐND thị xã Bỉm Sơn về chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các khu công nghiệp Bỉm Sơn);
Văn bản số 235/CT-QBTTE ngày 29/04/2004 của Ban chỉ đạo Quỹ bảo trợ trẻ em huyện X về việc phân bổ Quỹ bảo trợ trẻ em năm 2004. (Nội dung văn bản này trái với nguyên tắc lập Quỹ được quy định tại Điều 22 Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em và Nghị định 374/HĐBT);
Quyết định số 93/QĐ-UB ngày 23/3/2005 và Quyết định số 370/QĐ-UB của Chủ tịch UBND huyện L về việc chuyển quyền sử dụng đất. Nội dung các văn bản này là thu hồi đất của bên chuyển nhượng giao cho bên nhận chuyển nhượng. Như vậy là không phù hợp với quy định của Luật đất đai (việc chuyển nhượng thông qua Hợp đồng), UBND huyện đã sử dụng quyết định hành chính can thiệp vào quan hệ dân sự và làm phát sinh thêm thủ tục hành chính.
Ngoài ra còn một số Nghị quyết của HĐND nội dung đều ghi: “Tán thành Tờ trình của UBND” mà không quy định nội dung của Tờ trình. Cách thể hiện này không đúng tính chất của một văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định thì nội dung Nghị quyết chuyên đề phải thể hiện được đối tượng, phạm vi áp dụng, những vấn đề của Nghị quyết thông qua tại kỳ họp (cụ thể phải ghi những nội dung chủ yếu trong Tờ trình của UBND đã được các đại biểu thông qua tại kỳ họp)
Văn bản sai về thể thức và kỹ thuật trình bày: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định 135/2003/NĐ-CP và Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/04/2004 về công tác văn thư; Thông tư liên tịch số 55/TTLT0-BTP-BNV ngày 05/06/2005 quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, thì thể thức của một văn bản bao gồm các yếu tố sau: quốc hiệu; tên cơ quan ban hành văn bản; số, ký hiệu của văn bản; địa danh và ngày tháng năm ban hành văn bản; tên loại và trích yếu nội dung của văn bản; nội dung văn bản; chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền; dấu của cơ quan, tổ chức; nơi nhận… Qua thực tế kiểm tra văn bản cho thấy, tỷ lệ văn bản do UBND cấp huyện, cấp xã ban hành có sai sót về thể thức văn bản và kỹ thuật trình bày, chiếm tới 60%. Các sai phạm về thể thức thường thấy là: văn bản được ban hành sai số ký hiệu; sai văn phong, kỹ thuật trình bày văn bản; sai chính tả, ngữ pháp; thiếu tên cơ quan cần gửi văn bản trong phần nơi nhận…
Hiện nay, ở UBND một số huyện và xã khi ban hành văn bản vẫn thể hiện sai tên cơ quan ban hành văn bản, như; “UBND tỉnh Thanh Hoá UBND huyện…”
Hoặc có nơi: “HĐND huyện…. UBND huyện…”.
Có nơi HĐND ban hành Nghị quyết lại ghi tên loại và trích yếu văn bản là “ HĐND huyện Nghị quyết về….”
Hoặc ghi: “Nghị quyết của HĐND huyện…..về việc…”.
Mà ghi đúng phải là: “Nghị quyết
Về việc……”
Tức là không có tên cơ quan ban hành văn bản trong phần ghi tên loại và trích yếu văn bản.
Về số và ký hiệu văn bản, đây là phần có nhiều sai sót. Đối với nhiều văn bản do UBND ban hành có chứa quy phạm pháp luật, nhưng không thể hiện theo đúng quy định là: Số…/2004/QĐ-UB; mà chỉ đề là: Số…./CT-UB.
Ngược lại có nơi văn bản do Chủ tịch UBND ban hành lại thể hiện như văn bản có chứa quy phạm pháp luật (Ví dụ: Số…./2004/QĐ-UB). Cá biệt có một số nơi khi ban hành văn bản là: Quyết định hoặc Chỉ thị lại đề trích yếu nội dung phía dưới phần số, ký hiệu văn bản như là cách thể hiện của một Công văn hành chính; nhiều văn bản không thể hiện tên loại văn bản là loại gì. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Phần ký văn bản cũng còn nhiều thiếu sót: là văn bản do UBND ban hành, nhưng khi đồng chí Chủ tịch UBND ký không để Thay mặt (TM); hoặc Phó chủ tịch UBND ký lại không đề Ký thay (KT) Chủ tịch. Ngược lại có nhiều văn bản do cá nhân đồng chí Chủ tịch UBND ban hành lại đề TM.UBND… cá biệt có xã khi ban hành văn bản hình thức là của UBND và đồng chí Chủ tịch UBND xã ký ban hành văn bản, nhưng phần đóng dấu lại là đóng dấu của Trạm xá xã.
Các lỗi sai về kỹ thuật trình bày văn bản còn thể hiện trong các trường hợp trình bày nội dung văn bản. Theo quy định và theo thông lệ, một điều luật được trình bày theo thứ tự: tên điều, ví dụ “Điều 2: Vị trí, chức năng…”, khoản (1,2,3…), điểm (1.1, 1.2…a,b,c…) đoạn… Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều quyết định của UBND các cấp không được xây dựng theo cấu trúc trật tự này mà sử dụng gạch đầu dòng hoặc xuống dòng, ngắt đoạn không theo quy tắc, hay có trường hợp, trong cùng một văn bản, có điều lại chỉ ngắt khoản bằng cách xuống dòng, chia nội dung điều luật thành từng đoạn…
Hãn hữu, có trường hợp văn bản là Chỉ thị của UBND tỉnh, đã được cơ quan soạn thảo xây dựng thành một khổ liền, không có ngắt đoạn.
Các lỗi sai về văn phong trình bày trong nội dung văn bản được thể hiện hết sức phong phú, tuy nhiên thường thấy trong trường hợp cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản đã sử dụng ngôn ngữ đời thường để quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản. Chẳng hạn: “quy định này có hiệu lực kể từ khi ban hành quy định này có hiệu lực ”, hoặc “ quyết định này có hiệu lực kể từ vụ hè thu”…
Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương viết sai chính tả với số lượng không nhỏ. Cá biệt, có trường hợp, trong một văn bản mà có tới năm, bảy lỗi chính tả. Nguyên nhân có thể do đánh máy hoặc do sử dụng tiếng địa phương.
Các lỗi sai về ghi địa danh nơi ban hành văn bản chiếm tới khoảng 50 – 70% số văn bản được ban hành. Trước đây, chưa có văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này, tuy nhiên đến nay, việc ghi địa danh nơi ban hành đã được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ. Theo hướng dẫn tại văn bản này, địa danh ghi trên văn bản là tên gọi chính thức của đơn vị hành chính (tên riêng của thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã , phường, thị trấn) nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở, đối với các tỉnh thì địa danh ghi trên văn bản là tên của đơn vị hành chính cấp huyện nơi mà tỉnh đó đặt trụ sở, đối với những đơn vị hành chính được đặt tên theo tên người hoặc bằng chữ số thì phải ghi tên gọi đầy đủ của đơn vị hành chính đó.
Từ sau khi Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản có hiệu lực pháp luật, việc ban hành văn bản với các lỗi sai về thể thức, kỹ thuật trình bày như trên có chiều hướng giảm dần. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Mặc dù các lỗi sai về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản không ảnh hướng lớn tới nội dung quản lý nhà nước mà văn bản điều chỉnh, song việc ban hành văn bản sai thể thức, kỹ thuật trình bày sẽ dẫn tới sự tuỳ tiện trong quá trình xây dựng, soạn thảo, sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
Về quy trình xây dựng, thông qua và ban hành văn bản:
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, nếu soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà tuân theo đầy đủ, nghiêm túc các cung đoạn từ khâu khảo sát thực tế, dự thảo văn bản, ý kiến tham gia của các cơ quan liên quan, ý kiến thẩm định của các cơ quan tư pháp…thì rõ ràng chất lượng sẽ tốt hơn, sẽ đúng thể thức, thẩm quyền, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, thực trạng quy trình ban hành văn bản của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh còn tuỳ tiện, chưa tuân theo một quy định thống nhất. Mặc dù một số địa phương có quy định quy trình xây dựng, thông qua, trình ký và ban hành văn bản tại quy chế làm việc hoặc có quy định riêng, song việc thực hiện không nghiêm hoặc không thực hiện.
Hầu hết các dự thảo văn bản trong quá trình xây dựng, không được các cơ quan chủ trì tiến hành khảo sát thực tế. Không nghiên cứu kỹ văn bản do mình chuẩn bị ban hành có phù hợp với hệ thống pháp luật hay không? Do đó, nhiều văn bản sau khi ban hành chủ yếu là sao chép lại từ văn bản của cấp trên, không cụ thể hoá cho phù hợp thực tiễn ở địa phương, thậm chí có văn bản trái pháp luật, bị chồng chéo và thiếu tính khả thi.
Việc thẩm định các dự thảo văn bản có tính quy phạm pháp luật trước khi UBND ký ban hành không chấp hành đầy đủ; có trường hợp dự thảo văn bản sau khi cơ quan Tư pháp có ý kiến thẩm định đã không “đúng ý” cơ quan soạn thảo hoặc ban hành nên đã chuyển hình thức từ văn bản của UBND sang hình thức văn bản của Chủ tịch UBND. Một số văn bản mặc dù nội dung có chứa quy phạm pháp luật, song lại “lách luật” ban hành dưới hình thức văn bản của Chủ tịch UBND để không phải qua thẩm định. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Ở cấp tỉnh: Năm 2003 theo tập hợp của Sở Tư Pháp, UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành 116 văn bản có tính quy phạm pháp luật. Song chỉ chuyển cho Sở Tư Pháp thẩm định theo quy định 30 văn bản, chiếm tỷ lệ gần 30%; 6 tháng đầu năm 2004 ban hành 60 văn bản, Sở Tư Pháp thẩm định 12 văn bản, chiếm tỷ lệ 20%.
Ở cấp huyện: Do Phòng Tư pháp đã giải thể, nên UBND huyện đều có một biên chế thẩm định văn bản nằm trong Văn phòng UBND, nhưng nhiều nơi chỉ bố trí thuần tuý đánh máy văn bản mà không hề được tham gia thẩm định.
Theo quy định của pháp luật, cũng như quy định tại Quyết định 2398/2002/QĐ-UB ngày 26/7/2002 của UBND tỉnh về trình tự thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì khi trình và thông qua văn bản phải thiết lập hồ sơ, bao gồm: dự thảo văn bản, Tờ trình, văn bản thẩm định của cơ quan Tư pháp, văn bản tham gia ý kiến về chuyên môn của các cơ quan liên quan, các tài liệu làm căn cứ dự thảo văn bản. Song thực tế, việc trình văn bản nhiều khi không tuân theo yêu cầu này. Ở nhiều huyện, Văn phòng UBND rất “phàn nàn” về quy trình ban hành văn bản ở địa phương. Khi văn bản có sai sót Văn phòng đều phải chịu trách nhiệm, nhưng khi trình văn bản Văn Phòng lại không biết. Thông thường các phòng chuyên môn soạn thảo và trình thẳng đồng chí Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND ký phát hành. Một số nơi: Ban chỉ huy quân sự huyện, Công an huyện, UBND xã khi trình dự thảo để đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch ký không qua Văn phòng mà trình trực tiếp. Vì vậy, việc quản lý phát hành văn bản có nhiều thiếu sót, không thống nhất và rất khó xác định trách nhiệm sau này.
Hậu quả pháp lý của việc ban hành văn bản trái pháp luật:
Với tư cách là công cụ, phương tiện quản lý Nhà nước, việc ban hành văn bản quản lý Nhà nước nói chung và đặc biệt là việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nếu có thiếu sót sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cản trở và làm giảm hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước. Có thể nhìn nhận trên mấy khía cạnh sau:
Việc ban hành văn bản trái pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước trước hết gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhân dân và cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội.
Nhiều văn bản ban hành quy định thêm thủ tục hành chính, gây phiền hà cho tổ chức, công dân trong quá trình giải quyết công việc với cơ quan Nhà nước. Đó cũng chính là điều kiện để một số cán bộ, công chức lợi dụng gây sách nhiễu, phiền hà cho dân.
Việc ban hành các quyết định áp dụng pháp luật không đúng như: giao đất, thu hồi đất, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật…không chỉ gây thiệt hại lợi ích cho công dân, tổ chức mà đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến các khiếu kiện, nhiều vụ việc rất khó giải quyết. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Theo báo cáo sơ kết việc thực hiện Luật khiếu nại tố cáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cho thấy: trong 3 năm, từ 1999-2001 các cơ quan có thẩm quyền đã thụ lý 6.833 đơn khiếu nại. Trong đó chắc chắn các quyết định hành chính bị khiếu nại ít nhất cũng chiếm 50%.
Cũng theo số liệu của Toà hành chính- Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá từ 01/01/2003- 30/09/2004 Toà hành chính đã thụ lý 6 vụ án sơ thẩm thuộc quyền giải quyết và xét xử phúc thẩm 4 vụ. Trong đó chủ yếu là Quyết định hành chính trong việc thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chưa kể các vụ án do TAND huyện giải quyết).
2.1.3. Đánh giá chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.1.3.1. Ưu điểm
Nhìn chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá soạn thảo, ban hành với số lượng lớn, điều chỉnh toàn bộ các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tại địa phương. Phần lớn văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương và đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương.
Hội đồng nhân dân các cấp ban hành Nghị quyết để quyết định những chủ trương, biện pháp, chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, văn háo, thông tin, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, tài nguyên môi trường, chính sách tôn giáo, thực thi pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương, quản lý địa giới hành chính, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, đất đai, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ, du lịch, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội….
Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định để thực hiện chủ trương, biện pháp, chính sách mà Hội đồng nhân dân cùng cấp đã đề ra trên các lĩnh vực đó, đồng thời, Uỷ ban nhân dân còn ban hành chỉ thị để quy định các biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động, đôn đốc và kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc và của chính quyền cấp dưới.
Hệ thống văn bản này là những quy định cụ thể hoá và văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương, nên ưu điểm nổi trội của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này là rất cụ thể, chi tiết, dễ áp dụng và có tính khả thi cao. Ưu điểm này xuất phát từ chính yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng những văn bản này: Đây là văn bản của các cấp chính quyền địa phương nên nó phải chứa đựng những nội dung đơn giản, cụ thể, không được phép có văn bản hướng dẫn thực hiện. Cũng chính vì đặc điểm này nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương còn có ưu điểm là luôn đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và tính hệ thống trong hệ thống pháp luật.
Mặt khác, căn cứ vào các văn bản pháp luật của Nhà nước, cũng như xuất phát từ tình hình thực tế tại địa phương, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã cụ thể hoá những quy định của pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, kịp thời điều chỉnh bằng pháp luật trên những lĩnh vực mà pháp luật của Nhà nước còn chưa đầy đủ hoặc còn thiếu cụ thể.
Trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cấp chính quyền bước đầu chú ý tới việc gắn quá trình xây dựng văn bản với tổ chức việc thực hiện văn bản bằng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, cũng như đã chú trọng tới công tác lưu trữ văn bản để làm việc….
2.1.3.2. Nhược điểm Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp còn tồn tại một số nhược điểm cần được khắc phục trong thời gian tới.
Qua kết quả kiểm tra, có khoảng 40-50% văn bản được ban hành có dấu hiệu không đúng quy định về thể thức pháp luật. Trong đó, số văn bản sai thể thức, kỹ thuật trình bày là chủ yếu. Các lỗi sai về thể thức thường thấy là: sai về cách đánh số, ký hiệu văn bản, sai về kỹ thuật trình bày, sai chính tả… Mặc dù, số văn bản sai về thể thức kỹ thuật trình bày văn bản là lớn, nhưng trong thực tế, văn bản vẫn được thực hiện và bảo đảm hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, xét về khía cạnh ban hành văn bản, những lỗi sai này đều vi phạm Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, cần phải chấn chỉnh kịp thời, tránh tình trạng tuỳ tiện trong việc xây dựng, soạn thảo văn bản.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh hoá sai về nội dung chỉ chiếm khoảng 3-4% số văn bản được ban hành. Tuy nhiên, những lỗi sai này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý, ảnh hưởng đến sự thống nhất của hệ thống pháp luật, đặc biệt là những lỗi sai do ban hành văn bản sai thẩm quyền hoặc ban hành văn bản có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật. Chính những văn bản này là nguyên nhân chủ yếu, là nhân tố quan trọng ảnh hướng quyết định đến hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp.
Sự thiếu hệ thống trong văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương thể hiện ở việc văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương còn ban hành sai hình thức, sai nội dung, không đảm bảo sự phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Sự thiếu đồng bộ trong văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thể hiện ở cả hình thức, nội dung và thời gian ban hành. Các biểu hiện của sự thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ trong hệ thống văn bản này có thể là: thiếu văn bản quy phạm pháp luật có tính chất chỉ đạo, định hướng; trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương tồn tại cả văn bản có chứa quy phạm pháp luật; nội dung văn bản mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản cùng cấp hoặc trái với văn bản cấp trên, thời gian ban hành văn bản cụ thể hoá quá chậm so với văn bản chỉ đạo của cấp trên…
Mặc dù, số địa phương (huyện, xã, thị trấn) ban hành văn bản theo kiểu này không nhiều nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt không tốt cho sự ổn định xã hội nếu đó là những văn bản quy định về chính sách ưu đãi, quyết định nhân sự…
2.1.4. Đánh giá chung pháp luật hiện hành về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
2.1.4.1.Về thể chế liên quan đến kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 8 khoá 7 đã khẳng định “việc cải cách một bước nền hành chính Nhà nước là yêu cầu bức xúc và là trọng tâm của việc xây dựng hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quan điểm cải cách hành chính ở nước ta được Đảng xác định là: phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đọan cụ thể. Cải cách hành chính phải gắn liền với cải cách tư pháp. Xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo ấy, tại kỳ họp thứ Quốc hội khoá X ngày 25/12/2001 đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, theo đó bỏ chức năng kiểm sát văn bản của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, để Viện kiểm sát nhân dân các cấp tập trung làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án). Vậy vấn đề đặt ra là chức năng kiểm tra văn bản trước đây của Viện kiểm sát nhân dân được chuyển giao cho cơ quan nào thực hiện. Tại Điều 83 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 10/12/2002 đã chính thức giao “Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật”.
Như vậy, nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là một nhiệm vụ mới được chuyển giao sang hệ thống cơ quan hành pháp. Trước tình hình mới và để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ mới được chuyển giao, cũng như cụ thể hoá Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ngày 14/11/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp đó, ngày 16/06/2004 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2004/TT-BTP về việc Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính Phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; ngày 17/11/2004 Bộ Tài Chính và Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 109/2004/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Đây là nhưng cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật tiến hành các hoạt động kiểm tra văn bản theo quy định. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Trước yêu cầu tăng cường kỷ luật hành chính trong các cơ quan nhà nước và để bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, ngày 10/10/2005 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/2005/CT-TTg về việc tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, trong đó yêu cầu : “ Các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chỉnh phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm: Tổ chức công tác tự kiểm tra và kiểm tra văn bản theo thẩm quyền; xử lý kịp thời và đúng quy định của pháp luật đối với các văn bản có nội dung trái pháp luật đã được phát hiện trong quá trình kiểm tra, xử lý; kịp thời kiến nghị, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế những quy định trong các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội; áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành và thực hiện văn bản trái pháp luật gây ra ”[8]
Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề thể chế, có thể nhận thấy một số hạn chế sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật hiện hành về kiểm tra văn bản chưa cụ thể, đầy đủ: mặc dù pháp luật đã xác định tương đối rõ về thẩm quyền, trách nhiệm xử lý văn bản trái pháp luật; một số chủ thể có trách nhiệm kiểm tra cũng đã được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 quy định rõ nhưng nhìn chung, thể chế pháp luật về kiểm tra văn bản còn chưa đầy đủ, nhất là quy định về trách nhiệm, thẩm quyền kiểm tra văn bản của Uỷ ban nhân dân đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới. Có thể thấy rõ rằng pháp luật hiện hành còn chưa quy định chặt chẽ nhằm ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra. Về mặt kỹ thuật, nếu Hiến pháp quy định “ Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó” thì điều này không có nghĩa ràng buộc Uỷ ban nhân dân các cấp phải kiểm tra văn bản do mình ban hành và văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Khoản 4 Điều 114 Hiến pháp quy định Thủ tưởng Chính Phủ “đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên của Chính Phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên ”.
Trên thực tế, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có quyền ban hành quyết định, Chỉ thị “có tính quy phạm” hay không vẫn còn được tranh luận, mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004 đã quy định rõ các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó không bao gồm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp. Nếu hiểu rằng hiến pháp nhắc tới “quyết định, chỉ thị” của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân với tính chất là văn bản cá biệt mà không phải là văn bản quy phạm pháp luật thì quy định tại Điều 114 Hiến pháp “Thủ tướng đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ quyết định, chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên” cần phải được nghiên cứu thêm.
Một quy định khác của Hiến pháp năm 1992 cần lưu ý là “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp dưới”. Những văn bản sai trái của cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân, nếu hiểu theo tinh thần của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thì không được hiểu bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật vì các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân, kể cả các cơ quan chuyên môn, không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vấn đề đặt ra là những văn bản của các cơ quan này có thuộc đối tượng kiểm tra hay không? Quy định trên của Hiến pháp cũng không đề cập tới trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới, tương tự như thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản sai trái của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Thứ hai, pháp luật còn thiếu các quy định mang tính nguyên tắc nhằm ràng buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Không có các nguyên tắc kiểm tra sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện hoạt động này trở thành “ngẫu hứng”, không thống nhất và thiếu hiệu quả. Điều này đã trở thành thực tế trong công tác kiểm tra vừa qua của các cơ quan có thẩm quyền này có kiểm tra văn bản. Nếu không đặt ra các nguyên tắc nhất định và cũng không có các quy định pháp luật cụ thể thì khó có thể ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra và cơ quan có văn bản được kiểm tra. Thực vậy, việc kiểm tra diễn ra trên thực tế ở nhiều địa phương trở thành “quyền tự quyết” của các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra văn bản: tự lựa chọn thời điểm kiểm tra sớm hay muộn hoặc thậm chí quyết định có kiểm tra hay không, lựa chọn đối tượng văn bản kiểm tra, lựa chọn một địa bàn nhất định (có thể thuận tiện cho việc tổ chức một đoàn kiểm tra…). Chính vì vậy, việc kiểm tra trong những trường hợp như vậy không còn mang tính bắt buộc nữa và cũng không kịp thời, không thường xuyên. cơ quan có văn bản là đối tượng kiểm tra cũng không gửi đầy đủ văn bản và gửi sớm văn bản cho cơ quan có thẩm quyền kiểm tra. Còn về việc xử lý văn bản thì hầu như bỏ ngỏ và hiếm thấy các chủ thể thực hiện thẩm quyền xử lý của mình.
Thứ ba, pháp luật quy định về thẩm quyền kiểm tra văn bản còn chưa rõ ràng, thiếu cụ thể để triển khai thực hiện:
Quy định về thẩm quyền kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được xác định rõ ràng nhất là thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư Pháp, các Bộ, cơ quan ngang bộ, đối với các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản pháp luật khác như Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tuy có quy định về thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật nhưng không xác định rõ đồng thời trách nhiệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật hoặc nếu có quy định trách nhiệm kiểm tra, cũng không phân biết rõ thẩm quyền kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với kiểm tra việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã, cơ sở pháp lý để địa phương thực hiện việc kiểm tra chỉ là các quy định chưa rõ ràng, thống nhất.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể quy trình, trình tự kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật để các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng, tuân thủ quy trình đó.
Chính vì sự thiếu rõ ràng, thiếu chặt chẽ của pháp luật nên cơ chế kiểm tra văn bản hiện nay chưa bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả.
2.1.4.2. Về hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
- Hoạt động kiểm tra của Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương tỉnh Thanh Hoá.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, việc kiểm tra về phía bộ, cơ quan ngang bộ cũng không được tiến hành thường xuyên và đều đặn. Công tác kiểm tra hiện nay chủ yếu là theo định kỳ và kết hợp giữa kiểm tra với công tác rà soát văn bản ban hành của năm trước và cũng không có kế hoạch kiểm tra cụ thể, mỗi năm chỉ kiểm tra vài tỉnh, thành phố mà chủ yếu có công văn yêu cầu tự kiểm tra và báo cáo, cũng cho thấy bất cập của cơ chế kiểm tra hiện nay.
- Hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở cấp huyện và cấp xã
Công tác kiểm tra của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đông nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện được giao cho Sở Tư pháp, về cơ bản, thông qua hoạt động rà soát văn bản và việc gửi văn bản đến Sở Tư pháp để kiểm tra và tiến hành kiểm tra định kỳ hàng năm là chủ yếu, việc xem xét các khiếu nại của công dân về văn bản trái pháp luật chiếm tỷ lệ rất ít, thậm chí không có.
Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp đối với cấp huyện.
Thanh hoá, Phòng văn bản pháp quy trực thuộc Sở Tư pháp Thanh Hoá có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Hàng năm căn cứ vào kế hoạch kiểm tra đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Sở tư pháp tiến hành nhiệm vụ kiểm tra, tuy nhiên việc kiểm tra công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh cũng chỉ được tiến hành kiểm tra theo định kỳ 6 tháng một lần và chỉ tiến hành đối với một số huyện chứ không tiến hành kiểm tra hết các huyện, thị trong tỉnh. Bên cạnh đó, do thực tế khối lượng công việc và văn bản kiểm tra là rất lớn, trong khi đó đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra văn bản chuyên trách quá mỏng, năng lực còn hạn chế để có thể đảm đương công việc, vì thế nên một năm Sở Tư pháp chỉ có thể tiến hành kiểm tra từ 10 đến huyện, thị, số còn lại sẽ kiểm tra vào năm tiếp theo theo cách xoay vòng. Khi phát hiện văn bản do hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện ban hành văn bản trái pháp luật (như sai về thẩm quyền, nội dung trái với văn bản cấp trên; sai sót về kỹ thuật, hình thức trình bày…) thì Sở Tư pháp kiến nghị cơ quan đã ban hành tự xử lý văn bản đó theo thẩm quyền. Cơ quan nhận được kiến nghị có xử lý văn bản và xử lý văn bản đó như thế nào thì chưa có quy định về cơ chế phản hồi, do vậy cơ quan kiến nghị cũng không biết được kết quả xử lý.
Một thực tế là qua kiểm tra phát hiện các văn bản trái pháp luật của các Chủ tịch UBND các cấp hầu như ít sử dụng thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cùng cấp và văn bản trái pháp luật của UBND cấp dưới, đình chỉ việc thi hành và đề nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp bãi bỏ Nghị quyết trái pháp luật theo quy định tại Điều 124 Hiến pháp 1992, điều 17 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, hầu hết khi kiểm tra phát hiện văn bản trái pháp luật, cơ quan kiểm tra có văn bản kiến nghị nơi ban hành văn bản tự kiểm tra và xử lý.
Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của phòng tư pháp đối với cấp phường, xã, thị trấn.
Tương tự như cấp tỉnh, cấp huyện, ở cấp xã công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao cho Phòng Tư pháp đảm nhận. Theo kế hoạch thì cứ 6 tháng Phòng Tư pháp huyện chọn vài phường – xã – thị trấn để tiến hành kiểm tra, do số lượng cán bộ ít phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau nên không thể tiến hành kiểm tra hết các phường – xã- thị trấn trong huyện. Do vậy, công tác kiểm tra văn bản còn rất hạn chế và chất lượng cũng chưa đảm bảo, chủ yếu kết hợp với Đoàn kiểm tra của cấp tỉnh để tiến hành kiểm tra.
Hiện nay, ở cấp xã thì Ban tư pháp có nhiệm vụ tham mưu giúp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện việc tự kiểm tra văn bản. Tuy nhiên, mỗi xã – phường- thị trấn cũng chỉ có một cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công tác như tổ chức lấy ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh theo hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp xã, xây dựng kế hoạch tổ chức, phổ biến và giáo dục pháp luật trên địa bàn, thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương. Bên cạnh đó, đa số cán bộ Tư pháp làm công tác kiểm tra tại phường- xã- thị trấn đều chưa đào tạo về kiến thức pháp luật và quản lý nhà nước; chưa được tập huấn, bồi dưỡng các kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra văn bản nên gặp không ít khó khăn, lúng túng khi thực hiện công tác kiểm tra hoạt động tự kiểm tra văn bản cũng chưa được đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng.
Kết quả xử lý văn bản sau khi kiểm tra Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Sau khi tiến hành kiểm tra, Sở Tư pháp đã ra thông báo về kết quả kiểm tra gửi tới Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân của các huyện, thị xã, thành phố và kiến nghị các huyện xử lý đối với các văn bản có dấu hiệu vi phạm. Hướng xử lý chung là:
Đối với những văn bản có sai sót về thể thức và kỹ thuật trình bày, có sai sót trong phần căn cứ ban hành văn bản. Sở Tư pháp đã yêu cầu các huyện nghiêm túc chấn chỉnh và rút kinh nghiệm, trong đó cũng phải khẳng đinh nguyên tắc của Nghị định 135/2003/NĐ-CP là: dù sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định chung đều phải xử lý theo hướng hoặc sửa đổi hoặc bãi bỏ. Song, Sở Tư pháp chỉ yêu cầu rút kinh nghiệm và khắc phục những sai sót trong quá trình ban hành văn bản; những sai sót về thể thức và căn cứ ban hành văn bản ở các lần kiểm tra sau phải kiên quyết xử lý.
Đối với những văn bản trái pháp luật và không phù hợp pháp luật. Sở
Tư pháp đã yêu cầu các huyện có văn bản ban hành trái thẩm quyền, nội dung trái pháp luật phải tự xử lý, huỷ bỏ và báo cáo kết quả về Sở Tư pháp trong thời hạn 30 ngày.
Nhìn chung sau khi nhận được thông báo và kiến nghị của Sở Tư pháp, hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các huyện đã có văn bản tiếp thu, tự xử lý và đã báo cáo kết quả về Sở Tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn một số huyện chậm thông báo kết quả xử lý hoặc chậm tiến hành tự xử lý theo quy định tại khoản 2 điều 22 Nghị định 135/2003/NĐ-CP.
2.2 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác xây dựng, ban hành; kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có thể kể đến là: tình hình kinh tế – xã hội thay đổi; văn bản Luật quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương chậm ban hành hoặc thậm chí chưa hoặc không được ban hành; các văn bản Luật, văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành quy định quá chung chung…
Theo đánh giá tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, trong mười năm thực hiện chiến lược phát triển (1991-2000), chúng ta “đã đạt được những thành tựu rất to lớn và quan trọng” nền kinh tế đất nước thoát khỏi khủng hoảng; tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi (2,07 lần); tích luỹ nội bộ đạt 27%; sản xuất phát triển, không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn để dự trữ và xuất khẩu; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh; quan hệ sản xuất đối mới, đa dạng các thành phần kinh tế; cơ chế quản lý và phân phối cũng thay đổi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; quan hệ kinh tế với các nước ngày càng được mở rộng và phát triển, kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Mỗi năm tạo thêm 1,2 – 1,3 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí chuẩn của nước ta) từ trên 30% giảm xuống 11%…
Nền kinh tế phát triển rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện từng ngày là kết quả của những nổ lực không ngùng của toàn Đảng và toàn dân, đánh dấu và khẳng định sự phát triển của Việt Nam với thế giới. Tuy nhiên, đây lại chính là nguyên nhân khách quan dẫn tới việc những quy định của pháp luật không theo kịp với tình hình phát triển của thực tiễn kinh tế- xã hội và văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cũng không nằm ngoài quy luật này. Hầu hết ở các địa phương trên cả nước, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ban hành đã không thể đáp ứng được với tình hình phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương mình. Thậm chí, có những văn bản vừa mới ban hành đã trở thành lạc hậu so với thực tế tại địa phương. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Một nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương đó là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm ban hành văn bản quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.
Một thực tế rằng, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và có hiệu lực từ năm 1996, sau đó được sửa đổi, bổ sung năm 2002. Tuy nhiên, Luật này được xây dựng để quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương chỉ nhắc đến trong 3 (ba) điều, khoản và những điều, khoản này cũng chỉ đủ để quy định về hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn những vấn đề khác chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh. Tiếp đó, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được ban hành và có hiệu lực năm 2003. Luật này quy định khá chi tiết và cụ thể các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền các cấp. Và để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ đó, chính quyền địa phương các cấp không còn cách nào khác là ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục tương tự như trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002). Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân dược Quốc Hội khoá IX, kỳ họp thứ 6 từ ngày 25/10/2004 đến ngày 03/12/2004 thông qua và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/04/2005. Từ đây, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương mới thực sự được điều chỉnh bởi một văn bản luật. Chính sự chậm chễ này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương trong thời gian qua. Song, cho đến nay, khi Luật này đã thực thi được một thời gian, ngoài hướng dẫn về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản tại Thông tư liên tịch số 55/200/TTLT-BNV-VPCP thì cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành bất cứ văn bản nào hướng dẫn thực thi Luật này. Vì vậy, vấn đề tưởng chứng đã được giải quyết thì thực tế lại gặp phải những khó khăn, vướng mắc tương tự.
Ngoài ra, từ thực tiễn kiểm tra văn bản cho thấy, việc các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những nội dung chung chung, không rõ ràng, thiếu cụ thể cũng là một nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương. Khi nội dung văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương quy định không cụ thể sẽ dẫn tới tình trạng hiểu sai nội dung quy định. Do đó, các cấp chính quyền địa phương ban hành văn bản không phù hợp với quy định của cấp trên, không đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Ngoài ra, còn có thể kể đến một số nguyên nhân khách quan như: điều kiện tài chính, các điều kiện bảo đảm khác về vật chất cho công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa được đầu tư thích đáng…
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
2.2.2.1. Trong hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Những nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương có thể kể đến là: năng lực cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản (năng lực quản lý và năng lực tham mưu); năng lực cán bộ trực tiếp làm công tác soạn thảo văn bản; vấn đề tổ chức, kinh phí…
Tình hình chung ở các địa phương trong thời gian qua là năng lực cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế. Các cơ quan này không chỉ thiếu trình độ quản lý để tổ chức soạn thảo, ban hành văn bản mà còn thiếu trình độ tham mưu, chưa khẳng định được vai trò của mình trong việc tư vấn, giúp chính quyền các cấp trong việc nghiên cứu, hoạch định các chính sách, xây dựng, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội tại địa phương.
Thêm nữa, trình độ cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản, ban hành chưa cao, mặc dù thời gian qua, ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền đã tạo điều kiện vật chất, đầu tư thời gian và tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp cho các chuyên viên, cán bộ công tác trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, trình độ có nâng lên song không thể đáp ứng được với đòi hỏi của thực tiễn soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
Hơn nữa, mặc dù từ năm 1996 Quốc Hội đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhưng những quy định trong Luật này về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền các cấp chỉ dừng lại ở quy định chung và mang tính nguyên tắc, còn vấn đề cụ thể phải chờ ở một văn bản pháp luật khác.
Ở Tỉnh Thanh Hoá, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2398/2002/QĐ-UB ngày 26/07/2002 quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhưng mới quy định để áp dụng cho UBND tỉnh, còn cấp huyện văn bản này không quy định. Nên UBND cấp huyện và cấp xã gặp nhiều lúng túng trong quản lý và ban hành văn bản,
Việc tuân theo các quy định về thông qua văn bản, trình ký văn bản ở cấp tỉnh, cấp huyện trong nhiều trường hợp chưa nghiêm túc, nhiều dự thảo văn bản khi trình ký không lập hồ sơ theo quy định, không có ý kiến thẩm định, không qua thủ tục trình Văn phòng UBND, nên nhiều văn bản không kiểm tra được từ “đầu vào” dẫn đến có sai sót.
Nhiều nơi chưa xác định được tầm quan trọng trong việc soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, với tư cách đây chính là công cụ, phương tiện của quản lý. Chưa nhận thức rõ tác hại của việc buông lỏng quản lý Nhà nước trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và văn bản quản lý hành chính nói chung. Do vậy, chưa có sự đầu tư thoả đáng trên hai phương diện: chỉ đạo nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cần thiết cho công tác soạn thảo, ban hành văn bản, kiểm tra và rà soát văn bản. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Trình độ cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản ở các cấp chính quyền còn yếu về nghiệp vụ, không thường xuyên được tập huấn về kỹ năng soạn thảo và thẩm định dự thảo văn bản trước khi trình cấp có thẩm quyền ban hành.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp trong quá trình tham mưu soạn thảo thảo văn bản trình cơ quan có thẩm quyền ban hành còn có biểu hiện đưa ra những quy định có lợi cho ngành, địa phương mình, mà không tính đến lợi ích chung của xã hội dẫn đến nhiều nội dung văn bản trái pháp luật, không phù hợp tình hình thực tiễn mà vẫn trình ký.
Ở UBND cấp trong giai đoạn những năm 2003 -2005, do chỉ có cán bộ Tư pháp thuộc biên chế của Văn phòng UBND nên không thể tham gia thẩm định và soạn thảo các văn bản do UBND cùng cấp ban hành, đó chính là nguyên nhân dẫn tới những thiếu sót trong công tác ban hành văn bản hiện nay ở UBND cấp huyện.
Hiện nay, theo quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức, Nghị định 135/2003/NDD-CP ngày 14/11/2003 của Chính Phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đều quy định biện pháp xử lý đối với cơ quan và người có thẩm quyền khi ban hành văn bản trái pháp luật như: phải khắc phục hậu quả, chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự…Nhưng trong thực tế chưa tiến hành xử lý đối với trường hợp nào ban hành văn bản sai. Do đó, chưa có tác dụng răn đe trong khi soạn thảo và ban hành văn bản (Thực tế ở nước ta thời gian qua đã có nhiều cán bộ, công chức và người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm hành chính, dân sự và hình sự do ban hành văn bản trái pháp luật)
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Quyết định số 2398/2002/QĐ -UB ngày 26/07/2002; Nghị định 135/2003/NDD-CP ngày 14/11/2003 của Chính Phủ đều quy định: Hàng năm ngân sách Nhà nước dành một khoản kinh phí hỗ trợ cho việc xây dựng, thẩm định, kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật….Song thực tế chưa được thực hiện hoặc nếu có quá ít, chỉ là hình thức. Do vậy, việc soạn thảo văn bản khi cần khảo sát thực tế, hội thảo lấy ý kiến tham gia đã không thực hiện được, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng ban hành văn bản của chính quyền các cấp
2.2.2.2. Trong hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Từ thực trạng hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá trong thời gian qua có thể thấy rằng có những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động này như sau :
- Về thể chế : Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Cơ quan tư pháp địa phương chưa tích cực và chủ động tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp xây dựng và ban hành Quy chế kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, Nghị định 135/2003/NĐ-CP chưa quy định cụ thể về hình thức văn bản dùng để xử lý văn bản trái pháp luật. Cách thức và kỹ thuật sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm không còn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành hoặc không phù hợp với thực tiễn xã hội chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể. Do đó, cũng dẫn tới chất lượng của văn bản sửa đổi, bổ sung chưa cao.
Riêng đối với vấn đề cộng tác viên, để phục vụ cho công tác kiểm tra chuyên ngành, lĩnh vực đến nay về mặt pháp lý cũng chưa có quy định nào quy định cụ thể về tiêu chuẩn của cộng tác viên, thù lao đối với họ và cơ chế xử lý nếu vi phạm hợp đồng và trách nhiệm pháp lý ra sao? và thực tế qua hơn 5 năm thực hiện công tác kiểm tra văn bản, ở Thanh Hoá vẫn chưa ký một hợp đồng với cộng tác viên nào để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
- Về tổ chức, biên chế
Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương hiện nay được giao cho đầu mối là Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới. Tuy nhiên số lượng biên chế để phục vụ cho công tác này chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác kiểm tra hiện nay. Thanh Hoá là một tỉnh đất rộng, người đông, địa bàn hoạt động 27 huyện thị với 636 xã, phường, thị trấn, nhưng tại Phòng văn bản pháp quy trực thuộc Sở tư pháp chỉ có 6 người, trong đó 01 chuyên viên được cử đi học thường xuyên trong 3 năm, còn lại 01 Trưởng phòng và 04 chuyên viên, đến năm 2008 có 01 chuyên viên đã được bổ nhiệm và nhận nhiệm vụ Phó phòng, nhân sự của Phòng đã được tuyển thêm 01 chuyên viên do 01 chuyên viên đã chuyển công tác. Tất cả các cán bộ của Phòng đều thực hiện cả hai nhiệm vụ rà soát thẩm định và kiểm tra văn bản. Không bố trí cán bộ kiểm tra chuyên trách. Như vậy, có thể thấy được với lực lượng như trên thì về cơ bản đã đáp ưng được khả năng thực hiện nhiệm vụ hiện nay, tuy nhiên kết qủa sẽ không cao do cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều mảng công việc và chưa chuyên sâu làm công tác kiểm tra. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Tại các huyện, trước năm 2005 do Phòng tư pháp bị giải thể nên cán bộ làm công tác tư pháp thuộc biên chế của Văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện vì vậy phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nên chưa chú trọng nhiều tới công tác kiểm tra, chủ yếu kết hợp với đoàn kiểm tra của tỉnh để tiến hành kiểm tra thí điểm một số xã và không thực hiện thường xuyên. Sau năm 2005, do yêu cầu phải tái thành lập lại các Phòng Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện nên công tác kiểm tra được chú trọng hơn, việc gửi văn bản của các xã về UBND huyện để kiểm tra theo thẩm quyền đã được thực hiện thường xuyên và triệt để.
Như vậy, qua thực tế tại tỉnh Thanh Hoá cho thấy nhân lực phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương về tổ chức và biên chế còn nhiều khó khăn.
- Về cơ sở dữ liệu và các điều kiện đảm bảo cung cấp thông tin cho công tác kiểm tra văn bản.
Nhìn chung, nguồn văn bản kiểm tra chưa đảm bảo thuận lợi cho công tác kiểm tra, việc gửi văn bản đăng công báo ở địa phương chưa được thực hiện nghiêm túc và kịp thời và việc đăng công báo cũng chưa đầy đủ tất cả các văn bản đã được ban hành.
Do kinh phí eo hẹp nên phần lớn ở địa phương chưa xây dựng được trang Web, lắp đặt mạng LAN, internet, nhằm tạo điều kiện chia sẻ, trao đổi, tìm kiếm thông tin, thúc đẩy việc kiểm tra văn bản. Thêm vào đó chưa có một quy chuẩn cụ thể từ cơ quan trung ương để thống nhất tất cả các ngành, các địa phương trong cả nước thực hiện đồng bộ nên mỗi nơi thực hiện mỗi khác, chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm tra.
- Về các điều kiện khác để phục vụ cho công tác kiểm tra – trang thiết bị, phương tiện, kinh phí và cơ sở vật chất
Về trang thiết bị, phương tiện và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản của chính quyền địa phương.Theo khảo sát trong năm 2006 của Bộ Tư pháp thì ở nhiều địa phương nhất là các địa phương có khó khăn về kinh tế, cơ quan và công chức làm công tác kiểm tra văn bản vẫn chưa được bố trí phòng làm việc riêng, máy tính, bàn làm việc, tủ đựng hồ sơ tài liệu….Thực trạng này rõ ràng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và chất lượng của hoạt động kiểm tra văn bản.
Về vấn đề bố trí kinh phí cho công tác kiểm tra văn bản của chính quyền địa phương đã được hướng dẫn tại Thông tư số 109/TTLT/BTC-BTP ngày 17/11/2004 giữa Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng chưa quy định chi tiết cụ thể từng khoản chi cho công tác kiểm tra, cũng như số tiền thù lao cho những người làm cộng tác viên. Do vậy cũng làm cho địa phương gặp lúng túng trong việc lập dự toán kinh phí phục vụ cho công tác kiểm tra.
2.3.Kinh nghiệm đúc kết Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
Từ phân tích thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, xác định những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế của công tác này, tác giả rút ra các bài học kinh nghiệm:
Một là, cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động ban hành và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương theo hướng quy định thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan dứt khoát, rõ ràng; ấn định quy trình, thủ tục tiến hành cụ thể bảo đảm cho công tác triển khai thống nhất, thuận lợi và hiệu quả; đưa ra biện pháp xử lý kết quả đánh giá chi tiết.
Hai là, cần có các văn bản hướng dẫn kịp thời về tổ chức bộ máy; chức năng hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương và biên chế chuyên trách làm công tác kiểm tra văn bản, chuẩn hoá các tiêu chí để hình thành đội ngũ nhân sự thực hiện công tác kiểm tra văn bản được đầo tạo bài bản, có kiến thức chuyên sâu về pháp luật đồng thời am tường nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, hiểu biết về quản lý nhà nước, có năng lực phân tích chính sách, nắm vững kỹ thuật soạn thảo văn bản, đánh giá văn bản, tích luỹ kinh nghiệm xây dựng, thực hiện pháp luật trong và ngoài nước.
Ba là, tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, biến công tác này thành hoạt động thường xuyên, có kế hoạch, lộ trình triển khai chủ động; thoát khỏi tâm lý đùn đẩy, né tránh, tính chất vụ mùa, tuỳ nghi trong tiến hành của các cơ quan quản lý nhà nước.
Bốn là, chú trọng việc xây dựng quy trình, phương pháp kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương dựa trên các nguyên tắc, tiêu chí khách quan, khoa học, sát thực tế, đưa ra những kỹ năng, nghiệp vụ tiến hành trong từng công đoạn tiếp thu và vận dụng đúng đắn các kinh nghiệm đánh giá văn bản của các nước để tiếp cận với chuẩn mực chung trong điều kiện hội nhập.
Năm là, đầu tư đúng mức các nguồn lực, phương tiện thực hiện công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp xử lý văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com