Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Trong những năm qua, cùng với những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng chính quyền nhân dân, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật. Trên thực tế, một hệ thống pháp luật mới đã từng bước hình thành, hoàn thiện, trở thành động lực mạnh mẽ cho những thay đổi tích cực diễn ra trên đất nước ta. Pháp luật đang thực sự phục vụ công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Góp phần giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, công khai, dân chủ và là cơ sở bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Trong bối cảnh chính quyền Trung ương đang tiến hành những cải cách mạnh mẽ nhằm phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương các cấp, nhằm phát huy quyền chủ động, sáng tạo của mỗi địa phương trong quản lý nhà nước. Các cấp chính quyền địa phương đang sử dụng pháp luật như một công cụ quan trọng, hiệu quả để quản lý và phát triển. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ban hành cũng đã và đang phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp được ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục luật định để thực hiện việc quản lý nhà nước ở địa phương.
Trong thời kỳ đổi mới chính quyền địa phương đã rất quan tâm tới việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, các văn bản này được ban hành chủ yếu để cụ thể hoá và thực hiện những quy định của các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương hoặc quy định những vấn đề mà chính quyền địa phương được ủy quyền ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ở nơi này hay nơi khác chính quyền các cấp vẫn còn ban hành văn bản trái pháp luật, sai về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, vi phạm thẩm quyền ban hành văn bản…
Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là trách nhiệm của các cơ quan hành pháp nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, trước hết là các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành, bảo đảm văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương, tôn trọng thứ bậc hiệu lực của văn bản pháp luật – một trong những nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền.
Nhận thức được tính thời sự, cấp bách của vấn đề nên tác giả đã chọn đề tài: “ Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” cho luận văn thạc sĩ của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện nay, vấn đề văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, quyết định quản lý nhà nước đang được nhiều nhà khoa học (luật học, hành chính học, ngôn ngữ học. . . ) quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu khác của những vấn đề này, như:
- Nguyễn Chí Dũng, “Những nội dung cần làm khi lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ” , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 12/2005), tr. 25.
- Phạm Tuấn Khải, “Nhà khoa học với công tác xây dựng pháp luật: vai trò, ý nghĩa và thực trạng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14, tháng 6/2006), tr. 20.
- Uông Chu Lưu (Chủ biên 2005), Bình luận Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp.
- Nguyễn Công Long (2005), Hoàn thiện thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công.
- Nguyễn Thế Quyền (2005), “ Hiệu lực của văn bản pháp luật những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Luật học, (số 2/2005), tr.31. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
- Đinh Dũng Sỹ. “Thực trạng và giải pháp khắc phục vấn đề “Luật khung” ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số tháng 4/2006), tr. 27.
- TS. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tr.77, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
- Hà Quang Thanh (2000), Hoàn thiện việc ban hành văn bản quản lý nhà nước của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, Luận văn Thạc sĩ Quản lý nhà nước.
- Lưu Kiếm Thanh (1999), Hướng dẫn soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước, Nhà xuất bản Thống kê.
Ngoài ra, còn có một số bài báo, công trình nghiên cứu khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Quản lý Nhà nước; Tạp chí Cộng sản; Tạp chí Luật học.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nhiều góc độ của văn bản quy phạm pháp luật, quyết định quản lý nhà nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách riêng lẻ, cụ thể về vấn đề kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, đặc biệt là ở địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Xuất phát từ những quan điểm, chủ trương cải cách nền hành chính công và kiện toàn bộ máy nhà nước, trên cơ sở những thành tựu lý luận hành chính-luật học, từ khảo sát thực tế hoạt động ban hành, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương tại Thanh Hoá, với mục đích nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Do đó, nội dung đề tài không tập trung đánh giá riêng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, mà còn đánh giá cả hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở đó rút ra được những ưu điểm, những tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại và quan trọng hơn là đề ra được các giải pháp về hoàn thiện hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương và đưa hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đi vào nề nếp, đúng pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính khả thi trong thực tiễn.
Để thực hiện mục đích trên, tác giả tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp những thành tựu lý luận cơ bản về hoạt động ban hành, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;
- Phân tích thực trạng hoạt động ban hành, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương từ khảo sát thưc tiễn tại tỉnh Thanh Hoá, từ đó rút ra các kết luận đánh giá và kinh nghiệm đúc kết;
- Xây dựng và kiến giải các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá ban hành; các hoạt động ban hành, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Thanh Hoá với 27 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh
- Phạm vi thời gian: 5 năm (Từ năm 2003 khi Nghị định 135/2003/NĐ-CP của Chính Phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật được ban hành) cho đến nay).
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về Chính phủ phục vụ nhân dân; quán triệt các quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong quá trình tiếp cận, xúc tiến nghiên cứu đề tài, tác giả đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: các phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp thống kê – so sánh, phương pháp chuyên gia trong việc thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến nội dung đề tài.
5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Từ góc độ khoa học quản lý hành chính nhà nước, có thể xem đây là một trong những cố gắng đầu tiên của ngành tư pháp trong nghiên cứu vấn đề kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương một cách chuyên sâu và toàn diện. Vì thế, luận văn:
- Có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
- Đóng góp cho công tác tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;
- Góp phần hoàn thiện chương trình các môn học về kỹ thuật soạn thảo và ban hành văn bản, thẩm định và đánh giá tác động của văn bản. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
6. Bố cục của luận văn
Kết cấu đề tài ngoài phần giới thiệu mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1- Cơ sở lý luận về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
- Chương 2- Thực trạng kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
- Chương 3- Giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn tỉnh Than Hoá
CHƯƠNG 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1 Khái quát về văn bản quy phạm pháp pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
1.1.1.Khái niệm, các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành
1.1.1.1. Khái niệm văn bản
Thuật ngữ văn bản hiện nay được hiểu và diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Ở góc độ ngôn ngữ học, có quan niệm cho rằng, “văn bản là giấy ghi nội dung sự kiện”[13, tr 823].
Nhìn nhận từ khía cạnh khai thác yếu tố chức năng, mục đích văn bản được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn bản được hiểu là một phương tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này sang chủ thể khác bằng một ký hiệu hay ngôn ngữ nhất định nào đó. Ví dụ: các văn bản pháp luật, các công văn, tài liệu, giấy tờ.
Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ có giá trị pháp lý nhất định, được sử dụng trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, các tổ chức kinh tế…
1.1.1.2. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Quốc Hội thông qua năm 1996; sửa đổi, bổ sung năm 2002) như sau:
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Và cũng tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật như sau:
“ Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”.
Tuy nhiên, đây là khái niệm dùng cho văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung nên chưa thể phân định rõ văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành và văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan chính quyền địa phương ban hành.
Để phân biệt văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành và văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan chính quyền địa phương ban hành, khoản 1 Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân số 31/2004/QH11 được Quốc Hội thông qua ngày 03/12/2004 quy định khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như sau:
“Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa“. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật nói chung cũng như văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân nói riêng chưa thực sự thoả mãn yêu cầu của các cán bộ thực thi pháp luật, bởi vì, trên thực tế, dù đã có định nghĩa, nhưng chúng ta thường gặp khó khăn khi xác định một văn bản cụ thể có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không. Chính vì thế việc phân tích các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết.
1.1.1.3. Các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật
Nói về văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, về nguyên tắc, nó hoàn toàn là một văn bản quy phạm pháp luật theo định nghĩa của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và điều này đã được chính Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 khẳng định tại khoản 3 Điều 1, cụ thể như sau:
Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp:
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân”.
Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành cũng phải nằm trong tổng hệ thống pháp luật quốc gia. Như vậy, việc định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 chỉ là một sự khẳng định lại những nội dung đã được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 mà thôi [37, tr 42].
Vậy, đâu là dấu hiệu quan trọng để nhận dạng một văn bản quy phạm pháp luật hay một văn bản “có tính quy phạm pháp luật” ?.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có các dấu hiệu sau đây:
- Chứa đựng “quy phạm pháp luật”
Đây là dấu hiệu cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất để xác định văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, việc dự kiến ban hành một văn bản có chứa đựng “quy phạm pháp luật” là yếu tố đầu tiên được xác định trong toàn bộ quá trình ban hành văn bản. Chính yếu tố này đặt ra yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản phải theo trình tự, thủ tục của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói cách khác, nếu không có quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo và ban hành văn bản cũng không phải tuân theo trình tự, thủ tục soạn thảo của văn bản quy phạm pháp luật và cũng không đòi hỏi phải được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định, thậm chí đó là thẩm quyền hiến định.
Quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật có hai dấu hiệu đặc trưng:
Có hiệu lực lâu dài và ổn định; có tính áp dụng chung, tính trừu tượng, không đặt ra cho người này, người kia một cách xác định mà nhằm tới phạm đối tượng ít nhiều rộng hơn hay nói cách khác là không chỉ đích danh đối tượng thi hành.
Được tuân thủ và thực hiện bởi sự cưỡng chế nhà nước, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận buộc mọi người (cơ quan, tổ chức, cá nhân công dân) đều phải nghiêm chỉnh thi hành.
Được ban hành theo trình tự, thủ tục luật định Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng, có tính quyết định để nhận dạng đó là văn bản quy phạm pháp luật đo cơ quan có thẩm quyền ở địa phương ban hành theo thủ tục, trình tự luật định và bằng một hình thức văn bản nhất định. Dấu hiệu này chỉ là dấu hiệu phái sinh, hoàn toàn phụ thuộc vào dấu hiệu “chứa đựng quy phạm pháp luật”
Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân bao gồm: thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung
Thẩm quyền về hình thức: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cho mỗi cơ quan có thẩm quyền được ban hành hình thức văn bản nhất định, nếu việc ban hành không đúng hình thức là vi phạm thẩm quyền. Thẩm quyền về hình thức được quy định tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân gắn với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đó là:
Hội đồng nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Nghị quyết;
Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Quyết định, Chỉ thị.
- Thẩm quyền về nội dung:
Khác với thẩm quyền về nội dung, thẩm quyền về nội dung không được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà thẩm quyền về nội dung được căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Theo đó thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.
Như vậy, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương xuất phát từ thẩm quyền quản lý nhà nước đã được quy định và phân cấp tại Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Chính Phủ. Cũng chính vì vậy mà ngay cả thẩm quyền đặt ra các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau cũng cần phải phân biệt chủ thể nào có thẩm quyền ban hành.
Được Nhà nước bảo đảm thi hành
Thông thường việc bảo đảm này được thực hiện bằng một loạt các biện pháp như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục bằng công tác thuyết phục, bằng việc tạo điều kiện về cơ chế tổ chức thực hiện và cơ sở tài chính nhất định trong trường hợp cần thiết, áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thực hiện và chế tài xử lý nếu có hành vi vi phạm.
1.1.2. Vai trò của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trong quản lý Nhà nước và phát triển Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.1.2.1. Văn bản quy phạm pháp luật có thể điều tiết những vấn đề thực tiễn
Văn bản quy phạm pháp luật không thể làm biến mất ngay lập tức những rác thải trên dòng sông hay tái tạo các khu rừng nhưng bằng môi trường thể chế sẽ khuyến khích thúc đẩy mỗi con người phải hành động vì lợi ích chung, môi trường thúc đẩy nỗ lực của những người điều hành xã hội, những công chức, doanh nhân, những công dân sống và làm việc trong môi trường đó. Không có pháp luật thì nhà nước không thể quản lý được xã hội. Quay trở lại với vấn đề phân quyền cho chính quyền địa phương. Có thể nói, với những vấn đề mà chính quyền trung ương khó có thể với tới thì cần phân quyền cho địa phương để bảo đảm hiệu quả việc quản lý. Một cách hiển nhiên là, dù có quy định chi tiết đến đâu, Quốc hội cũng như Chính phủ khó có thể quy định các biện pháp cụ thể, rõ ràng, đủ chi tiết và phù hợp với việc bảo vệ một cánh rừng này khỏi nạn khai phá bừa bãi hoặc dòng sông kia thoát khỏi việc bị đổ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp. Có thể do phụ thuộc nhiều vào các quy định của cơ quan nhà nước trung ương ban hành nên nhiều chính quyền địa phương chưa nhìn nhận đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của các văn bản quy phạm pháp luật do chính địa phương ban hành.
1.1.2.2. Văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chính sách
Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các chính sách. Pháp luật được ban hành có thể đưa ra các biện pháp gián tiếp, thông qua việc tạo ra hành lang pháp lý mà trong phạm vi đó, từng cá nhân đóng vai trò là động lực. Luật pháp có thể đem lại công bằng xã hội, giảm đói nghèo, tạo ra động lực cho xã hội phát triển. Tuy nhiên, cần lưu ý là phát triển thôi chưa đủ mà còn cần phải phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho các cơ quan ban hành văn bản của địa phương phải có các biện pháp quản lý bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là sẽ không chỉ khai thác cạn kiệt các nguồn lực mà không tính các hệ quả tiếp theo và môi trường sau này. Phát triển bền vững đòi hỏi khi đưa ra các biện pháp quản lý, nhà quản lý phải tính đến việc bảo vệ môi trường. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, địa phương đưa ra các biện pháp để quản lý tốt các trường học, bệnh viện, xây dựng và quản lý tốt hệ thống nước sạch, đường giao thông… Bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chính quyền địa phương đưa ra các biện pháp thu hút đầu tư, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, các cơ chế thực thi hiệu quả. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.1.2.3.Văn bản quy phạm pháp luật có thể tạo ra, phân bổ, phát huy các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế
Pháp luật có thể tạo điều kiện để tăng việc làm và tăng thu nhập. Pháp luật tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tiếp cận với các công nghệ thông tin và thị trường, với các kỹ năng về tín dụng và quản lý, qua đó giúp họ tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Trong trường hợp pháp luật thiếu hiệu quả dẫn đến việc đất nước hay từng vùng địa phương nghèo đói và kém phát triển, người ta gọi đó là “thể chế có vấn đề”. Đặc điểm ở các vùng nông thôn là người dân có mức vốn thấp, hoạt động dựa vào các công nghệ có chi phí thấp và có sẵn ở địa phương, sử dụng các công cụ làm bằng tay nhiều hơn là sử dụng máy móc hay thiết bị hiện đại; hơn nữa, nông thôn còn có nhiều người thất nghiệp. Các nhà soạn thảo cần phải chú ý đưa ra các biện pháp pháp lý để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, thị trường lao động… đồng thời phát huy được các nguồn lực. Có thể thấy rõ pháp luật không chỉ góp phần làm ổn định trật tự xã hội mà còn tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển.
1.1.2.4. Văn bản quy phạm pháp luật góp phần làm ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển
Cần phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Trong khi các quy phạm mang tính xã hội, dù được xã hội thừa nhận, nhưng vẫn không được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thì trái lại, quy phạm pháp luật luôn luôn được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Thật vậy, có một số quy tắc xử sự mà việc không thực hiện nó gắn liền với biện pháp cưỡng chế của cơ quan công quyền, ví dụ người lái xe đi vào đường cấm hay vượt đèn đỏ thì cảnh sát sẽ can thiệp ngay.
Như vậy, luật pháp có một sức mạnh vô cùng to lớn và nhờ nó việc quản lý xã hội đã đạt được những hiệu quả lớn, trong thực tế: nếu không có luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì mọi người không có điều kiện bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Quy phạm đưa ra quy định bắt buộc: người lái xe phải lái xe đi ở bên phải. Quy định mang tính bắt buộc tuyên bố điều mà người ta bắt buộc phải làm. Tất cả các quy phạm này đều nhằm mục đích đưa ra các chuẩn mực ứng xử, điều chỉnh các hành vi xử sự theo mong muốn và cuối cùng là để bảo đảm thiết lập một trật tự xã hội ổn định và phát triển bền vững …
Tóm lại, văn bản quy phạm pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ quy định các giá trị mà người quản lý coi đó là giá trị cơ bản của xã hội, không chỉ đưa ra các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật, đem lại ổn định trật tự xã hội mà còn bảo đảm cho xã hội phát triển. Chính trong ý nghĩa này mà người soạn thảo và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cần chú ý đến vai trò quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý và phát triển. Ngày nay, người ta không nhấn mạnh đến yếu tố “cai trị” của nhà nước mà nhấn mạnh đến trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, trách nhiệm duy trì và bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho từng người dân, bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho họ trong một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Từ trách nhiệm chung của nhà nước, của quốc gia, mỗi cấp chính quyền địa phương có thể thấy được trọng trách của mình. Công cụ để các cấp chính quyền địa phương thực hiện quản lý và bảo đảm phát triển chính là pháp luật.
1.2 Khái quát về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.2.1.Khái niệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
1.2.1.1.Khái niệm kiểm tra
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1996 do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành thì khái niệm kiểm tra, theo nghĩa chung nhất, là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [49,tr.1062]. Theo Thuật ngữ pháp lý do nhà xuất bản Đại học Pháp phát hành, tái bản lần thứ 2 năm 1990 (Gérard Cornu chủ biên) thuật ngữ “kiểm tra” được hiểu dưới các góc độ sau:
Là sự kiểm tra sự phù hợp của một quyết định, một tình trạng, một xử sự… với một chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy phạm); là hoạt động nhằm kiểm tra xem một cơ quan công quyền, một cá nhân hoặc một văn bản có tôn trọng hay không tôn trọng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ hoặc các quy tắc được đặt ra;
Ví dụ: kiểm tra của cơ quan hành chính: là hoạt động kiểm tra tính đúng đắn của các văn bản của cơ quan hành chính so với các quy tắc về hình thức và về nội dung mà các văn bản này phải tuân theo.
Là kiểm tra một sự việc, một hoạt động nhằm bảo đảm tính chính xác của một sự việc hay một lời khai. Ví dụ: kiểm tra chứng minh thư nhân dân
Hoạt động kiểm tra nói chung có nhiệm vụ cơ bản là xem xét, đánh giá về mặt nội dung và hình thức trên cơ sở đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành. Có hình thức kiểm tra đối chiếu với quy định, tức kiểm tra tính hợp thức; có hình thức kiểm tra vượt lên trên yêu cầu kiểm tra tính hợp thức và đồng thời xem xét cách thức mà cơ quan, đơn vị đã thực hiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công việc (thường là kiểm tra nội bộ). Hoạt động kiểm tra được thực hiện trong nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh vực có mục đích, yêu cầu khác nhau, nội dung và phương thức thực hiện cũng khác nhau.
1.2.1.2.Khái niệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nói chung và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân nói riêng được coi là một trong các hoạt động “hậu kiểm’’, tức là sau khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành (rà soát, giám sát, kiểm sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật). Thời điểm tiến hành kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được phân biệt rõ với các hoạt động kiểm tra trước khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành (thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật).
Nói đến kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (khái niệm kiểm tra ở đây được hiểu thống nhất với quy định tại Điều 83 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002), theo đó cần hiểu rằng hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện sau khi văn bản đã được ban hành. Do đó có thể hiểu:
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động tách khỏi hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản. Cơ quan kiểm tra chỉ tiến hành kiểm tra sau khi văn bản đã được ban hành, ngay cả khi văn bản đã phát sinh hiệu lực. Hoạt động kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên nhằm phát hiện những sai trái của các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời sửa chữa, khắc phục sai trái đó. Do vậy, không phụ thuộc vào việc văn bản có dấu hiệu sai trái hay không, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra văn bản vẫn phải tiến hành kiểm tra văn bản trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là sự xem xét, đánh giá hình thức và nội dung văn bản để kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Những tiêu chí có tính quyết định khi đánh giá một văn bản quy phạm pháp luật là sự tuân thủ thẩm quyền hình thức, thẩm quyền nội dung và sự phù hợp của văn bản với các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Tóm lại, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành là hoạt động được tiến hành thường xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật, qua đó, phát hiện những dấu hiệu trái pháp luật về hình thức, về nội dung để kịp thời xử lý, hoặc đề xuất với cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật nhằm góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
1.2.2.1. Mục đích: Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, việc kiểm tra văn bản được tiến hành nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật.
Như vậy, theo nội dung của Điều luật này, mục đích kiểm tra văn bản bao gồm:
Thứ nhất, phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản. Đây là mục đích trực tiếp của hoạt động kiểm tra. Người kiểm tra phải xem xét kỹ toàn bộ nội dung cũng như hình thức thể hiện của văn bản được kiểm tra, từ tiêu ngữ, quốc hiệu, tên cơ quan ban hành, số và ký hiệu, địa danh, ngày, tháng, năm ban hành văn bản, tên loại văn bản, trích yếu, nội dung đến nơi nhận, chữ ký, đóng dấu. Trong phần nội dung của văn bản, người kiểm tra phải xem xét kỹ, xác định được những điểm trái pháp luật về căn cứ pháp lý, về thẩm quyền ban hành, về nội dung từng quy định cụ thể, về ngày có hiệu lực của văn bản…;
Thứ hai, căn cứ vào tính chất, mức độ trái pháp luật của nội dung văn bản, người kiểm tra kiến nghị các hình thức xử lý thích hợp đối với nội dung sai trái đó: đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản, đồng thời kiến nghị xử lý cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật;
Thứ ba, mục đích có tính chất bao trùm toàn bộ hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản là: thông qua hoạt động này, không chỉ phát hiện và xử lý những nội dung sai trái của các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành mà còn góp phần bảo đảm việc soạn thảo, ban hành văn bản có chất lượng cao hơn, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi, phục vụ trực tiếp yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2.2. Ý nghĩa: Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có ý nghĩa trước hết là phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bởi vì, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Việc kiểm tra văn bản sẽ góp phần loại bỏ những văn bản trái pháp luật, những quy phạm pháp luật mẫu thuẫn, chồng chéo, góp phần tạo nên hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kịp thời những văn bản trái pháp luật. Thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho thấy, còn có nhiều văn bản được ban hành không đúng thẩm quyền. Những văn bản trái pháp luật này nếu không được sửa đổi hoặc bãi bỏ kịp thời sẽ gây ra những hậu quả nhất định, xâm phạm trật tự quản lý nhà nước và làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước.
Việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân không chỉ có ý nghĩa dưới góc độ quản lý nhà nước mà còn có ý nghĩa dưới góc độ dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thực vậy, một số văn bản trái pháp luật đã làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, nếu không được đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ hoặc huỷ bỏ kịp thời sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước và đối với tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là một hoạt động quản lý nhà nước và nó góp phần vào việc bảo đảm tính kỷ luật trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Sự tồn tại của hoạt động kiểm tra đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cũng góp phần tích cực cho công tác rà soát, tập hợp hoá, hệ thống hoá, pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.2.3. Đặc điểm của kiểm tra văn bản
1.2.3.1. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước:
Kiểm tra văn bản là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước bởi xuất phát từ mục đích của kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là nhằm bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật. Việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện bởi chủ thể là cơ quan công quyền có thẩm quyền riêng được pháp luật quy định. Vì vậy, các cơ quan ban hành văn bản, cơ quan nhà nước có liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện cho cơ quan kiểm tra thực hiện nhiệm vụ.
1.2.3.2. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động có tính chất phòng ngừa.
Kiểm tra văn bản là hoạt động có tính chất phòng ngừa được áp dụng với văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành. Hoạt động kiểm tra được tiến hành thường xuyên, hệ thống đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc đối tượng kiểm tra không kể văn bản đã được phát hiện có sai phạm hay không. Việc kiểm tra văn bản có thể là kiểm tra một cách hệ thống, thường xuyên, có tính phòng ngùa và cũng có thể là kiểm tra đột xuất theo vụ việc hoặc theo chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên kiểm tra thường xuyên với tính chất là biện pháp phòng ngừa từ xa cần được chú trọng và qua công tác kiểm tra này để phát hiện dấu hiệu trái pháp luật của các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời sữa chữa, khắc phục. Phòng ngừa từ xa cũng thể hiện vai trò quản lý vĩ mô của một nhà nước, do vậy, ngay cả khi chưa biết rõ văn bản có dấu hiệu trái pháp luật thì cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm kiểm tra văn bản vẫn phải thực hiện nhiệm vụ kiểm tra (hay tự kiểm tra văn bản do mình ban hành).
1.2.3.3. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động có tính chủ động cao.
Chủ thể kiểm tra văn bản (khác với chủ thể tự kiểm tra) phải là chủ thể đôc lập với đối tượng chịu sự kiểm tra. Trong việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan kiểm tra độc lập với cơ quan ban hành văn bản. Tính độc lập này giúp cơ quan kiểm tra có thể chủ động thực hiện quyền kiểm tra đối với bất kỳ một văn bản nào thuộc thẩm quyền kiểm tra của mình. Tính độc của cơ quan kiểm tra không đồng nghĩa với việc cơ quan kiểm tra không cần nhận sự hợp tác, phối hợp của các cơ quan có liên quan mà các cơ quan phải tạo điều kiện cho cơ quan kiểm tra hoàn thành nhiệm vụ. Các cơ quan kiểm tra đựơc pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định để hoàn thành nhiệm vụ được giao như có quyền xử lý văn bản ở một cấp độ nhất định theo quy định của pháp luật.
1.2.4 Phân biệt kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và các hoạt động tương tự Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.2.4.1. Phân biệt giám sát và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật:
Điểm khác biệt cơ bản giữa giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là ở chủ thể thực hiện các quyền này. Kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật được pháp luật quy định cho các chủ thể khác nhau. Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện quyền kiểm tra; Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan, tổ chức khác và nhân dân địa phương tham gia giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật.
Tuy nhiên, giám sát và kiểm tra văn bản đều hướng tới mục đích nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật.
1.2.4.2. Phân biệt kiểm tra văn bản và thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:
Hoạt động dễ gây nhầm lẫn với kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và điểm chung giữa chúng là hướng tới việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, bản chất của thẩm định là kiểm tra trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật ”nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm khuyết, hạn chế và dự báo, phòng ngừa những điểm sai trái có thể có trong dự thảo” [4,tr.7]. Thẩm định là hoạt động tiến hành trước khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, khác với kiểm tra văn bản chỉ tiến hành sau khi văn bản được ban hành. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Thẩm định có nội dung rộng hơn kiểm tra, có xem xét, đánh giá tính khả thi, kỹ thuật soạn thảo của dự thảo. Kiểm tra văn bản không đánh giá tính khả thi, kỹ thuật soạn thảo của văn bản như hoạt động thẩm định. Nếu như hoạt động thẩm định nhằm hạn chế tối đa sự mâu thuẫn, chồng chéo, không hợp pháp, thiếu đồng bộ cũng như thiếu tính khả thi của văn bản trước khi văn bản được ban hành thì hoạt động kiểm tra nhằm loại bỏ, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo, không hợp pháp của văn bản sau khi ban hành …
1.2.4.3. Phân biệt kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật:
Cần phân biệt công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật – một hoạt động có nội dung và mục đích tương tự hoạt động kiểm tra văn bản.
Theo Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, rà soát văn bản quy phạm pháp luật “ là các thao tác kỹ thuật nghiệp vụ nhằm soát, xét lại các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong một thời gian nhất định, được tiến hành theo chuyên đề, lĩnh vực hay theo ngành luật, phát hiện những quy định của văn bản dưới luật có mâu thuẫn, chồng chéo, trái với quy định của Hiến pháp và các đạo luật “ [9, tr.25].
Tuy có điểm giống nhau giữa kiểm tra và rà soát là đều tiến hành sau khi văn bản được ban hành và đều nhằm phát hiện những quy định mâu thuẫn, trái pháp luật, nhưng khi tiến hành rà soát văn bản, người rà soát có thể xem xét về tính hợp lý của văn bản, sự phù hợp với tình hình thực tế (trong khi đó, kiểm tra văn bản xem xét về sự phù hợp với các quy định của pháp luật) Cơ quan tiến hành rà soát có thể xem xét về tính hợp lý của các quy định trong văn bản hay tính hợp lý của toàn bộ văn bản. Có thể thấy rõ mục đích của hoạt động rà soát và kết quả của rà soát là giúp cho việc tìm hiểu, sử dụng, áp dụng một cách dễ dàng, thuận tiện các văn bản pháp luật, đồng thời phát hiện những quy định có mâu thuẫn, chồng chéo để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chúng.
1.3.Quy định của pháp luật hiện hành về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.3.1.Nguyên tắc kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
1.3.1.1. Nguyên tắc kiểm tra:
Để đạt được mục đích của việc kiểm tra văn bản là xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khi tiến hành kiểm tra văn bản cần phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 4 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, cụ thể là:
Công tác kiểm tra văn bản phải do các cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thường xuyên, kịp thời, theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong việc kiểm tra.
Hoạt động kiểm tra văn bản dù được tiến hành theo phương thức nào (tự kiểm tra hay kiểm tra theo thẩm quyền) thì cũng phải bảo đảm nguyên tắc này. Trong quá trình kiểm tra văn bản, cơ quan có thẩm quyền có thể tổ chức đội ngũ cộng tác viên làm công tác kiểm tra, song đội ngũ này cũng phải được lựa chọn theo đúng quy định về cộng tác viên kiểm tra văn bản và cơ quan có thẩm quyền luôn là đầu mối chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả kiểm tra văn bản.
Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản phải tổ chức tự kiểm tra văn bản do mình ban hành trước khi cơ quan chức năng kiểm tra.
Việc tự kiểm tra văn bản là bước quan trọng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do văn bản có nội dung trái pháp luật gây ra, đặc biệt với trường hợp văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Chính vì thế, cơ quan ban hành văn bản cần tiến hành việc tự kiểm tra văn bản ngay sau khi văn bản được ban hành, tránh tình trạng khi được cơ quan có thẩm quyền, các phương tiện thông tin đại chúng hoặc cá nhân thông tin về văn bản có nội dung trái pháp luật thì cơ quan ban hành văn bản đó mới biết.
Cơ quan, tổ chức và cá nhân khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo trong quá trình thực hiện, có quyền phản ánh với các cơ quan thông tin đại chúng và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản đó.
Thông tin phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật có thể được thực hiện trực tiếp hoặc bằng văn bản, yêu cầu phải rõ ràng, cụ thể nhằm tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xử lý văn bản đó theo quy định của pháp luật, tránh thiệt hại thực tế. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Nghiêm cấm lợi dụng việc kiểm tra vì mục đích vụ lợi cá nhân, gây khó khăn cho hoạt động bình thường của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản có văn bản được kiểm tra.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động kiểm tra phải nhằm bảo vệ lợi ích chung, hạn chế tới mức thấp nhất những hành vi tiêu cực trong hoạt động kiểm tra văn bản.
1.3.1.2. Nguyên tắc xử lý
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, việc xử lý văn bản trái pháp luật được tiến hành theo những nguyên tắc sau:
- Văn bản có dấu hiệu trái pháp luật phải được cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản thông báo ngay cho cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản để tự kiểm tra và xử lý.
- Việc xử lý văn bản trái pháp luật phải do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời và triệt để theo đúng quy định của pháp luật.
- Các văn bản trái pháp luật phải bị đình chỉ thi hành ngay và phải bị bãi bỏ hoặc huỷ bỏ kịp thời.
- Cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận và quyết định xử lý của mình; nếu quyết định xử lý trái pháp luật thì phải khắc phục hậu quả pháp lý do quyết định đó gây ra.
- Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức và cá nhân can thiệp vào quá trình xử lý văn bản trái pháp luật.
1.3.2. Đối tượng của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Đối tượng của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành.
Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề cập đến đối tượng của hoạt động kiểm tra, xử lý là các văn bản của chính quyền địa phương ban hành, gồm: văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành.
Các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được kiểm tra, xử lý gồm: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp; Quyết định, Chỉ thị của và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành là đối tượng được kiểm tra gồm: Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Ví dụ: các công văn, thông báo, điện báo, các giấy tờ hành chính khác của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành có chứa quy tắc xử sự chung;
Văn bản của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ở địa phương có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật, Ví dụ: Quyết định, Chỉ thị do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ban hành; các công văn thông báo, điện báo, các giấy tờ hành chính khác có chứa quy phạm pháp luật cũng do các cơ quan này ban hành.
1.3.3.Nội dung kiểm tra văn bản
Nội dung kiểm tra văn bản là xem xét, đánh giá, kết luận tính hợp pháp của văn bản dựa trên năm tiêu chí theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP:
Được ban hành đúng căn cứ pháp lý, tức là việc ban hành văn bản có căn cứ pháp lý và những căn cứ pháp lý đó đang có hiệu lực pháp luật vào thời điểm ban hành; cơ quan, thủ trưởng đơn vị trình dự thảo văn bản có thẩm quyền trình theo quy định của pháp luật; những đề nghị để ban hành văn bản là hợp pháp;
Được ban hành đúng thẩm quyền, bao gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là cơ quan, người có thẩm quyền chỉ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng hình thức (tên gọi) đã được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cho cơ quan, người có thẩm quyền đó.
Ví dụ: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư; Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị.
Còn thẩm quyền về nội dung là việc cơ quan, người có thẩm quyền chỉ được ban hành các văn bản phù hợp với thẩm quyền của mình được pháp luật cho phép hoặc đã được phân công, phân cấp
Phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Ví dụ: Thông tư do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên quan đến nội dung của Thông tư. Chẳng hạn, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư hướng dẫn chế độ chi tiêu hội nghị đối với các đơn vị do Bộ Tư pháp quản lý thì phải phù hợp với Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về vấn đề này.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh A phải phù hợp với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Uỷ ban nhân dân tỉnh A ban hành quyết định hoặc chỉ thị thì nội dung phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương và còn phải phù hợp với nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh đó.
Một vấn đề cần lưu ý là nội dung của văn bản phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành còn bao gồm yếu tố phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Đối với văn bản được kiểm tra điều chỉnh những vấn đề đã được quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì điều ước quốc tế đó cũng là cơ sở pháp lý để kiểm tra văn bản này;
Được ban hành đúng thể thức và kỹ thuật trình bày, bao gồm tiêu ngữ, quốc hiệu; tên cơ quan ban hành; số và ký hiệu (ghi năm ban hành ở giữa số và ký hiệu); địa danh, ngày, tháng, năm ban hành; tên loại văn bản, trích yếu; nội dung; viết đúng chính tả, ngữ pháp tiếng Việt và văn phong pháp luật; nơi nhận; chữ ký; đóng dấu (kể cả các dấu chỉ mức độ mật, dấu chỉ mức độ khẩn, dấu chỉ “tài liệu họp”, “họp xong phải thu hồi”) và cách trình bày;
Tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành và đăng Công báo, đưa tin hoặc công bố văn bản. Trường hợp phát hiện văn bản được kiểm tra có nội dung trái pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền kiểm tra phải xem xét thủ tục xây dựng và ban hành văn bản để làm cơ sở cho việc xác định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật cũng như cơ quan, người có trách nhiệm tham mưu, đề xuất nội dung trái pháp luật và kiến nghị xử lý theo thẩm quyền.
1.3.4 Phương thức tiến hành kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật:
Theo quy định tại Điều 6 và Điều 11 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, hoạt động kiểm tra văn bản được tiến hành bằng các phương thức: tự kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản và kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo nhiệm vụ được phân công.
1.3.4.1.Tự kiểm tra văn bản: Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Tự kiểm tra văn bản là hoạt động kiểm tra văn bản của cơ quan ban hành văn bản đối với chính văn bản do mình ban hành.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp phải tự kiểm tra văn bản do mình ban hành. Đầu mối giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện hoạt động tự kiểm tra văn bản là người đứng đầu tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ (riêng đối với Bộ Tư pháp là Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản); đầu mối giúp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp là Trưởng ban pháp chế của Hội đồng nhân dân và Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng ban Tư pháp cấp xã.
Văn bản thuộc phạm vi tự kiểm tra bao gồm văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP.
Tự kiểm tra văn bản được tiến hành theo phương thức thường xuyên và kịp thời. Nội dung tự kiểm tra bao gồm: kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp, thẩm quyền ban hành văn bản, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, các thủ tục xây dựng, ban hành, đăng Công báo, đưa tin hoặc công bố văn bản, tính hợp lý, tính khả thi của văn bản, sự phù hợp của nội dung văn bản với tình hình kinh tế – xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước.
Tự kiểm tra văn bản là một trong hai phương thức kiểm tra văn bản. Mục đích của tự kiểm tra văn bản là nhằm đề cao trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản, đồng thời tạo cơ hội để cơ quan này phát hiện, xử lý kịp thời trong trường hợp văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Tự kiểm tra văn bản đóng vai trò quan trọng đối với việc lập lại kỷ cương trong công tác ban hành văn bản ở ngay cơ quan ban hành văn bản. Cùng với việc thường xuyên, định kỳ rà soát để loại bỏ những văn bản mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, công tác tự kiểm tra văn bản còn góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản của các bộ, ngành, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, đóng vai trò quan trọng cho việc tạo lập một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, minh bạch và công khai làm cơ sở cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật.
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, việc tự kiểm tra văn bản được thực hiện theo phương thức thường xuyên và kịp thời. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Kiểm tra văn bản thường xuyên là việc cơ quan ban hành văn bản phải coi việc tự kiểm tra văn bản là nhiệm vụ hàng ngày. Trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các bộ, ngành, địa phương phải thường xuyên rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan do mình ban hành nhằm phát hiện những quy định không còn phù hợp với thực tế, các quy định chồng chéo, các quy định không có tính khả thi hoặc không còn khả thi, các quy định trái pháp luật để kịp thời sửa đổi, thay thế hoặc hủy bỏ, đồng thời hệ thống hóa các văn bản còn hiệu lực theo ngành, theo lĩnh vực. Ngoài ra, để đảm bảo thực hiện phương thức này, định kỳ sáu tháng, hàng năm, cơ quan ban hành văn bản cần tổ chức tổng kiểm tra văn bản do cơ quan mình ban hành.
Kiểm tra văn bản kịp thời là kiểm tra ngay khi tình hình kinh tế – xã hội thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản do cơ quan mình đã ban hành không còn phù hợp và khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân và các phương tiện thông tin đại chúng về văn bản do mình đã ban hành có dấu hiệu trái pháp luật hoặc không còn phù hợp.
Như vậy, có thể nói về bản chất, tự kiểm tra văn bản chính là hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản do mình ban hành vẫn được thực hiện ở các cơ quan trong những năm qua. Tuy nhiên, đến thời điểm này, nó được tiến hành có tổ chức, quy mô và là bộ phận không tách rời của kiểm tra văn bản theo thẩm quyền để tạo thành hoạt động kiểm tra văn bản.
Việc tự kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản được tiến hành thường xuyên đối với các văn bản do mình ban hành và kịp thời tổ chức rà soát, kiểm tra những văn bản đó khi tình hình kinh tế – xã hội đã thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản do mình đã ban hành không còn phù hợp. Đồng thời, việc tự kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản còn được tiến hành khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và các phương tiện thông tin đại chúng về văn bản do mình ban hành có dấu hiệu trái pháp luật hoặc không còn phù hợp.
Theo hướng dẫn tại điểm 1 Mục II Thông tư số 01/2004/TT-BTP thì tuỳ theo tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lượng văn bản được ban hành của từng bộ, ngành, địa phương, việc tự kiểm tra văn bản có thể được giao cho tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương trực tiếp thực hiện hoặc phân công cho các đơn vị thuộc bộ, ngành, các sở, ban, ngành của địa phương thực hiện theo lĩnh vực được giao phụ trách với điều kiện bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương trong việc xây dựng kế hoạch, đôn đốc theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp và báo cáo kết quả tự kiểm tra với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.3.4.2. Kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo nhiệm vụ được phân công:
Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, kiểm tra văn bản theo thẩm quyền là một trong hai phương thức kiểm tra văn bản. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Kiểm tra theo thẩm quyền là việc kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra theo nhiệm vụ được phân công, bao gồm kiểm tra văn bản do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản gửi đến; tổ chức đoàn kiểm tra theo chuyên đề, địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực; kiểm tra khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo nhiệm vụ được phân công là một cách gọi khác của kiểm tra văn bản theo thẩm quyền. Nghị định số 135/2003/NĐ-CP quy định thẩm quyền kiểm tra văn bản cho Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Theo đó, việc kiểm tra văn bản phải được tiến hành đúng thẩm quyền nhằm đảm bảo tính hệ thống, khoa học và đạt hiệu quả quản lý nhà nước cao nhất.
Bản chất của hoạt động kiểm tra theo thẩm quyền chính là kiểm tra theo nhiệm vụ được phân công. Thông qua sự phân công rõ ràng nhiệm vụ kiểm tra theo từng lĩnh vực chuyên môn, từng cấp, giữa các cơ quan sẽ có sự kiểm tra chéo theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Từ đó, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản khi ban hành, tránh tình trạng văn bản của bộ, ngành, địa phương mâu thuẫn, chồng chéo với nhau, trái với văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hoặc trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Ngoài ra, việc kiểm tra theo thẩm quyền còn xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan trong công tác kiểm tra để tránh trùng lắp hoặc chồng lấn nhau. Tuy nhiên, mọi sự phân định chỉ là tương đối, việc tranh chấp thẩm quyền rất có thể xảy ra trong thực tế và khi đó việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền sẽ tuân theo quy định tại Nghị định số 135/2003/NĐ-CP
1.3.5. Thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và vai trò của cơ quan tư pháp địa phương trong hoạt động kiểm tra.
1.3.5.1. Thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp:
Kiểm tra theo thẩm quyền:
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 13 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện kiểm tra văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành (nghị quyết, quyết định, chỉ thị). Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện kiểm tra văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành (nghị quyết, quyết định, chỉ thị).
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 17 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc xử lý văn bản trái pháp luật do Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành bằng hình thức ra quyết định đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ. Trường hợp văn bản trái pháp luật là nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định đình chỉ việc thi hành, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bãi bỏ.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xử lý văn bản trái pháp luật do Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành bằng hình thức ra quyết định đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ. Trường hợp văn bản trái pháp luật là nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định đình chỉ thi hành, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp huyện bãi bỏ theo quy định của pháp luật. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp là người giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp mình thực hiện việc kiểm tra, xử lý và tổ chức kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền. Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp có thể yêu cầu cơ quan đã ban hành văn bản gửi văn bản đến Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp để kiểm tra theo thẩm quyền, kiểm tra tại cơ quan ban hành văn bản hoặc tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành.
Qua quá trình kiểm tra, nếu phát hiện văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái pháp luật, Giám đốc Sở Tư pháp hoặc Trưởng phòng Tư pháp giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp mình gửi ngay thông báo đến Uỷ ban nhân dân cấp dưới đã ban hành văn bản yêu cầu tự kiểm tra và xử lý trong thời hạn luật định. Sau đó, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp có trách nhiệm theo dõi việc tự kiểm tra, xử lý của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp và thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để xử lý nội dung sai trái của văn bản bằng các hình thức: đình chỉ việc thi hành và bãi bỏ. Trường hợp phát hiện văn bản trái pháp luật là nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp làm thủ tục thông báo để Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp tự kiểm tra, xử lý theo luật định, soạn thảo quyết định đình chỉ thi hành nghị quyết trái pháp luật để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét, ký gửi cho Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp đã ban hành nghị quyết trái pháp luật đó, đồng thời soạn thảo văn bản đề nghị để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký gửi Hội đồng nhân dân cấp mình xem xét, ra quyết định bãi bỏ nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, khi có yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng và của cá nhân, Giám đốc Sở Tư pháp cũng có thẩm quyền xử lý theo trình tự nêu trên đối với những văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật do Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành; Trưởng phòng Tư pháp có thẩm quyền xử lý các văn bản nói trên do Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành.
Tự kiểm tra:
Tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành:
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải tự kiểm tra văn bản do mình ban hành nhằm phát hiện quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ văn bản đó.
Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng ban Pháp chế của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là đầu mối giúp Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc tự kiểm tra văn bản. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, Giám đốc Sở Tư pháp thông báo ngay cho đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản về kết quả kiểm tra, yêu cầu đơn vị đó xem xét tự kiểm tra, đồng thời phối hợp với đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản để làm rõ các nội dung đã được kiểm tra, trao đổi ý kiến về nội dung trái pháp luật hoặc không còn phù hợp của văn bản, biện pháp xử lý và chuẩn bị văn bản sửa đổi, thay thế (nếu cần), báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về nội dung trái pháp luật của văn bản để xử lý theo thẩm quyền.
Trường hợp có ý kiến khác nhau về những nội dung trái pháp luật của văn bản hoặc các biện pháp xử lý thì Giám đốc Sở Tư pháp báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân bằng văn bản. Báo cáo phải nêu rõ quan điểm của Sở Tư pháp, ý kiến của đơn vị chủ trì soạn thảo, ý kiến của các đơn vị và các tài liệu có liên quan, đồng thời đề xuất hướng giải quyết.
Ngoài ra, theo hướng dẫn tại điểm 3 Mục II Thông tư số 01/2004/TT-BTP, tuỳ theo tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lượng văn bản được ban hành của từng tỉnh, việc tự kiểm tra văn bản có thể được giao cho Sở Tư pháp trực tiếp thực hiện hoặc phân công cho các sở, ban, ngành của tỉnh thực hiện theo lĩnh vực được giao phụ trách với điều kiện bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của Sở Tư pháp trong việc xây dựng kế hoạch, đôn đốc, theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp và báo cáo kết quả tự kiểm tra với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành:
Cũng theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP thì Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải tự kiểm tra văn bản do mình ban hành. Về nguyên tắc, các cơ quan trên phải tổ chức tự kiểm tra văn bản do mình ban hành trước khi các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra.
Trưởng Phòng Tư pháp là đầu mối giúp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản.
Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, Trưởng phòng Tư pháp tổ chức thảo luận, trao đổi thống nhất về nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra và thông báo để đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản đó tự kiểm tra, xử lý. Trường hợp những nội dung trái pháp luật có khả năng gây hậu quả lớn cho xã hội thì Trưởng phòng Tư pháp có thể báo cáo trực tiếp cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản đình chỉ việc thi hành văn bản. Để công tác tự kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật được thực hiện tốt, sau khi gửi thông báo, lãnh đạo Phòng Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản để trao đổi, thảo luận về những nội dung trái pháp luật của văn bản và hướng xử lý những nội dung đó. Việc trao đổi, thảo luận có thể được thực hiện dưới hình thức làm việc trực tiếp hoặc tổ chức hội thảo, tọa đàm lấy kiến của các chuyên gia, đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tùy từng trường hợp cụ thể. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành:
Cấp xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở, gần với nhân dân nhất. Ở cấp này, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không nhiều, tuy nhiên thực tế cho thấy, đây là cấp mà số lượng văn bản được ban hành có khả năng xảy ra sai trái nhiều. Chính vì lẽ đó, pháp luật quy định trách nhiệm tự kiểm tra văn bản do cấp xã ban hành cho Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân cấp này.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra những văn bản do Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân xã đó đã ban hành (đặc biệt là văn bản có chứa quy phạm pháp luật) nhằm vừa bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, vừa bảo đảm tính khả thi, phù hợp của những quy định pháp luật với tình hình thực tế của địa phương.
Ban Tư pháp đóng vai trò là đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ tự kiểm tra văn bản. Ngay từ thời điểm xây dựng văn bản, Ban Tư pháp xã mà trực tiếp là cán bộ tư pháp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã căn cứ văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và thực tiễn quản lý nhà nước ở địa phương để ban hành văn bản. Sau khi văn bản được ban hành, cán bộ tư pháp lại là người giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp mình thực hiện tự kiểm tra văn bản đó. Trên cơ sở tình hình thực tế tại địa phương và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cán bộ tư pháp có trách nhiệm so sánh, đối chiếu tỷ mỉ nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản, sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Khi tình hình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương có thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới, cán bộ tư pháp có trách nhiệm tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân xã đã ban hành nhằm phát hiện những điểm không còn phù hợp để thay thế, sửa đổi, bãi bỏ, đình chỉ kịp thời.
Trường hợp phát hiện văn bản do Uỷ ban nhân dân hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp mình ban hành có nội dung trái pháp luật, cán bộ tư pháp xã phải kịp thời thông báo với Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã để kịp thời xem xét, hủy bỏ văn bản đó.
Theo hướng dẫn tại điểm 3 Mục II Thông tư số 01/2004/TT-BTP, tuỳ theo tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lượng văn bản được ban hành của từng tỉnh, việc tự kiểm tra văn bản có thể được giao cho Sở Tư pháp trực tiếp thực hiện hoặc phân công cho các sở, ban, ngành của tỉnh thực hiện theo lĩnh vực được giao phụ trách với điều kiện bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của Sở Tư pháp trong việc xây dựng kế hoạch, đôn đốc, theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp và báo cáo kết quả tự kiểm tra với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.3.5.2.Vai trò của cơ quan tư pháp địa phương (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp) trong việc giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Ở địa phương, các cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện cần phối hợp với Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp để giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân kiểm tra văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp dưới và của cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản ở địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản ở địa phương;
- Đôn đốc, chỉ đạo công tác kiểm tra văn bản ở địa phương;
- Sơ kết, tổng kết, tổ chức hội thi về công tác kiểm tra văn bản của địa phương; định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp (đối với cấp tỉnh), ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với cấp huyện) về công tác kiểm tra văn bản;
- Phối hợp và tạo điều kiện để các cơ quan kiểm tra văn bản kiểm tra theo thẩm quyền;
- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản tại địa phương; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;
- Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc kiểm tra văn bản;
Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán bộ, công chức và cộng tác viên trong công tác kiểm tra văn bản ở địa phương mình; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp huyện kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật;
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
Các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản.
1.4. Các quy định về xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
1.4.1. Biện pháp xử lý cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật:
Căn cứ vào nội dung trái pháp luật và mức độ thiệt hại trên thực tế do văn bản trái pháp luật gây ra, cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật có thể bị xử lý sau khi có kiến nghị của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản. Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản có quyền kiến nghị xử lý bằng các biện pháp:
Biện pháp khắc phục: cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật phải kịp thời áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành và thực hiện văn bản trái pháp luật gây ra.
Đặc biệt, đối với trường hợp văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành thì cơ quan, người đã ban hành văn bản phải đình chỉ ngay việc thực hiện văn bản đó trong thực tế.
Biện pháp xử lý: cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản xác định hình thức, mức độ xử lý đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Tuỳ theo tính chất và mức độ trái pháp luật của văn bản, đối tượng ban hành (tổ chức hay cá nhân), cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật, kể cả các văn bản trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Theo hướng dẫn tại điểm 4.3 Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, người kiểm tra văn bản cũng có thể đề xuất hình thức xử lý trách nhiệm nói trên đối với cơ quan, người có trách nhiệm tham mưu, đề xuất nội dung trái pháp luật trong trường hợp cơ quan, người đó có lỗi.
Trong thực tiễn, người ban hành văn bản là cán bộ, công chức, do vậy, việc xử lý trách nhiệm đối với những đối tượng này được pháp luật về cán bộ, công chức điều chỉnh cụ thể cho từng trường hợp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26/02/1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003 thì hình thức kỷ luật áp dụng đối với cán bộ công chức gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc. Việc xử lý kỷ luật thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cán bộ, công chức.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 39 Pháp lệnh nêu trên, cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
Cũng theo quy định của Pháp lệnh này, cán bộ, công chức vi phạm pháp luật mà có dấu hiệu tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
1.4.2. Công bố kết quả xử lý văn bản
Việc công bố kết quả xử lý văn bản trái pháp luật là một căn cứ quan trọng nhằm xác định hiệu lực của văn bản đó. Do vậy, theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP và khoản 2 Điều 6 Nghị định số 104/2004/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì quyết định xử lý văn bản trái pháp luật của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về việc bãi bỏ, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản trái pháp luật theo thẩm quyền phải được đăng Công báo hoặc công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương hoặc địa phương. Ngoài ra, theo hướng dẫn tại điểm 5.2 Mục I Thông tư số 01/2004/TT-BTP, thì việc công bố kết quả xử lý văn bản nêu trên cũng được áp dụng đối với kết quả xử lý văn bản trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản tự kiểm tra văn bản do mình ban hành.
Đối với các văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành (theo Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP), thì kết quả xử lý phải được gửi cho tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà trước đó văn bản bị huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành đã gửi đến. Nếu văn bản đã đăng Công báo hoặc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, thì kết quả xử lý cũng phải được đăng Công báo và đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Cần lưu ý là từ ngày 01/4/2005, khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực, thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và quyết định xử lý các văn bản này sẽ không còn được đăng trên Công báo cấp tỉnh mà phải niêm yết, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Việc công bố kết quả xử lý văn bản trái pháp luật phải được thực hiện trong thời gian sớm nhất sau khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật. Mức độ và thời lượng đưa tin về kết quả xử lý văn bản trái pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng phải tương xứng với việc phổ biến trước đó đối với văn bản có nội dung trái pháp luật đã bị xử lý.
1.4.3. Thông báo văn bản trái pháp luật
Theo hướng dẫn tại điểm 6 Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, thông báo văn bản sai trái (một phần hoặc toàn bộ) được thực hiện sau khi lãnh đạo cơ quan kiểm tra đã tổ chức thảo luận, trao đổi, thống nhất về nội dung có dấu hiệu trái pháp luật của văn bản đó trên cơ sở hồ sơ về văn bản có nội dung trái pháp luật do người kiểm tra lập. Thông báo được thực hiện nhằm mục đích để cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật đó tự kiểm tra, xử lý và thông báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản trong thời hạn luật định. Thông báo được trình bày bằng văn bản, hình thức như công văn hành chính thông thường với các nội dung chính sau đây:
- Tên văn bản được kiểm tra;
- Văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra;
- Ý kiến của cơ quan kiểm tra về nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra;
- Yêu cầu cơ quan, người đã ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản.
1.4.4. Các hình thức xử lý văn bản sai trái:
1.4.4.1. Hình thức đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản:
Theo hướng dẫn tại điểm 4.2.a Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, hình thức đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật được người kiểm tra đề xuất áp dụng trong trường hợp qua quá trình kiểm tra, người kiểm tra phát hiện văn bản được kiểm tra có nội dung sai trái và nếu nội dung sai trái đó chưa được sửa đổi, bãi bỏ, huỷ bỏ kịp thời mà tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, có thể thấy, hình thức đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản được áp dụng trong hai trường hợp sau đây:
Cơ quan kiểm tra không có thẩm quyền xử lý bằng các hình thức khác như: hủy bỏ, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản đó. Một trong các trường hợp có thể áp dụng hình thức này là khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, phát hiện nghị quyết đó có nội dung sai trái, nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lại không có thẩm quyền bãi bỏ, hủy bỏ, sửa đổi nghị quyết sai trái đó.
Đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản trong thời gian xem xét để có quyết định xử lý chính thức. Đây là trường hợp được áp dụng khi cơ quan kiểm tra phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và nếu tiếp tục thực hiện thì nội dung sai trái đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Kết thúc thời gian này sẽ có quyết định xử lý chính thức đối với văn bản hoặc phần văn bản có nội dung sai trái.
Việc đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản được áp dụng trên cơ sở đề xuất của người kiểm tra khi phát hiện văn bản được kiểm tra có nội dung sai trái Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.4.4.2. Hình thức sửa đổi văn bản:
Sửa đổi văn bản là một trong các biện pháp khắc phục những nội dung sai trái trong văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo hướng dẫn tại điểm 4.2.b Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, hình thức sửa đổi văn bản được áp dụng trong trường hợp văn bản được ban hành đúng thẩm quyền nhưng có một phần nội dung không phù hợp với nội dung văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và cần phải có quy định khác thay thế nội dung đó.
Theo quy định tại Điều 9 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi bằng một văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó và như vậy việc sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật (những văn bản được kiểm tra và xử lý theo quy định tại Nghị định số 135/2003/NĐ-CP) thuộc trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp là các cơ quan có văn bản được kiểm tra
1.4.4.3.Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản:
Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản quy phạm pháp luật là một trong các biện pháp khắc phục đối với những văn bản sai trái hoặc phần nội dung sai trái trong văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bằng cách chấm dứt hiệu lực của văn bản hoặc phần văn bản đó.
Theo hướng dẫn tại điểm 4.2.c Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản được áp dụng trong trường hợp nội dung đó (một phần hoặc toàn bộ) trái với nội dung của văn bản mới được ban hành là cơ sở pháp lý của văn bản được kiểm tra mà không thuộc trường hợp cần đề xuất sửa đổi.
Hình thức này được người kiểm tra đề xuất áp dụng khi phát hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản được kiểm tra có dấu hiệu “trái với nội dung của văn bản mới được ban hành là cơ sở pháp lý của văn bản được kiểm tra”. Đây là dấu hiệu đặc trưng cơ bản để người kiểm tra đề xuất hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản. Dấu hiệu trái pháp luật đó phát sinh từ thời điểm văn bản là cơ sở pháp lý của văn bản được kiểm tra được thay thế bằng một văn bản mới và nội dung của văn bản được kiểm tra trái với nội dung của văn bản mới đó.
1.4.4.4. Hình thức huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản:
Tương tự như hình thức bãi bỏ, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản là một trong các biện pháp khắc phục những nội dung sai trái trong văn bản. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Theo hướng dẫn tại điểm 4.2.d Mục III Thông tư số 01/2004/TT-BTP, hình thức huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản được áp dụng trong trường hợp toàn bộ hoặc một phần nội dung văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật ngay từ thời điểm ban hành văn bản đó.
Như vậy, có thể thấy, dấu hiệu đặc trưng nhất để người kiểm tra quyết định đề xuất áp dụng hình thức hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản là khi kết thúc quá trình kiểm tra kết luận một phần hoặc toàn bộ văn bản được kiểm tra sai trái ngay từ thời điểm văn bản này được ban hành. Sai trái này có thể do văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, (chẳng hạn, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết, …) hoặc trái thẩm quyền về nội dung, chẳng hạn, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định quy định quy chế khu vực biên giới để áp dụng cho khu vực biên giới thuộc tỉnh mình (thẩm quyền này thuộc Chính phủ theo khoản 2 Điều 26 Luật biên giới quốc gia “Quy chế khu vực biên giới do Chính phủ quy định”) hoặc văn bản đó không phù hợp với quy định của pháp luật ngay từ thời điểm ban hành.
Hình thức hủy bỏ có thể được áp dụng với cả văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật (quy định tại Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP), tuy nhiên đây là hình thức duy nhất để áp dụng đối với văn bản có chứa quy phạm pháp luật, bởi ngay tại thời điểm ban hành thì văn bản có chứa quy phạm pháp luật đã là một văn bản trái pháp luật
1.4.4.5. Sự khác nhau giữa hình thức huỷ bỏ và bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
Về bản chất, bãi bỏ và huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đều nhằm mục đích chấm dứt hiệu lực của một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật và do cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau cơ bản.
Về đối tượng áp dụng, hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản chỉ được áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật, trong khi đó, hình thức hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản lại được áp dụng cho cả hai loại: văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật, trong đó chủ yếu là văn bản có chứa quy phạm pháp luật.
Về thời điểm phát sinh dấu hiệu sai trái, hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản được áp dụng đối với những văn bản quy phạm pháp luật sai trái do văn bản là cơ sở pháp lý của văn bản được kiểm tra được thay thế bằng một văn bản mới và nội dung của văn bản được kiểm tra trái với nội dung của văn bản mới đó, nghĩa là văn bản được kiểm tra có dấu hiệu sai trái từ thời điểm ban hành văn bản mới; hình thức hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản được áp dụng đối với những văn bản sai trái ngay từ thời điểm ban hành.
Về hậu quả pháp lý, hậu quả pháp lý của việc áp dụng hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản là những việc trước đó đã áp dụng theo văn bản này được giữ nguyên; hậu quả pháp lý của việc áp dụng hình thức hủy bỏ là cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật bị áp dụng hình thức hủy bỏ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi ban hành văn bản bị hủy bỏ đó.
Việc xác định đúng hình thức bãi bỏ hay hủy bỏ đối với văn bản có sai trái sẽ giúp cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản sai trái, xử lý hoặc kiến nghị xử lý đối với người, cơ quan đã ban hành văn bản sai trái đó đảm bảo chính xác, khách quan, đúng quy định của pháp luật. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
1.4.5.Trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật
1.4.5.1.Đối với văn bản do Bộ Tư pháp kiểm tra:
Trình tự, thủ tục để Bộ trưởng Bộ Tư pháp tiến hành xử lý văn bản trái pháp luật được quy định tại các điều 19, 15, 16, 24, 25 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp tiến hành xử lý văn bản trái pháp luật theo trình tự sau: khi kiểm tra, phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản thông báo để cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản phải tổ chức tự kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản. Trường hợp văn bản có dấu hiệu trái pháp luật là nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thì phải được tiến hành tự kiểm tra, xử lý tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân tỉnh đó. Trong trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản có dấu hiệu trái pháp luật không xử lý hoặc Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản không nhất trí với kết quả xử lý, thì Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản báo cáo để Bộ trưởng Bộ Tư pháp tiến hành xử lý như sau:
Kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật thuộc những trường hợp: văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đó ban hành trái với văn bản của Bộ Tư pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; văn bản trái pháp luật do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của chính bộ, cơ quan ngang bộ đó; văn bản trái pháp luật do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nếu cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật không xử lý hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp không nhất trí với kết quả xử lý thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ xử lý theo quy định của pháp luật;
Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành: nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành trái với văn bản của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước; Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Đình chỉ việc thi hành và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ: quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước.
Việc xử lý văn bản liên tịch trái pháp luật giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; văn bản liên tịch trái pháp luật giữa các bộ, cơ quan ngang bộ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị – xã hội có một số điểm cần lưu ý, nhưng về nguyên tắc cũng theo trình tự, thủ tục nói trên.
1.4.5.2. Đối với văn bản do Uỷ ban nhân dân tỉnh kiểm tra
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 22 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp thông báo để cơ quan ban hành văn bản (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã) tổ chức tự kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan ban hành văn bản phải tự kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và thông báo kết quả xử lý bằng văn bản cho cơ quan kiểm tra văn bản.
Đối với Nghị quyết có dấu hiệu trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã thì phải được tiến hành xử lý tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân cấp đó. Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban.
Nếu văn bản có dấu hiệu trái pháp luật không được cơ quan đã ban hành xử lý trong thời hạn nêu trên hoặc Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp không nhất trí với kết quả xử lý thì Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp báo cáo để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp tiến hành xử lý theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở uỷ ban
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban […]