Tiểu Luận Phân Tích Tình Hình Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021

Đánh giá post

Chia sẻ đến các bạn sinh viên đang chuẩn bị làm bài tiểu luận mà chưa tìm được đề tài thì có thể tham khảo Tiểu Luận: Phân Tích Tình Hình Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021 sau đây nhé. Với đề tài này tiểu luận dưới đây bạn hoàn toàn có thể tham khảo để làm bài tiểu luận môn học cho riêng mình.

LỜI MỞ ĐẦU

Cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ vừa rồi đã khiến cho cả thế giới phải điêu đứng. Trước thực tế của cuộc khủng hoảng tài chính ấy, chúng ta cũng đang lo sợ trước tình trạng cả thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng năng lượng trầm trọng. Chúng ta vừa phải đối mặt với khủng hoảng tài chính toàn cầu, xung đột – chiến tranh đang xảy ra nhiều nơi và cuộc khủng hoảng năng lượng có thể sẽ xảy ra chỉ trong một vài thập kỷ tới. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Với mức tiêu thụ như hiện nay, chỉ đến giữa thế kỷ này thôi, nhân loại sẽ đối mặt với sự cạn kiệt năng lượng. Vấn đề đặt ra ở đây là: khi cuộc khủng hoảng diễn ra sẽ tác động như thế nào tới quan hệ quốc tế và liệu có biện pháp nào có thể thay thế được các nhiên liệu hóa thạch vốn đang được con người sử dụng rộng rãi trong hầu hết hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị?
Đối mặt với nguy cơ cạn kiệt năng lượng, để bảo đảm cho sự tồn vong và phát triển của đất nước mình, một số quốc gia sẽ có chính sách như thế nào để có thể đem lại lợi ích cao nhất cho đất nước mình? Và những chính sách đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ quốc tế?

Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, tôi hi vọng có thể đáp ứng phần nào những câu hỏi đã được đặt ra.

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG NĂNG LƯỢNG TOÀN CẦU

1.1 Tổng quan về khủng hoảng năng lượng toàn cầu

1.1.1 Khái niệm về năng lượng và khủng hoảng năng lượng toàn cầu

Khái niệm năng lượng

Trong tiếng Anh, năng lượng có nghĩa là Energy. Hiểu đơn giản, năng lượng là một tài nguyên thiên nhiên; là một dạng vật chất được xuất phát chủ yếu từ hai là: năng lượng mặt trời và năng lượng trong lòng đất. Trong đó:

Năng lượng mặt trời gồm có: Bức xạ mặt trời, năng lượng hóa thạch (như khí đốt, dầu, than,…); năng lượng chuyển động của khí quyển, thủy quyển (dòng chảy của sông, các dòng thủy triều, hải lưu, chuyển động của sóng, gió,..),…

Năng lượng trong lòng đất có: năng lượng phóng xạ của các chất phóng xạ như U, Po,… núi lửa, nguồn địa nhiệt,..

Bên cạnh đó, trong vật lý, năng lượng được định nghĩa như sau: Năng lượng là đại lượng đặc trưng cho khả năng sinh công của vật; là thông số liên quan đến quá trình chuyển động của vật chất, bao gồm cả từ trường và các hạt cơ bản. Theo thuyết tương đối, Albert Einstein đã chỉ ra khối lượng và năng lượng của vật có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Năng lượng có mặt trong mọi thứ xung quanh chúng ta và rất quan trọng trong các hoạt động sống của con người. Cơ thể chuyển hóa thức ăn thành năng lượng để duy trì sự sống. Nhiên liệu cung cấp năng lượng để xe có thể chạy; năng lượng của nước, của gió tạo ra điện để sử dụng trong sản xuất và sinh hoạt… (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Khái niệm khủng hoảng năng lượng toàn cầu

Khủng hoảng hiển nhiên là khác với “vấn đề” và không phải tất cả các “vấn đề” đều trở thành khủng hoảng. Tuy nhiên nếu một vấn đề không được quản lý đúng mức, vấn đề đó có thể trở thành một cuộc khủng hoảng. Một vấn đề trở thành một cuộc khủng hoảng khi nó tác động lớn đến uy tín của một doanh nghiệp hoặc khả năng hoạt động bình thường của doanh nghiệp đó.

Khủng hoảng năng lượng là bất kỳ nút thắt đáng kể nào trong việc cung cấp tài nguyên năng lượng cho nền kinh tế.

Như vậy, khủng hoảng năng lượng toàn cầu xảy ra khi giá năng lượng bị đẩy lên cao đến đỉnh và xảy xa hiện tượng thiếu hụt về năng lượng ở các nước trên toàn thế giới.

1.1.2 Vai trò của năng lượng (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường ngày, năng lượng từ mặt trời, gió, nước,… giúp tạo ra điện, phục vụ cho cuộc sống con người như: đun nấu thức ăn, chiếu sáng,…

Năng lượng là yếu tố cần thiết cơ bản cho sự sống, thiếu năng lượng, sự sống sẽ bị đe dọa, đặc biệt là năng lượng công nghiệp trong thời đại công nghiệp hiện nay. Do vậy, khủng hoảng năng lượng được cho là một trong các vấn đề toàn cầu mà nhân loại cần quan tâm.

Trong các hoạt động sống, cơ thể chuyển hóa thức ăn như cá, thịt, cơm, hoa quả,… thành năng lượng để duy trì sự sống.

Trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường ngày, năng lượng từ mặt trời, gió, nước,… giúp tạo ra điện, phục vụ cho cuộc sống con người như: đun nấu thức ăn, chiếu sáng,…

1.1.3 Nguyên nhân của khủng hoảng năng lượng toàn cầu

Hầu hết các cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu đã được gây ra bởi sự thiếu hụt cục bộ, chiến tranh và thao túng thị trường. Một số người lập luận rằng các hành động của chính phủ như tăng thuế, quốc hữu hóa các công ty năng lượng và điều tiết ngành năng lượng, cung cấp dịch vụ và nhu cầu năng lượng ra khỏi trạng thái cân bằng kinh tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng năng lượng lịch sử gần đây được liệt kê dưới đây không phải do các yếu tố đó gây ra. Thất bại thị trường là có thể khi thao túng độc quyền thị trường xảy ra. Một cuộc khủng hoảng có thể phát triển do những hành động công nghiệp như công đoàn tổ chức các cuộc đình công và cấm vận của chính phủ. Nguyên nhân có thể là do tiêu thụ quá mức, cơ sở hạ tầng lão hóa, gián đoạn do tắc nghẽn hoặc nút thắt tại các nhà máy lọc dầu và các cơ sở cảng hạn chế cung cấp nhiên liệu. Trường hợp khẩn cấp có thể xuất hiện trong mùa đông rất lạnh do tiêu thụ năng lượng tăng. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Do nguồn cung ứng năng lượng bị thắt chặt không đủ đáp ứng nhu cầu, hoặc do lượng nhu cầu sử dụng năng lượng tăng đến một mức mà sự cung cấp năng lượng hiện tại không đủ đáp ứng, đẩy giá năng lượng tăng cao và tăng nhanh làm mất ổn định trong kinh tế, chính trị và xã hội thì dẫn đến khủng hoảng thiếu năng lượng. Ví dụ như các cuộc khủng hoảng những năm 1973, 1979 là do nguồn cung ứng bị thắt chặt, khủng hoảng từ năm 2004 trở lại đây là do nhu cầu về dầu mỏ tăng mạnh từ các nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ. Ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng này tới các mặt của xã hội là rất nghiêm trọng và rộng lớn bởi vì nó toàn xảy ra ở các điểm trọng yếu về dầu lửa trên thế giới, đặc biệt là vùng Trung Đông và vùng Vịnh, nơi có trữ lượng khai thác dầu lửa lớn nhất thế giới. Do vậy, tác động của nó luôn là tác động tới toàn cầu.

Các nhà tư bản và các nền kinh tế dư thừa ngoại tệ đầu cơ vào lĩnh vực năng lượng, khiến cho giá dầu bị đẩy lên cao, đó cũng là một nguyên nhân tạo nên khủng hoảng năng lượng. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Thêm một nguyên nhân khiến cho năng lượng bị khủng hoảng là do những bất ổn về tình hình an ninh – chính trị ở các khu vực cung cấp năng lượng chủ yếu. Ví dụ ở khu vực Trung Đông là nơi cung cấp dầu lửa lớn và chủ yếu cho các nước trên thế giới, nhưng do những bất ổn về an ninh – chính trị, đặc biệt là những mâu thuẫn hiềm khích lịch sử giữa các nước, hoặc do tranh giành lợi ích làm gián đoạn cung cấp dầu mỏ dẫn đến nguồn cung bị giảm, giá dầu từ đó bị đẩy lên cao.

Và một yếu tố nữa mà hiện nay nó đang tác động tới tất cả các lĩnh vực của xã hội và cũng đang là vấn đề toàn cầu lớn, đó là vấn đề thay đổi thời tiết. Trong những năm gần đây, nhiều cơn bão nhiệt đới hoành hành tại một số khu vực tập trung các giếng dầu lớn, tác động nghiêm trọng đến năng lực sản xuất và cung ứng dầu. Dàn khoan lớn ở Mêhicô bị bão phá hỏng nặng, một số giếng dầu ở Biển Bắc phải đóng cửa do thời tiết xấu.

1.2 Khủng hoảng năng lượng là vấn đề toàn cầu (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

1.2.1 Khủng hoảng năng lượng lần 1

Cuộc khủng hoảng dầu lửa lần I từ 17/10/1973 đến 13/3/1974:

Các thành viên OAPEC, gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập và Syria, đã thực hiện cấm vận dầu lửa với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Israel trong cuộc chiến với Ai Cập và Syria vào những năm 1973-1974. Trước đó, vào năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods, hệ thống quy định chung giữa các cường quốc, trong đó giá vàng chỉ được neo giữ duy nhất vào đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi đồng đôla, đây là tiền đề cho cuộc khủng hoảng. Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu của nước Mỹ và thế giới do lượng vàng có hạn trong khi nhu cầu sử dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều. Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ cho chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các nước khác đã khiến đôla mất giá, và tăng lạm phát. Để xóa bỏ sự bất hợp lý trên, vào tháng 8/1971 Tổng thống Nixon đã phải rút hẳn khỏi hệ thống Bretton Woods và tiến hành thả nổi đồng tiền. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Hậu quả trực tiếp của việc đồng đô la tách rời khỏi vàng là: đô la rớt giá thảm hại, giá hàng công nghiệp tăng vọt. Các nước OPEC, chủ yếu là các nước vùng Vịnh, vốn lệ thuộc vào việc xuất khẩu dầu thô đổi lấy đô la Mỹ để mua những mặt hàng công nghiệp và lương thực cần dùng. “Chính sách kinh tế mới” Nixon tung ra khiến đô la dầu mỏ của họ rớt giá, ngoại trừ việc tăng giá dầu, các nước này không còn đường nào khác. Tháng 10 và tháng 12 năm 1973, 6 thành viên vùng Vịnh của OPEC liên tiếp 2 lần nâng giá dầu thô, từ mức 3,011 USD/thùng lên tới 11,65 USD/thùng, mức tăng là gần 4 lần. Đồng thời, các thành viên OPEC cũng quyết định giảm năng xuất khai thác vì họ muốn đẩy giá dầu lên cao, đem lại lợi nhuận cho họ, điều này làm cho cuộc khủng hoảng dầu lửa thêm trầm trọng.

Việc cấm vận dầu lửa đã có hiệu quả tức thì đối với kinh tế, chính trị cũng như ngoại giao của các nước. Các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu vì muốn được bảo đảm cung ứng dầu lửa, đã tuyên bố đòi phải “thực hiện nền hòa bình lâu dài, công bằng ở Trung Đông”, đồng thời nêu ra vấn đề “Israel phải suy nghĩ tới quyền lợi hợp pháp của người Palestin”. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới việc triệu tập hội nghị Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 6 để thảo luận về vấn đề nguyên liệu và phát triển, và bắt đầu bàn về những vấn đề cải cách trật tự kinh tế chính trị quốc tế. Mặc dù cấm vận dầu lửa chỉ trong có vài tháng, song nó đã gây nên những ảnh hưởng sâu rộng đến chính trị kinh tế thế giới đương đại, đã làm biến đổi rất lớn đến tiến trình phát triển kinh tế thế giới1. Các nước tư bản chủ nghĩa đã chú trọng vào nghiên cứu khoa học – kỹ thuật để phát triển công nghệ, cải cách cơ cấu kinh tế cho thích nghi về chính trị – xã hội để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển mạnh mẽ hơn.

1.2.2 Khủng hoảng năng lượng lần 2

Cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai xảy ra Ngay sau khi cuộc cách mạng của người Iran nổ ra. Sau những kháng cự, Vua của Iran đã chạy trốn khỏi nước này vào năm 1979 và để cho Ayatollah Khomeini nắm quyền. Hậu quả là các cơ sở sản xuất, khai thác dầu ở Iran bị phá hủy. Chế độ mới của Iran bắt đầu xuất khẩu dầu lại, nhưng có nhiều tranh cãi bất đồng nên chỉ xuất với lượng nhỏ, điều này đã đẩy giá dầu lên cao. Ả rập Saudi và các nước OPEC khác, dưới nhiệm kỳ của Tiến sĩ Mana Alotaiba, đã tăng sản lượng lên 4% để bù đắp lại sự giảm sút và tất cả những thiếu hụt sản phẩm. Tiếp sau là cuộc xâm lấn của Iraq vào Iran năm 1980 đã làm việc sản xuất dầu ở cả Iran và Iraq bị hoàn toàn đình trệ, không có dầu để cung cấp cho thế giới. Do đó giá dầu đã tăng lên mức kỷ lục 45 – 50USD/thùng. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Cuộc khủng hoảng này đã mang lại lợi nhuận cho các nước thành viên khác trong OPEC, được ghi nhận là những lợi nhuận kỷ lục.

Cho tới đầu những năm 1980, giá dầu thế giới giảm xuống từ 35 USD/thùng xuống còn 27 USD/thùng vào năm 1986 và xuống tới 10 USD/thùng. Lý giải cho sự việc này là kết quả từ việc hoạt động kinh tế chậm lại của các nước công nghiệp do 2 cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 và 1979, và là kết quả của việc thúc đẩy sự tiết kiệm năng lượng do giá dầu lên cao4. Ở Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, lượng tiêu thụ dầu đã giảm xuống 13% từ năm 1979 tới 1981, “phần nào đó do sự phản ứng với những lần tăng giá dầu rất lớn của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC và các nước xuất khẩu khác” mà xu hướng giảm tiêu thụ này bắt đầu trong suốt những lần tăng giá năm 1973.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NĂNG LƯỢNG TOÀN CẦU NĂM 2021

1.1 Tình hình chung (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Từ tháng 5/2021, giá các nhiên liệu hóa thạch bao gồm dầu, than và khí đốt đã tăng tới 95%. Anh, quốc gia chủ nhà của hội nghị thượng đỉnh COP26, đã phải đưa các nhà máy điện sử dụng than trở lại hoạt động, trong khi giá xăng tại Mỹ đã tăng lên mức 3 USD/gallon.

Kể từ cuối tháng 8-2021, tình trạng thiếu hụt năng lượng toàn cầu diễn ra ngày càng trầm trọng, gây ra lạm phát giá trên thị trường năng lượng quốc tế, dẫn đến phản ứng dây chuyền trên toàn cầu, tạo ra những nhân tố bất ổn, khủng hoảng khó lường cho thế giới vốn đang vật lộn với đại dịch Covid-19.

Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra tình trạng thiếu hụt năng lượng trên thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng lần này mang tính đặc thù và phức tạp. Lấy giá dầu thô toàn cầu làm ví dụ. Kể từ khi chạm đáy vào ngày 20-4-2020, giá dầu thô West Texas Intermediate (WTI) đã tăng gần như thẳng đứng, phá vỡ dự đoán rằng giá dầu thô quốc tế sẽ tiếp tục giảm. Giá dầu thô Brent biển Bắc giao tháng 11-2021 đã tăng vọt lên 81,26USD/thùng và dự đoán có thể chạm mức 100USD/thùng vào cuối năm nay. Bên cạnh đó, kể từ tháng 10, giá khí đốt ở châu Âu liên tục phá kỷ lục, giá kỳ hạn tháng 11 trên Sàn giao dịch trung tâm TTF ở Hà Lan-một tiêu chuẩn cho khí đốt tự nhiên ở châu Âu-đã tăng 400% so với đầu năm 2021. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Bên cạnh đó, những năm gần đây, việc khai thác năng lượng mới, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới và ứng dụng sáng tạo không ngừng xuất hiện, nhưng đến nay năng lượng sạch vẫn không thể gánh vác trách nhiệm lớn về cung ứng năng lượng quốc tế. Như Anh đang vận hành mạng lưới điện từ Na Uy, đây là mạng lưới cáp điện dưới nước dài nhất trên thế giới hiện nay. London hy vọng sẽ mang thủy điện sạch từ Na Uy sang Anh. Tuy nhiên, Na Uy đã trải qua một đợt hạn hán hiếm gặp, năng lượng dự trữ của nước này đã giảm xuống mức thấp nhất trong 10 năm qua. Điều này không những hạn chế xuất khẩu mà các nước Bắc Âu sẽ còn đối mặt với chi phí sử dụng năng lượng cao gấp 5 lần bình thường. Ngoài ra, những lời kêu gọi ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu ngày càng trở nên mạnh mẽ, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống.

Cuộc khủng hoảng năng lượng diễn ra ngày càng trầm trọng ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã phải kiểm soát chặt chẽ việc tiêu thụ năng lượng, thậm chí áp dụng các biện pháp khẩn cấp như cắt điện. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản và lâu dài. Tình trạng thiếu hụt năng lượng cũng khiến giá cả hàng hóa không ngừng tăng. Ở nhiều quốc gia, vật giá tăng vọt dẫn đến chi phí sản xuất tăng, vượt ngưỡng mà người dân và doanh nghiệp có thể chịu đựng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 của Hàn Quốc đã tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng chung của vật giá dự kiến sẽ vượt hơn 2% trong năm nay. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Hiện nay, các nước Liên minh châu Âu như Pháp và Tây Ban Nha kêu gọi cải cách thị trường năng lượng, cho rằng cần điều chỉnh giá điện tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản của “cơn bão giá” trên thị trường năng lượng quốc tế nằm ở mâu thuẫn giữa cung và cầu. Chuyên gia phân tích Craig Erlam của Sàn giao dịch OANDA nhận định, cuộc khủng hoảng năng lượng sẽ là mối quan tâm lớn trong những tháng tới. Trong khi đó, những quan ngại về lạm phát và khả năng các nước siết chặt chính sách tiền tệ sẽ là một trong số rất nhiều “cơn gió ngược” mà nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt. Do vậy, cộng đồng quốc tế cần phải phối hợp cùng đưa ra các biện pháp quyết đoán hơn để giải quyết tình trạng thiếu hụt năng lượng toàn cầu này.

Cơn hoảng loạn này cũng phơi bày nhiều vấn đề sâu sắc hơn khi thế giới chuyển đổi sang một hệ thống năng lượng sạch, như thiếu đầu tư vào năng lượng tái tạo và một số loại nhiên liệu hóa thạch chuyển tiếp (tức là sử dụng tạm thời trong khi ngừng hoàn toàn sử dụng than, trước khi các loại nhiên liệu tái tạo được phát triển), rủi ro địa chính trị leo thang và các chính sách phòng chống rủi ro thiếu chắc chắn trong thị trường năng lượng. Trong năm 2021 có hai cuộc khủng hoảng năng lượng lớn diễn ra trên toàn cầu.

2.2 Các cuộc khủng hoảng năng lượng lớn trong năm 2021 (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Thế giới đang đối mặt với một loạt các vần đề năng lượng khó giải quyết, và ngày một trầm trọng hơn trong những tuần lễ gần đây. Đây là các vấn đề ngày một gay cấn trên mặt địa cầu cũng như trong lòng đất. Bên dưới bề mặt, trữ lượng dầu lửa, hơi đốt và than đá dễ khai thác, một thời dồi dào, hiện đang ngày một cạn kiệt. Trên mặt địa cầu, tính toán sai lầm của con người và địa chính trị đang giới hạn ngạch số sản xuất và khả dụng trong số cung năng lượng các loại. Với nhiều vấn đề ngày một nghiêm trọng trên và dưới mặt đất, viễn tượng năng lượng chỉ có thể ngày một u ám hơn.

2.2.1 Khủng hoảng năng lượng điện toàn cầu

Nguy cơ thiếu điện không chỉ ở Trung Quốc, Anh hay Ấn Độ mà đang lan sang nhiều quốc gia. Trước nguy cơ này, nước ta cần có giải pháp cấp bách đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế hậu COVID-19, chủ động tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến độ các dự án đang ách tắc.

Thời gian vừa qua, nhiều quốc gia phải “vật lộn” với cuộc khủng hoảng năng lượng. Trung Quốc, Ấn Độ… đang đứng trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng điện do phụ thuộc quá nhiều vào nhiệt điện, trong khi nguồn cung than đá lại thiếu trầm trọng. Ở Ấn Độ, điện than chiếm khoảng 70% sản lượng điện của quốc gia này.

Việt Nam cũng là quốc gia sử dụng điện từ nhiệt điện khá cao. Theo tờ trình Quy hoạch Điện VIII vừa trình Thủ tướng, Bộ Công Thương cho hay, đến cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn quốc đạt 69.342 MW, trong đó nhiệt điện than là 21.383 MW, chiếm 30,8% công suất và 50% sản lượng; điện khí 9.025 MW (13,1% về công suất, 14,6% sản lượng); điện gió và mặt trời hơn 17.000 MW (24,6% về công suất và 4,1% sản lượng). (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua, nhập khẩu than của Việt Nam cũng tăng nhanh do nhu cầu than cho các nhà máy điện, trong khi khai thác nội địa ngày càng khó khăn, chi phí tốn kém do phải khai thác dưới độ sâu dẫn đến hiệu quả không cao. Việc nguyên liệu đầu vào (than đá) phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam.

Ngoài ra, Báo cáo dữ liệu tiêu thụ điện năng của Cơ quan điện lực Ấn Độ trong tháng 10 vừa qua cho thấy, nhu cầu sử dụng điện của quốc gia đông dân thứ 2 tại Châu Á (sau Trung Quốc) đã tăng 4,1%. Mặc dù sản lượng điện từ các nhà máy nhiệt điện than tăng 1,8%, điện năng lượng mặt trời tăng 28,4%, tuy nhiên nguồn cung điện vẫn thấp hơn so với nhu cầu thực tế là 1%.

Bên cạnh đó, Ấn Độ đang phục hồi nền kinh tế hậu COVID-19 sau khi trải qua làn sóng thứ 2 của dịch bệnh. Tháng 9, các bang thuộc miền bắc Ấn Độ đã phải cắt điện liên tục mỗi ngày 14 giờ do tình trạng thiếu nguyên liệu than trầm trọng. Giá nguyên liệu than tăng cao toàn cầu những tháng qua, khiến cho các công ty điện lực phải “tranh giành” nguyên liệu. Dữ liệu từ Cơ quan quản lý lưới điện liên bang (POSOCO) cho thấy, trong tháng 10, Ấn Độ thiếu 1.201 kWh – đây được coi là con số tồi tệ nhất kể từ tháng 1/2017 đến nay. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Tháng 10, có 8 nhà máy điện tại bang Uttar Pradesh đã phải dừng hoạt động tạm thời và 6 nhà máy khác đã phải đóng cửa do cạn kiệt nguồn than. Mặc dù Ấn Độ là quốc gia đầu tiên trên thế giới có chi phí sản xuất điện mặt trời rẻ hơn so với chi phí sản xuất nhiệt điện than, nhưng quốc gia này đến nay vẫn phụ thuộc phần lớn vào than. Thị phần than trong ngành sản xuất điện của Ấn Độ trong tháng 10 đã tăng lên 70,6% (trong tháng 9 là 66,5%). Trữ lượng than tồn kho trung bình ở các nhà máy nhiệt điện chỉ có thể kéo dài được 4 ngày, giảm 2/3 thời gian so với trung bình của các tháng trước đó.

Bức tranh thiếu hụt năng lượng được thể hiện với việc các trạm xăng đang cạn kiệt ở Anh, chi phí điện tăng cao ở Liên minh châu Âu ngay trước mùa đông và việc sử dụng năng lượng bị hạn chế ở Trung Quốc. Giá dầu, khí đốt tự nhiên và than đá đều đang tăng. Một nguyên nhân chính là sự phục hồi trên diện rộng về nhu cầu năng lượng sau đại dịch Covid đã làm tăng giá dầu, khí đốt và than đá. Việc OPEC hạn chế nguồn cung và vận chuyển toàn cầu bị tắc nghẽn do đại dịch cũng làm phức tạp hơn quá trình phân phối nhiên liệu. Lần đầu tiên sau ba năm, giá dầu đã chạm mốc 80 USD/thùng trong tuần này. Giá khí đốt tự nhiên và than đá cũng đạt mức cao kỷ lục trong nhiều năm. Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) sẽ họp vào tuần tới để quyết định xem có tăng thêm sản lượng dự phòng để giúp kiềm chế giá cả hay không. Tuy nhiên, việc gián đoạn nguồn cung có liên quan nhiều đến các yếu tố chính sách địa phương và động năng của khu vực, chứ không phải chỉ do sự thiếu hụt chung của nguồn cung năng lượng toàn cầu. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu phân phối điện cho các doanh nghiệp thiếu năng lượng do nguồn cung than bị suy giảm. Do Trung Quốc đã ấn định giá điện, các nhà máy nhiệt điện phải vật lộn với chi phí than tăng cao không thể hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế nên phải đóng cửa. Goldman Sachs ước tính rằng có tới 44% hoạt động công nghiệp của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu điện, có thể ảnh hưởng đến GDP của nước này. Hôm thứ Hai, Hội đồng Điện lực Trung Quốc, đại diện cho các nhà cung cấp điện, cho biết các công ty nhiệt điện than hiện đang mở rộng các kênh mua sắm bằng mọi giá để đảm bảo nguồn cung cấp điện và nhiệt sưởi ấm cho mùa đông. Tuy nhiên, các công ty kinh doanh than cho biết việc tìm kiếm các nguồn nhập khẩu mới nói dễ hơn làm, với việc Nga hiện đang tập trung vào phục vụ nhu cầu điện của châu Âu, mưa làm gián đoạn sản lượng than từ Indonesia và các hạn chế về vận tải đường bộ cản trở việc nhập khẩu than từ Mông Cổ.

Giá điện ở Tây Ban Nha đã tăng gấp ba lần, phản ánh sự gia tăng đột biến trong hóa đơn điện trên toàn Liên minh châu Âu trong những tuần gần đây. Chi phí điện tăng cao đã làm dấy lên lo ngại về một mùa đông khó khăn phía trước khi các hộ gia đình cần năng lượng sưởi ấm và đẩy mức tiêu thụ lên cao điểm theo mùa. Nguyên nhân khiến chi phí năng lượng gia tăng ở châu Âu là sự tổng hợp của các yếu tố địa phương, từ kho dự trữ khí đốt tự nhiên thấp, sản lượng thấp từ các trang trại năng lượng gió và trang trại năng lượng mặt trời, cũng như công tác bảo trì khiến các máy phát điện hạt nhân và các nhà máy điện khác phải ngừng hoạt động. Thời điểm hiện nay là rất khó khăn vì nhu cầu dự kiến chỉ tăng trong những tuần và tháng tới. Khi các nhà máy điện quay trở lại hoạt động và việc khởi động đường ống dẫn khí Nord Stream 2 vận chuyển khí đốt từ Nga đến Đức có thể làm dịu thị trường. Hiện nay, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Anh và các nước khác đang lên kế hoạch cho các biện pháp quốc gia, từ trợ cấp đến giới hạn giá, nhằm bảo vệ người dân khỏi chi phí năng lượng gia tăng khi các nền kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Một hệ lụy tiềm ẩn khác là tác động tới chuỗi cung ứng toàn cầu do gián đoạn sản xuất tại các địa phương đầu tàu tại Trung Quốc bởi thiếu hụt điện năng. Do thiếu điện, hoạt động sản xuất tại Trung Quốc trong tháng 9 vừa qua lần đầu giảm kể từ đầu năm 2021, nhiều nhà máy tại Giang Tô, Chiết Giang phải đóng cửa.

Khủng hoảng năng lượng diễn ra vào thời điểm nhạy cảm khi các quốc gia đang triển khai các kế hoạch phục hồi sản xuất trong bối cảnh dịch bệnh; đối mặt tình trạng lạm phát tăng cao; trong khi lại phải thúc đẩy chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang nhiên liệu bền vững để ứng phó biến đổi khí hậu. Tình trạng thiếu hụt năng lượng như lời cảnh báo về việc thế giới vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch và sẽ đối mặt nhiều thách thức khi giải bài toán ổn định năng lượng và phát triển bền vững.
Chúng ta có thể cảm nhận thấy được sự theo đuổi điện của các nước trên thế giới ngày càng ráo riết và mạnh mẽ hơn. Chúng ta hi vọng ở một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển, nhưng nếu như vì dầu mỏ, vì lo sợ khủng hoảng, mà những chính sách của các nước vẫn can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác thì liệu thế giới ấy có hòa bình, hợp tác thực sự hay không?

2.2.2 Khủng hoảng năng lượng dầu toàn cầu

Đây không phải là lần đầu tiên thế giới diễn ra tình trạng thiếu hụt năng lượng, nhưng cuộc khủng hoảng năng lượng lần này mang tính đặc thù và phức tạp. Dư luận quốc tế nhìn chung cho rằng tình trạng thiếu hụt năng lượng toàn cầu hiện nay khiến giá các mặt hàng năng lượng chủ chốt liên tục tăng vọt. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Kể từ khi chạm đáy vào ngày 20/4/2020, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) đã tăng gần như thẳng đứng, có vài tháng giảm đôi chút, điều này phá vỡ nhiều dự đoán bi quan rằng giá dầu thô quốc tế sẽ tiếp tục giảm. Giá đóng cửa của dầu WTI là 62,32 USD/thùng vào ngày 15/8 và tăng mạnh kể từ ngày 1/10 đến nay, hiện đang ở mức trên 80 USD/thùng, mức cao nhất kể từ tháng 10/2014. Tờ Financial Times của Anh bình luận rằng đây là những dấu hiệu quan trọng cho thấy cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu sắp nổ ra.

Bên cạnh đó, kể từ tháng 10/2021, giá khí đốt ở châu Âu liên tục phá kỷ lục, giá kỳ hạn tháng 11 trên sàn trung tâm TTF ở Hà Lan – một tiêu chuẩn cho khí đốt tự nhiên ở châu Âu – ngày 5/10 tăng 19% so với một ngày trước đó, được giao dịch ở mức khoảng 118 euro (khoảng 137,5 USD) mỗi MWH – một mức cao kỷ lục và tăng 400% so với đầu năm 2021, khiến thị trường kinh ngạc. Dầu thô và khí đốt tự nhiên là nguồn nguyên liệu đang thiếu hụt, thậm chí là khan hiếm trên thị trường năng lượng toàn cầu hiện nay, và ngành nhiệt điện than một lần nữa trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Giá dầu thế giới đã chạm mức cao kỷ lục trong nhiều năm qua. Tại sàn giao dịch New York (Mỹ), giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) đã chạm ngưỡng 83,76 USD/thùng. Tại thị trường London (Anh), giá dầu Brent Biển Bắc tăng lên mức 85,99 USD/thùng, tiệm cận đỉnh 86,70 USD/thùng vào tháng 10-2018. Việc giá dầu WTI trải qua 9 tuần tăng liên tiếp, trong khi giá dầu Brent ghi nhận 7 tuần tăng liên tiếp đã khiến giá của cả hai mặt hàng dầu chủ chốt tăng khoảng 20% kể từ đầu tháng 9-2021.

Theo đó, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô Brent tăng 0,7%, giao dịch ở mức 73,4 USD/thùng, trong khi đó giá dầu thô ngọt nhẹ WTI của Mỹ tăng 0,72% lên 70,22 USD/thùng, đây là mức tăng mạnh nhất của cả hai loại dầu trên kể từ ngày 3/9. Giá dầu ngày 13/9 duy trì đà tăng mạnh chủ yếu do thị trường dầu thô lo ngại nguồn cung dầu bị thiếu hụt trong ngắn hạn khi các hoạt động sản xuất, khai thác dầu ở Vịnh Mexico chưa thể khôi phục, và tình trạng này được nhận định sẽ kéo dài đến hết tháng 9/2021. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do nhu cầu về nhiên liệu gia tăng trên quy mô toàn cầu. Mỹ là nước tiêu thụ nhiên liệu nhiều nhất sau hơn một năm nhu cầu suy giảm do đại dịch Covid-19. Cùng với đó, những lo ngại về tình trạng thiếu hụt than và khí đốt ở Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu đang thúc đẩy xu hướng sản xuất điện sử dụng dầu diesel và dầu mỏ, càng khiến nhu cầu về các loại nhiên liệu hóa thạch tăng cao. Phiên giao dịch năng lượng đầu tuần này tại châu Âu ghi nhận giá các hợp đồng giao hàng vào tháng 11-2021 ở khoảng 83,75 euro/MWh, tăng gấp đôi so với hồi tháng 8-2021.

Trong bối cảnh như trên, các nhà sản xuất dầu mỏ lại vẫn rất e dè trước diễn biến khó lường của dịch bệnh, càng khiến nỗ lực “lấp đầy các kho dự trữ xăng dầu” trở nên xa vời. Báo cáo của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ cho thấy, lượng dầu thô tồn kho của Xứ Cờ hoa đã giảm 400.000 thùng trong tuần qua, thay vì dự báo tăng 2-3,3 triệu thùng. Cùng với đó, lượng xăng tồn kho hằng tuần của quốc gia này giảm 5,4 triệu thùng, sản phẩm chưng cất giảm 3,9 triệu thùng. Như vậy, lượng nhiên liệu dự trữ của Mỹ đã ở mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Nhu cầu xăng dầu tăng cao trong khi nguồn cung khan hiếm đã dẫn tới những tác động tiêu cực về kinh tế, đặc biệt là thị trường tiêu dùng trên toàn cầu. Tại Mỹ, giá xăng tăng lên mức cao nhất trong 10 năm qua, khoảng 3,39 USD/gallon (3,79 lít). Tại Anh, nhiên liệu này cũng chạm mức cao kỷ lục vào cuối tuần qua, lên tới 142,94 xu/lít, vượt qua kỷ lục trước đó là 142,48 xu/lít. Với một chiếc xe ô tô phổ thông, để đổ đầy bình xăng dung tích 55 lít, người tiêu dùng sẽ mất thêm khoảng 15 bảng Anh (tương đương 500 nghìn đồng Việt Nam). Điều này cho thấy áp lực tài chính đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp ở Anh gia tăng chưa từng có. Ở Ấn Độ, giá xăng và dầu diesel hiện là 107,24 rupee/lít và 95,97 rupee/lít, đây là mức cao kỷ lục so với hồi tháng 5-2021.

Theo Ngân hàng Bank of America (Mỹ), khó khăn về nhiên liệu sẽ tiếp diễn khi mùa đông đang tới gần. Điều này có thể khiến giá dầu Brent chạm mốc 100 USD/thùng. Trước khó khăn về nguồn cung nhiên liệu, nhiều quốc gia đã chủ động lên phương án ứng phó. Theo giới phân tích, việc giá dầu liên tục tăng cho thấy cuộc khủng hoảng về năng lượng toàn cầu chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Điều này đòi hỏi các nền kinh tế cần tăng tính dự báo để ứng phó một cách linh hoạt trong việc thiếu hụt nguồn cung, đặc biệt là các quốc gia châu Á, khu vực đang trên đà phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế toàn cầu trở lại guồng quay, nhu cầu năng lượng tăng vọt trở lại ngay cả khi nhiên liệu dự trữ ở mức thấp nguy hiểm. Lượng dầu dự trữ đang ở mức 94% so với mức thông thường, lượng khí đốt dự trữ của châu Âu ở mức 86%, và lượng than của Trung Quốc và Ấn Độ ở ngưỡng 50%. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Việc giá khí đốt và giá dầu tăng cao, kèm với các thách thức đặt ra cho kinh tế thế giới và khu vực, tiếp tục là một sự nhắc nhở rằng chúng ta vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, và để tiến tới độc lập với nguồn nhiên liệu truyền thống này, sẽ còn rất nhiều việc phải làm.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHUNG CHO KHỦNG HOẢNG NĂNG LƯỢNG TOÀN CẦU (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Trước tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu, nhiều quốc gia và các tổ chức liên kết khu vực và tích cực nghiên cứu, triển khai các giải pháp xử lý cuộc khủng hoảng. Vì vậy, tất cả các quốc gia đều đi tìm nguồn năng lượng mới, kêu gọi tiết kiệm trong sử dụng xăng dầu, khí đốt, than, điện và giải pháp xung đột ở các điểm nóng. Tuy nhiên, mỗi giải pháp đều có những hạn chế của nó và cần có thời gian cũng như tiền bạc.

Giải pháp đa dạng hoá các nguồn cung cấp năng lượng. Thế giới đã và đang tập trung phát triển năng lượng hạt nhân, năng lượng tái sinh và năng lượng sinh học. Tuy nhiên, mỗi dạng năng lượng này đều có những nhược điểm, thậm chí là rất lớn.
Năng lượng tái sinh hay năng lượng tái sinh cũng được các quốc gia hướng tới. Đó là năng lượng từ những nguồn liên tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn. Hiện nay ít nhất 45 quốc gia đang sử dụng loại năng lượng này, 60 nước có chương trình quốc gia phát triển năng lượng tái sinh, 19 nước khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời để thắp sáng và sưởi ấm.
Việc tìm ra những giải pháp tiết kiệm năng lượng là điều quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất nhằm giảm chi phí, giảm giá thành và nâng cao được tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đồng thời, còn giúp giảm được việc tốn tài nguyên thiên nhiên, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Tái cơ cấu phải xây dựng chính sách cơ chế đột phá thu hút nguồn lực bên ngoài, phục vụ phát triển kinh tế trong bối cảnh nguồn lực đầu tư nhà nước có hạn. Những cơ chế chính sách đó phải được xây dựng trên cơ sở tiềm năng lợi thế để tạo sự phát triển toàn diện ở địa phương, các ngành, vùng miền… Đặc biệt, tài nguyên nắng, tài nguyên gió, để sản xuất năng lượng tái tạo.

Hiện nay, trong hệ truyền động của nhà máy sử dụng hệ thống điều khiển lưu lượng thông qua van Bypass. Hệ thống này tuy đáp ứng được yêu cầu hiện tại, nhưng gây lãng phí năng lượng do công suất tiêu thụ của động cơ chỉ giảm được một phần nhỏ. Tuy nhiên, năng lượng tái sinh có khá nhiều nhược điểm. Ví dụ: nguồn nước trên thế giới ngày một khan hiếm nên không thể phát triển thuỷ điện, các công trình thuỷ điện lớn có thể gây ra những biến đổi về địa chất, gây ra những thảm hoạ thiên tai khó lường (đập Tam Hiệp của Trung Quốc là một ví dụ điển hình 20); năng lượng gió và năng lượng mặt trời lại bị phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện thời tiết và chế độ gió, số giờ nắng vốn hết sức thất thường, không phải là ở đâu cũng sản xuất được điện từ gió và nắng. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Thế giới ngày nay đã bị lệ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ, mà nguồn năng lượng này, khoảng những năm 2050-2060, nếu không tìm được các nguồn năng lượng mới thay thế, sẽ đưa thế giới vào cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, nhiên liệu sinh học đang được các nước đặt nhiều kỳ vọng. Các loại nấm tí hon có thể giúp giảm lượng xăng dầu mà thế giới tiêu thụ bằng cách biến hang chục tỷ tấn chất thải nông nghiệp thành nhiên liệu. Ngoài ra, giải pháp này còn giúp giảm lượng khí nhà kính.

Phát triển năng lượng sinh học như sản xuất ethanol, dầu diezen từ dầu cọ và lương thực. Năng lượng sinh học được xem như một loại “năng lượng xanh” bởi nó ít thải ra khí cacbonic gây hiệu ứng nhà kính, huỷ hoại môi trường. Tuy nhiên, giải pháp này đang bị các nhà khoa học, bảo vệ môi trường phản đối. Sản xuất diezen sinh học sẽ cướp đi một diện tích đất canh tác, sẽ làm giảm sản lượng lương thực, trong khi thế giới đang đối mặt với khủng hoảng lương thực. Hơn thế nữa, việc phá rừng để trồng cây nguyên liệu (chủ yếu là cọ) sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp về môi trường.

Kêu gọi các tổ chức có trách nhiệm quan tâm hơn đến vấn đề toàn cầu này. Số các tổ chức tập trung vào năng lượng nhiều, nhưng chưa có một tổ chức nào bao hàm một cách toàn cầu, toàn diện và bao gồm tất cả các dạng của năng lượng. Ví dụ như, OPEC, chỉ có 13 thành viên và chỉ liên quan đến đầu tư – từ cái nhìn của những nhà sản xuất. IEA – cơ quan năng lượng quốc tế thì đại diện cho 27 nước OECD từ phía nước tiêu dung. Chỉ có 51 quốc gia, hầu hết là ở châu Âu – Á là ký vào Hiệp ước hiến chương năng lượng (Energy Charter Treaty) 22, và chỉ tập trung hạn chế vào các vấn đề như thương mại, quá cảnh và các cuộc tranh luận hướng giải quyết. Bộ phận năng lượng của Liên Hiệp Quốc mới chỉ vài năm tuổi. Nó chỉ có 20 cơ quan thành viên, nó không có quỹ hay quyền hành và chủ yếu là thảo luận và chia sẻ thông tin. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Phát triển bền vững từ lâu đã được các nhà khoa học đưa ra như là một tất yếu trong quá trình phát triển của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Một điều hiển niên là trong quá trình phát triển đã và đang có những ảnh hưởng xấu đến tài nguyên, môi trường trên trái đất. Tuy vậy, không thể không phát triển. Vấn đề là ở chỗ vẫn cần phải phát triển nhưng giữ sao cho sự phát triển không hoặc giảm thiểu tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Phát triển nhưng làm sao vẫn thực hiện đầy đủ cả ba chức năng cơ bản của nó là: tạo cho con người một không gian sống với phạm vi và chất lượng vùi các phế thải sản xuất sinh hoạt, giữ không cho phế thải làm ô nhiễm môi trường.

KẾT LUẬN (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Nhu cầu năng lượng tăng cao liên tục làm cho các quốc gia tiêu thụ nhiều dầu mỏ tìm mọi cách để có được các nguồn cung ứng. Rõ ràng là dầu mỏ đang trở thành một mặt hàng chiến lược mang tính chính trị, kinh doanh và an ninh. Nhiều quốc gia đang thực hiện chính sách ngoại giao dầu mỏ, mặc chúng ta có thể hiểu đó là những cố gắng của các quốc gia nhằm bảo vệ, đảm bảo quyền của họ đối với các nguồn dầu mỏ. Hiện nay, việc phát triển các nguồn năng lượng thay thế mới chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn, trong khi đó đối với rất nhiều quốc gia, dầu mỏ vẫn là nguồn năng lượng quan trọng nhất để duy trì phát triển công nghiệp hóa mà công nghiệp hóa là biện pháp quan trọng để giúp tăng trưởng nhanh. Vì vậy, chừng nào mà dầu mỏ vẫn là nguồn năng lượng cơ bản thì chừng ấy nó vẫn là vấn đề thời sự mang tính toàn cầu. Những vấn đề do dầu mỏ đặt ra cho đến nay vẫn không ngừng tăng lên.

Sự thiếu hụt dầu mỏ làm cho các nước đều muốn thực hiện chính sách dự trữ dầu mỏ, do đó nhu cầu về dầu tại đây bị đẩy lên cao. Giá dầu tăng cao sẽ tác động trực tiếp đến uy tín chính trị của nhiều chính phủ. Làm thế nào để có các biện pháp bảo vệ nguồn cung cấp dầu mỏ, biện pháp cung cấp các sản phẩm dầu mỏ cho người dân với giá cả hợp lý luôn là bài toán làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc gia. (Tiểu Luận Phân Tích Khủng Hoảng Năng Lượng Toàn Cầu Năm 2021)

Các nước hiện nay đều phải đối mặt với thực tế hiển nhiên là do dầu mỏ, ngày càng đắt, càng hiếm cho nên rất có thể dầu mỏ sẽ là một trong những nguyên nhân chính đẩy thế giới vào tình trạng bất ổn. Thậm chí, dẫn đến chiến tranh vì nhu cầu kiểm soát và cung ứng nguồn tài nguyên chiến lược này.

Như vậy, nguy cơ khủng hoảng năng lượng lần thứ ba là có thật và khả năng xảy ra là rất lớn. Nó đã không còn là vấn đề xa xôi, không phải là vấn đề của thế hệ sau, của thiên niên kỷ sau. Giờ đây, khủng hoảng năng lượng đang và sẽ là vấn đề của chính chúng ta.

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993