Tiểu luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta, liên hệ bản thân, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

===> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

LỜI MỞ ĐẦU (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tốt bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.

Như Hồ Chí Minh đã nói: “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Có như vậy đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.

Chính vì lẽ đó mà chúng em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân”. Đây là một đề tài hay, có nội dung và ý nghĩa to lớn, nó còn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ. Bài học quý báu cho quá trình dựng nước và giữ nước. Bài tiểu luận của chúng em gồm bốn chương chính như sau:

CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư tưởng -lý luận và thực tiễn rất phong phú.

1. Truyền thống yêu nước, nhân ái , tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Tinh thần yêu nước gắn kết với ý thức cộng đồng , ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai dịch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

Từ ngàn đời nay, đối với mỗi người Việt Nam tinh thần yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết trở thành đức tính lẽ sống tự nhiên của mỗi người:

  • Nhiễu điều phủ lấy giá gương
  • Người trong một nước phải thương nhau cùng;
  • Thành một triết lý nhân sinh:
  • Một cây làm chẳng nên non
  • Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;
  • Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
  • Tình làng, nghĩa nước.
  • Nước mất thì nhà tan.
  • Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.

Tất cả đã in đậm trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình – làng xã – quốc gia (nhà – làng – nước) và cũng trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai cấp trong xã hội Việt Nam.

Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hóa dân gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành phép đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”,…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở một phần tư đầu thế kỷ XX.

Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định “từ xưa tới nay, mỗi khi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn phải phát huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.

Rõ ràng truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của phong trào ấy đều được người nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.

Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, các thế hệ yêu nước người Việt Nam đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại được các thế lực đế quốc xâm lăng. Vận mệnh của đất nước đòi hỏi có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy những hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, những yêu cầu khách quan mới của yêu cầu lịch sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác định: Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của giai cấp tư sản cũng như tại sao các cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách mạng “không đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ, và cũng thấy rõ những hạn chế: các dân tộc thuộc địa chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với Lênin, người lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đên bước ngoặt quyết định trong việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng Tháng Mười một cách cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường cách mạng Tháng Mười, và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới: đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc muốn bóp chết nhà nước Xô viết non trẻ, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử xã hội nhân loại. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng Tháng Mười không chi qua báo chí sách vở, mà còn ở ngay trên đất nước của Lênin. Điều nay đã giúp người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc “cách mạng đến nơi”, để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường cách mạng mới những năm sau này.

Đối với các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng (đoàn kết các dân tộc, các giai tầng, các đảng phái và tôn giáo…nhắm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc – Cộng” của Tôn Trung Sơn).

3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, “ Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”,…

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa thực dân chủ yếu ở chỗ vừa hoạt động cách mạng, Người vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin , vừa tìm hiểu về cách mạng Tháng Mười, vì vậy Người đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề cốt lõi nhất của học thuyết cách mạng và khoa học của các ông. Nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, những bài kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của người về đại đoàn kết dân tộc.

Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Người thực hiện khối Liên minh giai cấp; thành lập mặt trận; đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng thế giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân khán chiến, toàn dân kiên quốc. Người chủ trương không phân biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là người Việt Nam đều đứng lên giành quyền độc lập.

CHƯƠNG II: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.

Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có phần nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.

Hồ Chí Minh đi tới kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin  về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:

Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.

Đoàn kết là điểm mẹ: “Điều này mà thực hiện tốt thì sẽ đẻ ra con cháu đều tốt…”

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công”.

Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào Mặt trận thống nhất. Để làm được viếc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.

2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông ấy ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn bộ Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam gồm trong 8 chữ: ĐOÀN KẾT, TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là cách mạng hay kháng chiến để giành đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.

Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, những đòi hỏi tự giác thành thực hiện có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.

3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Trong tưởng Hồ Chí Minh vấn đề Dân và Nhân dân được đề cập một cách rõ ràng , toàn diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm này có nội hàm rất rộng. Hồ Chí Minh dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, DÂN, NHÂN DÂN vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có lòng phục vụ Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Ta ở đây vừa Đảng, vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước-  nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngay với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà không hoàn toàn định kiến, khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi. Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết dân tộc vẫn mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Với tấm lòng độ lượng, bao dung, Người tha thiết kêu gọi những người thật thà yêu nước, không phân biệt tâng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tâm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi con người thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mai sau. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu con người. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này, Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là cái gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân khác”. Người còn phân tích sâu hơn, đâu là lực lượng nòng cốt tạo nên nền tảng ấy: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về sau Người nêu thêm: lấy liên minh công – nông – lao động trí óc làm nên tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất khì thế lực nào có thể làm suy thoái khối đại đoàn kết dân tộc.

4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hồ Chí Minh cho rằng: đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thê chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất của tổ chức. Tổ chưc thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Cả dân  tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thể, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một khối đông không có sức mạnh. Thật bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn để này. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Từ khi tìm được con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, từng ngành nghề, từng lừa tuổi, từng tôn giáo; hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó là các hội ái hữu hay tương trợ , công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn,…Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt Nam,…

Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau nhưng thực chất nó cũng chỉ là một tổ chức – đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái, các cá nhân tổ chức yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do , hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau đây:

  • Là thực thể của tu tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận thống nhất dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
  • Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thồng nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để có thể xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, phải làm cho mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc của dân tộc có được bảo đảm thì lợi ích của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiên. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Mỗi bộ phận, mỗi người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại những gì riêng biệt không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự nhận thức đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Mặt trận cần đặc biệt quan tâm giải quyết thỏa đáng vấn đề này đối với các thành viên tham gia. Mặt trận bằng việc thực hiện nghiêm khắc các hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.

Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân, mà còn cả với phong trào yêu nước Việt Nam. Bởi lẽ, Đảng ra đời trong bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn chặt với cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Những người tham gia Đảng Cộng sản không phải chỉ là những người tiên tiến thuộc giai cấp công nhân, mà số đông lại là những người tiên tiến thuộc giai cấp nông dân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ hệ tư tưởng và lợi ích của giai cấp mình, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Luận điểm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với luận điểm về “đảng toàn dân” của những người theo chủ nghĩa xét lại đã nêu ra trong những năm 60 của thế kỷ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai vấp công nhân vì Đảng mang bản chất giai cấp công nhân và “ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt”. Là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì Đảng ra đời trong lòng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng lại đặt lợi ích của dân tộc lên hết và trước hết vì nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp công nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản mang tính chất quốc tế, nhưng cuộc đấu tranh  ấy lại diễn ra trước hết trong từng quốc gia dân tộc. Vì vậy giai cấp công nhân và Đảng  của nó trước hết phải trở thành dân tộc, như Mác và Ănghen đã nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, điều ấy đã là đương nhiên ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời, cũng như trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc , tập hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh cách mạng đã trở thành vấn đề máu thịt của Đảng. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam đã coi Đảng Cộng sản là Đảng của mình, đó cũng là điều dễ hiểu. Đây là đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, khác rất nhiều so với các Đảng Cộng sản ở Tây Âu. Vinh dự ấy rất to lớn. nhưng trách nhiệm của Đảng trước dân tộc cũng rất nặng nề.

Như Hồ Chí Minh đã nói, muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”. Điều này hoàn toàn thống nhất với mệnh đề của Lênin mà Người thường nhắc lại “ Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”. Văn minh cũng có nghĩa là trí tuệ, danh dự, lương tâm là đạo dức. Tiên phong về trí tuệ, mẫu mực về đạo đức; Đảng đã được nhân dân ủng hộ và đã trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc.

Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà được nhân dân thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất cặn kẽ: “ Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng. “ Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta”.

Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết phải thực hiện sự lãnh đạo của mình theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh, không thể và không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong Mặt trận phải tuân theo. Đảng phải thực sự tôn trọng các tổ chức, các thành viên của Mặt trận, nếu Đảng muốn giành được sự tôn trọng thực sự của họ. Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng, Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay điều tốt của  mọi người.. Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”.

Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cở sở vứng chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.

Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.

Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã nêu rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới càng được làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản. Đó là nước Nga Xô viết, là Liên Xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đó là phong trào đấu tranh vì hòa bình , độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Người đặc biệt coi trọng xây dựng khối đoàn kết Việt – Miên – Lào, ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận: 1) Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; 2) Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; 3) Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rở nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

Như vậy là từ đại đoàn kết dân tộc đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hoàn chỉnh trong tiến trình cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm.

CHƯƠNG III: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

1. Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng ngày càng rộng rãi và bền vững

Thực  tiễn cách mạng Việt nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kì diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh đạo trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu,hang triệu con  người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Tính chất rộng rãi của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện qua việc mở rộng biên độ tập hợp mọi giai tầng xã hội, mọi ngành giới, lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc, chính kiến, đảng phái, tổ chức và cá nhân vào mẳt trạn dân tộc thống nhất. Tính bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc biểu hiện qua việc củng cố khối liên minh công nhân – nông dân- lao đọng trí óc và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự thật lịch sử đã chứng tỏ rằng Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi thì liên minh công nhân-nông dân- lao động trí óc càng mạnh, sự lãnh đạo của Đảng càng vững; và ngược lại, khối liên minh công – nông – trí thức càng được củng cố, sự lãnh đạo của đảng càng được tăng cường thì mặt trận dân tộc thống nhất càng có thể mở rộng và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc càng được nhân lên to lớn hơn.

Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại  đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.

2. Đánh giá về Mặt trận dân tộc thống nhât, năm 1962 Hồ Chí Minh đã nêu rõ: (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

“Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền bắc.

Đoàn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.”

Về mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam,Người đã khẳng định: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lự lượng tất thắng. Hiện nay…đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hop với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc miền Bắc và trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, nhân dân cả nước ta đã thực hiện được di chúc của Bác Hồ: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau khi Tổ quốc được thống nhất, Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết toàn dân bước vào giai đoạn mới- cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí minh, vấn đề dân tộc không chỉ là vấn đề  của cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn là vấn đề của cahc mạng xã hội chủ nghĩa. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đè lớn vẫn còn tồn tại lâu dài, không thể giải quyết trong một thời gian ngắn theo những mong chủ quan và những phương pháp, cách thức không phù hợp. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích từ rất sớm, xuất phát từ tực tiễn Việt Nam, từ sự hiểu biết sâu sắc dân tộc và đất nước mình. Đây thực sự là sự phân biệt giữa quan điểm giai cấp đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin với quan điểm của giai cấp lệch lạc, “tả khuynh” , đã dẫn đến những tổn thất không nhỏ cho cách mạnh ở nhiều nước.

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người đã dày công xây dựng, vun đắp cho sự lớn mạnh và sự phát triển của mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam. Đánh giá vai trò của mặt trận không chỉ trong quá khứ mà còn xa về tương lai, Người đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như  trong cach mạng xã  hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lương to lớn của cách mạng Việt Nam”.

Tại Đại hội thống nhât Việt Minh – Liên Việt ( ngày 3-3-1951) Người đã phát biểu:

“ Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của đai hội Liên Việt – Việt Minh thống nhất.

Lòng sung sướng ấy là chung của cả toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả.Một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó dâng ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai  “ trường xuân bất lão’. Vì vậy cho nên long tôi sung sương vô cùng”. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt trận, cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này đã được thể hiện trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt nam, khi Hồ Chí Minh còn sống, cũng như sau khi Người đã mất.

Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước vào thời kì đổi mới, Đảng Cộng Sản VIệt Nam đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được đảng coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hang đầu trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Qua sáu Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng( Đại hội IV – 1976, Đại hội V – 1981, Đại hội VI – 1986, Đại hội VII – 1991, Đại hội VIII – 1996 ), Đại hội IX (2001) và nhiều hội nghị của ban chấp hành trung ương, từ năm 1976 đến nay, các Nghị quyết của Đảng đều toát lên những tư tưởng chủ đạo là :

– Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của con người lên hàng đầu, lấy nó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội; nếu trước kia sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm thì bây giờ sức mạnh ấy phải lầ sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu.

– Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ  để xây dựng và phát triển đất nước.

Những tư tưởng chủ đạo trên đây đã thể hiện nhất quan trong chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước ta trong những năm đổi mới:

– Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương xóa bỏ thiên kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ; tập hợp đoàn kết  mọi lực lượng, mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, lấy liên minh công – nông – trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc.

– Về kinh tế – xã hội : khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, xác lập quyền làm chủ của người lao động  trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời thực hiện các chính sách “ đền ơn đáp nghĩa” , “ xóa đói giảm nghèo”. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

– Về đối ngoại : thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước vì hòa bình, độc lập, hợp tác và phát triển”.

Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, ngày 27-11-1993, Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII đẫ ra nghị quyết  07/NQ-TW “ Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết này đã phản ánh tập trung sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới. Tại đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, vấn đề đại đoàn kết dân tộc đã được đặt ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Ngày 26-6-1999, lần đầu tiên Luật về mặt trận tổ quốc Việt Nam đã được ban hành, trong đó khẳng định :

Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thong nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Đây thực sự là bước phát triển mới của mặt trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân để chuẩn bị đưa đất nước tiến vào thế kỉ XXI.

Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn đát nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

– Đại đoàn kết dân tộc trong thời kì hiện nay phải được củng cố và phát triển:

+ Nhằm rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật và công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới; thực hiện được điều mong muốn của Bác Hồ làm cho đất nước ta có thể “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”, là “xây dựng một nước Viêt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ , giàu mạnh”; hay như Đảng ta đã nêu mục tiêu là : “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

+ Nhằm khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, không chậm chạp trong khi thế giới đang biến đổi theo gia tốc, phát huy tinh thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ, vượt qua mọi thách thức.

Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi một mặt phát huy được tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lí, đến sản xuất kinh doanh, hoc tập và lao động có năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng cao; mặt khác phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trương, đặc biệt là tâm lí chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh, làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc và của Đảng.

Kinh tế thị trường dù theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng dẫn đến những thay đổi trong phân tầng xã hội. Vì vậy chúng ta chấp nhận kinh tế tư bản tư nhân nhưng không thể hình thành giai cấp bóc lột mới, khuyến khích làm giàu chính đáng nhưng không đẻ phân cực hai đầu, phát triển kinh tế đồng thời giải quyết thỏa đáng chính sách xã hội và mối quan hệ giữa ba lợi ích : xã hội, tập thể, cá nhân, đảm bảo đời sống của người lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao. Dân giàu có nghĩa là đời sống của mỗi người dân ngày càng khá hơn, giàu hơn. Đấy là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân.

Đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải xây dựng một đảng lãnh đạo thật sự trong sạch , vững mạnh, một chế độ do nhân dân lam chủ, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống chính trị tiên tiến có hiệu quả, hiệu lực.

Phải chống cho được các tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn tham nhũng, quan lieu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những ý nguyện chính đáng của nhân dân không được lắng nghe, những oan ức của nhân dân không được kịp thời giải quyết, làm cho lòng dân không yên. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Tiếp tục đổi mới chính sách gai cấp,chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chính sách đối với tri thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.

Luật mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải được thực hiện nghiêm chỉnh, để Mặt trận xứng đáng là một lực lượng to lớn, mạnh mẽ của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới bộ máy và sự hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, loại trừ được các bệnh “hành chính hóa” hoặc “hình thức chủ nghĩa” vẫn thường  làm giảm vai trò của các tổ chức này.

Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững bài học đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh: “Cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược”, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập,hợp tác và phát triển.

Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết dân tộc trước hết là nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc tế là nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng them.

Sự vật luôn luôn vận động và phát triển. Hoàn cảnh sẽ không ngừng đổi thay theo các quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn đang biến đổi của đất nước trên con đường đi vào thế kỉ XXI. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

CHƯƠNG IV: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN.

1. Thực trạng chung. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.

Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nôi lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.

Mặt khác, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.

Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội để phát triển của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví dụ như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ” đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Đặc biệt, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

2. Nhiệm vụ và yêu cầu:

Cách đây 64 năm, vào ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 64 năm đã qua đi nhưng bài học về tinh thần đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Có thể khẳng định: chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng đã thực sự là một bộ phận của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước.

Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí,…

Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do: Đảng ta chưa kịp thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp – xã hội trong quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổ chức Đảng, chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận – mặt trận; ở không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng; một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên thoái hoá, biến chất,… không thực hiện được vai trò tiên phong gương mẫu.

Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta.

Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. cụ thể:

Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ

3. Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh:

Lý luận gắn liền với thực tiễn:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm rằng, lý luận không được áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, đồng thời thực tiễn không có lý luận soi sáng là thực tiễn mù quáng.

Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý những vấn đề sau đây:

Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.

Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân- tập thể- toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

4. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh:

Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính sau:

  • Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại.
  • Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
  • Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.
  • Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
  • Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
  • Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của đảng, của toàn dân tộc.
  • Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong đảng.
  • Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong đảng – đoàn kết toàn dân – đoàn kết quốc tế.

Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.

5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay: (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi đảng, nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số…

Trong công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tính chất là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành viên, đã phối hợp với chính quyền giải quyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng, giám sát, bảo vệ đảng và chính quyền.

Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp ngày càng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải chủ động góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; đoàn kết giữa nhân dân với nhân dân các nước trên thế giới; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”.

Trong những năm trước mắt, Mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” và cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột nát cho người nghèo, góp phần cùng Đảng và Nhà nước thực hiện mục tiêu đến năm 2010 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng đất nước kém phát triển. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc:

Trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:

  • Khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.
  • Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa kinh và thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.
  • Phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người việt nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)
  • Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc – sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.

Những bước làm cụ thể hơn:

Xác đinh hướng đi:

Đại đoàn kết dân tộc – cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố quyết định cho phát triển

Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.

Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai… Đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.

Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế?

Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.

Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh:

Xây dựng đảng cộng sản việt nam vững mạnh :

+ Xây dựng nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam trong sạch, vững mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.

+ Luôn luôn chăm lo xây dựng mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam được cấu thành bởi 3 thành tố: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đây là một thể thống nhất, không đối lập và không tách rời nhau.vấn đề làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ qua quyền giám sát của dân thông qua việc các đại biểu quốc hội chất vấn các thành viên chính phủ tại mỗi kỳ họp quốc hội; người dân có quyền tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cho phép người dân được tham gia trực tiếp vào việc lập kế hoạch, quản lý và thực thi các chính sách phát triển tại địa phương. Người dân cũng được tạo điều kiện phát triển kinh tế trong khuôn khổ pháp luật. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Dựa vào sức mạnh của toàn dân, lấy dân làm gốc: 

Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó cần phải phát triển nguồn nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhân dân. ‘‘Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong ’’.

Dân là gốc của nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải:

  • Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở:
  • Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính
  • Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.
  • Đội ngũ nhân lực có trình độ cao.
  • Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tạo thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.
  • Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân chủ của một xã hội càng cao. Dân phải tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế- xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Mọi âm mưu và hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất nước, cần được lên án.
  • Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

 Phát triển con người:

Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội.

Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng.

Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần kinh tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là trong điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá và tự động hoá ngày càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có những sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi hỏi và rèn luyện người công nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công nhân. Đó là tính kỷ luật, chính xác, tính tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó cũng là những phẩm chất mà người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có. Vì vậy hiện nay, chú ý phát triển đội ngũ cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân vẫn là một hướng đi đúng cần quan tâm.

Đất nước ta cũng có một đội ngũ trí thức khá lớn. Họ có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật… Họ xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau kể cả nông dân, công nhân. Họ có mối liên hệ khá gần gũi với các giai cấp và tầng lớp khác, với quần chúng lao động. Họ có thể hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, những giá trị của quần chúng lao động. Rất nhiều người trong số đó có khả năng lãnh đạo, quản lý. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao, chúng ta phải khắc phục những định kiến vẫn còn rơi rớt. Đó là tâm lý coi thường những người xuất thân từ các giai cấp lao động, đặc biệt từ giai cấp công nhân, nghĩ rằng họ quen lao động chân tay, ít chữ nghĩa, ít hiểu biết, hạn chế tầm nhìn đối với những vấn đề đại sự quốc gia. Do đó chỉ chú ý vào những người ‘‘ có học ’’, đã qua trường lớp chính quy, bài bản.

Ngược lại, có tâm lý coi thường hoặc kỳ thị những người trí thức, coi họ chỉ sách vở, quan liêu, không thực tế, thiếu hiểu biết cuộc đời. Thậm chí coi họ là điển hình của thói tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa, yếu đuối. Do đó chỉ chú ý đối với những người đã từng kinh qua ‘‘ thực tiễn’’.

Tuy nhiên, nhìn một cách thực tế, hậu quả của cả hai khuynh hướng đều không tốt. Chúng ta phải đề phòng một khuynh hướng nửa vời trong đội ngũ cán bộ, một mặt chạy theo vỏ trí thức, với những văn bằng, học vị nọ kia chứ không thực sự là trí thức, mặt khác cũng không có lập trường quan điểm, tác phong công nhân thực sự. Đây là một tình trạng chứa đựng nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội trong đội ngũ cán bộ của chúng ta. Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi, chúng ta cần ôn lại mấy bài học lớn của Bác:

  • Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc.
  • Đã thế thì mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
  • Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người vn đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này.

KẾT LUẬN (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với 20 năm trước. Đại hội IX và X của Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (Tiểu Luận: Đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng)

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993