Mục lục
Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.
Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.
PHẦN MỞ ĐẦU (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
1. Lý do chọn đề tài
Quyền yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cá nhân, tổ chức và quyền tố cáo của cá nhân là quyền có vị trí, vai trò rất quan trọng. Vì vậy, nhà nước nào cũng rất quan tâm quy định và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện tùy mục đích khác nhau. Ngay trong Bộ luật 12 bảng của nhà nước La Mã cổ đại đã có quy định đặt một thùng thư nơi “công cộng” để ai cũng có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Các nhà nước phong kiến Trung Quốc và Việt Nam đều áp dụng các hình thức khác nhau như đặt thùng thư hay trống ở cổng hay sân “công đường” để dân có thể đưa đơn khiếu nại, tố cáo hoặc “đánh trống kêu oan”.
Hoàn thiện thêm một bước và với yêu cầu đổi mới của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh khiếu nại và tố cáo của công dân ngày 07-05-1991 thay thế Pháp lệnh khiếu nại tố cáo 1981. Việc thay đổi pháp lệnh có ý nghĩa chính trị -Thông qua việc khiếu nại tố cáo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được cung cấp các thông tin về vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế – xã hội và các cá nhân để điều tra, xử lý những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật nhằm khôi phục những quyền và lợi ích đã bị xâm hại, đồng thời thông qua việc khiếu nại, tố cáo, đề cao được trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức khi thi hành nhiệm vụ công vụ. Căn cứ vào điều 74 của hiến pháp năm1992 cùng với tinh thần pháp lý quan trọng ở chỗ Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo 1981 nghiêng về quy định nhiệm vụ của Nhà nước, còn Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo 1991 nhấn mạnh đến quyền của công dân. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Đổi mới ngày càng sâu sắc, bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng tốt hơn, ngày 02-12-1998 Luật khiếu nại, tố cáo đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung trong hai năm liên tiếp 2004 và 2005. Về nội dung Luật này có rất nhiều đổi mới so với các pháp lệnh.
Do đó, với những tài liêu do thầy Lê Minh Nhựt cung cấp và các tài liệu tham khảo từ nhiều nguồn, nhóm quyết định chọn nghiên cứu đề tài những quy định vế khiếu nại và tố cáo để hiểu rõ hơn, tường tận hơn vấn đề khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo những quy định hiện hành như thế nào.
2. Lợi ích của đề tài (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Tìm hiểu một cách tổng quan về các quy định của pháp luật đối với vấn đề khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Giúp hiểu rõ hơn quy định, quy trình về vấn đề khiếu nại, tố cáo cũng như thực tiễn của hoạt động này tại một địa phương cụ thể. Từ đó, đề xuất góp ý để thực hiện tốt hơn vấn đề này trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu bằng nhiều phương pháp chuyên ngành luật học cũng như một số phương pháp liên ngành như: Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, thống kê, tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp hệ thống, mô hình hoá,…
4. Giới hạn đề tài
Đề tài là một lĩnh vực nghiên cứu rất rộng của chuyên ngành luật học, nhưng do hạn chế về mặt thời gian và tài liệu nghiên cứu nên nhóm nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu đề tài xoay quanh Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005 cũng như một số quy định pháp luật hiện hành (không tính những quy định pháp luật đã có nhưng chưa có hiệu lực).
5. Bố cục đề tài (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Đề tài bố cục gồm 2 phần chính, nội dung cụ thể như sau:
1. Các vấn đề về khiếu nại và tố cáo:
- Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Quy định về khiếu nại và tố cáo
- 2.1. Cơ sở pháp lý (văn bản pháp luật) về khiếu nại, tố cáo
- 2.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
- 2.3. Tố cáo và giải quyết tố cáo
- 2.4. Sự khác biệt giữa khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, yêu cầu
- Vị trí, vai trò của các cơ quan Thanh tra (nhà nước) trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo
2. Vấn đề khiếu nại, tố cáo trong thực tiễn đời sống xã hội và một số đề xuất, kiến nghị:
- Mối quan hệ giữa khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng
- Những lỗi bất cập của cơ chế giải quyết khiếu nại hiện nay và cách giải quyết:
- Những bất cập của cơ chế giải quyết khiếu nại tố cáo
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị
CÁC VẤN ĐỀ VỀ KHIẾU NẠI – TỐ CÁO (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta luôn coi giải quyết khiếu nại, tố cáo chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Khiếu nại, tố cáo là một quyền cơ bản của công dân, là quyền dân chủ của công dân.
Khiếu nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân dân và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta luôn coi giải quyết khiếu nại, tố cáo chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Làm tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hình thức thể hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước. Do đó, việc quan tâm làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là thể hiện bản chất dân chủ, là biện pháp củng cố mối quan hệ giữa dân với Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ tư tưởng “lấy dân là gốc”, từ bản chất chính trị của chế độ dân chủ nhân dân, ngay từ khi mới thành lập chính thể mới, cùng với việc thiết lập chính quyền các cấp, Đảng, Bác Hồ và Chính phủ đã khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, quan tâm đến việc kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nuớc, việc giải quyết khiếu kiện của dân, chống phiền hà, nhũng nhiễu dân. Trong thư gửi đồng bào Liên khu IV, Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1995, Hồ Chủ tịch viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn,vv… Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết với nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào biết rõ và khéo dùng quyền ấy”. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt đã xác định một trong những nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt là “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Hiến Pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng đã ghi nhận các quyền và tự do dân chủ hoàn toàn là của người dân Việt Nam như quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và chỗ ở,… Cùng với việc ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 1946 còn quy định việc xây dựng các thiết chế của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc “Nước Việt Nam là một nước dân chủ Cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,…”(Điều 1Hiến pháp 1946). Hiến pháp năm 1946 đã ấn định các quyền và tự do cơ bản của công dân cùng với bộ máy nhà nước bảo đảm các quyền và tự do dân chủ đó, đã gián tiếp khẳng định quyền năng chủ thể khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước. Tuy Hiến pháp năm 1946 chưa có một điều khoản cụ thể nào quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, song thể chế dân chủ mà Hiến pháp này tạo dựng nên đã là nền tảng cơ bản hình thành quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trên thực tế.
Kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã chính thức ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất kỳ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo cần phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại do những việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường”. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Điều 73, Hiến pháp 1980 và Điều 74, Hiến pháp 1992 đều ghi nhận với tinh thần: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền khiếu nại, tố cáo chính là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân, là một hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo sẽ là cơ sở cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Qua đó, nó còn là phương tiện để công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Mặt khác, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền dân chủ trực tiếp, một chế định của nền dân chủ trực tiếp để công dân thông qua đó thiết thực tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Khiếu nại, tố cáo là phương thức giám sát của nhân dân đối với Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng, củng cố mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước và luôn đề cao vai trò giám sát của quần chúng đối với cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Người viết: “Kiểm soát có hai cách: một cách là trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”.
Trong “Thư gửi đồng bào Liên khu IV”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Cán bộ cấp trên phải luôn luôn đôn đốc và kiểm tra công việc cán bộ cấp dưới. Nhân dân thì giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”. Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được quán triệt, thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Tại Điều 8 Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”.
Chỉ thị số18/TTg ngày 15/1/1993 của Thủ tướng Chính phủ về công tác tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng nêu rõ: “Trong tình hình hiện nay, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một trong những yếu cầu cấp bách và quan trọng… nhằm góp phần vào việc ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, tiêu pha lãng phí của công và các tệ nạn xã hội khác”. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Thực tế cho thấy sự yếu kém của tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, những vấn đề bất cập trong chính sách, pháp luật được phát hiện, kiến nghị với lãnh đạo các cấp, các ngành đa phần được phát hiện từ thực tiễn công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn những hạn chế, yếu kém, nhiều vụ việc giải quyết không đúng chính sách pháp luật, sự phối hợp giải quyết chưa tốt, còn đùn đẩy, công tác vận động tuyên truyền pháp luật còn chưa hiệu quả.
Tính chất giám sát của nhân dân đối với Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo được thể hiện ở chỗ khi khiếu nại, tố cáo nhân dân đã chuyển đến cho cơ quan nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trên cơ sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan và các cán bộ của mình, kịp thời chấn chỉnh, xử lý sai phạm, thậm chí loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước những người không xứng đáng, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng, củng cố mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Người nói: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”. Người đã nhiều lần chỉ ra ý nghĩa chính trị sâu sắc của công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong bài nói chuyện với cán bộ thanh tra tại Hội nghị Thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, tố cáo, hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại, tố cáo. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”. Theo quan điểm của Người, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Trong trường hợp các khiếu nại, tố cáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì những người dân đi khiếu nại, tố cáo và thậm chí cả những người sống chung quanh họ sẽ cảm thấy Nhà nước đã tôn trọng, lắng nghe ý kiến của họ, quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ và cũng tự nhiên họ thấy Nhà nước gần gũi, gắn bó với họ và đã thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng ngược lại nếu các khiếu nại, tố cáo, các kiến nghị của dân được các cơ quan, cán bộ Nhà nước đón nhận bằng một thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm thì cũng chính những người dân đó sẽ hình thành tâm trạng thiếu tin tưởng và có xu hướng xa lánh các cơ quan quản lý. Vì vậy, việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân, gắn liền với nó là việc khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm minh những người sai phạm tất yếu sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm cho mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó bền chặt hơn.
2. Quy định về khiếu nại và tố cáo: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.1. Cơ sở pháp lý (văn bản pháp luật) về khiếu nại, tố cáo:
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định cụ thể hơn trong các quy định pháp luật về khiếu nại – tố cáo.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời cũng qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Thông qua việc khiếu nại, tố cáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được cung cấp các thông tin về vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế – xã hội và cá nhân để điều tra, xử lý những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật nhằm khôi phục những quyền và lợi ích đã bị xâm hại. Đồng thời, cũng thông qua việc khiếu nại, tố cáo, đề cao được trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ. Ngoài ra, khiếu nại, tố cáo còn tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền, thúc đẩy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhanh chóng, công minh, thỏa đáng nhằm bảo vệ tích cực lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản pháp luật quy định về vấn đề này, trong đó có Pháp lệnh Khiếu nại – tố cáo của công dân năm 1991, Luật Khiếu nại – tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại – tố cáo năm 2004 và năm 2005; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2006). Như vậy, với việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu tố. Ngoài ra, để thực hiện các quy định của Luật khiếu nại – tố cáo hiện hành, các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều văn bản cụ thể, chi tiết hoá thành các quy định, quy trình về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên các lĩnh vực cụ thể.
2.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.2.2 . Đối tượng khiếu nại:
Đối tượng của việc khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong họat động quản lý hành chính.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm (đối với cán bộ) và khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc (đối với công chức) thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
2.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
Những người chỉ có quyền hạn giải hành vi hành chính của mình, và của người tiếp quản lý đó là: quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định và có trách nhiệm, cán bộ, công chức do mình trực
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.
- Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và tương đương.
- Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ.
Những người sau đây ngoài quyền hạn giải quyết khiếu nại lần đầu còn có quyền hạn giải quyết khiếu nại lần 2 đối với các quyết định giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan cấp dưới trực thuộc hoặc không trực thuộc:
- Chủ tịch UBND cấp huyện: giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại.
- Giám đốc sở và cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh: Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và tương đương đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh: Chủ tịch UBND cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh (nội dung thuộc UBND cấp tỉnh) đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ: Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. Giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của bộ, ngành mình mà Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.
- Tổng Thanh tra: Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ hoặc người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý.
2.2.4. Thủ tục giải quyết khiếu nại:
2.2.4.1. Quyền khiếu nại :
a). Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
b). Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
c). Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
2.2.4.2. Hình thức khiếu nại:
Việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại; tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và yêu cầu giải quyết của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì người tiếp nhận khiếu nại hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại hoặc người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản và yêu cầu người khiếu nại ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định trên.
Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì thực hiện như sau:
- Trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định trên; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ nội dung quy định trên, có chữ ký của những người khiếu nại và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết khiếu nại;
Trường hợp khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải là một trong những người khiếu nại, có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật này.
2.2.4.3. Thời hiệu khiếu nại:
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
2.2.4.4. Các khiếu nại không được thụ lý giải quyết:
Khiếu nại thuộc một trong các trường hợp sau đây không được thụ lý giải quyết:
a). Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quyết định hành chính, hành vi hành chính trong chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định;
- b). Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- c). Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp;
- d). Người đại diện không hợp pháp thực hiện khiếu nại;
- đ). Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại;
- e).. Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;
- g). Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- h).. Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;
- i). Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án.
2.2.4.5. Giải quyết khiếu nại lần đầu:
- Thụ lý giải quyết khiếu nại:
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết ; trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.
- Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu:
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Xác minh nội dung khiếu nại:
Trong thời hạn giải quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm sau đây:
- Kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp, nếu khiếu nại đúng thì ra quyết định giải quyết khiếu nại ngay;
- Trường hợp chưa có cơ sở kết luận nội dung khiếu nại thì tự mình tiến hành xác minh, kết luận nội dung khiếu nại hoặc giao cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm (gọi chung là người có trách nhiệm xác minh) xác minh nội dung khiếu nại, kiến nghị giải quyết khiếu nại.
Việc xác minh phải bảo đảm khách quan, chính xác, kịp thời thông qua các hình thức sau đây:
- Kiểm tra, xác minh trực tiếp tại địa điểm phát sinh khiếu nại;
- Kiểm tra, xác minh thông qua các tài liệu, chứng cứ mà người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp;
- Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Người có trách nhiệm xác minh có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và chứng cứ về nội dung khiếu nại; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan giải trình bằng văn bản về nội dung liên quan khiếu nại;
- Triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
- Trưng cầu giám định;
- Tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh khác theo quy định của pháp luật;
- Báo cáo kết quả xác minh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả xác minh.
Báo cáo kết quả xác minh gồm các nội dung sau đây:
- Đối tượng xác minh;
- Thời gian tiến hành xác minh;
- Người tiến hành xác minh;
- Nội dung xác minh;
- Kết quả xác minh;
- Kết luận và kiến nghị nội dung giải quyết khiếu nại.
- Tổ chức đối thoại:
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau thì người giải quyết khiếu nại tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Người giải quyết khiếu nại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan biết thời gian, địa điểm, nội dung việc đối thoại.
Khi đối thoại, người giải quyết khiếu nại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ liên quan đến khiếu nại và yêu cầu của mình.
Việc đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của những người tham gia, kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải ghi rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc khiếu nại.
Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.
đ) Ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu:
Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại, gồm các nội dung sau đây:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;
- Tên, địa chỉ người khiếu nại, người bị khiếu nại;
- Nội dung khiếu nại; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
- Kết quả đối thoại (nếu có);
- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;
- Kết luận nội dung khiếu nại;
- Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại;
- Việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại (nếu có);
- Quyền khiếu nại lần hai, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, kết luận nội dung khiếu nại và căn cứ vào kết luận đó để ra quyết định giải quyết khiếu nại cho từng người hoặc ra quyết định giải quyết khiếu nại kèm theo danh sách những người khiếu nại.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.2.4.6. Áp dụng biện pháp khẩn cấp:
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục, thì người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn giải quyết. Quyết định tạm đình chỉ phải được gửi cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan và những người có trách nhiệm thi hành khác. Khi xét thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì phải hủy bỏ ngay quyết định tạm đình chỉ đó.
2.2.4.7. Giải quyết khiếu nại lần hai :
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Người khiếu nại lần đầu cũng có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính
Trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Thụ lý giải quyết khiếu nại lần hai:
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, người giải quyết khiếu nại lần hai phải thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết; trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.
Đối với vụ việc khiếu nại phức tạp, nếu thấy cần thiết, người giải quyết khiếu nại lần hai thành lập Hội đồng tư vấn để tham khảo ý kiến giải quyết khiếu nại.
- Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai:
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý.
- Xác minh nội dung khiếu nại lần hai :
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai căn cứ vào nội dung, tính chất của việc khiếu nại, tự mình tiến hành xác minh, kết luận nội dung khiếu nại hoặc giao cho người có trách nhiệm xác minh tiến hành xác minh nội dung khiếu nại và kiến nghị giải quyết khiếu nại. Việc xác minh thực hiện tương tự như giải quyết khiếu nại lần 1. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tổ chức đối thoại lần hai :
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại tiến hành đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại, hướng giải quyết khiếu nại. Việc tổ chức đối thoại lần hai thực hiện như giải quyết khiếu nại lần 1.
đ) Ra quyết định giải quyết khiếu nại lần hai :
Người giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết định giải quyết khiếu nại có nội dung tương tự như quyết định giải quyết khiếu nại lần 1
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần hai phải gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến.
Người giải quyết khiếu nại lần hai lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai sau đây:
- Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị khiếu nại công tác;
- Niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết khiếu nại;
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.2.4.8. Hiệu lực và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật:
- Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật :
Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật có hiệu lực thi hành ngay.
- Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật::
Người giải quyết khiếu nại trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; trường hợp cần thiết, yêu cầu cơ quan chức năng có biện pháp để bảo đảm việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; tổ chức thi hành hoặc chủ trì, phối hợp với tổ chức, cơ quan hữu quan thực hiện biện pháp nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; kiến nghị cơ quan, tổ chức khác giải quyết những vấn đề liên quan đến việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có).
Khi quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, người khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm sau đây: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã bị quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật xâm phạm;
- Chấp hành quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết công nhận quyết định hành chính, hành vi hành chính đó đúng pháp luật;
- Chấp hành quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền để thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
- Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền để thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật khi được yêu cầu.
2.2.5. Khiếu nại, giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức:
Khiếu nại quyết định kỷ luật là việc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.2.5.1. Thời hiệu khiếu nại:
Thời hiệu khiếu nại lần đầu là 15 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định kỷ luật.
Thời hiệu khiếu nại lần hai là 10 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì thời hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
2.2.5.2. Hình thức khiếu nại:
Việc khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn. Trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và có chữ ký của người khiếu nại. Đơn khiếu nại lần đầu phải được gửi đến người đã ra quyết định kỷ luật. Đơn khiếu nại lần hai được gửi đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
2.2.5.3. Thời hạn thụ lý và giải quyết khiếu nại:
Thời hạn thụ lý và giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai như sau:
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thụ lý để giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết.
Thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý.
2.2.5.4. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức theo phân cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp còn khiếu nại tiếp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.
2.2.5.5. Xác minh nội dung khiếu nại:
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm sau đây:
Trực tiếp hoặc phân công người có trách nhiệm kiểm tra lại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại, xem xét nội dung khiếu nại. Nếu xét thấy nội dung khiếu nại đã rõ thì yêu cầu Hội đồng kỷ luật cán bộ, công chức xem xét để đề nghị người có thẩm quyền giải quyết;
Trường hợp nội dung khiếu nại chưa được xác định rõ thì tự mình hoặc giao người có trách nhiệm xác minh, kết luận nội dung khiếu nại.
Việc xác minh nội dung khiếu nại phải lập thành văn bản, báo cáo người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Sau khi có kết quả xác minh nội dung khiếu nại thì yêu cầu Hội đồng kỷ luật cán bộ, công chức xem xét để đề nghị người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.2.5.6. Tổ chức đối thoại:
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại phải tổ chức đối thoại với người khiếu nại.
Thành phần tham gia đối thoại bao gồm người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chủ trì, người khiếu nại, người có trách nhiệm xác minh, những người khác có liên quan.
Khi đối thoại, người giải quyết khiếu nại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ liên quan đến khiếu nại và yêu cầu của mình.
Việc đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của những người tham gia, kết quả đối thoại, có chữ ký của người tham gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký xác nhận thì phải ghi rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ giải quyết khiếu nại. Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.
2.2.5.7. Ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu:
Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản, gửi cho người khiếu nại và cơ quan, tổ chức hữu quan. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.5.5.8. Giải quyết khiếu nại lần hai:
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai có trách nhiệm sau đây:
Yêu cầu người ban hành quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại báo cáo việc xem xét kỷ luật và giải quyết khiếu nại của người bị kỷ luật;
Tự mình hoặc giao cho người có trách nhiệm xác minh tiến hành xác minh, kết luận nội dung khiếu nại. Việc xác minh nội dung khiếu nại phải lập thành văn bản và báo cáo người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
Chủ trì tổ chức đối thoại với người khiếu nại. Thành phần tham gia đối thoại bao gồm:
- Người khiếu nại;
- Người có trách nhiệm xác minh nội dung khiếu nại;
- Người bị khiếu nại.
Nội dung đối thoại tương tự như đối thoại khi giải quyết khiếu nại lần 1.
2.2.5.9. Ra quyết định giải quyết khiếu nại lần hai:
Người giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản, gửi cho người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ban hành.
Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được gửi cho Tổng thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
2.2.5.10. Hiệu lực và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức có hiệu lực pháp luật:
- Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật :
Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức có hiệu lực pháp luật bao gồm:
- Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành.
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật có hiệu lực thi hành ngay.
Trường hợp công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật::
Khi quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức có hiệu lực pháp luật thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi cán bộ, công chức làm việc có trách nhiệm công bố công khai quyết định giải quyết đến toàn thể cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đó; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2.3. Tố cáo và giải quyết tố cáo: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.3.1. Khái niệm, đặc điểm:
2.3.1.1. Khái niệm:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do pháp luật quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, gồm :
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.3.1.2. Đặc điểm:
Tố cáo khác với khiếu nại ở một số điểm sau đây:
- Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo. Việc tố cáo có thể gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người khác, vì vậy, để phòng ngừa, ngăn chặn sự lợi dụng quyền tố cáo, pháp luật quy định chỉ có công dân nhân danh cá nhân mới có quyền thực hiện việc tố cáo.
- Đối tượng của việc tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân mà người tố cáo biết được. Với nghĩa vụ công dân mà pháp luật quy định, người tố cáo thông báo về hành vi vi phạm pháp luật đó, đồng thời yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nhằm bảo đảm kỷ cương và trật tự an tòan xã hội.
- Khi thực hiện việc tố cáo, người tố cáo không vì lợi ích của bản thân mà với mục đích để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và cá nhân khác.
2.3.2. Giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ:
2.3.2.1. Nguyên tắc xác định thẩm quyềt:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
2.3.2.2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn trực thuộc cơ quan mình và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương được phân cấp quản lý cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị thuộc Tổng cục, Cục và cấp tương đương, cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
2.3.2.3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác của Nhà nước :
- Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có thẩm quyền:
- Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp;
- Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới.
- Tổng Kiểm toán Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực và công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành
- vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với cán bộ là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ do mình quản lý.
2.3.2.4. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập:
- Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức quản lý do mình bổ nhiệm.
2.3.2.5. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội :
Người đứng đầu cơ quan của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý trực tiếp.
2.3.2.6. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức:
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
2.3.2.7. Trình tự giải quyết tố cáo :
Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây:
- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
- Xác minh nội dung tố cáo;
- Kết luận nội dung tố cáo;
- Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo :
Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo.
Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc người tiếp nhận ghi lại việc tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội tố cáo. Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo.
Khi nhận được tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:
- Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày;
- Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo, nếu có yêu cầu. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
- Người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo trong các trường hợp sau đây:
- Tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới;
- Tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật; (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện để kiểm tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật, người vi phạm.
Trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, nếu xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo có trách nhiệm chuyển hồ sơ, tài liệu và những thông tin về vụ việc tố cáo đó cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan khác có trách nhiệm ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm.
- Xác minh nội dung tố cáo :
Người giải quyết tố cáo tiến hành xác minh hoặc giao cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo (gọi chung là người xác minh nội dung tố cáo).
Người xác minh nội dung tố cáo phải tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập thông tin, tài liệu, làm rõ nội dung tố cáo. Thông tin, tài liệu thu thập phải được ghi chép thành văn bản, khi cần thiết thì lập thành biên bản, được lưu giữ trong hồ sơ vụ việc tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong quá trình xác minh, người xác minh nội dung tố cáo phải tạo điều kiện để người bị tố cáo giải trình, đưa ra các chứng cứ để chứng minh tính đúng, sai của nội dung tố cáo cần xác minh. Việc giải trình của người bị tố cáo phải được lập thành biên bản, có chữ ký của người xác minh nội dung tố cáo và người bị tố cáo.
- Kết luận nội dung tố cáo :
Căn cứ vào nội dung tố cáo, văn bản giải trình của người bị tố cáo, kết quả xác minh nội dung tố cáo, tài liệu, chứng cứ có liên quan, người giải quyết tố cáo phải kết luận bằng văn bản về nội dung tố cáo.
Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.
Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.
- Việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo :
Sau khi có kết luận nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo tiến hành xử lý như sau:
- Trường hợp kết luận người bị tố cáo không vi phạm quy định trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì phải thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo bị xâm phạm do việc tố cáo không đúng sự thật gây ra, đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật;
- Trường hợp kết luận người bị tố cáo vi phạm quy định trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật;
- Trường hợp hành vi vi phạm của người bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo:
Người giải quyết tố cáo phải gửi kết luận nội dung tố cáo cho người bị tố cáo. Việc gửi văn bản bảo đảm không tiết lộ thông tin về người tố cáo và bảo vệ bí mật nhà nước. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong trường hợp người tố cáo có yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo thì người giải quyết tố cáo gửi thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo. Thông báo kết quả giải quyết tố cáo phải nêu rõ kết luận nội dung tố cáo, việc xử lý người bị tố cáo, trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
Người giải quyết tố cáo phải gửi kết luận nội dung tố cáo cho cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan cấp trên trực tiếp.
Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo bằng một trong các hình thức sau đây:
- Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác;
- Niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo;
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo bảo đảm không tiết lộ thông tin về người tố cáo và những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
2.3.2.8. Việc tố cáo tiếp, giải quyết vụ việc tố cáo tiếp:
Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng pháp luật thì người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét, xử lý như sau:
- Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì yêu cầu người có trách nhiệm giải quyết tố cáo phải giải quyết, trình bày rõ lý do về việc chậm giải quyết tố cáo; có biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo;
- Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo;
- Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo trình tự quy định trên.
2.3.3. Giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.3.3.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
2.3.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo:
- Trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, quyết định việc xử lý tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được thực hiện theo quy định trên.
- Trường hợp kết luận người bị tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thì việc xử lý hành vi vi phạm đó còn phải tuân thủ pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có quy định về thời hạn giải quyết khác với quy định của Luật tố cáo thì thời hạn giải quyết tố cáo không được vượt quá thời hạn xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Trường hợp tố cáo có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay thì việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
a). Người có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
b). Trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực mà mình quản lý, người tiếp nhận tố cáo phải trực tiếp tiến hành hoặc báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiến hành ngay việc xác minh nội dung tố cáo, áp dụng biện pháp cần thiết để đình chỉ hành vi vi phạm và kịp thời lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật (nếu có); việc xác minh, kiểm tra thông tin về người tố cáo được thực hiện trong trường hợp người giải quyết tố cáo thấy cần thiết cho quá trình xử lý hành vi bị tố cáo;
c). Người giải quyết tố cáo ra quyết định xử lý hành vi vi phạm theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
2.3.4. Bảo vệ người tố cáo:
Luật tố cáo 2011 quy định trong chương V những biện pháp nhằm bảo vệ người tố cáo, nội dung như sau :
2.3.4.1. Phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo vệ:
Việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Đối tượng bảo vệ gồm có:
- Người tố cáo;
- Người thân thích của người tố cáo.
Thời hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tùy thuộc vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2.3.4.2. Các hình thức bảo vệ:
- Bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo, khai thác, sử dụng thông tin, tài liệu do người tố cáo cung cấp có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo; đồng thời phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có biện pháp cần thiết để giữ bí mật thông tin và bảo vệ cho người tố cáo.
- Bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc :
- Người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đang công tác, làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế và các cơ quan, tổ chức khác được bảo đảm vị trí công tác, không bị phân biệt đối xử về việc làm dưới mọi hình thức.
- Người có thẩm quyền quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động không được phân biệt đối xử về việc làm đối với người tố cáo; không được trả thù, trù dập, đe dọa, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo.
- Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng mình bị phân biệt đối xử về việc làm dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền yêu cầu người đã giải quyết tố cáo hoặc người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền quản lý, sử dụng mình có biện pháp xem xét, xử lý đối với người có hành vi đó; người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động có quyền yêu cầu tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao động địa phương có biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Khi nhận được yêu cầu của người tố cáo, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra, xác minh; nếu yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng biện pháp để bảo vệ như sau: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc tồn bộ quyết định xử lý kỷ luật hoặc quyết định khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;
- Khôi phục vị trí công tác, vị trí việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người tố cáo;
- Xử lý kịp thời người có hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;
- Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
- Bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú :
- Người tố cáo không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú.
- Khi nhận được yêu cầu của người giải quyết tố cáo về việc áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người tố cáo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xác minh, quyết định áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để bảo vệ như sau:
- Đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính, hành chính xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;
- Khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo đã bị xâm phạm;
- Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với người có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;
- Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
- Bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo:
- Khi người giải quyết tố cáo nhận được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trả thù, trù dập thì có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình hoặc người thân thích của mình thì có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo hoặc cơ quan công an áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.
- Trường hợp yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì người giải quyết tố cáo hoặc cơ quan công an kịp thời áp dụng các biện pháp hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ người tố cáo và người thân thích của họ:
- Bố trí nơi tạm lánh khi người tố cáo, người thân thích của họ có nguy cơ bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe;
- Bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ để trực tiếp bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín cho người tố cáo và người thân thích của họ tại nơi cần thiết;
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn, xử lý hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo theo quy định của pháp luật;
- Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
2.4 Sự khác biệt giữa quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị , yêu cầu:
Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, yêu cầu là những quyền của người dân, có liên quan mật thiết với những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, ảnh hưởng đến hiều lãnh vực trong xã hội
Tuy các quyền này có những điểm gần gũi nhau nhưng không đồng nhất.
- Yêu cầu của công dân thường được sử dụng để thực hiện các quyền chủ thể khác (yêu cầu được nghỉ phép, yêu cầu thi hành án,…), đây là đòi hỏi của công dân đối với cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức nào đó phải đáp ứng các vấn đề họ nêu do luật định. Cũng có trường hợp sử dụng quyền yêu cầu khi có liên quan đến vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng trực tiếp đến người yêu cầu.
- Kiến nghị là quyền thường được sử dụng trong hoạt động mang tính tích cực của công dân nhằm hòan thiện việc quản lý Nhà nước (kiến nghị cải cách thủ tục hành chính, đổi mới bộ máy Nhà nước,…), không liên quan trực tiếp đến vi phạm pháp luật. Nói khác đi, công dân bằng kiến nghị của mình, đề đạt đến cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị nhận kiến nghị để đơn vị này khi thực hiện làm tốt hơn nhiệm vụ được giao.
- Khiếu nại, theo điểm 2 của Luật khiếu nại, tố cáo (1998), chỉ việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khiếu nại là quyền của chủ thể khi bị cơ quan hành chính Nhà nước có quyết định hoặc hành vi hành chính xâm phạm đến quyền lợi của mình và trường hợp chủ thể là cán bộ, công chức bị quyết định của cấp thẩm quyền xử lý kỷ luật. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tố cáo, theo điểm 2 của Luật khiếu nại, tố cáo (1998), chỉ việc công dân, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan.
Phân biệt khiếu nại và tố cáo
Khiếu nại và tố cáo đều là các quyền chính trị cơ bản của công dân, thường được quy định trong cùng một điều luật hay trong cùng một văn bản. Tuy nhiên giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm khác nhau cả về nội dung và cách thức giải quyết. Quá trình thực thi pháp luật khiếu nại, tố cáo đã chỉ ra không ít trường hợp còn chưa phân biệt rõ ràng, chính xác thế nào là khiếu nại, thế nào là tố cáo nhất là khi đơn thư của công dân có nội dung chứa đựng cả việc khiếu nại và việc tố cáo thì vấn đề thụ lý và giải quyết còn nhiều lúng túng. Đây là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn, thiếu sót, thậm chí là sai lầm trong việc xử lý đơn thư, tiến hành xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân khiến người dân phải khiếu nại nhiều lần hoặc tố cáo sai sự việc. Do vậy, việc phân biệt khiếu nại và tố cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình đúng pháp luật và giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đỡ mất thời gian, công sức, tránh được nhầm lẫn, sai sót trong khi giải quyết khiếu nại, tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Trước hết, về chủ thể: Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo sửa đổi, bổ sung năm 2005, chủ thể của hành vi khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân, cá nhân và tổ chức nước ngoài (hoặc đại diện hợp pháp của họ) có quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính. Cán bộ, công chức từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật đối với họ. Nói rõ hơn, chủ thể của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Trong khi đó, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân, tức là chỉ bao gồm công dân và người nước ngoài. Cá nhân thực hiện hành vi tố cáo có thể chịu tác động trực tiếp hoặc không chịu tác động của hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vậy, khi tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo thì pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể khiếu nại, tố cáo cũng khác nhau. Nếu chủ thể khiếu nại thực hiện không đúng pháp luật quyền khiếu nại của mình thì họ sẽ mất cơ hội được yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn nếu chủ thể tố cáo thực hiện quyền của mình không đúng quy định của pháp luật như tố cáo nặc danh, mạo danh thì tố cáo của họ không được giải quyết.
- Thứ hai, về đối tượng: Trong khi đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống, những quyết định và hành vi này phải có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Thì đối tượng của tố cáo rộng hơn rất nhiều, công dân có quyền tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của tố cáo có thể tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo có thể không. Chính sự khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền, thủ tục giải quyết, về quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo…Cụ thể: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Về thẩm quyền, khiếu nại được giải quyết lần đầu tại chính cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật là đối tượng của hành vi khiếu nại. Trong trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu sẽ tiếp tục thực hiện quyền khiếu nại của mình lên cấp trên trực tiếp của cấp đã có thẩm quyền giải quyết hoặc khởi kiện tại Tòa án. Còn đối với giải quyết tố cáo thì tại Điều 59 Luật khiếu nại, tố cáo có nêu rõ: “Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết”. Như vậy, khác với thẩm quyền giải quyết khiếu nại, người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào đó là chủ thể giải quyết tố cáo không có thẩm quyền giải quyết đối với đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của chính bản thân mình. Họ chỉ có quyền giải quyết những đơn tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức mà mình quản lý trực tiếp.
- Về trình tự giải quyết, có thể chỉ ra một điểm khác nhau giữa khiếu nại, tố cáo là vấn đề thời hiệu. Đối với khiếu nại: “thời hiệu được tính là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính”. (Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo). Còn đối với khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ công chức thì thời hiệu được tính là 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định kỷ luật.“ Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời hiệu khiếu nại”. (Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo). Đối với tố cáo, pháp luật hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo.
- Thứ ba, về mục đích: Nếu như mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Thì mục đích của tố cáo không chỉ dừng việc bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà cao hơn thế nữa là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
2.5. Vị trí, vai trò của các cơ quan Thanh tra (nhà nước) trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo: (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cơ quan thanh tra có vai trò quan trọng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo”.
Mặc dù, pháp luật về khiếu nại, tố cáo đều nhất quán xác định trách nhiệm, thẩm quyền của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Song dù trong điều kiện nào, giai đoạn nào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thống nhất một luận điểm cơ bản là đề cao vai trò, vị trí của các cơ quan thanh tra trong tiếp dân, và giải quyết khiếu kiện của dân. Điều này vừa phản ánh một sự tin cậy cao độ của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ với ngành thanh tra. Đồng thời phản ánh một thực tiễn của đời sống xã hội, thực tiễn của quản lý nhà nước đối với các cơ quan thanh tra nhà nước. Hồ Chủ tịch luôn xác định thanh tra các cấp, các ngành có nhiệm vụ “thanh tra sự khiếu nại của nhân dân” Điều 4 Sắc lệnh 138b ngày 18/12/1949 quy định. Và tại Hội nghị công tác thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lại tiếp tục khẳng định: “Về công tác xét và giải quyết các khiếu nại, tố giác, nhiệm vụ của các Ban thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh, kịp thời, làm sớm chứng nào hay chứng ấy…”. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Những quan điểm, chủ trương trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được quán triệt, thể hiện rõ trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức, hoạt động của cơ quan thanh tra, được ban hành từ giai đoạn năm 1956 đến nay đều quy định các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ giải quyết và thanh tra, kiểm tra việc xét, giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2005 đã tiếp tục khẳng định “Thanh tra nhà nước các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thanh tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật”. Các cơ quan thanh tra làm tốt được những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đó chính là “…Các Ban thanh tra đã giúp giải quyết nhiều thư kêu nài của nhân dân, cán bộ nhân viên; nhờ vậy mà họ càng nhận rõ Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến lợi ích của họ” Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 06/02/1961.
Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đặt ra đòi hỏi các cơ quan thanh tra cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới về tổ chức cũng như phương thức, cách thức hoạt động, trên cơ sở đổi mới thể chế về thanh tra, thể chế về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mặt khác, nó cũng đòi hỏi quan tâm sâu sắc của các ngành, các cấp, từ Trung ương đến địa phương đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Tham mưu giúp thủ trưởng cơ quan cùng cấp giải quyết khiếu nại: Giải quyết khiếu nại luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ này có nhiều cơ quan được giao trách nhiệm tham mưu cho các cơ quan hành chính, nhưng trong suốt thời gian qua các cơ quan thanh tra giữ vai trò trọng tâm và chủ yếu bởi thanh tra có vai trò vị trí, chức năng, nhiệm vụ quan trọng mà pháp luật trao cho.
Để tổ chức thực hiện trách nhiệm này, các cơ quan thanh tra hàng năm phải cử cán bộ hoặc thành lập các đoàn thanh tra để tiến hành thu thập, thẩm tra, xác minh chứng cứ, kết luận về nội dung khiếu nại, có kiến nghị để thủ trưởng cơ quan cùng cấp giải quyết chính xác, khách quan, kịp thời các khiếu nại. Thời gian qua, hầu hết các vụ việc giải quyết của thủ trưởng cơ quan cùng cấp đều được thực hiện trên cơ sở kiến nghị của thanh tra. Đối với các vụ việc phức tạp liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan thì thanh tra luôn được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan để tiến hành việc thu thập, thẩm tra, xác minh, kết luận, từ đó đưa ra kiến nghị xác đáng cho thủ trưởng ra quyết định giải quyết. Đối với những khiếu nại đặc biệt phức tạp, có đông người tham gia, trở thành điểm nóng hoặc khiếu nại gắn với tố cáo liên quan đến nhiều vấn đề, lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành thì Thanh tra Chính phủ, thanh tra các địa phương, bộ ngành giữ vai trò trọng tâm và chủ yếu trong việc tham mưu giúp các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương giải quyết, khắc phục hậu quả và kiểm tra, theo dõi việc thực hiện những quyết định, chủ trương, giải pháp giải quyết. Nhất là việc xử lý cán bộ, xử lý về kinh tế, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý. Do tổ chức được nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt trong công tác tham mưu, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế mà các cơ quan thanh tra đã giúp cho cấp ủy, chính quyền các cấp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc và giải quyết được nhiều vụ việc khiếu nại. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Qua theo dõi thực tiễn cho thấy, số các vụ việc mà các cơ quan thanh tra tham mưu cho các các cơ quan hành chính giải quyết hàng năm chiếm tỷ lệ cao, khoảng trên dưới 80%. Tại một số tỉnh, thành phố như Ninh Bình, Nghệ An, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ khoảng 85%.
Vai trò tham mưu của các cơ quan thanh tra trong giải quyết khiếu nại ngày càng được khẳng định và không thể thay thế. Vì vậy trong các văn bản pháp luật trước đây, hiện nay và sau này vẫn quy định về chức năng, nhiệm vụ này của các cơ quan thanh tra. Do đó, các cơ quan thanh tra cần có nhiều biện pháp tích cực đổi mới hoạt động thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị, giúp các cơ quan hành chính giải quyết tốt khiếu nại.
- Tổ chức tiếp công dân: Là cơ quan có vị trò, vai trò nhất định nên thanh tra các cấp không chỉ được giao giao nhiệm vụ tham mưu trong giải quyết khiếu nại mà còn có nhiệm vụ quan trọng trong tiếp dân và giúp thủ trưởng cùng cấp trong việc tiếp dân, nhận các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo. Thực hiện nhiệm vụ được giao, các cơ quan thanh tra đã triển khai nhiều hoạt động để tổ chức tốt việc tiếp công dân, nhận các khiếu nại. Bố trí cán bộ có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp dân, có trụ sở khang trang lịch sự, tổ chức tiếp công dân thường xuyên, hướng dẫn, giải thích kịp thời cho công dân khi đến khiếu nại. Thường xuyên theo dõi, tổng hợp về tình hình tiếp dân, việc thực hiện nhiệm vụ tiếp dân của các cơ quan; kiểm tra thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật trong công tác tiếp dân. Thời gian qua, các cơ quan thanh tra đã làm tốt nhiệm vụ trực tiếp tiếp dân và tham mưu giúp thủ trưởng cùng cấp trong việc tiếp dân. Vì vậy, công tác này đã dần dần đi vào nề nếp và thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong công tác tiếp dân cũng còn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tiếp dân, các cơ quan thanh tra cần tăng cường, đẩy mạnh, đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác này và có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác tiếp dân. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại hành chính: Theo quy định hiện hành, Thanh tra Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ. Thanh tra các cấp giúp thủ trưởng cơ quan cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại có tác động trực tiếp đến công tác giải quyết khiếu nại, nó xuất phát từ đòi hỏi khách quan của công tác quản lý toàn diện đối với hoạt động xã hội. Nội dung quản lý nhà nước về về công tác này bao gồm nhiều hoạt động như: soạn thảo trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp luật; phổ biến tuyên truyền các văn bản pháp luật về khiếu nại; thanh tra, kiểm tra các cấp các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại; tổng hợp tình hình về công tác giải quyết khiếu nại…
Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện các quy định pháp luật về khiếu nại: Theo quy định của pháp luật, các cơ quan thanh tra nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định pháp luật về khiếu nại. Thông qua hoạt động này, các cơ quan thanh tra nắm được việc chấp hành các quy định pháp luật trong tiếp dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, kịp thời phát hiện những sơ hở, yếu kém, từ đó có giải pháp xử lý tích cực, hiệu quả, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại của các cấp, các ngành.
Hàng năm, các cơ quan thanh tra tiến hành hàng nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm và đã phát hiện nhiều sai phạm của các cơ quan như tổ chức tiếp công dân không thường xuyên, không theo đúng thời gian, trình tự quy định. Trong giải quyết chưa chấp hành đúng trình tự, thủ tục quy định, còn để tồn đọng nhiều vụ việc, giải quyết dây dưa, kéo dài, các vụ việc phức tạp chưa giải quyết kịp thời từ cơ sở nên đã vượt cấp. Việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, còn hiện tượng bao che, dung túng khi xử lý cán bộ có sai phạm. Thanh tra Chính phủ còn phát hiện nhiều vụ việc đã được xem xét, giải quyết nhưng chưa đúng các quy định pháp luật, chưa phù hợp với thực tiễn, thậm chí có cả quyết định giải quyết cuối cùng, từ đó có kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết lại, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Thông qua hoạt động này, kịp thời tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản để chỉ đạo và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương chấn chỉnh, khắc phục những sai phạm, thiếu sót và có các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong thời gian tới, các cơ quan thanh tra cần tập trung và đổi mới nhiều hơn đối với việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của các cấp, các ngành, không làm thay các cơ quan trong việc giải quyết, không sa vào việc giải quyết vụ việc mà vụ việc đó thuộc trách nhiệm của các cơ quan cấp dưới. Từ đó, tạo ra bước chuyển biến tích cực trong công tác giải quyết khiếu nại.
Bên cạnh đó, các cơ quan Thanh tra cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại vì đó là một quá trình gồm nhiều nội dung, nhiều hoạt động, có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau và tác động biện chứng lẫn nhau. Việc làm tốt hoạt động này có tác dụng thúc đẩy để hoàn thành tốt hoạt động kia, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi cả nước. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại và nâng cao vai trò của cơ quan Thanh tra Nhà nước trong công tác này, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
1- Hoàn thiện quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại, quản lý nhà nước đối với hoạt động giải quyết khiếu nại.
Hoàn thiện các quy định làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước và tạo thuận lợi cho người dân thực hiện quyền khiếu nại của mình cũng như việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại của cơ quan Thanh tra Nhà nước. Khẩn trương xây dựng Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại vừa được thông qua ngày 11/11/2011 khắc phục những hạn chế, bất cập trong cơ chế giải quyết khiếu nại, tăng cường vai trò của Luật sư và người đại diện quá trình giải quyết khiếu nại; minh bạch hoá quá trình giải quyết khiếu nại tạo thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức có cơ sở giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước; đồng bộ hoá quy định về giải quyết khiếu nại với các quy định về khiếu kiện hành chính, đồng thời giúp các cơ quan Thanh tra nhà nước tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước về giải quyết khiếu nại. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
2- Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền hướng dẫn và tổ chức việc thực hiện các quy định về khiếu nại.
Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức thực hiện các quy định về khiếu nại, trước hết cần gắn công tác thông tin, tuyên truyền với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành. Việc phổ biến pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, hàng năm phải xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền pháp luật và kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc thực hiện Kế hoạch thông tin, tuyên truyền.
Đổi mới nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, đảm bảo nội dung tuyên truyền phong phú, đa dạng. Mở rộng đối tượng được tuyên truyền phổ biến pháp luật nhất là đối tượng cán bộ, công chức ở xã phường, thị trấn và nhân dân gắn với đổi mới phương pháp tuyên truyền thu hút được sự tham gia của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng lớn như Đài truyền hình, Đài tiếng nói nhằm tăng cường hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ báo cáo viên được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật; nghiệp vụ công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải được nghiên cứu, hướng dẫn đầy đủ. Tăng cường các điều kiện về trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, đặc biệt là đảm bảo kinh phí phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm của các cục, vụ, đơn vị của Thanh tra Chính phủ và cơ quan Thanh tra nhà nước các cấp trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật khiếu nại. Thiết lập cơ chế, kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan cơ quan thanh tra để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn ngành trong hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
3- Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại.
Mục tiêu đặt ra đối với các cơ quan Thanh tra nhà nước là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại đáp ứng yêu cầu về chính trị, đạo đức, lối sống, có năng lực, có trình độ theo đúng quy định; có kiến thức pháp lý, am hiểu hoạt động thực tiễn và gắn bó với nhân dân. Do vậy, cần có chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm phát hiện, tuyển chọn, đào tạo những cán bộ đáp ứng được yêu cầu đề ra. Xuất phát từ tính chất, yêu cầu giải quyết khiếu nại, tiếp dân nên việc xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo phải sát với chủ trương, chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước, mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, xác định rõ việc quy hoạch cán bộ, có kế hoạch đào tạo ngắn hạn, dài hạn. Xác định nội dung, chương trình, giáo trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng kết hợp giữa việc đào tạo chính quy với các hình thức đào tạo khác. Tạo cơ chế khuyến khích cho cán bộ tự học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
4- Tập trung thực hiện tốt hơn nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về khiếu nại.
Để làm được điều này, các cơ quan Thanh tra nhà nước cần đổi mới phương thức hoạt động. Chuyển mạnh từ việc trực tiếp giải quyết khiếu nại sang thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với các cấp, các ngành. Tích cực chủ động tổ chức nhiều cuộc, nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra với qui mô, thời gian khác nhau, tiến hành thường xuyên, liên tục trên phạm vi cả nước, tập trung vào những điểm nóng, những địa phương, cơ quan để xẩy ra nhiều khiếu nại, có nhiều vi phạm trong công tác quản lý. Từ đó có kết luận làm rõ trách nhiệm, có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh. Đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, góp phần sửa chữa thiếu sót khuyết điểm, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại ở địa phương cơ sở. Trong chỉ đạo hoạt động, các cơ quan Thanh tra nhà nước không làm thay trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại mà chỉ tập trung chủ yếu vào việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cấp các ngành trong việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại…Khẩn trương nghiên cứu hoàn thiện các qui trình về nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
5- Nâng cao chất lượng tổng hợp tình hình khiếu nại và tổng kết công tác giải quyết khiếu nại.
Thanh tra Chính phủ cần thường xuyên tổng kết công tác giải quyết khiếu nại, công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, phổ biến sâu rộng trong các cơ quan thanh tra, cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời, các cơ quan Thanh tra cấp dưới phải làm tốt công tác thông tin báo cáo với cơ quan thanh tra cấp trên để làm cơ sở cho Thanh tra Chính phủ báo cáo Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền khi cần thiết. Các cơ quan Thanh tra Nhà nước còn phải báo cáo với thủ trưởng cơ quan cùng cấp, đồng thời hướng dẫn các cơ quan đơn vị tổ chức thuộc phạm vi quản lý của thủ trưởng cơ quan nhà nước cùng cấp thực hiện đúng quy định về chế độ thông tin báo cáo. Các thông tin báo cáo phải chính xác, đầy đủ, trung thực, thường xuyên. Đề xuất được những nhận định đánh giá để cấp có thẩm quyền xử lý, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại.
VẤN ĐỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
2.1. Mối quan hệ giữa khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng:
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Trong đó, người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp nước ta ghi nhận. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: ”Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào…” xâm phạm đến lợi ích nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy, đối tượng của việc khiếu nại, tố cáo của các quyết định hoặc việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước. Trong khi đó, tham nhũng là việc làm trái pháp luật nghiêm trọng nhất của những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước. Nói cách khác ”Tham nhũng là việc lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng lại thường gắn liền với buôn lậu tiếp tay cho buôn lậu. Do đó, tham nhũng gắn với buôn lậu là một đối tượng chủ yếu của việc khiếu nại, tố cáo.
Mặt khác, trong cơ chế thị trường, tham nhũng là một vấn đề nhạy cảm, dễ tạo nên sự phản ứng trong xã hội, ở mỗi cơ quan, đơn vị, lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể gắn liền với lợi ích thiết thân của mỗi thành viên, hành vi tham nhũng không chỉ gây hại đến quyền lợi chung mà còn tác động trục tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của từng con người cụ thể. Do đó, tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính làm phát sinh khiếu nại, tố cáo. Đó là chưa kể đến việc tham nhung còn gây mất đoàn kết nội bộ; làm đảo lên các giá trị đạo đức, trật tự xã hội và nói chung, tham nhũng gây công phẫn trong nhân dân. Điều này lý giải một thực tế là đơn thư tố cáo các hành vi tham nhũng thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các đơn thư khiếu nại, tố cáo. Năm 1993, Thanh tra nhà nước tiếp nhận 3.229 đơn, thư tố cáo các loại thì có đến 2.375 đơn thư tố cáo có nội dung tố cáo hành vi tham nhũng của 2.048 cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Một điều đáng lưu ý nữa là số đơn thư tố cáo đúng sự thật thường chiếm từ 70 đến 80% tổng số đơn thư tố cáo. Rõ ràng, các đơn thư khiếu nại, tố cáo là một nguồn thông tin phong phú và là một kênh thông tin đáng tin cậy về những vụ việc tham nhũng. Đơn thư khiếu nại, tố cáo phản ánh thái độ của nhân dân đối với tệ tham nhũng. Việc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng phản ánh niềm tin của nhân dân vào công lý, nó là biểu hiện của sự phản ứng hợp pháp, đầy trách nhiệm của công dân trước một vấn đề bất công đến nhức nhối trông xã hội.
Như vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không những phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng mà còn phát hiện và khắc phục được những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách đã làm cho tệ tham nhũng có cơ hội phát sinh, phát triển. Làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một biện pháp thiết thực, có hiệu quả nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân – một nhân tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay.
2.2. Những lỗi bất cập của cơ chế giải quyết khiếu nại hiện nay và cách giải quyết:
- Cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính của chúng ta hiện nay có một số bất cập:
Người ra quyết định là thủ trưởng cơ quan hình chính thường không phải là người trực tiếp giải quyết vụ việc, họ là những chính trị gia thường không gắn liền với chuyên môn khiếu nại, nên thường các khiếu nại phỉa chuyển các bộ phận chuyên môn của cơ quan hành chính, vì vậy khiệu nạo hành chính phải chuyển qua chuyển lại nhiều lần, mà không đến đúng chỗ.
Quá tin tưởng vào hệ thống tóa án, khi hết giai đoạn khiếu kiện ở cơ quan hành chính. Người luật hy vọng rằng việc chuyển sang cơ quan xét xử là biện pháp hoàn hảo cuối cùng có thể giải quyết một cách triệt để nhất khiếu kiện hành chính. Trong tình trạng hiện nay việc chuyển khiếu nại hành chính thành khiếu kiện ra tòa án là việc rất khó có kết quả tốt và có được chân lý như mong đợi của người dân. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Pháp luật về khiếu nại và tố cáo cho cán bộ, nhân dân ở địa phương (phường, xã, thị trấn, khu phố, ấp và tổ dân phố, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể); thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo,
- Tăng cường công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết tốt các vụ việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến điểm nóng của quận, đặc biệt là trong tác đền bù giải phóng mặt bằng, giải quyết triệt để khiếu nại ngay từ khi mới phát sinh. Phấn đấu giải quyết xong các đơn thư khiếu nại, tố cáo đúng thời gian Luật định và tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm lãnh đạo tập trung, thống nhất, phát huy được tính chủ động sáng tạo trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng rà soát, thống kê tình hình các dự án đang triển khai trên địa bàn (tỉnh/TP) nhằm dự báo tình hình, lập kế hoạch đề xuất biện pháp giải quyết kịp thời các vụ khiếu kiện đông người, tránh phát sinh điểm nóng trên địa bàn;
- Thủ trưởng các phòng, ban, phường chủ động chỉ đạo, trực tiếp kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở CBCC phu trách giải quyết kịp thời, đúng quy định các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan mình; xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý, bổ sung số lượng, nâng cao năng lực chuyên môn cho lực lượng cán bộ – công chức công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương;
- Tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng trong việc thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm tổ chức thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
- Đề xuất với UBND Thành phố sửa đổi quy chế tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên địa bàn Thành phố cho phù hợp với tình hình mới. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các phòng, ban và phường trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Về cơ sở pháp lý:
Do ý nghĩa chính trị – pháp lý hệ trọng và thực tiễn nóng bỏng của việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo, nên tuy Luật Khiếu nại tố cáo 1998 đã đươc sửa đổi bổ sung hai năm liên tiếp (2004, 2005) nhưng vẫn có nhu cầu tiếp tục hoàn thiện, trong đó với bất kỳ vi phạm quyền, tự do cá nhân nào (cùng với chiến lược cải cách tư pháp). Với việc thành lập các tòa hành chính, lao động, kinh tế trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp trung ương, phương hướng trên đã được thực hiện một phần, nhưng vẫn rất cần hoàn thiện các quy định cụ thể về lĩnh vực này, nhất là đối với tòa hành chính.
- Luật khiếu nại, tố cáo quy định việc giải quyết khiếu nại từ Chủ tịch xã đến Tổng Thanh tra. Vì vậy quá trình giải quyết khiếu nại thường kéo dài, làm đứt đoạn, gây khó khăn cho cơ quan Nhà nước, tốn kém cho người khiếu nại. Hơn nữa, quy định nhiều cấp giải quyết dẫn đến các cơ quan hành chính (nhất là cơ sở) có tư tưởng ỷ lại.
- Luật khiếu nại, tố cáo quy định rõ khi thụ lý phải thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, nhưng không quy định rõ là thông báo bằng quyết định hay bằng hình thức văn bản nên nhiều cơ quan thường tuỳ tiện, có nơi thông báo bằng công văn, thông báo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Luật khiếu nại, tố cáo chưa quy định những chuẩn hoá là số tài liệu cần phải thu thập, xác minh, các tài liệu chỉ cần làm rõ… dẫn đến mỗi cơ quan giải quyết thường theo tư duy riêng, các cơ quan giải quyết lần sau ít khi kế thừa thành quá điều tra, xác minh của cơ quan trước, nên gây lãng phí thời gian, kinh phí trong quá trình giải quyết khiếu nại.
- Không nên quy định việc giải quyết ban đầu phải do cơ quan, thủ trưởng cơ quan quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại mà nên quy định là: Người khiếu nại có quyền khởi kiện ngay ra tòa hành chính hoặc khiếu nại ngay lên cơ quan cấp trên mà không cần phải khiếu nại đến cơ quan có quyết định hành chính của hành vi hành chính bị khiếu nại vì quy định như hiện nay việc giải quyết qua nhiều tầng nấc, nhiều cấp giải quyết, gây tốn kém, không hiệu quả, tránh hiện tượng người bị kiện cũng là người xử kiện do đó không khách quan, tính khả thi quyết định giải quyết sẽ thấp. Cho nên Luật tố tụng hành chính 2011 là phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
- Luật khiếu nại, tố cáo việc xác định thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức trong việc tiếp nhận và xử lý các loại tố cáo mới chỉ mang tính nguyên tắc, chưa quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết của các cơ quan cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Luật cũng chưa quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh, kết luận nội dung tố cáo, xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; chưa quy định về việc công khai các quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo… Pháp luật hiện hành có đề cập nhưng chưa quy định rõ cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ bị đe dọa, trả thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử; chưa quy định nội dung cũng như các biện pháp bảo vệ người tố cáo, trách nhiệm pháp lý của người tiết lộ bí mật liên quan đến người tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
- Cơ chế giải quyết khiếu nại chưa đảm bảo đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Toà án còn bị hạn chế; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là giải quyết khiếu nại lần đầu còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm thực hiện công tác giải quyết khiếu nại; hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao; chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhất là trong lĩnh vực đất đai… còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại.
- Trong những năm qua có nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước đã đề cập tới công tác giải quyết khiếu nại, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong cải cách hành chính nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, các chủ trương, quan điểm trên chưa được thể chế hóa đầy đủ trong pháp luật về khiếu nại.
- Với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm phát sinh nhiều tố cáo trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, cũng như tố cáo cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Số vụ việc tố cáo tiếp tục gia tăng, tính chất gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia.
Thực hiện đường lối đổi mới trong quan hệ với các quốc gia trên thế giới, trong thời gian qua Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có một số lĩnh vực, thỏa thuận quan trọng liên quan đến việc bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong quan hệ quốc tế, việc tố cáo và giải quyết tố cáo của cá nhân, công dân nước ngoài. Tuy nhiên những quy định pháp luật của nước ta về vấn đề này còn nhiều hạn chế và bất cập. Vì vậy, cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại thì việc hoàn thiện pháp luật về tố cáo, giải quyết tố cáo có nhân tố nước ngoài để đáp ứng yêu cầu hội nhập là cần thiết. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Vừa qua, Luật khiếu nại, tố cáo vừa được Quốc hội khóa XIII ban hành thành 2 văn bản luật riêng biệt khắc phục những hạn chế của Luật cũ, do đó các cơ quan quản lý nhà nước nhanh chóng xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện để khi 2 văn bản này có hiệu lực (từ 01/7/2012) thì nó sẽ sớm đi vào cuộc sống nhằm thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác giải quyết khiếu nại và công tác giải quyết tố cáo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế hiện nay là yêu cầu khách quan và rất cần thiết.
Thay lời kết, Nhóm nghiên cứu đề tài xin giới thiệu tóm tắt đôi nét về Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo vừa ban hành năm 2011 và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2012
Luật Khiếu nại: tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại
Luật Khiếu nại gồm 8 chương, 70 điều, quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cần giải quyết khiếu nại của nhiều người về cùng một nội dung, Luật Khiếu nại đã bổ sung quy định mới về trường hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung. Theo đó, nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung mà khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi nhận nội dung khiếu nại. Nếu nhiều người khiếu nại bằng đơn thì đơn phải có chữ ký của những người khiếu nại và phải cử đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết khiếu nại (Khoản 4, Điều 8). Đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định về việc ra quyết định giải quyết khiếu nại trong trường hợp này (Khoản 3, Điều 31).
Trình tự khiếu nại cũng được đổi mới so với Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.
Theo quy định của Luật thì khiếu nại lần đầu, người khiếu nại có quyền khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định thi hành, hành vi hành chính hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án, không nhất thiết phải khiếu nại với người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại như trước đây (Điều 7). (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật cũng là một trong những nội dung mới của Luật Khiếu nại. Quy định này nhằm bảo đảm các quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện nghiêm chỉnh. Mục 4, Chương III đã xác định về quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; những người có trách nhiệm thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật và việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
Luật Tố cáo: bổ sung một chương mới về bảo vệ người tố cáo
Luật Tố cáo gồm 8 chương, 50 điều, quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo và quản lý công tác giải quyết tố cáo.
Một trong những điểm đáng lưu ý của Luật Tố cáo là đã bổ sung một chương mới về bảo vệ người tố cáo. Theo đó, Luật xác định trách nhiệm bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp cận thông tin về người tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo đều có trách nhiệm bảo đảm giữ bí mật các thông tin này, không kể người tố cáo có yêu cầu hay không. Việc quy định người tố cáo phải có văn bản yêu cầu bảo vệ chỉ áp dụng trong trường hợp họ có căn cứ cho rằng, họ bị phân biệt đối xử về việc làm, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ công dân, hay nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan xác định các biện pháp bảo vệ phù hợp, bảo đảm tính khả thi trên thực tiễn, phù hợp với nguyên tắc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng chống tham nhũng, Luật Tố cáo đã quy định một số nội dung mới về công khai nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm tố cáo. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Luật cũng quy định cụ thể và đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo theo hướng sửa đổi, bổ sung thêm một số quyền của người tố cáo như: Quy định việc giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác là quyền đương nhiên của người tố cáo và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để bảo đảm quyền này của người tố cáo; được quyền tố cáo tiếp; được khen thưởng theo quy định của pháp luật…
Luật cũng bổ sung quy định người bị tố cáo có quyền được nhận thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; được xin lỗi, cải chính công khai do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.
KẾT LUẬN (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quyền tự do, dân chủ được mở rộng. Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết KKTC là việc cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi công cuộc cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và công cuộc hội nhập quốc tế. Tư pháp Hành Chính là phương thức hữu hiệu nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính quốc gia, là phương thức bảo vệ quyền, tự do, lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm hại từ phía các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cải cách tư pháp là vấn đề hết sức bức xúc Đảng và nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Cùng với sụ thay đổi to lớn của đất nước trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành cải cách tư pháp, bước đầu đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, pháp luật về Tư pháp hành chính và việc thực hiện pháp luật Tư pháp Hành Chính ở nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thẩm quyền chưa rỏ ràng, quyền hành pháp và tư pháp vẫn còn lẫn lộn, chưa phát huy được tính chuyên môn, chuyên nghiệp của nghề thẩm phán, chưa phát huy hết vai trò của Tòa án trong việc bảo vể quyền lợi và lợi ích của công dân. Vấn đề độc lập xét xử của tòa án chưa thực sự được đảm bảo. Các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan Đảng, cơ quan hành chính nhà nước với sự độc lập xét xử của Toà án còn chưa được cụ thể…, nên cần được phải cải cách, đổi mới. Nhưng đổi mới không có nghĩa là phủ định toàn bộ những gì đang có mà đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu của Tư pháp Hành Chính, phải đảm bảo khai thác triệt để ưu điểm của mô hình Tư pháp Hành Chính của các quốc gia trên thế giới và phải khác phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm của mô hình tư pháp hành chính.
Xã hội loài người luôn vận động và phát triển, có những cái hôm qua còn phù hợp nhưng hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do vậy, nghiên cứu hành KKTC với quy mô tổ chức giải quyết KKTC phải đặt dưới góc độ lên tục phát triển để tổ chức TPHC của đất nước ta luôn theo kịp và đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội, thực sự là một tổ chức của dân, do dân và vì dân./. (Tiểu Luận: Quy định về khiếu nại tố cáo)
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com