Tiểu Luận: Mối quan tâm về ngân sách

Đánh giá post

Chia sẻ bài Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Hỗ Trợ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu luận Mối quan tâm về ngân sách. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay cần thực hiện các giải pháp như thế nào? để nhận thức và đấu tranh để chống lại các quan điểm xuyên tạc của kẻ thù, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Hỗ Trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Hỗ Trợ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

Tóm tắt

Chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa bầu cử và các  dạng điều  hành khác  nhau của 30 nền kinh tế OECD từ năm 1993 đến 2007. Chúng tôi tập trung vào các chỉ tiêu điều hành bao gồm các ngành công nghiệp năng lượng, giao thông vận tải và thông tin liên lạc mà có nhiều sự đóng góp của khu vực công. Chúng tôi chỉ ra bằng chứng cho thấy rằng bầu cử có tác động tích cực đến những hoạt động điều hành tổng thể của các lĩnh vực trên. Kết quả này được giải thích như là chiến lược thao túng trước bầu  cử trên danh nghĩa của các nhà cầm quyền. Lợi ích kinh tế được duy trì thông qua các tác động tích cực đóng vai trò như các công cụ chính sách thay  thế cho việc chuyển giao tài khóa trước khi bầu cử. Những phát hiện trên là tồn tại và bền vững ngay cả ở các quốc gia có thể chế dân chủ lâu đời  nơi mà chu kỳ ngân sách  chính trị ít  có khả năng xảy ra.

1. Giới thiệu: (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những biến động theo chu kỳ trong chính sách tài khóa của chính phủ gây ra bởi các sắc lệnh hiến pháp trong các cuộc bầu cử định kỳ xảy ra được mô tả thông qua thuật ngữ chu kỳ kinh tế chính trị. Sự xuất hiện của những chu kì này là do hành vi  cơ  hội của những người đương nhiệm trước khi bầu cử. Các chính trị gia trong chính phủ thông qua việc thao túng có chiến lược trong các công cụ chính sách và đặc biệt là mở rộng tài chính nhằm nỗ lực tạo ra các lợi thế kinh tế cho các cử tri. Nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã xác định thao túng có chiến lược các chính sách tài khóa trước khi bầu  cử,  thay  mặt  Chính  phủ, trong các  nền  dân  chủ  mới  thành  lập  (Brender  và D razen,2008). Một số các đặc điểm thể chế khác, như tham nhũng và  không  minh bạch đã được kiểm định thực nghiệm và tìm thấy ý nghĩa thống kê trong việc giải thích chu kỳ ngân sách chính trị và cũng có thể đúng cho những quốc gia có cơ chế chính trị còn non trẻ. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Dưới sự sáng tỏ của những phát hiện này, một  câu  hỏi được đặt  ra  là liệu có là những công cụ khác ngoài chính sách tài khóa có thể được áp dụng cho các thao túng bầu cử trước cử tri mà không có rối loạn quá mức trong cân đối ngân sách của chính phủ và nó có tồn tại trong nền dân chủ cũ hay không. Chúng tôi cho rằng quy  định kinh tế và các lợi ích kinh tế theo sau được tạo ra thông qua sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế có thể là một công cụ. Alesina et al (2008) cung cấp bằng chứng yếu cho 21 quốc gia mà các cuộc cải cách xảy ra vào lúc bắt đầu của một nhiệm kỳ mới, kết quả là nó bị giới hạn trong các lĩnh vực nhất định của nền kinh tế và không liên hệ được với chu kỳ ngân sách chính trị. Họ gán các phát hiện của họ với hiệu ứng tuần trăng mật trong cải cách những năm qua đã gặp sự phản đối mạnh mẽ. Trong bài  báo này, chúng tôi cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho 30  nền kinh tế OECD  trong đó xu hướng tổng thể tiến tới bãi bỏ quy định làm kiềm hãm các hoạt động kinh tế trong những năm bầu cử và đó là sự lựa chọn mang tính chiến thuật của những nhà cầm quyền. Hơn nữa chúng tôi kiểm định điều này có phải  là do cơ chế chính trị còn  non  trẻ và tác động của nền dân chủ như mô tả của B render & Drazen (2008) hay không.

Kết quả của chúng tôi cho thấy sự kìm hãm  các  hoạt động  kinh tế cũng có mặt  trong  nền dân chủ đã được thành lập lâu đời một kết quả  kiểm  định giả thuyết  những quy  định của chính phủ được xem như là một công cụ thay thế cho những thao túng trước bầu cử. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

D razen & Eslava (2006) và K atsimi & Sarantides (2010) xem xét các hình thức vận động bầu cử thông qua thao túng t ài khóa mà không ảnh hưởng đến thâm hụt tổng thể của quốc gia nhưng chủ yếu nhắm vào các thành phần chi tiêu của chính phủ. Các chính trị gia có thể không làm  như vậy  để tránh sự trừng phạt trong bầu cử  của những cử tri. Như Drazen và Eslava (2006) cho rằng “chi tiêu ngân sách cho thịt  lợn  trong ‘năm bầu cử như vậy có nghĩa là chính sách, pháp luật nhắm mục tiêu vào các nhóm cử tri cụ thể để đạt được sự ủng hộ chính trị của  họ  và được xem  như  là một thành phần đặc biệt quan trong của việc thao túng trong bầu cử “(p.1). Họ phát triển một mô hình tập trung vào các thao túng bầu cử thông qua các khoản chi tiêu mục tiêu của  chính phủ mặc dù họ đã xác định từ trước trường  hợp  các  hành động pháp lý  đặc  biệt  thiên về ủng hộ cho một số nhóm lợi ích. Quy định đối với các hoạt  động kinh tế  là một  ví dụ của một hành động pháp lý đặc biệt mà chính phủ  nhắm mục tiêu vào một nhóm cử tri nào đó với chi phí của người khác. Quy định  như  một quá trình tạo ra lợi ích cho một số ít với toàn bộ chi phí của toàn xã hội và không chỉ  bằng ngân sách của chính  phủ. Blanchard & Giavazz i (2003) cho ví dụ liên quan đến lợi ích được tạo ra bởi quy định sản xuất mà cả hai bên là nhà cầm quyền và liên đoàn lao động đều thích  bởi  vì liên đoàn lao động là một trở ngại trong quá trình bãi bỏ quy định. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Hơn nữa, như Hillamn & Riley (1985) lập  luận “chính sách của chính phủ  có thể tạo ra lợi ích và được bảo đảm, ví dụ các yếu tố đặc biệt trong ngành công nghiệp được hưởng lợi từ sự bảo hộ của chính phủ, hoặc những nhà sản xuất đòi thặng dư sản xuất là những người được hưởng lợi từ chính sách bảo hộ và điều chỉnh “(p.17). Mô hình giới thiệu khái niệm định giá phần thưởng bất  đối  xứng (trong  khái niệm  tranh dành lợi ích chính trị) của các đại lý cạnh tranh. Một giá trị lớn hơn cho phần thưởng chính trị bởi hành động của người tham gia nào  đó  được  xem  như một  rào  cản  gia nhập cho những người tranh cử này chỉ nhận một giá trị thấp hơn cho  nó.

Vì  vậy, theo các tác giả các nhà cầm quyền có lợi thế rõ rệt hơn các ứng cử viên tiềm năng của họ. Một kết luận nổi bật quan trọng là ” bảo vệ chuyển giao thu nhập từ nhóm này sang nhóm khác, và người thua cuộc từ một chính sách bảo hộ phải  chịu một mất  mát  ngay  cả khi họ đã không hoạt động tích cực trong việc chống lại vận động hành lang của những người hưởng lợi từ việc bảo hộ”(p.188). Nguyên do như vậy mà chu kì điều chỉnh trong bối cảnh mô hình Drazen & Eslava (2006) không có thâm hụt tổng thể làm gia tăng vận động bầu cử. Trong bài báo này chúng tôi kiểm định sự tồn tại của  các hành vi thao túng trước bầu cử trong 30 nền kinh tế OECD cho giai đoạn  1991-  2007 bằng cách sử dụng một phương pháp tiếp cận dữ liệu bảng biến động. Chúng tôi kiểm tra giả thuyết rằng quá trình bãi bỏ quy định làm kiềm hãm các hoạt động kinh tế trong năm bầu cử do chính phủ sử dụng các kĩ thuật thao túng theo chiến lược

2. Các nghiên cứu trước đây (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Bài nghiên cứu này tập trung vào thuật ngữ chu kỳ  ngân sách  chính  trị bắt nguồn từ các tài liệu về chu kì kinh tế chính trị xuất hiện vào giữa những  năm  bảy mươi. Các giả định trước đây của những tài liệu này là tác động của khái niệm  bỏ phiếu kinh tế. Đó là biến kinh tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định của cử tri trước cuộc bầu cử. Một số nghiên cứu thực nghiệm đã  xác định rằng điều  kiện trước bầu cử này đã có  ảnh  hưởng lớn đến cuộc bầu cử trong một  loạt  các  quốc gia. Kramer (1971) tập trung vào cuộc bầu cử quốc hội từ 1896 đến 1964  cho  thấy rằng tổng số phiếu bầu cử cho đảng cầm quyền bị ảnh hưởng tiêu cực bởi  tỷ  lệ lạm  phát nhưng ảnh hưởng tích cực bởi tốc độ tăng trưởng thu nhập thực tế bình quân đầu người. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

St igler (1973) đặt vấn đề tính bền vững của những kết quả này cho cuộc bầu cử quốc hội một lập luận được giải thích bởi Crain, D eat on và T ollison (1978) như là một dấu hiệu cho thấy rằng các cử tri không chịu trách nhiệm trước đại biểu quốc hội về  hiệu suất kinh tế vĩ mô. Fair (1978) (được cập nhật  trong  Fair 1982, năm 1988) lập  luận rằng nếu một liên kết nhân quả giữa hiệu suất kinh tế và đảng cầm quyền được  thành lập thì điều này có thể được phát biểu trong bầu cử tổng thống. Fair phát hiện ra rằng những thay đổi trong GNP thực bình quân đầu người hoặc tỷ lệ thất nghiệp đã tác động đến bầu cử tổng thống. Một số nghiên cứu khác đã mở rộng phân tích này cho  các quốc gia khác và đã chứng minh thực nghiệm rằng bầu cử theo lợi ích kinh tế không chỉ xuất hiện trong cuộc bầu cử Mỹ. M adsen (1980) tìm thấy kết  quả tương tự  cho các nước Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển và Đan Mạch), Lewis-Beck (1988) cho Anh, Pháp, Tây Đức, Ý và Tây Ban Nha

Chúng t a phải thừ a nhận rằng hoạt động kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong cuộc bầu cử đã cung cấp khuyến khích các chính trị gia sử  dụng  các  chiến  thuật  để  thao túng nền kinh tế trước khi bầu cử. Việc thao túng như vậy  có mục tiêu  chính  là cải thiện phúc lợi của người dân và được xem như là một sản phẩm phụ  làm  tăng cường khả năng tái tranh cử. Mô hình đầu tiên về chính trị cơ hội là của Nordhaus (1975) và Lindbeck (1976). Trong mô hình Nordhaus, cũng như  những mô  hình  gần  đây về chu kì kinh tế chính trị cơ hội, các công cụ chính sách được áp dụng là chính sách tiền tệ và các điều kiện kinh tế có lợi cho cử tri được bắt  nguồn  thông qua khai thác đường cong Phillips ngắn hạn. Đó là với những kỳ vọng về lạm phát quá khứ những nhà cầm quyền cơ hội có động cơ kích thích nền kinh tế giả tạo bằng cách gây  ra một sự bùng nổ kinh tế trong giai đoạn trước bầu cử. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Các mô hình cơ hội của chu kỳ kinh tế  chính  trị thì  dựa vào chính sách tiền tệ đã được kiểm định thực nghiệm rộng rãi. Các nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm tra  cả hai công cụ chính sách và kết quả kinh tế với kết quả không đủ mạnh để hỗ  trợ  cho mô hình này. Một loạt các nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra sự tồn tại của PBC trong hoạt động kinh tế thong qua đo lường GNP và biến động thất nghiệp ở Mỹ và các quốc gia khác trước khi tới cuộc bầu cử. Alesina, Roubini và Cohen (1997)  cung cấp  một bản tóm tắt các kết quả về sự thao túng t ình trạng thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế và kết luận rằng nghiên cứu thự c nghiệm cho thấy thiếu bằng chứng thực nghiệm  để ùng hộ cho lý thuyết vì thế không có bằng chứng cho sự gia tăng các hoạt  động kinh  tế trước bầu cử. Lewis-Beck (1988) và P aldam (1979) mở rộng phân tích ra bên ngoài nước Mỹ một lần nữa không có kết quả có ý nghĩa để xác minh sự gia tăng trong hoạt động kinh tế.

Lạm phát sau bầu cử mà các mô  hình  dự  đoán  đã mở rộng mặc  dù  thiếu tính phổ biến đem lại tính bền vững cho lý thuyết. Ales ina et. al. (1997) tìm thấy dấu hiệu của lạm phát cao hơn sau bầu cử ở các nước OECD và cho rằng lạm phát sau bầu cử ở Mỹ là một hiện tượng  có  thể  được nhận  thấy  trong  cuộc  bầu  cử  trước năm 1979. Bằng chứng về các công cụ chính sách  tiền tệ phù hợp với  những phát hiện về  lạm  phát  sau  bầu  cử.  (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Một  số  nghiên  cứu  đã  điều  tra  cung tiền  bằng  cách  đo lường thay đổi về khối lượng M1. M ột lần nữa Alesina et. al. (1992) tìm thấy bằng chứng như vậy cho 18 nền kinh tế OECD, Berger và Woitek (1997) cho Đức, và Allen (1986) cho Mỹ. G rier (1989) và Beck (1987) đã đưa ra phản chứng lên sự gia t ăng cung tiền M 1 và tranh luận rằng việc lựa chọn trong khoảng thời  gian  khảo s át  thì  quan trọng đối với mức ý nghĩa thống kê của kết quả. Ông kết luận rằng việc thao túng như vậy được thể hiện trong dữ liệu cho  khoảng thời  gian  từ  năm  1960  và  1980. Frans ese (2006) đã quy kết cho việc thiếu các bằng chứng thực nghiệm để hỗ trợ các ý tưởng của PBC trong kết quả thực được xem như là một bằng chứng cho thấy các nhà chính trị ưu tiên cho chính sách mục tiêu và đúng thời điểm (của những nhà ầm quyền đối với cử tri) chính sách có thể thao túng đư ợc (của những nhà cầm quyền), rõ ràng  (cho cử tri) và có thể quy kết (bởi cử tri đối với người đương nhiệm) (p.549).

Các thiếu sót về thực nghiệm trong nghiên cứu về các thao túng hoạt  động tiền tệ để tăng cường khả năng tái tranh cử kết hợp với việc xác định rằng các chính  trị  gia  ưu ái cho các chính sách nhắm mục tiêu và rõ ràng được kết hợp với việc thao túng chính sách tài khóa tạo ra chu kỳ kinh tế theo sự biến động chính trị. Tuft e (1978) xác định một số rắc rối của các thao tác mang tính cơ hội trong các chính sách tài  khóa trước bầu cử. Theo Tuft e những chính sách này bao gồm chuyển giao tài khóa trong thanh toán an sinh xã hội, phúc lợi cựu chiến binh, thuê  mướn  hay sa thải công, tăng chi tiêu, trì hoãn cắt giảm. Trái ngược với các mô hình trước của chu kỳ kinh doanh chính trị mang tính cơ hội, nay đường cong Phillips trở nên không thích hợp khi lợi ích kinh tế của những cử tri cũng được được cải thiện thông qua chuyển giao tài chính trực tiếp và nhắm mục tiêu đến anh ta. Thuật ngữ chu kỳ ngân sách chính trị được dùng để mô tả biến động mang tính chu kỳ trong cá chính sách tài khóa và được xem như là một phần của chu kỳ bầu cử. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Rogoff và Sibert (1988) mở rộng mô hình chu kỳ kinh tế chính trị mang tính cơ hội ban đầu cho các cử tri lý trí. Các mô hình lựa chọn đối nghịch, họ thể hiện dự a trên giả định rằng mỗi ứng cử viên đều biết mức năng lực của anh  ta (thấp  hoặc  cao). Thông tin này là bất đối xứng vì những cử tri không biết được điều này và  kỳ  vọng hợp lý đối với ứng cử viên được đánh giá dựa trên quan  sát  kết  quả chính sách tài  khóa. Trước bầu cử úng viên có năng lực cao thường phát ra tín hiệu về khả năng của  họ bằng cách tham gia vào mở rộng chính sách tài khóa. Cử tri nhận ra mức độ năng lực cao, vì thông qua những chính sách như vậy thì tốn kém nhiều chi phí hơn những ứng cử viên có năng lực thấp, và phần thưởng dành cho họ là bằng cách bỏ phiếu ủng hộ. Rogoff (1990) lập luận rằng năng lực ra tín hiệu cũng có thể đạt  được bằng cách  thao túng các thành phần chi tiêu chính phủ. Đó là bằng cách thay đổi chi tiêu chính phủ hướng tới thiết lập các chính sách đáng chú ý. Chuyển giao trực tiếp  và chi tiêu tiêu dùng thường có kết quả ngay lập tức nên nó trở thành các chính sách  được yêu thích của các chính trị gia có năng lực, hơn là đầu tư và những chính sách  khó quan sát và cần nhiều thời gian để phát huy tác dụng. Mặc dù có thể xảy ra lạm phát sau bầu cử, xuất phát từ việc mở rộng tài khóa, cử tri có lý trí sẽ phản ứng với  những thao túng như vậy, vì vẫn còn tốt hơn là bầu cho ngư ời có năng lực về quản lý nền kinh tế. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Mặc dù các yếu tố mới mà các mô hình nói trên đã kết hợp vào, đó là tính lý trí của cử tri và hành vi mang tính chiến lược của các chính trị gia và toàn bộ cử tri, hạn chế nhất định về mặt lý thuyết được xác định. Cả Shi & Svensonn (2003) và  Draze (2000) đều phân biệt điểm nổi bật nhất của những mô hình dự  đoán của một  nền kinh  tế bị bóp méo bởi các chính trị  gia  tài năng.  Hơn  nữa, chỉ  có anh  ấy  sẽ được bầu lại. Nhưng bên cạnh những câu hỏi lý thuyết, một hạn chế  nghiêm  trọng về nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện là bổ sung thông tin của các nhà chính trị cũng cần thiết đưa vào để kiểm tra tính dự báo của các mô hình.

Những hạn chế này đã được giải quyết thông qua một loạt các mô hình dự a trên lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. P ers son & Tabellini  (2000)  và  Shi & Svensson (2002) giới thiệu các mô hình như vậy để phân biệt các mô hình  này  với từ các mô hình lựa chọn đối nghịch trước đó với hai vấn đề lớn. Thứ nhất mặc dù mỗi chính trị gia đều có năng lực riêng, người ta cho rằng năng lực này không quan sát  được kể cả toàn bộ cử tri và các chính trị gia  đương thời. Thứ hai là các mô  hình mới đưa ra phạm vi cho các hành động chính sách tài chính ẩn mà cử tri không thể quan sát được ngay lập tức. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Vì vậy, các nhà cầm quyền có thể thay thế những người thiếu năng  lực bằng cách các công cụ thao túng chính sách nhằm phát tín hiệu cho anh ta. Ví  dụ  vay mượn trước bầu cử và tăng chuyển giao tài khóa và cung cấp hàng hóa công như một công cụ làm tăng thu nhập trong hoạt động kinh tế. Cuộc bầu cử  diễn ra sau khi  kết hợp các nỗ lực chìm của người đương nhiệm và cuộc sống trở nên sung túc hơn là kết quả của chính sách tài khóa. Trong trạng thái cân bằng và mặc dù thực tế cử tri biết ý định của những nhà cầm quyền và động cơ cho các thao túng, vay mượn quá mức có thể được thể hiện như là sự gia tăng thâm hụt ngân sách trong thời gian trước khi bầu cử. Sự khác biệt đáng chú ý liên quan đến nghiên cứu thực nghiệm đó là sự  tiên  đoán của mô hình cho rằng sự thao túng tài khóa và sử dụng các công cụ chính  sách liên  quan không bị giới hạn bởi các ứng cử viên có thẩm quyền cấp độ cao nhưng có thể được sử dụng bởi tất cả các loại của các chính trị gia.

Các kết quả thực nghiệm ủng hộ chu kỳ kinh tế chính trị không được tin cậy với các kết quả ít có ý nghĩa thông kê và nói chung là thao túng tiền tệ tác động đến kinh tế thực thì không có mặt trong dữ liệu dưới sự kiểm định của mô hình. Mặt khác,  nghiên cứu thực nghiệm về chu kỳ ngân sách chính trị đã hiểu rõ trong nhiều năm qua, với sự trợ giúp đỡ đắc lực của các kỹ thuật kinh tế lượng tiên tiến đã đưa ra các kết quả bền vững và có ý nghĩa thống kê cho thấy sự hiện diện của các thao túng tài khóa  trước bầu cử dưới hình thức tăng thâm h ụt ngân sách. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Tufte (1978) đưa ra bằng chứng đầu tiên về sự thao túng chính sách tài khóa trong bối cảnh chuyển giao trực tiếp. Frey & Schneider (1978a 1978b) đưa ra một số bằng chứng kinh tế lượng đầu tiên về sự gia tăng chi tiêu chính phủ trước khi bầu cử cho cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Đối với Keech & Pak (1989) tìm thấy chu kỳ bầu cử trong các khoản chuyển giao cựu chiến binh nhưng chỉ trong một khoảng thời gian giữa năm 1961 và năm 1978  và  Alesina (1988) thông qua hồi  quy  OLS kết  luận  rằng có sự tồn tại của chu kỳ bầu cử trong khoản chuyển giao ròng tương  đối so  với GNP cho giai đoạn 1961 đến 1985. Bằng chứng về sự thao túng như vậy cũng là kết quả của nhiều nghiên cứu ở một số quốc gia riêng rẽ. Krueger & Turan (1993) tìm thấy bằng chứng về các thao túng tài khóa trước bầu cử cho Thổ Nhĩ Kỳ trong những năm từ 1950 đến 1980, Gonzalez (2002) nhận thấy kết quả tương tự về chu kỳ trong chi tiêu chính phủ của Mexico cho giai đoạn 1958-1997.

Một lần nữa các nghiên cứu về chu kỳ ngân sách chính trị ở cấp độ đa quốc gia  có kết quả ủng hộ chiến lược mở rộng tài chính trước bầu cử thay mặt cho  ngư ời đương nhiệm. Ames (1987) đưa ra bằng chứng ủng hộ về sự  gia  tăng chi tiêu  chính phủ ở 17 quốc gia Americal Lat in. Block (2002) đã khẳng định chính sách mở rộng tài khóa cho 44 nước Châu Phi tiểu sa mạc Sahara. Schuknecht  (1996)  đã  tìm  thấy  kết quả tương tự về chu kỳ tài khóa cho 35 nước đang phát triển. Ông nhấn mạnh rằng cơ chế yếu kém và ít có sự kiểm tra và cân bằng cho thao túng tài chính ở quốc gia  đang phát triển. Sự khác biệt về độ lớn của chu kỳ tài khóa cũng như sự khác biệt lớn ở các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia trong các nghiên cứu đã tạo ra các kết quả khác nhau đã chuyển sự chú ý đến việc từ nếu chu kỳ ngân sách chính trị tồn tại thì chu kỳ  này xảy ra ở đâu và lý do tại sao có sự khác biệt giữa các nước. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Trong bối cảnh này, Shi & Svesson (2002, 2006) tìm thấy  bằng chứng về chu kỳ ngân sách chính trị ở cả các nước phát triển và kém phát triển với độ lớn của hiện tượng này lớn hơn nhiều so với trước đây. Họ cũng chứng minh được sự khác biệt có thể là do sự khác biệt về cơ chế. PBCs có liên quan tích cực với lợi ích kinh tế của các chinh trị gia trong quốc hội và tương quan nghịch với thị phần của cử tri. Gonzales (2002) trong nghiên cứu ở 43 quốc gia trong giai đoạn này 1950-97 kết  luận rằng có  một mối tương quan dương giữa mức độ chu kỳ kinh doanh chính trị dân chủ và minh bạch là mạnh nhất trong các quốc gia có mức độ dân chủ vừa phải.  Cùng với nghiên  cứu A lt & Lassen (2006) cho thấy rằng thao túng tài chính tồn tại giữa các nền dân chủ tiến bộ trong cơ chế minh bạch ngân sách cũng như sư phân cực của các đảng phái chính trị. Akhm edov & Zhuravsaya (2004) đưa ra kết luận tương tự về tính minh bạch trong một bối cảnh của một nền dân chủ “trẻ” với sự chuyển  dịch lớn trong chi tiêu trước bầu cử tương ứng với các khu vực Nga với tính minh bạch thấp hơn.

Perss on & Tabellini (2003) trong một phân tích kết hợp 60 nền dân chủ từ 1960 đến 1998 nghiên cứu làm thế nào chu kỳ ngân  sách chính trị bị ảnh hưởng bởi  các hình thức chính phủ, tổng thống hoặc quốc hội, và các quy tắc  bầu  cử , số  đông hoặc tỷ lệ thuận. Họ cho rằng chính sách tài chính bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính bản chất  của  hệ  thống   chính   quyền   như   đặc   trưng bở sự khác biệt cơ bản nói trên. Kết quả của họ chứng minh rằng cắt giảm thuế trước bầu  cử  là một  hiện  tượng phổ biến trong khi các điều chỉnh tài khóa sau bầu cử có thể được tìm thấy ở các nước có chế độ tổng thống. Ngoài ra họ thấy rằng quy tắc bầu cử theo tỷ lệ tương quan với  sự  gia  tăng  chi   phí  trong  chi  tiêu  phúc  lợi  trong  thời   gian   trước  bầu   cử và sau bầu cử. Quy tắc bầu cử theo số đông thì tương quan với cắt giảm chi tiêu trước bầu cử. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Brender & D raz en (2005) trong một bài báo có ảnh hưởng cũng xác nhận sự tồn tại của chu kỳ ngân sách chính trị, nhưng họ kết luận rằng kết quả này  là do  tác động của nền dân chủ mới. Đó là bao gồm trong mẫu các nước có nền dân chủ  mới có ý  nghĩa thống kê đối với chu kỳ ngân sách chính trị. Một khi các quốc gia  này  được loại bỏ khỏi mẫu kết quả xuất hiện là không có ý nghĩa thống kê. Trải qua nền  dân chủ mới là điều không thể tránh khỏi cho cả hai nền kinh tế phát triển và kém phát triển hơn và phản ánh mức độ kinh nghiệm của cử tri đối với cơ chế dân chủ. Cử  tri nhiều kinh nghiệm hơn ít có khả năng tưởng thưởng và các thao túng tài khóa trước bầu  cử  là “điều ngạc nhiên” trong năm bầu cử được xử lý một cách tinh vi hơn. Mặt khác cử tri thiếu kinh nghiệm ở các nền dân chủ mới cũng nhiều khả năng có ít dữ liệu  có sẵn để  rút ra những kết luận chính xác về chính sách có thể quan sát có thể sai lầm với những thao túng trước bầu cử. Brender & Drazen (2005) cẩn thận thừa nhận thực tế là các sự kiện trước các thao túng tài khóa đã có mặt trong các nền dân chủ trưởng thành chưa xảy ra ở các nền dân chủ mới thành lập đã lấy đi của cử tri kinh nghiệm  hữu ích  và quan trọng cần thiết để xác định. Họ cũng kết hợp kết quả của họ với nghiên cứu thực nghiệm trước đó nhấn mạnh tầm quan trọng của tính minh bạch về việc giảm các thao túng chính sách tài khóa trong bầu cử. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Dưới ảnh hưởng của những phát hiện này đã nêu lên hiện tượng chu trình ngân sách chính trị không xuất hiện ở những quốc gia đã phát triển và  có nền  dân chủ lâu dài D raz en & Eslava (2006) đề xuất một mô hình chu kỳ tiền của chính phủ  (chi cho các công trình địa phương nhằm để giành phiếu bầu). Trong mô hình của họ các nhà cầm quyền cố gắng ảnh hưởng đến cử tri bằng cách chi tiêu trực tiếp  và  có  mục tiêu  đối với nhóm người cụ thể với chi phí của các cử tri khác. Họ cho rằng một chiến lược chi tiêu nhắm mục tiêu bằng cách cắt giảm một số các chi tiêu khác để không làm tăng thâm hụt ngân s ách tổng thể. Chiến lược này trở nên tối ưu cũng như thâm hụt  ngân sách vượt quá bị trừng phạt bởi các cử tri làm giảm cơ hội tái đắc cử. Các thao túng trong mô hình này diễn ra trong các thành phần chi phí với thông tin bất đối xứng không được giới thiệu về năng lực của các chính trị gia như  trước,  nhưng  trong sự ưu đãi của những người đương nhiệm trên các nhóm cử tri khác  nhau.  Vì  vậy,  chu  kỳ ngân sách chính phủ có thể xuất hiện thậm chí khi có đầy đủ hiểu biết vế năng lực của các nhà chính trị và hơn nữa là sự lựa chọn chính sách tài khóa của người.

3. Dữ liệu và kỹ thuật thực nghiệm

3.1 Dữ liệu (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Chúng tôi sử dụng dữ liệu theo năm cho 30 nước OECD từ năm 1999 đến 2007. Dữ liệu này đư ợc thu thập bởi Conway & Nicoletti (2006) và ban đầu chỉ bao gồm 21 quốc gia OECD trong khoảng thời gian từ năm 1975-2003. Cập nhật đến năm 2009, Nicoletti et al 2009 đã mở rộng lên đến 30 quốc gia và khoảng thời gian đến năm 2007. Các quốc gia có sẵn dữ liệu theo năm là: Australia, Áo, Bỉ, C anada, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Phần  Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ireland,  Italy,  Nhật Bản, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Na  Uy, Ba Lan,  Bồ Đ ào Nha,Slovak Republic, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nh ĩ Kỳ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.

Các chỉ số về quy định phi sản xuất bao  gồm các lĩnh vực năng lượng, vận tải và thông tin liên lạc (ET CR). Các biến này được đo lường theo thang điểm từ điểm 0 nghĩa là ho àn toàn không có sự điều chỉnh của chính phủ đến điểm 6 cho thấy những quy định và hạn chế về kinh tế ở mức độ nghiêm khắc nhất. Chỉ số ETCR được tập hợp dựa trên bảy lĩnh vực của nền kinh tế có sự đóng góp lớn của nhà nước thông qua những doanh nghiệp sở hữu công, doanh nghiệp độc quyền và khuôn  khổ  pháp luật quy định chặt chẽ ràng buộc. Các lĩnh vực này là điện, khí đốt, vận tải hành khách đường hàng không, vận tải đường sắt, vận tải hàng hóa đường bộ, các dịch vụ bưu chính và viễn thông. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Các chỉ số ước tính được lấy nguồn từ các quốc  gia và các ấn phẩm được xuất bản và các chỉ số có  số  điểm thấp  đại  diện những  đo lường khách quan được xây dựng trong bảng câu hỏi. Những chỉ số có số điểm thấp liên quan đến những quy định gia nhập ngành, sở hữu công, hội nhập các thị  trường theo chiếu dọc  và cơ cấu thị trường tùy thuộc vào từng ngành nghề cụ thể với những rào cản gia nhập ngành và quyền sở hữu công áp dụng hầu hết các ngành nghề. Những điếu này  được tổng hợp trong các chỉ số liên quan đến các lĩnh vực  hoạt  động kinh  tế hoặc trên các chỉ số tổng hợp đại diện cho quy định trong “rào cản gia nhập”, “Tất cả nhưng ngoài quyền sở hữu công “,” Quyền sở hữu công “và” ETCR tổng hợp “. Vì chúng ta đang hậu đã được bãi bỏ. Trong những năm 80 diễn ra tiến trình xác định lại vùng ranh giới của một vài quốc gia với những quốc gia còn lại theo từng bước chậm rãi đã trở thành lãnh thổ chung vào những năm 90. Thứ ba, chúng tôi có thể kết hợp trong bộ dữ liệu nước cộng sản cũ bây giờ là thành viên của OECD và kiểm định thực nghiệm về tác động của nền dân chủ mới.

Các tác giả đã mô tả các chỉ số được phân tích (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những chỉ số ET CR của O ECD được sử dụng để thực hiện trong nghiên cứu thực nghiệm. Ví dụ Potrafke (2010) sử dụng các chỉ số tổng hợp để nghiên cứu tác động của đảng phái lên sự bãi bỏ quy định cho 21 quốc gia từ năm 1980 đến Alesina và cộng sự (2008) sử dụng các chỉ số thành phần của từng khu vực để nghiên cứu tác động của việc t hông qua khu vực chung Euro trong cải cách cơ cấu quan tâm đến mức độ quy định tổng thể thay đổi trong thời kỳ trước khi bầu cử, chúng tôi áp dụng các chỉ số tổng hợp cuối cùng trong điều tra thực nghiệm của chúng tôi.

3.2 Mô hình thực nghiệm

Để đánh giá mối quan hệ giữa bầu cử và các chỉ số quy định, chúng tôi định rõ mô hình dữ liệu bảng biến động với cơ cấu như sau:

Trong đó Yit biểu thị tốc độ tăng trư ởng (Δ ln) của mỗi bốn chỉ số tổng hợp điều tiết thị trường sản xuất trong nước i và vào năm t. Xit là một vector các biến kiểm soát, ELE một biến giả bầu cử (bằng m ột nếu trong năm có bầu cử  và bằng không trong trường hợp ngược lại), µit là các tác động riêng có của mỗi quốc gia mà không quan sát được và εit là sai số thống kê. Các biến phụ thuộc có độ trễ nhằm khắc phục tính dai dẳng của mức độ điều chỉnh trong nền kinh tế để thiết lập bản chất biến động của mô hình thong qua các biến chỉ định trong mô hình. Biến kiểm soát của  chúng tôi  là  tốc độ tăng trưởng GD P thực tế để nắm bắt khả năng bãi bỏ quy định nhằm khắc phục khủng hoảng kinh tế, và tỷ lệ thất nghiệp để kiểm soát áp lực của công đoàn chống lại quá trình bãi bỏ quy định này. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Phương trình (1) là mô hình dữ liệu bảng dạng chuẩn. Sự hiện diện của biến phụ thuộc có độ trễ và các tác động riêng có của mỗi quốc gia trong hồi quy OLS làm cho ước tính bị sai lệch.

Mặc dù phương pháp ước lượng FE đã loại bỏ các tác  động  cố định của mỗi quốc gia, kết quả ước lượng vẫn chệch do biến phụ thuộc có độ trễ được đặt trong mô hình để nói lên tác động dai dẳng của các biến. Ước lượng chệch là do dữ liệu ban đầu Yi0 tương quan với tác động riêng có của mỗi quốc gia   , tạo ra mối tương quan trật  tự 1/T giữ a biến phụ thuộc có độ trễ và sai số thống kê. Vì ước lượng chệch FE phụ thuộc vào độ dài chuỗi thời gian nên T đi đến vô cùng thì ước lượng FE sẽ bền vững (Nickel 1981; Kiviet 1995).

Để giải quyết vấn đề  này,  chúng tôi áp  dụng ước lượng G MM phát  triển bởi  A rellano và Bond (1991), A rellano & Bover (1995) và Blundell và Bond (1998). Alvarez & Arellano (2003) đã thảo luận về các tính chất tiệm cận của nhiếu phương pháp ước lượng cho một mô hình tự hồi quy khi cả T và N có xu hướng đi đến vô cùng và kết luận rằng ước lượng G MM và LILM là bền vững như nhau và tiệm cận hiệu quả khi cả N và T có xu hướng tiến đến vô cùng. Hayakawa (2007) mở rộng phân tích nói trên bao gồm hệ thống ước lượng G MM được phát triển bởi Arellano / Bover-BlundellBond. Ông xuất phát từ tính chất tiệm cận của hệ thống G MM khi T và N tương đối lớn. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Ông đã đưa ra kết luận với sự hỗ trợ của phương pháp Monte Carlo mô phỏng hệ thống ước lượng hai bước GMM ban đầu được phát triển cho N lớn và dữ liệu bảng T nhỏ và nay cũng được đề nghị sử dụng trong trường hợp N và T đều lớn. N goài ra Soto (2010) đã cho rằng thông qua mô phỏng M onte Carlo kiểm tra việc thực hiện các ước tính theo GMM khi N là tương đối nhỏ so với T và ông cũng kết  luận rằng số  lượng nhỏ của các cá nhân không có tác dụng quan trọng trên các thuộc tính của hệ thống GMM . Ông chứ ng minh rằng ước tính hệ thống GMM có sự sai lệch thấp nhất và hiệu quả cao nhất từ một tập hợp các  ước lượng kết hợp trong phân  tích của mình  khi dãy số liệu có một độ trễ nhất định. Phân tích của Soto tập  trung vào trư ờng hợp  cỡ mẫu nhỏ là tình trạng phổ biến trong dữ liệu bảng vĩ mô trong đó cả N và T đều nhỏ và kết luận rằng sự chính xác và hiệu quả của hệ thống ước tính G MM làm cho nó trở thành một công cụ đáng tin cậy hơn cho nghiên cứu ứng dụng ngay cả khi tập hợp một phần các biến công cụ được sử dụng cho việc ước lượng.

4.  Kết quả thực nghiệm (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

4.1 Mô hình cơ sở

Những kết quả báo cáo ở Bảng 1 đã chỉ ra tỷ lệ gia tăng của 4 nhóm chỉ số quy định OECD là biến số phụ thuộc. Để những kết quả được hiểu rõ hơn, chúng ta nhân chỉ số quy định với (-1), do đó, việc biến đổi chỉ số quy định để  loại trừ chỉ  số quy định. Giá trị cao hơn của chỉ số tương ứng với sự gia t ăng nhanh hơn trong  việc loại bỏ biến số kinh tế. Kết quả chỉ ra rằng những cuộc bầu cử có ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình loại bỏ. Tất cả 4 chỉ số nhập vào phương trình với một dấu âm và mức ý nghĩa cao ở mức 1%. Dấu âm được giải thích như là thuyết minh của quy trình loại bỏ.

Các biến hạn chế không đưa vào phương trình vì ý nghĩa thống kê ngoại trừ tốc  độ tăng trưởng GDP thực trong nhóm chỉ số đo lường phạm vi của nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải và thông  tin  liên  lạc. Trong trường hợp  đặc biệt này, hệ số nhập vào với dấu âm biểu thị rằng một tỷ lệ tăng trưởng GDP dương cung cấp sự không khuyến khích cho việc loại bỏ thêm nữa. Tình trạng thất nghiệp  không đưa vào phương trình ý nghĩa thống kê. Điều này có thể được giải thích thông qua sự hiểu biết cơ cấu thị trường lao động cho cả một số quốc gia chủ chốt ở Châu Âu cũng  như các lĩnh vực của nền kinh tế mà những chỉ số quy định này được sưu tập tài liệu. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những chỉ số quan tâm đến những lĩnh vực của nền kinh tế nơi mà nhà nước có truyền thống gia tăng sự hiện diện: thông qua doanh nghiệp nhà nước, độc quyền và những quy định nghiêm ngặt về ràng buộc khuôn khổ pháp lý. Đối với một số quốc gia chủ yếu, sự cứng nhắc này được phạm vi rộng hơn, hiện diện dưới hình thức của một cấp độ cao hơn của chế độ bảo hộ cho ngư ời lao động làm việc trong lĩnh vực này. Do đó và trong bối cảnh của “lý luận những người hay thứ khác của Ales ina” , một sự gia tăng trong tình trạng thất nghiệp không có ảnh hưởng trong loại bỏ chỉ số vì những công nhân được bảo vệ không có bị ảnh hưởng.

Ở nhiều quốc gia Châu  u, từ khi các công đoàn lao động thực  sự  trở  thành công đoàn của những người công nhân lớn tuổi, công chức, những người về hưu (ví dụ ở Ý phần lớn các thành viên công đoàn đã nghỉ hưu) điều đó không xảy ra một sự ngạc nhiên rằng họ dung nạp hoặc thậm chí chấp thuận giới t hiệu các hợp  đồng công việc tạm thời với những người trẻ, những công nhân mới vào nghề sẽ được thuê theo ý của người sử dụng. Trong thương mại, họ giữ mức độ bảo hộ cao cho người lao động lớn tuổi trong thị trường lao động truyền thống. Tây ban nha, Ý, Pháp là những ví dụ hoàn hảo. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Ghi chú: Độ mạnh độ lệch chuẩn trong dấu ngoặc đơn với sự hiểu chỉnh giới  hạn mẫu cho 2 bước ma trận hiệp phương sai được phát triển bởi Windmeijer(2005),biểu thị mức  ý nghĩa  tại mức  1, 5, 10% . Tất cả chỉ số quy định O ECD được nhân với (-1)để lấy được sự loại bỏ  những tỷ lệ tăng trưởng. Sự  biến đổi độ lệch trực giao được sử dụng như chư a từng bị mất thông tin như một số những quan sát bị mất tích từ dữ liệu. Các công cụ sử dụng trong hồi quy bị tụt  lại 1 cấp  độ (1 thời kỳ) cho phương trình khác nhau và sự khác biệt độ trễ (1 thời kỳ) cho phương trình các cấp. Các công cụ đư ợc tiếp tục cắt giảm thông qua  thất bại  sự  lựa  chọn trong xtabond2 for ST AT A. Tổng số lượng  các công  cụ  9 (a) Phân tích H ansen  nhận ra sự hạn chế (overidentifying restr iction), nơi mà giả thiết H0 không có hiệu lực tương ứng v ới giá trị nhận ra sự hạn chế ( overidentifying restriction) (b) Phân tích Ar ellano

– Bond cho bậc thứ hai (hệ số) chuỗi tương quan trong sự khác biệt  những  phần  dư đầu tiên, H0: Không có (hệ số) chỗi tương quan

4.2 Tác động của nền dân chủ mới (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những kết luận được rút ra từ các kiểm tra trước đây dựa trên mẫu bao gồm các nền dân chủ mới, chúng t a sẽ kiểm tra riêng những nước có nền dân chủ mới.  Bảng báo cáo thứ 2 là kết quả điều tra từ 26 nền dân  chủ được thành lập lâu đời đã rất phù hợp với những kết luận trước. Một lần nữa thất nghiệp không trở thành một nhân tố quan trọng được thống kê và GDP thực tế không t ác động đến chỉ số các hoạt động dỡ bỏ điều tiết (việc dỡ bỏ các luật và dưới luật của chính phủ trung ương hay địa phương hạn chế sự tham gia vào các hoạt động nhất định của nền kinh tế mà điển hình là quá trình tư nhân hóa).

Biến bầu cử được kì vọng mang dấu âm trong tất cả 4 trường hợp như g nó chỉ có ý nghĩa thống kê trong 3 mà thôi. Ở trường hợp mà dữ liệu không xác minh sự kìm hãm trước bầu cử của quá trình dỡ bỏ điều tiết liên quan đến chỉ tiêu đo lường sự mở rộng của khu vực công trong 7 ngành kinh tế mà dữ liệu đã có sẵn. Kết quả này có thể thấy rõ qua sự thiết hụt các phương tiện cần thiết  cho  một chiếc dịch vận động. Từ nhưng năm 80 trở đi chính phủ đã đưa ra kế hoạch tư nhân hóa rộng rãi làm giảm toàn bộ lượng sở hữu công. Hơn thế nữa ở nhiều nước có tham gia điều hành của cả tư nhân và nhà nước làm cho các cuộc vận động hành lang trở nên khó khăn hơn nhất là nước thành lập thông qua cơ quan lập pháp trực tiếp. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những kiểm định sau  này được thực hiện trên tổng 30 quốc gia chúng tôi dùng một biến giả tượng trưng cho cuộc bầu cử được tổ  chức ở các nền dân chủ mới. Kết quả cũng giống như 2 kiểm định trước.Cả 2 biến giả cho cuộc bầu cử ở nền dân chủ cũ và bầu cử ở nền dân chủ mới đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê.  Sự  khác nhau là ở độ lớn của hệ số trong đó biến giả của các cuộc bầu cử ở nền dân chủ mới thì lớn hơn. Kết quả này nhât quán với các phát hiện thực nghiệm trong chu kỳ  ngân  sách chính trị là độ lớn cuả chu kì tài khóa giảm khi cơ chế dân chủ trưởng thành. (Bảng 3)

 “Ren t Effe ct” tạm dịch là ảnh hưởng của nhóm lợi ích kinh tế

Trong trường hợp này, nó được hiểu như sự tác động của các nhóm kinh tế lên bộ máy chính trị của một quốc qua nhằm thự chiện các sách lược kinh tế có lợi cho nhóm lợi ích đó, vấn đề này liên quan nhiều đến khái niệm tham thũng.

Thông thường, trong học thuyết chu kì ngân sách chính trị, để kiểm tra tác động của nhóm lợi ích chính trị lên sự tồn tại và mức độ mở rộng tài khóa trước bầu cử. Ở đây, chúng tôi cũng tiến hành kiểm định tác động của lợi ích nhóm của những người làm chính trị bằng việc sử dụng hai chỉ số đại diện khác nhau nhưng có  mối liên  hệ  khá mật thiết với nhau. Theo Shi & Svenssion 2006, chúng tôi đã xây dựng hai biến từ hai chỉ số phổ biến được sử dụng đo lường những hận biết về tham nhũng.  Biến đầu tiên được xây dựng thông qua chỉ số Nhận Biết Tham Nhũng (CPI) được công bố hàng năm bởi Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế.  Biến thứ hai được xây dựng thông qua các chỉ  số WGIs (các chỉ số về Điều Hành Thế Giới) của W orld Bank và đặc biệt thêm một chỉ số Kiểm Soát Tham Nhũng. Những chỉ số này liên quan đến vấn đề sử dụng các tài sản công phục vụ cho lợi ích cá nhân cũng như mức độ can  thiệp của những nhóm lợi  ích trong hệ thống chính trị. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

H ai chỉ số trên được thể hiện dưới dạng chỉ số ELE*Corruption  thay  thế  cho biến ELE trong mô hình 3.2. Chỉ số tham nhũng được tính bằng cách lấy chỉ số tham những của từng quốc gia trừ đi mức trung bình của tất cả các nước. Vì thế, những quốc gia có chỉ số tham nhũng bằng không thì nằm ở mức bình thường, trong khi đó những quốc gia có chỉ số này lớn hơn 0 thì đồng nghĩa với việc ít tham nhũng và ngược  lại  nếu bé hơn 0. Mặc dù, dấu của những kết quả này đúng như kì vọng của chúng tôi  nhưng nó lại không có ý nghĩa thống kê. Lời giải thích hợp lí cho vấn đề này  có  thể là do sự kìm hãm các ho ạt động kinh tế không xảy ra mặc dù  các nhóm  lợi  ích  đặc biệt gây áp lực lên chính phủ, nhưng chính phủ sẽ chấp nhận các yêu sách của nhóm lợi ích này như là một giải pháp thay thế cho việc mở rộng tài khóa trước thềm bầu cử.

4.3. Kiểm định độ mạnh (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Một vấn đề thường gặp phải khi ứng dụng mô hình GM M để ước lượng đó  là vấn đề về sử dụng nhiều biến công cụ. Roodm an (2009) chỉ ra nhiều vấn  đề bắt  nguồn từ việc sử dụng quá nhiều biến công cụ. Trong bài viết của mình ông đã chia các vần đề thành 4 nhóm: sự phù hợp quá cao của các biến nội sinh, sự ước lượng thiếu chính xác cho ma trận trong số tối ưu, ước lượng bị chệch trong độ lệch chuẩn 2  bước, kết  quả kiểm định Hansen về tính phù hợp cùa biến công cụ yếu đem lại kết quả hệ số p value hoàn hảo 1,00 thiếu tin cậy. Các vần đề trên được đưa ra xem xét ngay từ đầu và các biến công cụ được sử dụng hạn chế trong bối cảnh mà Roodman  đề xuất. Tuy  nhiên kết quả là bền vững khi gia t ăng các biến công cụ như mong đợi. Việc sử dụng nhiều độ trễ như biến công cụ thì dự khác biệt và cấp độ của phương trình không làm biến đổi mức ý nghĩa thống kê của các hệ số hồi quy.

Việc bao gồm cả các tiêu chuẩn kiểm  định phụ thêm như logarit  tự nhiên của G DP thực tế trên đầu người không gây ảnh hưởng đến các ước lượng hồi quy cho biến giả thể hiện các khác biệt do bầu cử. Chúng tôi  cũng đã kiểm định tính  phù hợp của  kết quả bằng cách bỏ ra khỏi mô hình một số quốc gia nữ a. Vì thế bên cạnh các nền dân chủ mới chúng tôi  còn loại ra  Hy  Lạp, Tây  Ban  Nha và Bồ Đào Nha khỏi mẫu. Kết quả kiểm định vẫn không bị ảnh hưởng và tương tự với trường hợp loại ra các nền dân chủ mới.

Hơn thế nữ a biến giả thể hiện các khác biệt do bầu cử có hệ số  hồi  quy  của chính nó được giữ nguyên tính hiệu lực ngay cả khi chuyển đổi sai phân được sử dụng thay cho độ lệch trực tiếp hay khi mô hình GMM 1 bước được sử  dụng thay  cho  2 bước.

2.  Kết luận (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Bài nghiên cứu này đưa ra bằng chứng trong việc giải thích các chu kỳ kinh tế. Câu hỏi đặt ra là có hay không việc tồn tại một sự liên kết trực tiếp của các chính sách khác bên cạnh việc mở rộng tài khóa- cái có thể được sử dụng cho chiến lược vận động tranh cử với tư cách là lợi ích –  có thể đại diện trực  tiếp thay  mặt cho chính phủ. Đáp án cho câu hỏi đó rất quan trọng vì nó mở ra ánh sáng để tìm ra các giải pháp (bên cạnh giải pháp được mô tả cho đến thời điểm này trong lý thuyết  chu kỳ  ngân sách chính trị) cho việc vận động tranh cử và vượt qua các chất vấn về tài  chính  công của các cử tri – người sẽ trừng phạt các nhà chức trách nếu để xảy ra tình trạng thâm hụt. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

Những kết quả theo kinh nghiệm của chúng tôi chỉ ra rằng quá trình thay đổi  các điều luật trong lĩnh vực năng lượng, giao thông và thông tin của nền kinh tế sẽ bị chậm lại trong suốt năm diễn ra cuộc bầu  cử, một  kết  quả được rút  ra  từ danh sách gồm 30 nước của khối OECD trong khoảng thời gian từ năm 1991-2007, kết quả là sự duy trì của rents được hưởng ứng từ một bộ phận cử tri nào đó. Chúng ta cần có những cuộc kiểm tra s âu hơn vì kết quả này có thể chỉ là đặc trưng cho các nền dân chủ mới trong chu kỳ ngân sách chính trị. Chúng tôi nhận thấy rằng việc thay đổi các điều luật diễn ra chậm hơn trong cả các nền dân chủ cũ và mới trong việc thiết lập các luật  lệ cho nền kinh tế – một công cụ trong vận động bầu cử – cái được sử dụng trước các nền dân chủ có sự trưởng thành trong thể chế bầu cử. Tuy nhiên các chất vấn của cử tri về vấn đề tài khóa có thể được thông qua bằng việc thực thi các chiến lược tránh làm tăng thêm tình trạng thâm hụt ngân sách. Thêm vào đó chúng  tôi  cũng  cung cấp những  bằng chứng để chứng minh rằng sự vận động tranh cử trong các nền dân  chủ  mới  có một kết quả chắc chắn hơn với lý thuyết chu kỳ ngân sách chính trị. (Tiểu Luận Mối quan tâm về ngân sách)

 

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993