Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp ở nước ta luôn là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; cử tri cả nước tham gia bầu cử với tỉ lệ rất cao; những người được cử tri lựa chọn bầu vào các cơ quan đại diện đã phát huy tốt vai trò của mình, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Cùng với Hiến pháp năm 2013, việc Quốc hội khóa XIII thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015(sau đây gọi tắt là Luật bầu cử 2015) đã tạo một cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua, về cơ bản luật bầu cử 2015 đã tháo gỡ được một số vướng mắc trong các luật bầu cử trước đây, đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác bầu cử. Tuy nhiên, khi triển khai Luật trên thực tế một số quy định về lập danh sách cử tri, quyền ứng cử, vận động bầu cử, hiệp thương lựa chọn tiếp xúc cử tri,…vẫn còn nhiều ràng buộc, hạn chế quyền của công dân tham gia bầu cử và ứng cử.

Công việc liên quan đến quá trình bầu cử được các cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương nghiên cứu, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đúng pháp luật và đã thành nề nếp. Là một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, công tác tổ chức bầu cử tại huyện Hoài Đức cho thấy: việc thi hành pháp luật về bầu cử được các cơ quan, tổ chức đơn vị và nhân dân thực hiện nghiêm túc, từ việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, tổ chức các hội nghị quán triệt, phổ biến, hội nghị hiệp thương, xây dựng kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền, đảm bảo an ninh trật tự, vận động bầu cử, giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử, lập danh sách cử tri, tổ chức ngày bầu cử, tổng kết công tác bầu cử,…

Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực đã được ghi nhận của đảng bộ và các cấp chính quyền huyện Hoài Đức, công tác tổ chức bầu cử của huyện trong một số nhiệm kỳ vừa qua, đôi khi còn lúng túng, công tác chỉ đạo có lúc chưa kịp thời…Về quy trình, thủ tục và phương pháp tổ chức bầu cử đã có những thay đổi tích cực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao quyền làm chủ của người dân, song cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập: công tác tổ chức hiệp thương một số xã còn mang tính hình thức, vẫn còn tình trạng người đủ tiêu chuẩn thì chưa chắc nằm trong cơ cấu và người nằm trong cơ cấu chưa chắc đã đủ tiêu chuẩn, sau hiệp thương nhiều người trong danh sách ứng cử chính thức đại biểu HĐND xã chưa được cử tri tín nhiệm, các hội nghị tiếp xúc cử tri còn chưa thực sự hiệu quả. Bởi vậy, sau tổng kết bầu cử, Hoài Đức là huyện có tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu rất cao, trên 99%, nhưng việc phải bầu cử thêm vẫn xảy ra ở một số xã. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Qua nghiên cứu thực tiễn công tác tổ chức bầu cử tại huyện Hoài Đức trong một số nhiệm kỳ gần đây, tác giả chỉ ra những thuận lợi và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức bầu cử trước và sau khi có Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, trên cơ sở đó có đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử của huyện Hoài Đức trong nhiệm kỳ tiếp theo.

Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.

Mặc dù đã rất nỗ lực, song do những giới hạn về thời gian và nguồn tài liệu, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong muốn nhận được sự góp ý của các nhà khoa học để luận văn được hoàn thiện hơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật bầu cử như:

Vũ Văn Nhiêm “Chế độ bầu cử ở nước ta – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận án tiến sĩ ngành lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, năm bảo vệ 2009. Luận án đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chế độ bầu cử Việt Nam, phân tích rất chi tiết sự phát triển của chế độ bầu cử ở nước ta từ cuộc tổng tuyển cử bầu quốc dân đại hội năm 1946 đến nay, làm rõ những thành tựu và những vấn đề còn tồn tại, luận án đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ bầu cử trong điều kiện phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta.

Trần Diệu Hương “ Hoàn thiện pháp luật về bầu cử – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội,bảo vệ năm 2013. Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bầu cử, cơ chế đại diện, phương thức thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; phương thức tiến hành bầu cử.Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn thực tiễn hoạt động bầu cử ở nước ta trong thời gian từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội từ khóa XI,XII, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khóa 2004-2009, những vấn đề pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011- 2016, luận văn đã đưa ra những nhận xét, khuyến nghị về việc sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh cơ sở lý luận và quy trình bầu cử nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu ở nước ta.

Nguyễn Thế Quyết “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2014. Luận văn đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và đánh giá thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở nước ta. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Các bài viết về bầu cử rất phong phú và đa dạng:

PGS.TS. Vũ Văn Phúc “Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở nước ta hiện nay” đăng trên Tạp chí cộng sản (điện tử) ngày 13/5/2016, bài viết đã phân tích rất cụ thể các nguyên tắc cơ bản của bầu cử nước ta quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.

PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu “Quá trình hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí cộng sản (điện tử) ngày 15/5/2016, bài viết đã khái quát về quá trình phát triển pháp luật về bầu cử của Việt Nam,trong đó phân tích những điểm mới trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

ThS. Bùi Hải Thiêm “ So sánh một số hệ thống bầu cử trên Thế giới”, đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 8 (tháng 4/2011), bài viết đã phân tích các hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới, có sự sánh những điểm lợi và các khiếm khuyết, tác giả đưa ra một số kinh nghiệm đã được các chuyên gia quốc tế đúc rút từ việc thiết kế các hệ thống bầu cử trên thế giới để áp dụng cho hệ thống bầu cử tại Việt Nam.

Các tác giả thông qua các công trình, bài viết nói trên đã đề cập trực tiếp về chế độ bầu cử hay một khía cạnh của chế độ bầu cử, về cơ quan quản lý bầu cử hay các gợi ý thiết kế hệ thống bầu cử cho Việt Nam…

Tuy nhiên, cho đến nay, tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, cụ thể là huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội là đề tài mà tác giả chưa thấy có công trình nghiên cứu. Vì vậy, đề tài luận văn này không trùng lặp với công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về bầu cử ở huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong một số nhiệm kỳ gần đây (cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021), luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề xuất kiến nghị, giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn huyện Hoài Đức nói riêng và cấp huyện, cấp xã nói chung cho các nhiệm kỳ tiếp theo.

Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:

Một là, luận văn làm rõ cơ sở lý luận của nước ta về công tác tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở cấp huyện và cấp xã.

Hai là, luận văn nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn việc tổ chức bầu cử tại huyện Hoài Đức – thành phố Hà Nội trong hai cuộc bầu cử gần đây nhất, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân,trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp cho các cuộc bầu cử tiếp theo trên địa bàn huyện.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử từ thực tiễn huyện Hoài Đức -thành phố Hà Nội liên quan đến trách nhiệm của các chủ thể như các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp huyện, chính quyền cấp xã, ủy ban bầu cử (UBBC) cấp huyện, UBBC cấp xã, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã, các tổ bầu cử, mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã,…

Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: tác giả nghiên cứu trên phạm vi địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

Về thời gian: tác giả nghiên cứu đặt trọng tâm vào cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 (cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 22/5/2016, áp dụng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015), có sự so sánh với cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016 (cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 22/5/2011, áp dụng luật bầu cử cũ: Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 sửa đổi 2001, Luật Bầu cử đại biểu HĐND 2003, Luật sửa đổi Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2010)

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; pháp luật của nhà nước; đường lối, chính sách của đảng về đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được tiến hành bằng cách sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như:

  • Phân tích các tài liệu sẵn có liên quan đến đề tài, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước.
  • Thu thập, phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu, kết quả trong phạm vi thời gian nghiên cứu.
  • Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn xem xét từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận, các quy định của pháp luật bầu cử với thực tiễn tổ chức thực hiện.
  • Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh được sử dụng trong luận văn nhằm đối chiếu các vấn đề tương ứng trong tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử giữa nhiệm kỳ sau với nhiệm kỳ trước, giữa Việt Nam với tổ chức bầu cử ở địa phương của một số nước trên thế giới để nhìn nhận những yếu tố hợp lý, nhất là dưới góc độ tổ chức, quản lý.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

  • Về mặt lý luận: luận văn hệ thống hóa và làm phong phú thêm lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại cấp huyện và cấp xã.
  • Về mặt thực tiễn: luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và ứng dụng trong công tác tổ chức bầu cử tại huyện Hoài Đức – thành phố Hà Nội trong các cuộc bầu cử tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 03 chương:

  • Chương 1. Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta
  • Chương 2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức – thành phố Hà Nội.
  • Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức – thành phố Hà Nội.

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ Ở NƯỚC TA

1.1.  Khái niệm “ bầu cử” và “ pháp luật bầu cử”

1.1.1. Khái niệm “bầu cử” Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Bầu cử là một chế định trọng tâm của các chính thể dân chủ đại diện. Chủ quyền nhân dân (quyền lực nhà nước) là bản chất và là đặc trưng các nhà nước và xã hội dân chủ. Tuy nhiên, việc thực thi chủ quyền nhân dân thì vấn đề lại không đơn giản trong các nhà nước và xã hội. Có hai hình thức cơ bản để thực hiện quyền lực nhân dân là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là việc người dân trực tiếp quyết định các vấn đề của họ, mà không cần qua các đại diện hoặc cơ quan trung gian. Về phương diện lý luận, dân chủ trực tiếp mới thực sự là dân chủ, vì nhân dân trực tiếp quyết định nhưng về phương diện tổ chức thực hiện, dân chủ trực tiếp gặp một khó khăn rất lớn, vì thường xuyên triệu tập hội nghị toàn dân là vấn đề không hề đơn giản, đặc biệt đối với những quốc gia đông dân và rộng lớn. Bên cạnh đó, rất nhiều các học giả, chính khách cho rằng chính trị là những công việc phức tạp, không phải và không nên dành cho tất cả dân chúng. Vào thế kỷ XVIII, trong đời sống chính trị thế giới đã xuất hiện lý thuyết đại diện gắn liền với tên tuổi của Locke, Rousseau và Montesquieu. Theo lý thuyết đại diện, quyền lực về nguyên tắc thuộc về nhân dân, nhưng do những nguyên nhân khác nhau, nhân dân không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền lực của mình, mà phải ủy thác cho những người đại diện để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Rousseau, mặc dù cho rằng dân chủ trực tiếp mới là dân chủ thực sự, nhưng cũng phải thừa nhận rằng đó là một hình thức lý tưởng; nhân dân phải ủy quyền cho người đại diện, mà không thể trực tiếp thực hiện quyền lực của mình.

Trước hết, bầu cử là sự lựa chọn của nhân dân. Bất cứ ở xã hội nào, quốc gia nào khi nói đến bầu cử là nói đến việc lựa chọn. Tuy nhiên, đối tượng được lựa chọn có thể không giống nhau, điều này do nhiều yếu tố quyết định và tác động. Phổ biến hiện nay trong chế độ bầu cử ở các nước là lựa chọn người người đại biểu trong cơ quan lập pháp. Cũng có những nước không bầu ứng cử viên độc lập mà họ phải thuộc một đảng phái chính trị hoặc cử tri bầu cho các đảng phái chính trị. Các nước tư sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy bầu cử không những là phương thức thành lập cơ quan lập pháp mà còn có thể được áp dụng để bầu các chức danh trong các nhánh quyền lực khác như Tổng thống, các thị trưởng và có thể các chức danh trong các cơ quan tư pháp. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bầu cử là phương thức thành lập ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Khác với nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa không tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực mà quyền lực nhà nước là thống nhất, do đó, đối tượng được bầu cử ở các nước xã hội chủ nghĩa thường chỉ là các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước bao gồm quốc hội (ở trung ương) và hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương). Ở nước ta hiện nay, bầu cử là phương thức nhân dân trực tiếp bầu ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Thứ hai, bầu cử là việc trao quyền (ủy thác quyền lực) của nhân dân cho người được lựa chọn. Điều đó có nghĩa là, thông qua hành vi bỏ phiếu, người dân lựa chọn, đồng thời trao quyền lực của mình cho người mà mình chọn. Ai được cử tri lựa chọn thì người đó nhận được quyền lực từ nhân dân, người đó sẽ có quyền lực của người đại biểu nhân dân dân, còn nhận được bao nhiêu quyền (phạm vi thẩm quyền) – vấn đề này do hiến pháp quy định.

Tóm lại, bầu cử trước hết là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người, nó phát triển cùng với quá trình phát triển của con người và bầu cử ngày càng mang tính chính trị-pháp lý sâu sắc. Trong quốc gia dân chủ, bầu cử là một hoạt động khó có thể thiếu trong cơ chế quyền lực nhân dân.[3,tr15]

Từ góc độ khái quát, có thể hiểu: “bầu cử là một quy trình chính trị – pháp lý trong đó người dân tự do bỏ phiếu lựa chọn ra những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội”.[4,Tr341]

Bầu cử hiện là cách thức được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng để thiết lập cơ quan lập pháp (quốc hội, nghị viện) và cơ quan đại diện của chính quyền địa phương (nghị viện/hội đồng địa phương). Ở một số nước, bầu cử còn được sử dụng để bầu thẩm phán của các tòa án hoặc các quan chức đứng đầu cơ quan hành pháp, ví dụ như bầu cử tổng thống Hoa Kỳ hoặc bầu thị trưởng ở một số quốc gia…

1.1.2. Khái niệm “pháp luật bầu cử”

1.1.2.1. Khái niệm “pháp luật”

Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có không ít những cách quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản nhất và vận dụng vào điều kiện xã hội đương đại, có thể nêu định nghĩa pháp luật như sau:

“Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội”.

1.1.2.2. Khái niệm “chế độ bầu cử” Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Chế độ bầu cử là một trong những chế định quan trọng nhất, được nghiên cứu nhiều nhất của Luật Hiến pháp, bởi nó quyết định trực tiếp đến vấn đề tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước – nội dung bản chất, cốt lõi trong Hiến pháp của mọi quốc gia. Ở đây, bầu cử không chỉ là cách thức thành lập, kiểm soát, giám sát bộ máy nhà nước, mà còn là một trong những biện pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Cũng có nhiều định nghĩa về chế độ bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát, có thể hiểu: “chế độ bầu cử là tổng thể các nguyên tắc, quy định pháp luật nhằm xử lý các mối quan hệ hình thành trong toàn bộ quá trình tiến hành cuộc bầu cử, từ khi chuẩn bị cho đến khi công bố kết quả bầu cử”[4,Tr341]

Từ khái niệm “pháp luật”, khái niệm “bầu cử”và khái niệm“chế độ bầu cử”, có thể đưa ra khái niệm về “pháp luật bầu cử” như sau:

“Pháp luật bầu cử là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ hình thành trong toàn bộ quá trình tiến hành cuộc bầu cử, từ khi chuẩn bị cho đến khi công bố kết quả bầu cử”

Pháp luật về bầu cử của các quốc gia là sự thể chế hóa các quy định về chế độ bầu cử của mỗi nước. Pháp luật bầu cử bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.

Pháp luật bầu cử của mỗi nước khác nhau, phản ánh những đặc thù về truyền thống, về chế độ xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia. Việc ban hành các chế định pháp luật nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử và bảo đảm thực hiện quyền bầu cử của công dân là một trong những chính sách hàng đầu của bất kỳ nhà nước dân chủ nào.

1.2. Khái niệm, chủ thể, đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

1.2.1. Khái niệm “tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử”

Để quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật có vị trí thượng tôn, việc tổ chức thực hiện pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Một mặt, nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả, hiệu lực nhất, mặt khác bản thân nhà nước cũng phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Hai yếu tố này có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Việc nhà nước tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật là cơ sở để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả, hiệu lực. Ngược lại, việc tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả đặt ra yêu cầu tất yếu là nhà nước phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của pháp luật.[25,Tr1]

Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật là các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời sống pháp luật; đồng thời thể hiện sống động sự phân công quyền lực nhà nước theo các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của nhà nước pháp quyền. Các yếu tố này cùng tồn tại, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong cuộc sống chủ yếu thuộc về trách nhiệm và là chức năng của cơ quan hành pháp. Đó chính là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực (con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất thực hiện từng văn bản pháp luật) bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt, vận dụng để mọi hành vi ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan.[25,Tr1]

Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử mang tính chất đặc thù, được thực hiện theo nhiệm kỳ, bởi vậy tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử không mang tính thường xuyên liên tục.

Hướng dẫn là khâu đầu tiên của quá trình đưa các quy định pháp luật vào cuộc sống. Ở nước ta, hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Bộ Nội vụ ban hành văn bản hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ. Đối với chính quyền địa phương, công tác hướng dẫn chủ yếu triển khai các văn bản quy phạm pháp luật qua các cuộc tập huấn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử cho các tổ chức phụ trách bầu cử.

Chuẩn bị các nguồn lực từ con người, tổ chức bộ máy cho đến cơ sở vật chất, thực hiện và tổng kết, đánh giá được thực hiện từ cấp trung ương cho đến cấp cơ sở, trong đó, quá trình thực hiện có sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị gồm các cơ quan Đảng, cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội,…

Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể hiểu: Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

“Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, thực hiện và tổng kết, đánh giá của các chủ thể tổ chức bầu cử (được quy định trong luật bầu cử và các luật khác có liên quan) làm cho pháp luật về bầu cử được triển khai trong thực tiễn”

1.2.2. Các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta

Cuộc bầu cử ở nước ta là một sự kiện chính trị – pháp lý có ý nghĩa rất quan trọng để thành lập các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong suốt tiến trình bầu cử đòi hỏi sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Đảng cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo, các cơ quan nhà nước ở trung ương, các cấp chính quyền ở địa phương triển khai thực hiện cùng sự tham gia phối hợp của các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân. Vai trò của mỗi chủ thể đều được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về bầu cử và một số luật chuyên ngành khác có liên quan. Các chủ thể chính trong tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta có thể liệt kê như sau:

Một là, các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, một số bộ có trách nhiệm tham mưu chính về tổ chức bầu cử như Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, một số bộ ngành có trách nhiệm phối hợp thực hiện như Bộ Thông tin – Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ,…

Hai là, các cơ quan nhà nước ở địa phương: Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, các Ban của Hội đồng nhân dân, các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân, các công chức chuyên môn giúp việc…

Ba là, các tổ chức phụ trách bầu cử theo quy định của luật bầu cử: Hội đồng bầu cử quốc gia; UBBC ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; UBBC huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; UBBC ở xã, phường, thị trấn; ban bầu cử đại biểu Quốc hội, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã; tổ bầu cử.

Bốn là, các tổ chức chính trị xã hội có trách nhiệm phối hợp tổ chức bầu cử theo quy định của luật: ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam, UBMTTQ cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các tổ chức thành viên của mặt trận gồm: hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn và một số cơ quan, tổ chức hữu quan.

1.2.3. Đặc điểm về tổ chức pháp luật bầu cử ở nước ta. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Mục tiêu của Đảng và nhà nước ta là xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, với định hướng đó, công tác tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta có những đặc điểm chính như sau:

Thứ nhất, tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên tắc Đảng lãnh đạo là nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong tất cả các bản hiến pháp của nước ta từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đến nay, bởi vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, khác với một số nước đa đảng trên thế giới, mục đích lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử là để thực hiện quyền của công dân Việt Nam, để bầu ra cơ quan đại diện cho nhân dân từ trung ương đến địa phương, chứ không phải để phân chia quyền lực giữa các đảng phái như các nước khác.

Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta là hoạt động nhằm đảm bảo hai quyền cơ bản của công dân đã được hiến định là quyền bầu cử và quyền ứng cử.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta huy động toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của các cơ quan nhà nước còn có sự tham gia của các đoàn thể chính trị xã hội và các tổ chức có liên quan trong toàn bộ quá trình đưa pháp luật bầu cử vào cuộc sống từ khi tổ chức quán triệt, học tập đến khi triển khai luật trên thực tế.

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta

Mức độ hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động lập pháp (ban hành luật) và giám sát thực hiện luật của Quốc hội, của hoạt động tư pháp trong bảo vệ pháp luật và sử dụng cưỡng chế nhà nước. Ngoài ra, còn bị ảnh hưởng bởi các chủ thể khác như tổ chức kinh tế, xã hội, công dân khi các chủ thể này tổ chức thực hiện phản biện và giám sát xã hội, thực hiện quyền kiến nghị, phát hiện, tố cáo, khiếu nại,… cũng như mức độ tuân thủ và chấp hành pháp luật khi thực hiện các quyền và ý nghĩa vụ của chủ thể trong đời sống. Một số yếu tố khác như trình độ dân trí, ý thức và truyền thống pháp luật, xu thế vận động xã hội, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập… cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến quá trình tổ chức thực hiện pháp luật trong cuộc sống. [25,Tr1]. Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố chính sau: Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Yếu tố chính trị, tính ổn định, vững chắc của hệ thống chính trị cho phép lãnh đạo, định hướng có hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử. Ở nước ta, Đảng là nhân tố quyết định trong việc định hướng các thiết chế của quyền lực nhà nước cũng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội tham gia tác động, bảo đảm sự vận hành của chế độ bầu cử phù hợp với lợi ích đông đảo của nhân dân và của toàn thể dân tộc.

Yếu tố pháp lý, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, ghi nhận và trình tự hóa việc tổ chức bầu cử. Yếu tố pháp lý là yếu tố trực tiếp tác động đến hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử,sự hoàn thiện hay chưa hoàn thiện của pháp luật về bầu cử ảnh hưởng đến tất cả các khâu trong quá trình tổ chức đưa pháp luật bầu cử vào thực tiễn.

Yếu tố kinh tế – kỹ thuật, bao gồm các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất (hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, không gian,…).Mức độ đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất quyết định rất lớn đến hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử. Ở nước ta hiện nay, điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ còn khá lạc hậu so với các nước trong khu vực, thực trạng này làm hạn chế rất lớn đến hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử nước ta.

Yếu tố trình độ văn hóa – xã hội, bao gồm trình độ ý thức pháp luật chung của công dân trong xã hội, xu hướng dư luận trong xã hội nói chung ở mỗi thời kỳ và các đặc thù về văn hóa – xã hội của đất nước, trình độ phát triển giữa các vùng miền, địa phương, cơ cấu thành phần dân tộc, tôn giáo,…cần được tính đến trong xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử.

1.3. Các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn cấp huyện Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

1.3.1. Khái quát các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta

Các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử như đã nêu ở phần trên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được quy định rõ trong luật bầu cử và các văn bản pháp luật ngành, lĩnh vực có liên quan, trong đó công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta bao gồm những nội dung:

  1. Quyết định và công bố ngày bầu cử;
  2. Dự kiến cơ cấu thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND;
  3. Ấn định đơn vị bầu cử và xác định khu vực bỏ phiếu;
  4. Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử;
  5. Lập và niêm yết danh sách cử tri;
  6. Tổ chức đảm bảo quyền ứng cử;
  7. Tổ chức hiệp thương và lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp;
  8. Hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử;
  9. Tổ chức vận động bầu cử;
  10. Tổ chức “ngày bầu cử”;
  11. Giải quyết các tình huống phát sinh trong bầu cử (gồm: giải quyết khiếu nại, tố cáo; Tổ chức bầu cử thêm; Tổ chức bầu cử lại; Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử).
  12. Xác định người trúng cử và công bố kết quả bầu cử;
  13. Tổng kết cuộc bầu cử.

Các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử nêu trên gồm các nội dung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở trung ương và cấp tỉnh như: quyết định và công bố ngày bầu cử (Quốc hội); dự kiến cơ cấu thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội (Ủy ban thường vụ Quốc hội); dự kiến cơ cấu thành phần và phân bổ đại biểu HĐND tỉnh(thường trực HĐND tỉnh); thành lập Hội đồng bầu cử Quốc gia(Quốc hội); thành lập UBBC cấp tỉnh, ban bầu cử cấp tỉnh (UBND thống nhất với thường trực HĐND, UBMTTQ Việt Nam cùng cấp); tổ chức hiệp thương ở trung ương, ở cấp tỉnh; công bố kết quả bầu cử trong cả nước,…và các nội dung thuộc thẩm quyền các cơ quan, các cấp chính quyền địa phương.

Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, tác giả trọng tâm đề cập đến các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở cấp huyện và cấp xã sau đây: Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

1.3.2. Các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở cấp huyện, cấp

1.3.2.1. Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, chia đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện và đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp xã; xác định khu vực bỏ phiếu ở cấp xã

Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp huyện và cấp xã

Luật bầu cử ở nước ta từ trước tới nay không quy định thành lập cơ quan bầu cử chuyên trách, thay vào đó là quy định thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử có tính chất lâm thời, các tổ chức phụ trách bầu cử được lập ra chỉ để phục vụ cho mỗi cuộc bầu cử và sẽ giải thể sau khi kết thúc mỗi cuộc bầu cử. Theo Điều 21, Luật bầu cử 2015, các tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp huyện, cấp xã bao gồm:

  1. Ủy ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn;
  2. Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã
  3. Tổ bầu cử.

Việc thành lập các tổ chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã được quy định tại Điều 22, Điều 24, Điều 25 Luật bầu cử 2015 như sau:

“Chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử, ủy ban nhân dân cấp huyện, ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành, lập ủy ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành, phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành, phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là ủy ban bầu cử ở huyện), ủy ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban bầu cử ở xã) để tổ chức bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã tương ứng.

Ủy ban bầu cử ở huyện có từ mười một đến mười lăm thành viên; ủy ban bầu cử ở xã có từ chín đến mười một thành viên. Thành viên ủy ban bầu cử ở huyện, ở xã gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và các ủy viên là đại diện Thường trực GHội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức hữu quan.

Danh sách ủy ban bầu cử ở huyện, ủy ban bầu cử ở xã phải được gửi đến thường trực hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp.”

“Chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã sau khi thống nhất với thường trực Hội đồng nhân dân và ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình một ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội. Thành phần ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có thêm đại diện cử tri ở địa phương. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ mười một đến mười ba thành viên. Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có từ chín đến mười một thành viên. Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có từ bảy đến chín thành viên. Ban bầu cử gồm Trưởng ban, các Phó trưởng ban và các Ủy viên.”

“Chậm nhất là 50 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với thường trực Hội đồng nhân dân và ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu ội đồng nhân dân các cấp. Tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm tổ trưởng, thư ký và các ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương.

Đơn vị vũ trang nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng được thành lập một tổ bầu cử có từ năm đến chín thành viên gồm tổ trưởng, thư ký và các ủy viên là đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó.

Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ phiếu thì ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với thường trực hội đồng nhân dân, ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm tổ trưởng, thư ký và các ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương, đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó.”

Chia đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện và đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp xã

Đơn vị bầu cử là khái niệm chỉ một phạm vi địa lý hành chính với số dân cư nhất định, được bầu số lượng đại biểu nhất định[4,Tr388]. Ở nước ta, luật bầu cử từ trước tới nay chỉ quy định số lượng đại biểu được bầu trong mỗi đơn vị bầu cử, dựa trên đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định danh sách đơn vị bầu cử trong mỗi kỳ bầu cử. Tại khoản 3, khoản 4 Điều 10 Luật bầu cử 2015 quy định:

“Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện. Xã, phường, thị trấn được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Số đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử do ủy ban bầu cử ở cấp đó ấn định theo đề nghị của ủy ban nhân dân cùng cấp và được công bố chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử.

Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội được bầu không quá ba đại biểu. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân được bầu không quá năm đại biểu.”

Xác định khu vực bỏ phiếu ở cấp xã

Khu vực bỏ phiếu là khái niệm chỉ phạm vi địa lý hành chính có số dân nhất định, nơi cử tri trực tiếp tiến hành bỏ phiếu bầu đại biểu trong các cuộc bầu cử [4,Tr389]. Tại Điều 11 Luật bầu cử 2015, việc xác định khu vực bỏ phiếu ở cấp xã được quy định như sau:

“Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân chia thành các khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.

Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có đủ ba trăm cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu.

Các trường hợp có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng:

  1. Đơn vị vũ trang nhân dân;
  2. Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ năm mươi cử tri trở lên;
  3. Cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, trại tạm giam.

Việc xác định khu vực bỏ phiếu do ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và được ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì việc xác định khu vực bỏ phiếu do ủy ban nhân dân huyện quyết định”

1.3.2.2. Công tác lập và niêm yết danh sách cử tri Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Lập danh sách cử tri là hoạt động quan trọng của mỗi cuộc bầu cử để xác định đối tượng tham gia bầu cử. Việc lập danh sách cử tri có ý nghĩa xác nhận về mặt pháp lý quyền bầu cử của công dân.

Cơ quan thực hiện việc lập danh sách cử tri có trách nhiệm xem xét, xác minh các điều kiện cơ bản về độ tuổi, quốc tịch, nơi cư trú, về việc không vi phạm pháp luật hình sự, không mắc bệnh tâm thần của cử tri trên địa bàn mình quản lý để dưa vào danh sách cử tri.

Danh sách cử tri là cơ sở pháp lý để cơ quan lập danh sách cử tri phát thẻ cử tri cho công dân trên địa bàn thực hiện quyền bầu cử của mình. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm bảo đảm quyền bầu cử của công dân mà còn để ngăn chặn hiện tượng gian lận trong bầu cử. Vì vậy, vấn đề này được pháp luật quy định rất chặt chẽ.

Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp lập danh sách cử tri đó là tự nguyện và bắt buộc. Nếu áp dụng phương pháp lập danh sách cử tri là bắt buộc, danh sách cử tri sẽ do cơ quan nhà nước tiến hành lập (là tổ chức phụ trách bầu cử ở khu vực bỏ phiếu hoặc là cơ quan hành chính địa phương). Nhật Bản, Anh, Đức, Canađa, Liên Bang Nga, Thụy Điển là những nước đang áp dụng phương pháp này. Danh sách cử tri này có thể được tiến hành lập trước mỗi lần bầu cử, hoặc có thể dựa theo danh sách cử tri cố định của các cơ quan hành chính địa phương. Ở Anh và Canađa, trước mỗi cuộc bầu cử, các cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành lập danh sách cử tri và danh sách này không còn giá trị khi kết thúc bầu cử. Phương pháp lập danh sách cử tri tự nguyện được áp dụng ở một số nước, trong đó có Hoa Kỳ và Pháp. Theo đó, cử tri mang theo giấy tờ tùy thân đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký tham gia bỏ phiếu. Pháp luật bầu cử của Pháp không bắt buộc công dân phải tham gia bầu cử Hạ nghị viện mà chỉ bắt buộc đối với bầu cử Thượng nghị viện. Công dân đăng ký tham gia bỏ phiếu tại đơn vị hành chính cấp xã. Danh sách cử tri do UBBC cấp xã thực hiện. Nếu một cử tri bị loại ra khỏi danh sách cử tri thì phải có thông báo của UBBC. Trong trường hợp này, cử tri có quyền kháng cáo quyết định đó lên Tòa án [1,Tr3].

Ở nước ta áp dụng phương pháp lập danh sách cử tri bắt buộc, lâm thời. Tuy lập danh sách theo phương pháp bắt buộc nhưng việc bỏ phiếu (đi bầu) ở nước ta lại mang tính tự nguyện. Công dân được động viên đi bầu cử nhưng nếu không đi thì cũng không phải chịu bất cứ một chế tài nào. Khẩu hiệu “bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân” chỉ mang tính vận động, tuyên truyền cho vế thứ hai [4]. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Về thẩm quyền lập danh sách cử tri do UBND cấp xã lập theo từng khu vực bỏ phiếu. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì UBND huyện có trách nhiệm lập danh sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu.

Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân do chỉ huy đơn vị lập theo đơn vị vũ trang nhân dân để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi đơn vị đóng quân. Quân nhân có hộ khẩu thường trú ở địa phương gần khu vực đóng quân có thể được chỉ huy đơn vị cấp giấy chứng nhận để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi thường trú.

Về niêm yết danh sách cử tri, chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở UBND cấp xã và tại những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra.

Đối với trường hợp cử tri đi bỏ phiếu ở nơi khác, UBND cấp xã có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận cho cử tri đi bỏ phiếu ở nơi khác để cử tri được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh ở nơi mà cử tri đó có thể tham gia bỏ phiếu và ghi ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình cụm từ “bỏ phiếu ở nơi khác”

1.3.2.3. Công tác bảo đảm quyền ứng cử và tổ chức hiệp thương lập danh sách chính thức người ứng cử đại biểu HĐND huyện, đại biểu HĐND xã

Công tác bảo đảm quyền ứng cử

Ứng cử và giới thiệu ứng cử viên (hay đưa người ra ứng cử) là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, vì cử tri chỉ được lựa chọn bầu trong số những ứng cử viên là đại diện cho mình. Kết thúc giai đoạn này đã cho phép dự đoán kết quả bầu cử đến một mức độ nhất định.

Hiện nay trên thế giới, bên cạnh việc tự ứng cử, các phương pháp phổ biến để đưa người ra ứng cử bao gồm: ứng cử viên được đề cử bởi nhóm cử tri, ứng cử viên được đề cử bởi đảng chính trị hay tổ chức chính trị xã hội. Thực tế cho thấy khả năng thắng cử của các ứng cử viên tự do (tự ứng cử) là không nhiều. Chỉ có các nhân sĩ nổi tiếng mới hy vọng thắng cử. Các ứng cử viên tự do muốn ghi tên vào danh sách ứng cử viên chính thức đòi hỏi phải được một số lượng cử tri nhất định ủng hộ và đề cử, đồng thời phải nộp một số tiền đảm bào. Đa số các nước đều quy định số tiền phải nộp trước cho nhà nước, ở Anh là 500 bảng; ở Nhật Bản là 2 triệu yên nếu ứng cử vào Hạ nghị viện. Nếu công dân ứng cử vào Thượng nghị viện còn phải nộp số tiền lớn hơn, ví dụ ở Nhật Bản là 4 triệu yên. Khoản tiền này chỉ được hoàn lại cho ứng cử viên nếu người này dành được một lượng phần trăm nhất định số phiếu ủng hộ tùy theo quy định của từng nước, ở Anh là 5%, ở Pháp là 5%, ở Italia là 1,5% tổng số phiếu của cử tri. Ngược lại nếu ứng cử viên không dành được số phiếu đạt tỷ lệ quy định trên thì số tiền đặt trước phải sung vào ngân sách nhà nước. Quy định này nhằm hạn chế sự tùy tiện trong việc tự ứng cử, loại trừ việc ứng cử của những người mà cử tri không hề biết tới [1]. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Ở nước ta, xét theo nghĩa rộng, đang áp dụng tất cả các phương pháp này, công dân có thể tự ứng cử hoặc được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước trung ương hoặc địa phương giới thiệu để được xem xét đưa vào danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp.

Theo Điều 35 Luật bầu cử 2015, công dân ứng cử (kể cả người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) đại biểu HĐND huyện, đại biểu HĐND xã phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử, hồ sơ ứng cử gồm: đơn ứng cử; sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền; tiểu sử tóm tắt; 03 ảnh chân dung mầu cỡ 4cm x 6cm; bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng;

Các cơ quan phụ trách bầu cử cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm bố trí đơn vị và cán bộ tiếp nhận hồ sơ ứng cử. Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người tự ứng cử và hồ sơ của người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử, nếu thấy hợp lệ theo quy định thì UBBC chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của những người ứng cử đến ban thường trực UBMTTQ cùng cấp để đưa vào danh sách hiệp thương.

Liên quan đến tính hợp lệ, trong khi xem xét các hồ sơ người ứng cử, nếu đơn vị, cán bộ tiếp nhận hồ sơ người ứng cử phát hiện người ứng cử đại biểu HĐND huyện, ứng cử đại biểu HĐND xã đã là thành viên của ban bầu cử hoặc tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà người đó ứng cử thì phải đề nghị người ứng cử đó rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó chậm nhất vào ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử. Trường hợp người ứng cử không có đơn xin rút thì cơ quan đã quyết định thành lập ban bầu cử, tổ bầu cử đó ra quyết định xóa tên người ứng cử khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử và bổ sung thành viên khác thay thế. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Tại Điều 37 Luật Bầu cử 2015 cũng quy định rõ những trường hợp không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND: Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; người đang bị khởi tố bị can; người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của tòa án; Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng chưa được xóa án tích; người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Tổ chức hiệp thương lập danh sách chính thức người ứng cử đại biểu HĐND huyện, đại biểu HĐND xã

Đối với cấp huyện và cấp xã, hiệp thương là việc thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng, danh sách người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện, đại biểu HĐND cấp xã thông qua các hội nghị do MTTQ Việt Nam cấp huyện, cấp xã tổ chức với sự tham gia của đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan nhà nước hữu quan. Xen giữa các hội nghị hiệp thương là việc giới thiệu người ứng cử.

Kế thừa từ các luật bầu cử trước đây, Luật bầu cử 2015 quy định về quy trình hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã được tiến hành theo năm bước như sau:

Bước một: tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người ứng cử.

Hội nghị ở cấp huyện nhằm thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn. Hội nghị ở cấp xã nhằm thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, thôn, tổ dân phố trên địa bàn. Các hội nghị do Ban thường trực UBMTTQ Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại diện UBBC, thường trực HĐND, UBND cùng cấp.

Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, thường trực HĐND cấp huyện điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp mình. Thường trực HĐND cấp xã điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp mình.

Bước hai: giới thiệu những người ứng cử Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã do các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị và cả các thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã) tiến hành. Trong trường hợp do các thôn, tổ dân phố tiến hành thì ban công tác Mặt trận ở thôn dự kiến người của thôn, tổ dân phố để giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp xã và phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức hội nghị cử tri để thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã.

Bước ba: tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai để thỏa thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú.

Xét về thủ tục, hội nghị hiệp thương lần thứ hai được tổ chức giống như hội nghị hiệp thương lần thứ nhất. Tuy nhiên, hội nghị hiệp thương lần thứ hai nhằm vào hai nội dung: một là, báo cáo tình hình giới thiệu những người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi công tác đối với người được giới thiệu ứng cử để hội nghị thỏa thuận về việc lập danh sách sơ bộ những người ứng cử; hai là, bàn kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với người trong danh sách sơ bộ những người ứng cử.

Đối với cấp huyện, cấp xã, hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở mỗi cấp do ban thường trực UBMTTQ cùng cấp tổ chức chậm nhất là 65 ngày trước ngày bầu cử. Ngoài ra, hội nghị hiệp thương lần thứ hai còn có trách nhiệm xem xét về người tự ứng cử để thỏa thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử.

Bước bốn: tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú và nơi công tác hoặc nơi làm việc (nếu có) về những người ứng cử.

Việc lấy ý kiến của hội nghị cử tri nơi cư trú đối với những người ứng đại biểu HĐND huyện, xã được tổ chức ở nơi người ứng cử cư trú thường xuyên tại thôn, tổ dân phố, do ban thường trực UBMTTQ Việt Nam cấp xã phối hợp với UBND cùng cấp triệu tập và chủ trì. Tại hội nghị, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND để nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với những người ứng cử. Vụ việc mà cử tri nêu đối với những người ứng cử phải được xác minh và trả lời theo quy định. (Điều 46, Điều 55 Luật bầu cử 2015) Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Bước năm: tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba để lập danh sách chính thức những người ứng cử

Hội nghị hiệp thương lần thứ ba được tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử. Xét về thủ tục, hội nghị hiệp thương lần thứ ba cũng được tổ chức giống như hội nghị hiệp thương lần thứ nhất. Đối với cấp huyện, cấp xã, hội nghị hiệp thương lần thứ ba nhằm vào vào hai nội dung: một là, báo cáo tình hình và kết quả tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú, nơi công tác hoặc nơi làm việc đối với những người ứng cử đại biểu HĐND huyện, đại biểu HĐND xã; hai là, báo cáo dự kiến danh sách những người được MTTQ Việt Nam cùng cấp giới thiệu ứng cử hội nghị thảo luận, lựa chọn và thỏa thuận lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện, đại biểu HĐND cấp xã.

1.3.2.4. Công tác hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử

Chính quyền cấp huyện, chính quyền cấp xã dựa trên sự chỉ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên và Đảng ủy cấp huyện, Đảng ủy cấp xã tổ chức các hội nghị triển khai công tác bầu cử tại cấp mình.

Dựa trên các nội dung trong Hội nghị triển khai công tác bầu cử, UBBC, UBMTTQ cấp huyện và cấp xã căn cứ tiến độ công tác bầu cử và hướng dẫn của các cơ quan chức năng cấp tỉnh, tổ chức hội nghị tập huấn về nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức làm công tác bầu cử, việc tập huấn hướng dẫn được thực hiện nhiều lần theo yêu cầu của công tác bầu cử.

Tại Điều 62 Luật Bầu cử 2015 quy định về trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, trong đó ủy ban bầu cử ở cấp huyện, cấp xã chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo về vận động bầu cử ở cấp mình.

Các cơ quan thông tin đại chúng của địa phương có trách nhiệm đưa tin về hội nghị tiếp xúc cử tri, trả lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu HĐND và việc vận động bầu cử ở địa phương.

1.3.2.5. Công tác tổ chức vận động bầu cử Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Vận động bầu cử là một giai đoạn rất quan trọng trong tiến trình bầu cử với cả ứng viên và cử tri. Đối với ứng cử viên, giai đoạn này quyết định phần lớn sự thành bại của họ trong bầu cử. Đối với cử tri, giai đoạn này cho phép họ tìm hiểu kỹ chương trình hành động và ở mức độ nhất định, cả tính cách của các ứng viên, để bầu chọn cho những người mình cho là thích hợp, xứng đáng nhất. Vì vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, vân động bầu cử diễn ra rất sôi động, quyết liệt. Pháp luật bầu cử của các nước thường có những quy định chặt chẽ về vận động bầu cử được tình từ khi các ứng cử viên được chính thức lên danh sách. Các hình thức vận động như thế nào cũng được luật pháp quy định cụ thể. Luật bầu cử đại biểu Đuma quốc gia Nga quy định các ứng cử viên chính thức và các liên danh ứng cử viên có cơ hội bình đẳng trong sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong vận động tranh cử. Pháp luật nhiều nước còn quy định chặt chẽ về những hạn chế đối với quá trình vận động tranh cử nhằm bảo đảm cho cuộc bầu cử được tiến hành công bằng và bình đẳng như hạn chế về thời gian vận động bầu cử, hạn chế đối với công chức có liên quan đến vận động tranh cử, hạn chế trong việc diễn thuyết tranh cử, về các văn kiện tranh cử, kinh phí tranh cử,…

Kinh phí vận động tranh cử cũng là một vấn đề quan trọng được pháp luật bầu cử của các nước quy định. Pháp luật nhiều nước quy định giới hạn tối đa số tiền mà mỗi ứng cử viên được phép chi cho vận động tranh cử (như ở Ấn Độ, Nga, Pháp, Malaixia), hoặc mỗi đảng chính trị được phép chi cho vận động tranh cử (như ở Đức, Hoa Kỳ, Italia). Ngoài ra, pháp luật nhiều nước cũng có các quy định về nguồn đóng góp kinh phí được phép huy động cho vận động tranh cử, các phương thức sử dụng kinh phí và số tiền tối đa được phép chi cho từng hoạt động tranh cử. Về phần kinh phí, một số nước quy định một phần kinh phí cho vận động bầu cử sẽ do nhà nước bỏ ra, còn lại phần lớn kinh phí do các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân quyên góp. Nhiều nước cũng hạn chế việc huy động đóng góp cho ứng cử viên thông qua việc quy định mức độ quyên góp tối đa của các tổ chức và cá nhân cho ứng cử viên hay cho đảng phái chính trị. Ví dụ pháp luật Hoa Kỳ quy định một cá nhân không được phép ủng hộ cho mỗi Ủy ban chính trị của Đảng hơn 25 nghìn đôla một năm và cho mỗi ứng cử viên 2 nghìn đôla. Một số nước như Pháp, Italia nghiêm cấm việc nhận tiền ủng hộ của các câu lạc bộ và sòng bạc. Bên cạnh đó, việc nhận tiền quyên góp vận động tranh cử của các tổ chức, công dân nước ngoài và các nước khác dưới bất kỳ hình thức nào đều bị nghiêm cấm.

Nhằm loại trừ các hoạt động mua phiếu bầu của cử tri, pháp luật các nước đều quy định việc cấm mua phiếu dưới bất kỳ hình thức nào. Bộ Luật bầu cử Cộng hòa Liên bang Nga cấm ứng cử viên và các đại diện được ủy quyền của ứng cử viên không được cho cử tri tiền, quà tặng và các vật phẩm khác, không được trả công những người tham gia tổ chức bầu cử phụ thộc vào kết quả bầu cử hoặc hứa hẹn sự trả công đó, không được bán đồ hạ giá, phát hành miễn phí bất cứ loại hàng hóa nào ngoài tài liệu in ấn và các huy hiệu dành riêng cho vận động bầu cử, không được chào mời cử tri bằng các dịch vụ miễn phí và giảm giá [1]. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Ở nước ta, tổ chức vận động bầu cử được hiểu là việc các cơ quan phụ trách bầu cử tổ chức cho người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu, cũng như để trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm. Thông qua hoạt động này, cử tri có cơ hội tiếp xúc, hiểu rõ về người ứng cử, từ đó để cân nhắc, lựa chọn, bầu những người đủ tiêu chuẩn làm đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

Đối với việc tổ chức vận động bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, người ứng cử đại biểu HĐND ở đơn vị bầu cử nào thìđược thực hiện vận động bầu cử ở đơn vị bầu cử đó; việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;Các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận động cho người ứng cử. Về mặt thời gian,tổ chức vận động bầu cử được tiến hành kể từ ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử và kết thúc trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ. Về mặt hình thức, việc tổ chức vận động bầu cử được tiến hành thông qua việc tổ chức hội nghị để người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri do UBMTTQở địa phương nơi mình ứng cử tổ chức và thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Về mặt nội dung, trong các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri hoặc trả lời phỏng vấn báo chí để vận động bầu cử, người ứng cử đại biểu HĐND trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu HĐND; Trong hội nghị tiếp xúc cử tri, sau phần trình bày chương trình hành động của người ứng cử, cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm.

Tại Điều 68 Luật bầu cử 2015, những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử được quy định như sau: lợi dụng bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân khác; lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử; lợi dụng bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình; Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri.

Khác với nhiều quốc gia khác trong đó hoạt động vận động tranh cử do các đảng chính trị, các nhóm ủng hộ viên hoặc cá nhân, gia đình người ứng cử tổ chức với kinh phí của cá nhân, gia đình hoặc của các ủng hộ viên của người ứng cử đóng góp là chủ yếu, công tác tổ chức vận động bầu cử ở nước ta do các cơ quan nhà nước phối hợp tổ chức cho các ứng cử viên, lấy kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho đợt bầu cử. “ Kinh phí tuyên truyền, vận động bầu cử được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước” (Khoản 5, Điều 62) Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

1.3.2.6. Công tác tổ chức “Ngày bầu cử”

Công tác tổ chức quyền bỏ phiếu bầu của của cử tri là hoạt động thực hành của quy trình bầu cử. Pháp luật của tất cả các nước đều quy định thủ tục bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo việc tự do thể hiện ý chí của công dân.

Nhìn chung, pháp luật của các nước không có các quy định cụ thể về trình tự bỏ phiếu, hoạt động bỏ phiếu thường được tiến hành theo các quy định của cơ quan phụ trách bầu cử. Chỉ có những người có tên trong danh sách cử tri mới được tham gia bỏ phiếu. Mỗi cử tri đều phải xuất trình giấy tờ tùy thân của mình mới được nhận phiếu bầu. Nội dung và hình thức thể hiện trên phiếu bầu của mỗi quốc gia thường khác nhau. Một số nước để sẵn ô trống để cử tri viết tên ứng cử viên vào, nếu đó là một cuộc bầu cử chỉ được bầu một ứng cử viên như Nhật Bản. Một số nước khác in sẵn tên các ứng cử viên để cử tri lựa chọn, gạch tên những người không ủng hộ. Hình thức phiếu bầu này thường áp dụng cho các cuộc bầu cử bầu từ hai ứng cử viên trở lên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri bỏ phiếu được chính xác.

Để tạo thuận lợi cho cử tri, một số nước còn áp dụng các phương thức thực hiện bỏ phiếu khác nhau. Tại Pháp, cử tri được các ứng cử viên, các đảng phải phát cho phiếu bầu tại nhà, còn khi đi bỏ phiếu chỉ mang theo phong bì có đựng phiếu bầu của mình đến phòng bỏ phiếu. Tại Mêhicô nếu cử tri đi vắng, không thể bỏ phiếu tại nơi đăng ký danh sách thì vẫn có thể nhận phiếu bầu từ khu vực bầu cử khác. Pháp luật của một số nước lại cho phép cử tri được bỏ phiếu qua đường bưu điện nhưng phải đảm bảo thủ tục chặt chẽ. Ví dụ như ở Đức, việc bỏ phiếu qua đường bưu điện được coi là hợp lệ nếu cử tri viết cam đoan rằng mình đã viết phiếu và ký tên. Pháp luật bầu cử của Pháp còn cho phép bỏ phiếu theo ủy quyền. Trường hợp này áp dụng đối với những công dân đang ở nước ngoài, vì lý do sức khỏe không thể bỏ phiếu tại nơi đặt hòm phiếu được. Tuy nhiên, cá nhân được ủy quyền cũng phải được đăng ký trước trong danh sách cử tri.

Ngoài việc sử dụng phiếu bầu, một số bang của Hoa Kỳ còn áp dụng phương pháp bỏ phiếu điện tử bằng máy bầu cử để thay cho cách bỏ phiếu thông thường. Máy bầu cử là thiết bị cho phép bỏ phiếu và kiểm phiếu tự động. Do đó, cử tri không thể bỏ phiếu nhiều lần trong một cuộc bầu cử. Bỏ phiếu điện tử là phương pháp hiện đại vừa giúp cho việc đơn giản hóa thủ tục, đồng thời hạn chế hiện tượng gian lận trong bỏ phiếu và kiểm phiếu [1].

Ở nước ta, trước ngày bầu cử các Tổ bầu cử ở địa phương thực hiện các công việc chuẩn bị như: bố trí địa điểm bỏ phiếu, phân công thành viên Tổ bầu cử trực bảo vệ địa điểm bỏ phiếu cả ngày và đêm trước ngày bầu cử và trong ngày bầu cử; chuẩn bị hòm phiếu; nhận tài liệu liên quan đến công tác bầu cử của tổ bầu cử; phân công cụ thể cho từng thành viên tổ bầu cử; rà soát, kiểm tra lại toàn bộ các loại phương tiện vật chất – kỹ thuật phục vụ ngày bầu cử; quản lý phiếu bầu…

Trong ngày bầu cử, các tổ bầu cử thực hiện các công việc như: các thành viên tổ bầu cử phải đến trước giờ khai mạc để kiểm tra công tác chuẩn bị; tổ chức lễ khai mạc, tiến hành thủ tục bỏ phiếu; thủ tục kết thúc việc bỏ phiếu và tổ chức kiểm phiếu; phân công nhiệm vụ cho các thành viên khi tiến hành kiểm phiếu và lập biên bản kiểm phiếu; niêm phong và quản lý phiếu bầu sau khi kiểm phiếu, cùng với các nội dung công việc trên trong ngày bầu cử các tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện chế độ thông tin báo cáo định kỳ hai giờ một lần lên cấp trên trực tiếp và cơ quan có thẩm quyền.

Tổ chức “bỏ phiếu” Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Trước khi bỏ phiếu, tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành cùng một ngày trong cả nước bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá chín giờ tối cùng ngày. Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì UBBC trình hội đồng bầu cử quốc gia xem xét quyết định

Việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho ban bầu cử, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.

Theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu, người viết hộ phải đảm bảo bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.

Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên của tổ bầu cử. Nếu cử tri viết hỏng, tổ bầu cử có trách nhiệm đổi phiếu bầu khác cho cử tri.

Tổ chức kiểm phiếu Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, tổ bầu cử phải tiến hành kiểm phiếu tại phòng bỏ phiếu. Trước khi mở hòm phiếu, tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.

Tổ bầu cử có thể mời người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm chứng kiến việc kiểm phiếu.

Sau khi kiểm phiếu xong, tổ bầu cử phải lập các loại biên bản: biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu quốc hội tại khu vực bỏ phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh tại khu vực bỏ phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện tại khu vực bỏ phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã tại khu vực bỏ phiếu. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải có các nội dung sau đây: tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu; số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu; số phiếu phát ra; số phiếu thu vào; số phiếu hợp lệ; số phiếu không hợp lệ; số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; những khiếu nại, tố cáo nhận được; những khiếu nại, tố cáo đã giải quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến ban bầu cử. Biên bản được lập thành ba bản, có chữ ký của tổ trưởng, thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Biên bản được gửi đến ban bầu cử tương ứng và UBND, ban thường trực UBMTTQ cấp xã chậm nhất ba ngày sau ngày bầu cử.

Sau khi nhận được biên bản kết quả kiểm phiếu của các tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình để gửi đến UBBC của cấp mình;

Biên bản xác định, kết quả bầu cử đại biểu quốc hội ở đơn vị bầu cử được lập thành ba bản, có chữ ký của trưởng ban, các phó trưởng ban bầu cử. Biên bản được gửi đến hội đồng bầu cử quốc gia, ủy ban bầu cử ở tỉnh, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chậm nhất là 05 ngày sau ngày bầu cử. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử được lập thành bốn bản, có chữ ký của trưởng ban, các phó trưởng ban bầu cử. Biên bản được gửi đến ủy ban bầu cử cùng cấp, thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chậm nhất là 05 ngày sau ngày bầu cử.

1.3.2.7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử (nếu có)

Ở các quốc gia, những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến các ứng cử viên chính thức thường rất ít xảy ra. Nguyên nhân là do pháp luật bầu cử quy định rõ những đối tượng nào có quyền ứng cử và những đối tượng nào bị cấm ứng cử. Như trong luật bầu cử của Ôxtrâylia, Italia, Pháp, Ấn Độ, Anh, Singapo,…đối với ứng cử viên do các đảng phái chính trị giới thiệu, việc lựa chọn ứng cử viên do đảng tiến hành theo các quy trình chặt chẽ sẽ ngăn ngừa được các thiếu sót dẫn tới việc phát sinh các khiệu nại, tố cáo đối với ứng cử viên sau này. Đối với ứng cử viên tự do, họ phải lấy được một số lượng chữ ký nhất định chữ ký giới thiệu của cử tri và phải nộp một khoản tiền bảo đảm tùy theo quy định pháp luật của từng nước. Ở Trung Quốc, ứng cử viên phải có ít nhất 10 cử tri ủng hộ; ở Ôxtrâylia phải có ít nhất 50 cử tri ủng hộ, tại Bỉ, ứng cử viên phải thu thập được từ 200 đến 500 chữ ký của cử tri.

Thông qua việc quy định chặt chẽ các phương thức giới thiệu ứng cử viên vào trong luật bầu cử, các quốc gia ngăn ngừa được các khiếu nại, tố cáo phát sinh có liên quan đến ứng cử viên. Sau quá trình giới thiệu ứng cử viên, cơ quan phụ trách bầu cử sẽ chịu trách nhiệm tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo (nếu có) đối với các ứng cử viên này. Để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật bầu cử, một số nước còn quy định các chế tài về kinh tế để trừng phạt nặng những người có ý định ứng cử gian dối, theo luật Cộng hòa liên bang Đức, người vi phạm pháp luật bầu cử có thể bị phạt tiền từ 1 ngàn cho tới 100 ngàn DM[1]

Ở nước ta trong quá trình bầu cử, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử thường xảy ra dưới ba dạng chính: khiếu nại về lập danh sách cử tri; khiếu nại,tố cáo về người ứng cử và danh sách những người ứng cử; khiếu nại, tố cáo về kết quả bầu cử, cụ thể như sau:

Giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại, kiến nghị của công dân về danh sách cử tri. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý về kết quả giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử, về lập danh sách người ứng cử:

Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu HĐND, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu HĐND ở cấp nào thì được gửi tới ban bầu cử đại biểu HĐND ở cấp đó, ban bầu cử HĐND có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết của ban bầu cử thì công dân có quyền khiếu nại đến UBBC ở cấp tương ứng. Quyết định của UBBC là quyết định cuối cùng. Ban bầu cử, UBBC phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị nhận được theo thẩm quyền.

Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, ban bầu cử, UBBC ngừng việc xem xét, giải quyết mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử. Trong trường hợp những khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đáp ứng đủ tiêu chuẩn của đại biểu HĐND thì UBBC ở cấp tương ứng quyết định xóa tên người đó trong danh sách chính thức những người ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri được biết. Không xem xét giải quyết đối với những đơn tố cáo không có họ tên người tố cáo hoặc mạo danh. UBBC ở huyện, UBBC ở xã chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến thường trực HĐND khóa mới cấp tương ứng để tiếp tục xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.

Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử:

Tổ bầu cử có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết và ghi nội dung giải quyết vào biên bản những khiếu nại, tố cáo tại chỗ về những hành vi có dấu hiệu vị phạm pháp luật trong việc kiểm phiếu.Trong trường hợp tổ bầu cử không giải quyết được thì phải ghi rõ ý kiến của tổ bầu cử vào biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo và chuyển đến ban bầu cử.

Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã phải được gửi đến UBBC cùng cấp chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu HĐND. UBBC có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu HĐND trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của UBBC là quyết định cuối cùng. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Tổ chức xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử, tổ chức bầu cử thêm, bầu cử lại, bầu cử bố sung được quy định trong các Điều 79,80, 81, 82, 89, 90, 91, 92, 93,94,95 Luật bầu cử 2015, trong giới hạn luận văn về tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại cấp huyện, cấp xã, tác giả không đề cập sâu về nội dung tổ chức thực hiện những công tác này.

1.3.2.8. Tổng kết cuộc bầu cử ở cấp huyện, cấp xã Xác định người trúng cử

Điều 78 Luật bầu cử 2015 quy định, việc xác định người trúng cử dựa trên nguyên tắc sau:

  1. Kết quả bầu cử được tính, trên số phiếu bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 80 của Luật này.
  2. Người trúng cử phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
  3. Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những người trúng cử là những người có số phiếu bầu cao hơn.
  4. Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau và nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.”

Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban bầu cử cấp huyện, UBBC cấp xã lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu HĐND mà mình chịu trách nhiệm tổ chức. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có các nội dung sau đây:a) tổng số đại biểu hội đồng nhân dân được bầu của đơn vị hành chính;b) tổng số người ứng cử;c) tổng số cử tri của đơn vị hành chính;d) tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri của đơn vị hành chính;đ) số phiếu hợp lệ;e) số phiếu không hợp lệ;g) số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;h) danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;i) những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;k) những khiếu nại, tố cáo do ủy ban bầu cử đã giải quyết.

Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân được lập thành sáu bản, có chữ ký của chủ tịch, các phó chủ tịch ủy ban bầu cử. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã được gửi đến hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và cấp trên trực tiếp.

Công bố kết quả bầu cử Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

Về công bố kết quả bầu cử tại cấp huyện và cấp xã, Luật bầu cử 2015 quy định: UBBC căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu HĐND ở cấp mình chậm nhất là 10 ngày sau ngày bầu cử (Luật bầu cử trước đây quy định 5 ngày sau ngày bầu cử đối với cuộc bầu cử HĐND xã, phường, thị trấn; 7 ngày sau ngày bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu HĐND huyện miền xuôi, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; 16 ngày sau bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu HĐND huyện miền núi và hải đảo, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 15 ngày đối với các tỉnh miền núi).

Với điều kiện giao thông, thông tin liên lạc của nước ta ngày càng phát triển thuận lợi, việc quy định thống nhất, cụ thể và rút ngắn thời gian công bố kết quả bầu cử trong Luật bầu cử 2015 giúp cho công tác tổng kết bầu cử được tập trung nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND cấp huyện, đại biểu HĐND cấp xã

Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân, ủy ban bầu cử tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp mà mình chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp giấy chứng nhận đại biểu hội đồng nhân dân khóa mới cho người trúng cử và báo cáo hội đồng nhân dân khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu hội đồng nhân dân tại kỳ họp đầu tiên.

Tiểu kết chương 1

Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại diện – cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương ở nước ta nói riêng.

Việc tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử làm cho những quy định mà lập pháp đã tạo dựng(còn là văn bản trên giấy) vận hành trong đời sống xã hội, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu lực, hiệu quả nhất.

Trong chương 1 cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta, tác giả đề cập, phân tích khái quát các vấn đề liên quan đến công tác tổ chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, có sự tham khảo kinh nghiệm tổ chức bầu cử của một số nước trên thế giới về công tác lập danh sách cử tri, công tác đảm bảo quyền ứng cử, công tác tổ chức vận động bầu cử, công tác tổ chức bỏ phiếu.., làm tiền đề cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm hiệu quả công tác tổ chức bầu cử tại cấp huyện, cấp xã nói chung và trên địa bàn huyện Hoài Đức nói riêng được đưa ra ở chương 2 và chương 3 của luận văn. Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức […]

trackback

[…] ===>>> Luận văn: Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại Hoài Đức […]

2
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993