Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chứng minh trong tố tụng hình sự (TTHS) là một quá trình bao gồm phát hiện, thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng sự thật của vụ án hình sự (VAHS). Thu thập chứng cứ làm cơ sở cho việc chứng minh các đối tượng cần chứng minh trong VAHS, nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT). Quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước một bên là người phạm tội, Nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quyết định hành vi nào là phạm tội đồng thời buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án của Tòa án (TA) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để kết án một người là có tội và phải chịu chế tài hình sự tương ứng với hành vi gây ra thì phải chứng minh hành vi của họ là phạm tội, theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT”. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT là một phần của nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật TTHS Việt Nam. Trên thực tiễn thực thi nguyên tắc trên của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh tội phạm trong VAHS còn nhiều vấn đề tồn tại, trong thời gian vừa qua trách nhiệm của CQTHTT thực hiện chưa tốt, còn nhiều vụ án oan sai dẫn đến mất lòng tin của nhân dân vào pháp chế Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận, thực tiễn về trách nhiệm chứng minh tội phạm của từng CQTHTT, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương hướng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm, bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi pháp luật để bảo đảm quyền con người và tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, tác giải chọn đề tài “Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu, bảo vệ luận văn thạc sĩ, nhằm giải quyết những vấn đề cấp thiết mà tác giả đã đề cập trên.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, vấn đề nghiên cứu trách nhiệm chứng minh trong VAHS đã có một số bài viết liên quan đề cập đến nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” và các chế định có liên quan đến trách nhiệm chứng minh trong VAHS như:
Bùi Kiến Điện có công trình Về trách nhiệm chứng minh tội phạm, (Tạp chí Luật học, số 1/1997), bài viết đã đề cập đến trách nhiệm chứng minh tội phạm theo nguyên tắc tại Điều 11 bộ luật TTHS năm 1988.
Luận án tiến sĩ luật học Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật TTHS Việt Nam của tác giả Nguyễn Thành Long năm 2010, luận án đã đề cập đến trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT, các CQTHTT trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Đề tài luận án tiến sĩ Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong TTHS Việt Nam của tác giả Đinh Thế Hưng năm 2015. Luận án đã nghiên cứu chuyên sâu nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, góp phần hoàn thiện nội dung của nguyên tắc này và các chế định, quy định cụ thể của pháp luật TTHS Việt Nam cũng như trách nhiệm chứng minh tội phạm.
Tác giả Trần Quang Tiệp có bài viết Đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong BLTTHS năm 2003, đăng trên tạp chí Kiểm sát, Số 2/2007, tr. 22 – 26, bài viết phân tích để làm sáng tỏ một cách khách quan đầy đủ, toàn diện và chính xác nội dung chủ yếu của đối tượng phải chứng minh trong một vụ án hình sự. Bài viết đã khẳng định việc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng xét về bản chất tương tự với quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, chính xác, làm sáng tỏ các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Bên cạnh đó các nhà khoa học và một số tác giả cũng đã quan tâm đến khía cạnh của nội dung này và đã được đề cập đến trong một số giáo trình như: Giáo trình luật TTHS Việt Nam (Chương 4) của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; Chứng cứ và chứng minh trong VAHS của tác giả Đỗ Văn Đương (Nxb Chính trị Quốc Gia, 2011)…
Tuy nhiên các công trình, bài viết nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến một khía cạnh nhất định về trách nhiệm chứng minh trong VAHS của CQTHTT chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm của các CQTHTT trong quá trình chứng minh VAHS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan và cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Mục đích cơ bản của đề tài góp phần về làm rõ mặt lý luận trách nhiệm của CQTHTT, thực tiễn áp dụng trong từng giai đoạn tố tụng chứng minh tội phạm tìm ra sự thật khách quan của VAHS, để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích trên tác giả đã đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trách nhiệm chứng minh trong VAHS của CQTHTT theo pháp luật TTHS Việt Nam và TTHS của một số nước trên thế giới;
- Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung, ý nghĩa nhiệm chứng minh trong VAHS của CQTHTT trong pháp luật TTHS Việt Nam;
- Làm sáng tỏ mối quan hệ về trách nhiệm chứng minh với một số nguyên tắc cơ bản trong luật TTHS Việt Nam;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về trách nhiệm chứng minh trong VAHS;
- Đề xuất các phương hướng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm chứng minh trong VAHS theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật TTHS. Luận văn nghiên cứu việc thực hiện những quy định liên quan trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, và phương pháp xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Những điểm mới của luận văn
Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, luận văn đã thu được những kết quả nhất định, có thể xem những kết quả sau đây là điểm mới của luận văn: Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
- Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về trách nhiệm chứng minh trong VAHS trong pháp luật TTHS;
- Phân tích thực trạng trách nhiệm chứng minh trong VAHS của CQTHTT;
- Đề xuất các phương hướng góp phần nâng cao hiệu quả trách nhiệm chứng minh của các CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm.
Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn đề cập một cách tương đối có hệ thống một số vấn đề cơ bản của lý luận về trách nhiệm chứng minh trong VAHS theo quy định của luật TTHS Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc làm sáng tỏ trách nhiệm của các CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm ở trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, cũng như đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT trong quá trình chứng minh tội phạm góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
- Chương II: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
- Chương III: Thực tiễn và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trách nhiệm chứng minh của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự
- Khái niệm trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự
Pháp luật TTHS Việt Nam góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bộ luật TTHS quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các CQTHTT; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong TTHS, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Với sứ mệnh quan trọng của mình trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật TTHS đề cao trách nhiệm chứng minh tội phạm để tránh làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Trách nhiệm chứng minh tội phạm là một nội dung trong nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong Bộ luật TTHS. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Để có thể làm rõ khái niệm trách nhiệm chứng minh tội phạm, trước hết cần làm rõ khái niệm “trách nhiệm”. Theo từ điển tiếng việt thông dụng thì “Trách nhiệm” được hiểu: “Là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho. Phải bảo đảm làm tròn nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Thuật ngữ “Trách nhiệm” theo nghĩa là thể hiện khả năng của một cá nhân, tổ chức thừa nhận về những gì mình đã làm khi thực hiện một việc nào đó; đồng thời, nó bao hàm nghĩa vụ giải thích, báo cáo, thông tin, biện giải về những việc đó và những hệ quả, cũng như việc sẵn sàng chịu sự đánh giá, phán xét, thậm chí là trừng phạt cả về mặt pháp lý và đạo đức đối với những hệ quả đó. Theo từ điển tiếng việt thì “ Trách nhiệm” được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình. Thuật ngữ “Trách nhiệm” thường được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một người trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước. Ví dụ, trách nhiệm của nhân viên với lãnh đạo, trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trường sống; trách nhiệm của bố mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục con cái v.v… Thứ hai, trách nhiệm là hậu quả bất lợi mà một người phải gánh chịu trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm là nhiệm vụ được phân công theo chức trách của mỗi cá nhân, đảm bảo phải hoàn thành và phải gánh chịu hậu quả bất lợi khi không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc có nghĩa vụ phải hoàn thành.
Thuật ngữ “chứng minh” được hiểu là xác định là có căn cứ đúng hay sai có hay không dùng suy luận logic để vạch rõ vấn đề [27, tr239]. Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người, hoạt động chứng minh tiến hành trong nhiều lĩnh vực, tuy nhiên đặc điểm chung là việc chủ thể sử dụng những phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý. Trong TTHS chứng minh là quá trình khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án, là quá trình nhận thức sự thật khách quan. Cơ sở lý luận nhận thức của hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của triết học Mác – Lênin. Lý luận nhận thức Mác – Lênin khẳng định rằng: Nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng tự không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự vật và hiện tượng. Trong thế giới khách quan, không có gì là con người không nhận thức được, mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận thức được. Như vậy, trong VAHS hoạt động chứng minh được tiến hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ từ các nguồn khác nhau và sử dụng chứng cứ này làm nguồn phương tiện chứng minh làm rõ các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Chứng minh trong VAHS là một hoạt động khá phức tạp, đó là việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án. Để giải quyết đúng đắn VAHS, các CQTHTT và người THTT có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp để chứng minh sự thật của vụ án. Những vụ án xảy ra luôn để lại những dấu vết trong thế giới khách quan, được con người và môi trường vật chất phản ánh lại [26,tr8-9]. Chứng minh trong VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án, gồm nhiều hoạt động khác nhau như điều tra, truy tố, xét xử. Trong mỗi giai đoạn lại chứa đựng những nội dung cần chứng minh khác nhau cho nên trách nhiệm của từng CQTHTT và người THTT sẽ khác nhau nhưng đều đòi hỏi phải tuân theo trình tự và thủ tục mà Bộ luật TTHS quy định.
Chứng minh trong VAHS là quá trình các chủ thể của TTHS trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ thu thập được làm phương tiện, căn cứ để xác định, làm rõ về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như tất cả những vấn đề liên quan đến vụ án.
1.1.1 Trách nhiệm chứng minh nhìn từ góc độ pháp luật Quốc tế: Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Trong Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948 ghi nhận rằng “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình”. Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người này là thước đo chung cho tất cả các quốc gia và các dân tộc, và cho cả mọi cá nhân và tổ chức xã hội, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của mình, trên cơ sở luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn này. Quyền con người được bảo vệ, để buộc tội một người bị cho là có tội thì các chủ thể đại diện cho cơ quan Nhà nước phải chứng minh theo trình tự luật định, chứng minh người đó có các dấu hiệu vi phạm pháp luật để đưa ra xét xử bằng một phiên tòa công khai. Tuyên ngôn cũng khẳng định rằng người bị cáo buộc phải được đảm bảo quyền tự bào chữa cho mình trước những cáo buộc bất lợi cho mình. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh giành các quyền dân chủ và tiến bộ. Các quyền tự do, dân chủ mà con người có được ngày nay là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ của những lực lượng tiến bộ chống lại những thế lực độc tài, phản dân chủ trên thế giới. Một trong những quyền dân chủ mà con người giành được trong các cuộc đấu tranh này là quyền bào chữa. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, tại khoản 3 Điều 14 của Công ước này có nội dung như sau: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, bị buộc phải nhận là mình có tội”.
Tòa án Hình sự quốc tế (ICC) được hình thành trên cơ sở Quy chế Rôm – một trong những điều ước quốc tế đa phương có sự tham gia rộng rãi nhất của các quốc gia trong cộng động quốc tế. Theo đó Điều 42 Quy chế Rome quy định:
Văn phòng công tố hoạt động độc lập như một cơ quan riêng biệt của Tòa án. Văn phòng có trách nhiệm nhận các thông báo và bất kỳ thông tin quan trọng nào về tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của Tòa án, kiểm tra các thông báo và thông tin này, tiến hành điều tra và truy tố trước Tòa án. Thành viên của văn phòng công tố không nhận hoặc không hành động theo các chỉ thị từ bên ngoài[ 29, Điều 42].
Để chứng minh một người nào đó là có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hay không, phải có đủ tài liệu chứng minh. Người bị buộc tội, người liên quan không buộc phải chứng minh mình vô tội. Việc chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của Văn phòng công tố và Tòa án. Các thông báo và thông tin về tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của ICC từ các cá nhân, các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế cung cấp. Sau khi tiếp nhận các thông tin này, Văn phòng công tố tiến hành kiểm tra, xác minh thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ có phải hành vi phạm tội hay không, hoặc phối hợp với các nước, các tổ chức liên Chính phủ có liên quan để điều tra làm rõ. Công tố viên có trách nhiệm “phát hiện và tìm ra mọi tình tiết và chứng cứ để xác định trách nhiệm hình sự và tội phạm theo quy chế, điều tra xác định các tình tiết buộc tội và gỡ tội một cách công bằng” [29, Điều 54.1]. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ tuân thủ theo sự chỉ đạo của Trưởng công tố và tuân theo Quy chế Rome và các nguyên tắc, quy tắc, quy định của pháp luật quốc tế. Quy chế Rome cũng thể hiện rõ “Trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội thuộc về Trưởng công tố” (Điều 66). Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
1.1.2 Trách nhiệm chứng minh nhìn từ pháp luật Việt Nam:
Điều 10 Bộ Luật TTHS Việt Nam năm 2003 quy định:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội [36].
CQTHTT là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của CQTHTT phải dựa trên cơ sở và trong phạm vi của pháp luật TTHS [6, tr 115]. CQTHTT bao gồm CQĐT; VKS; TA. Như vậy, trách nhiệm chứng minh trong VAHS thuộc về ba CQTHTT đó là CQĐT, VKS và TA. Đây là ba cơ quan có trách nhiệm chứng minh có tội phạm xảy ra hay không trong một VAHS, dựa trên những quy định của pháp luật hình sự và theo một trình tự luật định do Bộ luật TTHS quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, Bộ luật TTHS đã quy định rõ ba CQTHTT có trách nhiệm chứng minh tội phạm là CQĐT, VKS, và TA. Khẳng định rằng TA ngoài chức năng xét xử thì TA có trách nhiệm chứng minh tội phạm.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm là một nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Chủ thể nào có trách nhiệm chứng minh, xác định sự thật khách quan của vụ án và cách thức yêu cầu của việc xác định sự thật của vụ án. Bộ luật TTHS quy định chủ thể có trách nhiệm chứng minh và làm sáng tỏ trong VAHS là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, nghĩa là trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về nhà nước mà đại diện là CQTHTT được Nhà nước giao quyền. Khi có tội phạm xảy ra, các CQTHTT phải có trách nhiệm thực hiện tất cả các hoạt động tố tụng cần thiết theo quy định để phát hiện và xử lý tội phạm, đảm bảo xử lý công minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật. Nếu các CQTHTT không chứng minh được bị can, bị cáo có tội thì có nghĩa là họ vô tội, khi đó tùy thuộc vào mỗi giai đoạn tố tụng phải ra các quyết định như quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án hoặc ra bản án tuyên bị cáo không phạm tội, nếu bị can, bị cáo đang bị tạm giam phải trả tự do cho bị can, bị cáo. Mặt khác, vấn đề luật TTHS giải quyết là các VAHS, mà bản chất của quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa tội phạm và Nhà nước. Tội phạm xâm hại đến những quan hệ xã hội mà Nhà nước bảo vệ sẽ phải chịu hình phạt của Nhà nước, cho nên Nhà nước, đại diện bởi cơ quan tiến hành tố tụng, sẽ có trách nhiệm chứng minh rằng người bị buộc tội thực sự đã thực hiện tội phạm. Trách nhiệm, đòi hỏi các CQTHTT bắt buộc phải thực hiện. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS quy định Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng là hợp lý. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Khi điều tra, truy tố và xét xử VAHS, CQTHTT phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; Có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Mục đích chung của chứng minh trong VAHS là tìm ra được sự thật của vụ án, để không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm thì trách nhiệm của CQTHTT và người THTT rất quan trọng. CQTHTT có trách nhiệm chứng minh trong vụ án bởi vì các CQTHTT được Nhà nước thiết lập và giao quyền áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì thể hiện ý chí của Nhà nước, có cơ quan chuyên trách nhân danh Nhà nước để bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền chính đáng của con người và các thiết chế xã hội đã được tạo dựng[46, tr21-22].
Trách nhiệm chứng minh trong VAHS là nhiệm vụ, nghĩa vụ bắt buộc của CQTHTT là hoạt động mang tính nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra trong quá khứ thông qua việc nghiên cứu những thông tin về sự kiện đó trong tất cả các giai đoạn của TTHS từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử VAHS. Không chỉ chứng minh chứng cứ buộc tội mà CQTHTT và người THTT còn phải chứng minh cả những chứng cứ gỡ tội dựa trên nguyên tắc suy đoán vô tội để làm sáng tỏ vụ án.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc là phải chứng minh mình vô tội, quyền được chứng minh để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân bị can, bị cáo không chỉ được ghi nhận trong nguyên tắc xác định sự thật của vụ án mà còn được cụ thể hóa thành các quyền tố tụng của bị can, bị cáo. Là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị can, bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ chứng minh mình vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. CQTHTT phải dựa trên những cơ sở, chứng cứ để xem xét, xác định sự thật của vụ. Mặc dù bị can, bị cáo là người biết rõ và có đầy đủ thông tin về hành vi mà họ thực hiện nhưng những lời khai của họ không thể thay thế công tác điều tra, xử lý VAHS. Do xuất phát từ những hành động khai báo khác nhau nên những lời khai của họ về tình tiết vụ án không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Ngoài ra, khi đã bị khởi tố hoặc đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn họ không thể thu thập chứng cứ của vụ án. Nếu buộc bị can, bị cáo chứng minh mình vô tội thì không bảo đảm giải quyết vụ án một cách khách quan, vi phạm những quy định của pháp luật. Sở dĩ, pháp luật quy định như vậy vừa là bảo đảm quyền của bị can, bị cáo mà còn giúp cho CQTHTT xác định đúng sự thật vụ án, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, nhưng cũng không làm oan người vô tội. Pháp luật cũng quy định bị can, bị cáo có quyền nhờ người bào chữa cho mình, sự tham gia của luật sư trong tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm. Cho nên, trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền THTT và bắt buộc các CQTHTT phải thực thi đúng, đủ, không coi đó là trách nhiệm của bị can, bị cáo mà bị can, bị cáo có quyền tức là có thể chứng minh hoặc không chứng minh mình vô tội.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội định nghĩa chứng minh trong TTHS là: “quá trình các chủ thể của TTHS trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ thu thập được làm phương tiện, căn cứ để xác định, làm rõ về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như tất cả những vấn đề liên quan đến vụ án”. Chứng minh là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, chứng minh trong TTHS phải giải quyết hàng loạt các vấn đề đặt ra của VAHS như: Đối tượng, phạm vi chứng minh, các bước tiến hành trong quá trình chứng minh….tất cả đều được điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật tố tụng. Vì vậy, trách nhiệm chứng minh trong VAHS của các chủ thể là phải tuân thủ pháp luật để giải quyết các yêu cầu đặt ra trong quá trình chứng minh VAHS.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về trách nhiệm chứng minh trong VAHS như sau: “Trách nhiệm chứng minh trong VAHS là việc phải làm của CQTHTT. Theo đó, cơ quan THTT có nhiệm vụ tuân theo các quy định của pháp luật TTHS để tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ thu thập được làm phương tiện, căn cứ để xác định, làm rõ về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như tất cả những vấn đề liên quan đến vụ án và phải chịu hậu quả bất lợi nếu vi phạm quy định của pháp luật TTHS trong quá trình chứng minh tội phạm”. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Khái niệm này đã chỉ ra những thuộc tính cơ bản về trách nhiệm chứng minh tội phạm của CQTHTT khi áp dụng các quy định của pháp luật TTHS để thực thi trách nhiệm của mình.
- Đặc điểm trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự
Xuất phát từ nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được quy định trong Bộ luật TTHS, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh tội phạm trong từng giai đoạn tố tụng có sự khác nhau. Theo khái niệm về trách nhiệm chứng minh trong VAHS ta có thể thấy những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trách nhiệm chứng minh trong VAHS là việc phải làm của CQTHTT
CQTHTT bắt buộc phải thực thi trách nhiệm của mình được pháp luật quy định cụ thể, trách nhiệm này phải thực hiện một cách tối đa nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong chứng minh các tình tiết liên quan đến VAHS.
CQTHTT phải áp dụng tất cả các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Việc phải làm của CQTHTT bao gồm hoạt động tiếp nhận tin báo tội phạm; tiến hành khởi tố; điều tra; truy tố và xét xử vụ án hình sự. Trong mỗi giai đoạn tố tụng các CQTHTT căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình thực hiện các nhiệm vụ và ra các văn bản tố tụng ứng với mỗi giai đoạn tố tụng.
CQTHTT phải tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ thu thập được làm phương tiện, căn cứ để xác định, làm rõ về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như tất cả những vấn đề liên quan đến vụ án.
Thứ hai, trách nhiệm chứng minh trong VAHS thuộc về CQTHTT
Chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong VAHS là chủ thể được pháp luật TTHS quy định, tùy từng quốc gia với từng mô hình tố tụng khác nhau. Các chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong VAHS là người nắm vững các quy định của pháp luật, am hiểu và có kiến thức chuyên môn đến lĩnh vực tư pháp hình sự, sử dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát hiện và điều tra tội phạm. Chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về trình độ chuyên môn thì chủ thể được giao chứng minh tội phạm mới có thể áp dụng chính xác, đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật vào quá trình chứng minh nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong VAHS là CQTHTT. CQTHTT bao gồm CQĐT; VKS; TA, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Trong các CQTHTT có người tiến hành tố tụng có trách nhiệm tuân thủ pháp luật chứng minh VAHS. CQĐT bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Cán bộ điều tra; VKS có Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, KSV, Kiểm tra viên; TA có Chánh án, Phó Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA, Thẩm tra viên. Tất cả các chức danh trên đều có trách nhiệm tham gia vào quá trình chứng minh sự thật của vụ án.
Trách nhiệm chứng minh trong luật TTHS khác biệt với trách nhiệm chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hành chính…Bởi vì, nội dung mà luật tố tụng dân sự giải quyết các vụ án và việc dân sự, và áp dụng nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, vì trong quan hệ pháp luật dân sự, đương sự là người hiểu rõ nhất quyền lợi và nghĩa vụ của mình, nên họ có quyền tự quyết định cách giải quyết tốt nhất cho mình, miễn là phương án đó không bị pháp luật cấm. TTHS là mối quan hệ giữa tội phạm và Nhà nước, tội phạm xâm hại đến những quan hệ xã hội mà Nhà nước bảo vệ sẽ phải chịu hình phạt của Nhà nước, cho nên Nhà nước, đại diện bởi cơ quan tiến hành tố tụng, sẽ có trách nhiệm chứng minh rằng người bị buộc tội thực sự đã thực hiện tội phạm.
Trách nhiệm của từng CQTHTT được pháp luật TTHS quy định cụ thể. Đối với CQĐT có chức năng điều tra tất cả các tội phạm quy đinh tại Bộ luật hình sự để xác định tội phạm và xác định người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục và ngăn ngừa tội phạm. VKS có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. VKS có trách nhiệm tuân thủ pháp luật đối với hoạt động khởi tố, điều tra, xét xử vụ án hình sự và thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. TA có chức năng xét xử vụ án hình sự, tuyên bố một người là phạm tội hay không phạm tội. Trong giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình, các CQTHTT có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật quy định để làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến VAHS.
Thứ ba, pháp luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết VAHS
Trong quá trình chứng minh tội phạm các chủ thể phải tuân thủ đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật TTHS để tránh làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm.
Giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, khi nhận được tin báo hoặc tố giác của các cơ quan tổ chức về tội phạm nếu có các căn cứ trên và nhận thấy có dấu hiệu tội phạm, thì cơ quan công an sẽ tiến hành điều tra, khởi tối vụ án. Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT phải ra quyết định khởi tố VAHS. Giai đoạn truy tố, thuộc thẩm quyền của VKS dựa trên những quy định cụ thể của pháp luật TTHS khi có đủ căn cứ truy tố bị can trước tòa bằng một bản cáo trạng hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án khi chưa đủ căn cứ hoặc không có căn cứ khởi tố. Giai đoạn xét xử tại TA được tiến hành công khai qua hai cấp xét xử sơ tẩm và phúc thẩm. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Thứ tư, mục tiêu của việc quy định trách nhiệm chứng minh trong VAHS
Tất cả các giai đoạn của TTHS đều nhằm làm sáng tỏ chân lý khách quan của sự việc, nhằm tìm ra sự thật của vụ án. Đó là quá trình nhận thức của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh để giải quyết VAHS một cách đúng đắn. Góp phần bảo vệ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Trách nhiệm của các chủ thể trong từng giai đoạn có ý nghĩa quan trọng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bản kết luận điều tra chính xác góp phần truy tố đúng đối tượng và xét xử đúng người, đúng tội.
Thứ năm, chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong VAHS sẽ phải chịu hậu quả bất lợi khi vi phạm các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
Chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong VAHS có nghĩa vụ phải thực thi đầy đủ, chính xác quy trình tố tụng. Không chỉ tìm ra dấu hiệu của tội phạm mà còn có trách nhiệm chứng minh những dấu hiệu không cấu thành tội phạm hay những chứng cứ gỡ tội cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Trong trường hợp chủ thể có trách nhiệm chứng minh không tuân thủ sự thật khách quan cũng như các quy định của pháp luật sẽ dẫn đến người bị kết tội oan hoặc bỏ lọt tội phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội, làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước và sự thờ ở của người dân với hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật ngoài đề ra quyền, trách nhiệm thì cũng thiết lập nên hệ thống cơ chế để xử lý những hành vi, hoạt động của chủ thể chứng minh đi lệch hướng với quy định của pháp luật, quy định trách nhiệm phải gánh chịu từ mức độ thấp tới cao, từ trách nhiệm hành chính tới trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể trong các luật chung và luật chuyên ngành.
1.2 Mối liên hệ giữa trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự với các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự
Khẳng đinh rằng các CQTHTT có trách nhiệm chứng minh tội phạm, xác định sự thật của vụ án, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình làm sáng tỏ vụ án. Trong các hoạt động TTHS thì hoạt động của CQĐT, VKS, TA đóng vai trò chủ đạo, để đảm bảo hoạt động của các cơ quan này tiến hành đúng pháp luật, khách quan, yêu cầu tất yếu đặt ra là các cơ quan này phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Bộ luật TTHS cũng như các nguyên tắc được đề ra. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội, là một trong những nội dung nằm trong nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc này có mối quan hệ với các nguyên tắc khác của Bộ luật TTHS.
1.2.1 Mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc suy đoán vô tội với trách nhiệm chứng minh tội phạm của CQTHTT có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Có quan điểm cho rằng Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội nên quy định vào nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, vì suy đoán vô tội là định hướng khách quan, còn nguyên tắc xác định của vụ án là đòi hỏi trực tiếp đối với hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng trong việc thu thập đánh giá các chứng cứ và các tình tiết của vụ án, nên quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm vào phần nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội thì hợp lý hơn [46, tr7]. Theo tác giả thì hai nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, độc lập, có mục đích, nội dung khác nhau, trả lời những câu hỏi khách nhau. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án đòi hỏi các kết luận của các CQTHTT phải chính xác đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng và phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án. Các CQTHTT phải chứng minh các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội, xác định vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đều phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá. Nội dung nguyên tắc xác định sự thật vụ án dừng lại ở đây và tiếp theo là đánh giá các chứng cứ đó như thế nào, mối quan hệ tương quan giữa chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội lúc này liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội, bởi lẽ người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán là vô tội cho đến khi chứng minh được hoặc ngược lại, tức là chứng minh lỗi của họ, không chứng minh ngược lại thì họ được coi là vô tội.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền THTT xuất phát từ nguyên tắc xác định sự thật của vụ án cho nên có quan hệ mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, không được chuyển trách nhiệm chứng minh lên bị can, bị cáo, tất cả mọi nghi ngờ đều phải giải thích có lợi cho bị can, bị cáo. Bản kết tội không thể dựa trên giả thiết.Thực hiện tốt nguyên tắc suy đoán vô tội là tiền đề quan trọng để các CQTHTT chứng minh vụ án một cách toàn diện, khách quan. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội TA không được ra bản án dựa trên những giả định, điều này đòi hỏi các CQTHTT phải không ngừng nỗ lực tìm ra những chứng cứ thuyết phục, rõ ràng và có căn cứ để chứng minh tội phạm. CQTHTT được Nhà nước trang bị các điều kiện về vật chất và con người hoạt động chuyên nghiệp nên chắc chắn đảm bảo việc chứng minh tội phạm và tìm ra sự thật của vụ án. Như vậy, các CQTHTT thực thi đúng trách nhiệm của mình góp phần thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội trên thực tế và tôn trọng và thực hiện tốt nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ giúp cho các CQTHTT sẽ đảm bảo truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội.
1.2.2 Mối liên hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Là một nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án đã quy định chủ thể có trách nhiệm chứng minh thuộc về các CQTHTT. Đây là căn cứ pháp lý nhằm xác định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi xác định sự thật của VAHS. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Xác định vụ án một cách khách quan tức là phải xác định nội dung vụ án đúng với các tình tiết của vụ án như thực tế. Thực tiễn tiến hành các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự, suy cho cùng, đều hướng đến một mục đích chung nhất đó chính là làm rõ có tội phạm hay không và người bị buộc tội có thật sự phạm tội hay không. Muốn vậy, việc xác định sự thật của vụ án đóng vai trò quan trọng nhất để đạt được mục đích đó. Nói cách khác, áp dụng nguyên tắc xác định sự thật còn đảm bảo cho việc xử lí vụ án được công minh, không để lọt tội phạm đồng thời không bắt nhầm, làm oan người vô tội. Việc xác định sự thật phải dựa trên những tình tiết, những căn cứ xác thực mà có thể nhận biết được, đồng thời phải dựa trên quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự . Để đảm bảo hiệu quả của nguyên tắc này thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nâng cao trách nhiệm của mình và hoàn thành tốt trách nhiệm chứng minh vụ án nhằm tìm ra sự thật của vụ án. CQTHTT có thực hiện tốt trách nhiệm của mình thì mới đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được thực thi tốt, và có tuân thủ tốt nguyên tắc xác định sự thật của vụ án thì VAHS mới được chứng minh một cách khách quan, đúng tình tự luật định.
Có nhiều quan điểm cho rằng nên bỏ trách nhiệm chứng minh VAHS đối với TA để đảm bảo tính khách quan của TA khi xét xử VAHS. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí đề xuất sửa đổi bổ sung về nguyên tắc xác định sự thật vụ án: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (bỏ từ Tòa án) phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Nếu như quy định trách nhiệm chứng minh của TA sẽ làm ảnh hưởng tới chức năng của TA, TA vừa chứng minh tội phạm vừa ra phán quyết sẽ không mang tính khách quan như yêu cầu của luật TTHS đề ra.
1.2.3 Mối liên hệ với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”. Sự bình đẳng của những người tham gia tố tụng đảm bảo cho VAHS được chứng minh một cách công khai, minh bạch. CQTHTT có trách nhiệm thu thập chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội để chứng minh một người phạm tội hay không theo trình tự thủ tục, còn bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác lại có quyền đưa ra chứng cứ chứng minh hoặc để phản bác những chứng cứ buộc tội của CQTHTT. Như vậy, tất cả các chứng cứ được đưa ra phải có căn cứ, chính xác, bảo đảm tính khách quan và logic. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Nhằm hạn chế tính chủ quan duy ý chí của các CQTHTT, pháp luật đã quy định rõ “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa”. Trách nhiệm chứng minh của CQĐT, VKS trong giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố sẽ được thể hiện bằng các văn bản tố tụng và được trình bày trước TA, bị can, bị cáo có quyền phản bác lại hoặc nhờ người bào chữa cho mình. Nếu như quá trình chứng minh của CQTHTT thực hiện sai trình tự, thủ tục sẽ bị phản bác tại phiên tòa xét xử bằng chính bị can, bị cáo hoặc người bào chữa của bị can, bị cáo, và có thể nhận một trong các Quyết định của thẩm phán chủ tọa phiên tòa như: Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án….
Trách nhiệm chứng minh của CQTHTT thực hiện tốt và tuân thủ các quy định về trình tự thủ tục sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của nguyên tắc tranh tụng, mọi kết quả đạt được trong các giai đoạn TTHS sẽ tạo nên một bản án, quyết định cuối cùng của TA. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa sẽ cho thấy trách nhiệm của CQTHTT thực hiện tới mức độ nào, đã hoàn thành nhiệm vụ của mình hay chưa?
1.2.4 Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
CQTHTT có trách nhiệm chứng minh tội phạm, khó tránh khỏi ý chí chủ quan chứng minh theo hướng có tội mà “quên” đi phải tìm cả những chứng cứ “gỡ tội” của người bị nghi ngờ. Các CQTHTT mà điển hình là CQĐT, VKS được coi là chủ thể “buộc tội” đại diện cho Nhà nước, pháp luật cũng quy định bên “gỡ tội” có thể là luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo… tham gia bào chữa cho người bị buộc tội nhằm đảm bảo sự công bằng và khách quan.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản còn là chế định quan trọng của Luật TTHS, mang ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc này được thực thi tốt sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, tránh xét xử oan sai. Nó đánh giá mức độ chứng minh tội phạm của CQTHTT trong VAHS. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Các CQTHTT có trách nhiệm tìm ra các chứng cứ buộc tội bị can, bị cáo để chứng minh rằng họ đã phạm một tội mà Bộ luật hình sự quy định, nhưng không phải cứ tìm ra chứng cứ buộc tội là bị can, bị cáo có tội. Pháp luật quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của họ, người bị buộc tội có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Một trong những nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Như vậy, đã khẳng định rõ người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được chứng minh mình vô tội, một trong những cơ sở để người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
1.3 Khái quát về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Cơ sở lý luận của trách nhiệm chứng minh trong VAHS hình thành từ thời kỳ luật La Mã cổ đại Trách nhiệm chứng minh thuộc về người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ định. Các CQTHTT khẳng định một người phạm tội, thì các cơ quan đó phải có trách nhiệm chứng minh. Người bị buộc tội là người phủ định mình không có tội, không có trách nhiệm chứng minh. Các CQTHTT trên cơ sở chức năng, quyền hạn của mình thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội phạm.
Bộ Luật TTHS Việt Năm năm 1988 tại Điều 11 quy định “ Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội”. Trách nhiệm chứng minh tội phạm được chính thức ghi nhận trong nguyên tắc xác định sự thật của vụ án thể hiện sự phát triển về tư duy lập pháp và hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế về mô hình tố tụng. Mặt khác nguyên tắc xác định sự thật của vụ án có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận chính thức tại Điều 10 Bộ Luật TTHS năm 1988 “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của TA có hiệu lực pháp luật” được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 tại Điều 72.
Kế thừa và phát triển tại Bộ luật TTHS năm 1988, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tiếp tục được khẳng định tại Điều 10:
CQĐT, VKS và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo [36].
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
So với Bộ Luật TTHS năm 1988 thì Bộ luật TTHS năm 2003 hầu như không có sự sửa đổi bổ sung gì về trách nhiệm chứng minh trong VAHS, trách nhiệm chứng minh vẫn thuộc về CQTHTT.
Bộ Luật TTHS năm 2015 góp phần cụ thể hóa nguyên tắc hiến định và là cơ sở để tiến hành các giai đoạn tố tụng. Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 71: “…Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” và Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật …”. Việc xác định sự thật phải được tiến hành do cán bộ tư pháp thuộc CQĐT, VKS và Toà án và chỉ được sử dụng những biện pháp hợp pháp. Tại Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015:
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội [39].
So với Bộ luật TTHS năm 1988 và 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã có sự sửa đổi trong kỹ thuật trình bày điều luật, đưa trách nhiệm chứng minh lên đầu điều luật, chứng tỏ các nhà làm luật đã đề cao hơn trách nhiệm của CQTHTT trong quá trình chứng minh VAHS để tìm ra sự thật của vụ án. Nguyên tắc này đã loại trừ những trường hợp người tiến hành tố tụng lại sử dụng các biện pháp có khả năng xâm hại nghiêm trọng tới các quyền cơ bản của công dân để làm rõ sự thật của vụ án. Để đảm bảo một cách tối đa quyền lợi của người dân, CQTHTT phải có đầy đủ căn cứ chứng minh tội phạm, thể hiện qua bản án kết tội của TA mới có thể khẳng định là có tội. Do vậy, việc thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật là cơ sở quan trọng nhất để khẳng định một người là có tội hay không có tội. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Khẳng định rằng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và các nguyên tắc khác trong Bộ luật TTHS đều là các nguyên tắc của Luật TTHS. Quan điểm của PGS.TS Trần Đình Nhã cho rằng việc sử dụng khái niệm các nguyên tắc của luật TTHS là sự nhầm lẫn, theo đó nguyên tắc cơ bản quy định trong luật TTHS là nguyên tắc của TTHS chứ không có nguyên tắc của luật TTHS. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì “Nguyên tắc tố tụng hình sự Việt Nam là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hoá trong BLTTHS mà các cơ quan tiến hành tố tụng, người tến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân theo”. Quan điểm của PGS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng những nguyên tắc được quy định trong Bộ luật TTHS là nguyên tắc của luật TTHS, bởi vì: Trong khoa học pháp lý và nhận thức chung của xã hội đã có sự phân biệt rạch ròi hai khái niệm “Tố tụng hình sự” và “Luật tố tụng hình sự”. Khái niệm “Tố tụng hình sự” được hiểu là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Hoạt động TTHS mang tính khách quan tồn tại trong tất cả các xã hội có giai cấp và nhà nước, nó là đòi hỏi tất yếu của Nhà nước khi trừng trị người phạm tội. Khái niệm “Luật tố tụng hình sự” dùng để chỉ tổng hợp các qui phạm pháp luật của nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và như vậy, “Luật tố tụng hình sự” là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà làm luật. Bản thân các hoạt động tố tụng hình sự đã có những nguyên tắc (qui luật) cơ bản của nó (những qui luật tự thân của sự việc) hướng tới giải quyết vụ án khách quan, công bằng. Nhà làm luật, trên cơ sở nhận thức các qui luật khách quan đó ghi nhận trong các qui phạm pháp luật và trở thành những nguyên tắc của Luật TTHS [9, tr 239-241].
Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Khi có đủ căn cứ khẳng định có dấu hiệu của tội phạm thì mới có thể khởi tố vụ án, và đó chính là căn cứ để tiến hành các hoạt động điều tra. Kết quả điều tra chính là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, đồng thời nó cũng là cơ sở để TA xét xử đúng người đúng tội. Việc xác định sự thật vụ án còn phụ thuộc vào những tình tiết, chứng cứ của vụ án đòi hỏi CQTHTT phải làm sáng tỏ.
CQTHTT, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc: (1) Tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. (2) Việc tiến hành thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ cả các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. (3) Thẩm quyền thu thập chứng cứ chỉ và phải do CQĐT, VKS, TA thực hiện. (5) Tất cả các chứng cứ khi được phát hiện, thu giữ phải được ghi nhận vào văn bản tố tụng tương ứng, theo đúng quy định và thời hạn của pháp luật TTHS. (6) Việc thu thập chứng cứ phải được tiến hành kịp thời theo các yêu cầu đặt ra và đúng pháp luật [ 4, Tr.17].
Nếu như việc xác định sự thật tại một trong các giai đoạn đó không được đảm bảo thì tất yếu nguyên tắc này sẽ không được thực hiện. Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền do Bộ luật TTHS quy định bao gồm CQĐT, VKS, TA có quyền áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm làm rõ những chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Ngoài ra nguyên tắc này cũng đặt ra nghĩa vụ đối với các cơ quan này không được thiên vị, cảm tình cá nhân, mà phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Từ đó, mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án.
1.4 Pháp luật của một số nước trên thế giới về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Pháp luật TTHS Mỹ: Giai đoạn điều tra tội phạm được bắt đầu từ khi cảnh sát có cơ sở để tin rằng có sự kiện phạm tội xảy ra (từ khi vụ án chưa được khởi tố). Cảnh sát có thể tiến hành điều tra sơ bộ từ các nguồn thông tin sau đây: Từ tố giác của nạn nhân, từ sự phát hiện của công việc tuần tra hàng ngày của cảnh sát, từ những biểu hiện nghi vấn của một người nào mà cảnh sát biết được hoặc khi phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm hoặc có cơ sở để tin rằng kẻ phạm tội đang chuẩn bị thực hiện tội phạm hoặc chắc chắn sẽ thực hiện việc phạm tội. Giai đoạn truy tố được thực hiện bắt đầu từ khi cơ quan cảnh sát chuyển các chứng cứ, hồ sơ phạm tội đến cơ quan công tố để xem xét có buộc được người bị tình nghi phạm một tội nào đó cụ thể không, điều luật nào được áp dụng và bao gồm những điểm nào. Nhiệm vụ của công tố viên là phải xét xem những chứng cứ mà cảnh sát đã thu thập và lưu giữ đã đủ để đáp ứng yêu cầu trong việc đưa vụ án hình sự ra xét xử chưa? Tiêu chuẩn đặt ra đối với các chứng cứ đã thu thập là phải đảm bảo tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan. Các TA có chức năng xét xử khi một người bị cáo buộc vi phạm luật hình sự và buộc họ phải chịu: trách nhiệm hình sự. Điều này do các bồi thẩm đoàn hay thẩm phán quyết định. Mục đích của các TA là tìm kiếm công lý và phát hiện sự thật.Những vai chính tại TA là các công tố viên, luật sư biện hộ và các thẩm phán. Mô hình tố tụng Hoa Kỳ chủ yếu sử dụng án lệ, tuy nhiên tất cả thủ tục tố tụng đều phải tuân thủ nguyên tắc về TTHS của liên bang, của các bang, các nguyên tắc và quy định của các cơ quan Bộ Tư pháp và trên cơ sở quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ, Luật nhân quyền, Hiến pháp các tiểu bang, tổng luật Hoa Kỳ, các đạo luật của các bang, các quyết định của các TA, nhất là các quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của công dân: “Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không bị vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý chính đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ” (Tu chính án số 4); “Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một trọng tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình hay cáo trạng của bồi thẩm đoàn, những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không ai bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại chính mình trong một VAHS và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng pháp luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thoả đáng” (Tu chính án số 5). Ở Mỹ có thủ tục cảnh báo Miranda: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
Trong pháp luật TTHS của Liên bang Nga cũng quy định tại khoản 2 Điều 16“ Tòa án, Công tố viên và những người điều tra có trách nhiệm giải thích cho sự nghi ngờ của mình và cho quyền lợi của người bị buộc tội và phải bảo đảm cho họ khả năng tự bào chữa cho mình [58]. Các chủ thể tham gia tố tụng trong pháp luật Nga bao gồm CQĐT, VKS, TA. CQĐT có trách nhiệm thu thập cả chứng cứ buộc tội lẫn chứng cứ gỡ tội. Theo Bộ luật năm 2001, VKS Nga có 3 chức năng trong lĩnh vực hình sự, đó là: Điều tra tội phạm; giám sát việc điều tra của các cơ quan điều tra và thực hành quyền công tố trước TA. Các KSV trong ban giám sát của VKS chịu trách nhiệm giám sát việc điều tra VAHS để đảm bảo các hoạt động điều tra hợp pháp và mang tính hiệu quả. TA ngoài nhiệm vụ xét xử thì Thẩm phán có trách nhiệm giám sát các hoạt động điều tra và bảo vệ các quyền cá nhân. Bên cạnh đó, vai trò của Thẩm phán trung lập hơn trong tiến trình tranh tụng trước Tòa. Người bị tình nghi, bị can, nạn nhân, các bên dân sự và đại diện họ cũng có quyền đệ trình yêu của mình lên ĐTV, Dự thẩm viên hoặc KSV và kiến nghị lên TA về những hành vi và quyết định tố tụng thích đáng để xác định các tình tiết thực tế của vụ án và để bảo đảm các quyền và lợi ích pháp lý. Bộ luật năm 2001 đòi hỏi Dự thẩm viên và ĐTV phải xem xét các yêu cầu, tạo điều kiện cho người bị tình nghi, bị can, nạn nhân, các bên dân sự và đại diện của họ có cơ hội trình bày, đưa nhân chứng, nhận kết luận của các chuyên gia pháp y, khoa học hình sự để chứng minh hoặc tiến hành các hoạt động điều tra khác nếu cần thiết. Khi những yêu cầu và kiến nghị như vậy được đưa ra trong giai đoạn điều tra sơ bộ thì chúng phải được quyết định ngay hoặc sau 3 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu hay kiến nghị. Quyết định từ chối những yêu cầu hay kiến nghị đó có thể bị VKS và TA xem xét lại, bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc xét lại quyết định mang tính giám sát. Trong giai đoạn tiền xét xử vai trò tố tụng thuộc về cơ quan VKS, cơ quan điều tra là những cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra và áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Hoạt động của những cơ quan này là nội dung của chức năng buộc tội. Sự tham gia của VKS với tư cách là người buộc tội nhân danh nhà nước tại phiên tòa sơ thẩm là bắt buộc. Thẩm quyền của VKS phê chuẩn một số biện pháp cưỡng chế liên quan đến các quyền tự do hiến định của công dân nay được chuyển giao cho Tòa án.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Qua tìm hiểu lý luận về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự thấy được quan hệ tố tụng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, do pháp luật TTHS điều chỉnh và một trong số các bên tham gia quan hệ này là CQTHTT, hoặc người THTT, hoặc người tham gia tố tụng. Chỉ riêng việc các quy định của Bộ luật TTHS làm phát sinh quan hệ tố tụng và các quy định ngoài Bộ luật TTHS liên quan đến hoạt động tố tụng cũng đang làm phức tạp thêm việc nhận diện quan hệ tố tụng và quan hệ liên quan, đồng thời với chúng là chủ thể của quan hệ tố tụng. mỗi khi đã được pháp luật thừa nhận là CQTHTT, người tiến hành tố tụng, thì cơ quan và những người này, trong phạm vi, thẩm quyền của mình có toàn quyền áp dụng pháp luật TTHS để thực hiện mục đích TTHS. Và các cơ quan, tổ chức, mọi công dân (kể cả người tham gia tố tụng) hoặc trở thành đối tượng tác động, hoặc trở thành đối tượng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, có trách nhiệm phối hợp với các CQTHTT, người tiến hành tố tụng.
Hoạt động chứng minh của các cơ quan tiên hành tố tụng có một vai trò quan trọng trong việc tìm ra sự thật của vụ án, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội. Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam […]