Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: thực trạng và giải pháp khai thác nhà thờ Bác Trạch-Thái Bình phục vụ phát triển du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý Do Chọn Đề Tài Nhà Thờ Bác Trạch
Trong xã hội phát triển ngày nay, việc đi du lịch đối với con người không còn chỉ đơn thuần là đi thăm quan một danh thắng, khu du lịch, tìm hiểu văn hóa hay thậm chí là đến một bãi biển nào đó để nghỉ mát. Mà đi du lịch với nhiều mục đích khác nhau như đi du lịch kết hợp với hội họp, du lịch kết hợp với tâm linh.
Chính vì thế nhu cầu tâm linh là một nhu cầu không thể thiếu đối với cuộc sống hiện đại của người dân, chẳng hạn như việc hành hương thánh địa mecca của người hội giáo hay đối với những tín đồ của phật giáo muốn đến chiêm ngưỡng vùng đất Nepal vùng đất khai sinh phật giáo. Đặc biệt ở nước ta hiện nay có rất nhiều tour du lịch thăm quan hành hương đền chùa trong những ngày đầu năm. Nhưng ở Việt Nam ngoài đạo phật còn có đạo công giáo là một trong hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất sau đạo phật, ước chừng số tín đồ có thể lên điến 8 triệu. trong thời gian qua đã có một số công ty du lịch đã xây dựng, khai thác một số tour du lịch thăm quan các công trình tôn giáo đặc sắc của đạo công giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở một số nơi như Hà Nội, TP HCM. Xét về chiều dài lịch sử cũng như các công trình kiến trúc thì Vùng đất Thái Bình-Bùi Chu được coi là một trong những mảnh đất đầu tiên đạo công giáo được truyền vào Việt Nam năm 1533. Trên thực tế ta có thể thấy Thái Bình là một vùng đất sùng đạo, với nền tảng vững chắc, số lượng giáo dân khá đông cũng như có nhiều công trình kiến trúc nhà thờ độc đáo. Chính vì thế việc lựa chọn nhà thờ Bác Trạch này: Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Mang tính chất đại diện cho toàn bộ các Nhà Thờ trong Giáo Phận Thái Bình.
- Là giáo xứ có truyền thống lâu đời, có nhiều dấu ấn lịch sử của giáo phận Thái Bình.
- Đây cũng là Giáo Xứ hàng đầu của Giáo Phận cả về số lượng nhân danh lẫn về quy mô tổ chức.
- Là Nhà Thờ có lối kiến trúc độc đáo, hoành tráng có thể nói lớn nhất Việt Nam.
- Thể hiện sự tiêu biểu trong các nhà thờ có Lối kết hợp kiến trúc của Việt Nam.
- Đồng thời các nhà thờ này cũng nằm gần các điểm du lịch trọng điểm của tỉnh có thể kết hợp với các tour du lịch tâm linh.
Trên cơ sở đó kết nối với việc phát triển du lịch tâm linh tại đây nên em đã lựa chọn đề tài: “khai thác công trình kiến trúc của nhà thờ Bác Trạch phục vụ phát triển du lịch”. Cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Mục đích ý nghĩa của đề tài Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
2.1. Mục đích
Trong dòng cuộc sống hối hả, người viết muốn mang đến cho các du khách những chuyến đi thật ý nghĩa và thỏa trí tìm hiểu khám phá những nét đẹp trong các công trình kiến trúc Công giáo. Từ những tư liệu người viết tìm hiểu được, từ các tài nguyên, điều kiện để phát triển, trên nền tảng đó, cố gắng vận dụng những kiến thức đã học trên ghế nhà trường về chuyên ngành du lịch để cung cấp một cái nhìn tổng quan về Công trình kiến trúc Công giáo ở Nhà Thờ Bác Trạch, tiến tới xây dựng các chương trình du lịch cụ thể nhằm giúp cho loại hình du lịch tâm linh thêm phong phú và đa dạng, phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng du khách.
2.2. Ý nghĩa đề tài
- Giới thiệu tổng quan về công trình kiến trúc Công giáo của Nhà Thờ Bác Trạch.
- Đánh giá được giá trị nghệ thuật, kiến trúc, tâm linh và du lịch công trình đó.
- Tìm hiểu thực trạng khai thác các công trình đó những năm gần đây.
- Phân tích những mặt được và chưa được trong công trình khai thác.
- Đề xuất định hướng phát triển, giải pháp và biện pháp khai thác du lịch hiệu quả với công trình kiến trúc Công giáo của nhà thờ Bác trạch, góp phần phát triển du lịch địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1.Đối tượng nghiên cứu Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Công trình kiến trúc Công giáo Nhà Thờ Bác Trạch 3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: đề tài được nghiên cứu trong vòng 3 tháng, từ ngày 20 tháng 3 năm 2019 đến ngày 12 tháng 6 năm 2019.
- Về không gian: Nhà Thờ bác Trạch – Thái Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp này, cho phép người viết tiếp cận và nắm bắt rõ hơn về các công trình kiến trúc, quan sát chân thực hơn và có góc nhìn toàn diện hơn đối với đối tượng nghiên cứu. Với các thông tin dữ liệu thu thập được để chọn lựa được công trình kiến trúc đặc sắc để đưa vào khai thác . Các hoạt động đi thực địa gồm: quan sát, điều tra, ghi chép, quay phim, chụp ảnh và gặp gỡ trực tiếp những người coi sóc công trình, các cơ quan quản lí và cộng đồng địa phương.
4.2.Phương pháp thu thập và xử lí dữ liệu
Phương pháp này là thu thập thông tin, tài liệu có sẵn từ các, ban ngành liên quan, tài liệu giấy được các linh mục, các cơ sở uy tín của tổ chức giáo hội Công giáo như: trang địa phận Thái Bình, trang giáo phận Bùi Chu, cuốn sách Kỷ yếu Giáo Xứ và Nhà Thờ Bác Trạch, cuốn lịch sử địa phận Đông đàng ngoài hay giáo phận Hải Phòng… Trên cơ sở những tài liệu thu thập và đưa vào phân tích, đánh giá, nhận xét, so sánh và tổng hợp sẽ giúp em hoàn thiện tốt chủ đề của khóa luận.
4.3. Phương pháp thống kê
Phương pháp này cho ta số liệu về các mốc thời gian, các chỉ số, kích thước về công trình, về số lượng giáo dân… dựa trên cơ sở điều tra từ nhiều nguồn thông tin khác nhau như Báo công giáo, trang của các giáo phận đã cung cấp các số liệu để đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách bao quát và khách quan.
5. Bố cục của khóa luận Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận còn bao gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Tổng quan về đạo Công giáo và việc khai thác đạo Công giáo phục vụ du lịch trên Thế Giới và Việt Nam.
- Chương 2: Tiềm năng và thực trạng khai thác Nhà Thờ Bác Trạch – Thái Bình phục vụ du lịch.
- Chương 3: Một số giải pháp khai thác nhà thờ Bác Trạch – Thái Bình phục vụ hoạt động phát triển du lịch.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO VÀ VIỆC KHAI THÁC ĐẠO CÔNG GIÁO PHỤC VỤ DU LỊCH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1. Lược sử hình thành và các nội dung chính của đạo Công giáo
1.1.1. Lược sử hình thành của đạo Công giáo
1.1.1.1. Khái niệm Công giáo
Công giáo là một thuật ngữ rộng được sử dụng đặc biệt trong ngữ cảnh Ki-tô giáo. Thuật ngữ này được xuất phát từ chữ Hi Lạp (katholikos) có nghĩa là “chung” hay “phổ quát”. Như vậy, thuật ngữ Công giáo hay Đại công trong tiếng Việt được dùng để dịch chữ Hi Lạp với nghĩa là đạo Công giáo.
1.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển đạọ Công giáo
Sự ra đời của đạo Công Giáo gắn liền với tên tuổi của Chúa Giêsu, trên cơ sở của Thánh Kinh và những nghiên cứu hiện có ghi lại thì ta có thể biết một vài điểm về cuộc sống của Chúa Giêsu như sau: Giêsu là một thanh niên Do Thái sinh vào những năm đầu công nguyên, khoảng 30 tuổi thì bắt đầu đi rao giảng truyền đạo. trong quá trình đi rao giảng thì người thu nhận 12 người được gọi là Tông Đồ hay Môn Đệ (Phêrô là Tông Đồ trưởng), được khoảng 3 năm thì do sư ganh ghét của các phần tử Do Thái Giáo nên người bị kết án và bị đóng đinh trên Thập Giá. Sau khi Chúa Giêsu chết các Tông Đồ tiếp tục công cuộc truyền giáo. Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, khoảng năm 33, ở Giêrusalem, trước đông đảo các khách hành hương Do Thái tụ họp nhân ngày lễ, thánh Phêrô đã công bố cho đồng bào mình Tin Mừng Đức Giêsu, Đấng đã được Thiên Chúa sai đến, đã bị đóng đinh Thập Giá, nhưng đã sống lại và được Thiên Chúa đặt làm Chúa. Các thính giả hỏi xem họ phải làm gì và được trả lời : phải hối cải, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha thứ tội lỗi và lãnh nhận Thánh Thần (Cv 2-4). Ba ngàn người đã chịu phép rửa. Giáo Hội đã ra đời như thế. Những thành viên đầu tiên này của Giáo Hội là người Do Thái tiếp tục cuộc sống của các người Do Thái đạo đức: cầu nguyện ở Đền Thờ, giữ luật, kiêng ăn uống, cắt bì. Họ làm nên như một giáo phái mới của Do Thái Giáo, giữa những giáo phái khác. Nét đặc biệt của họ là: chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nghe lời giảng của các Tông Đồ, dự lễ bẻ bánh, và sống thành cộng đồng huynh đệ. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Tính đến nay Đạo Công Giáo đã được hình thành là 2000 năm. Đây là khoảng thời gian cực kỳ dài, chính vì thế sự phát triển của tôn giáo này cũng rất đa dạng và phong phú. Vậy đâu là những giai đoạn thăng trầm, phát triển trong đời sống của đạo Công Giáo? Theo nhà sử gia Công Giáo Christopher Dawson đã nhận xét rằng Giáo Hội Công Giáo (đặc biệt Giáo Hội Tây Phương) đã trải qua sáu thời kỳ, mỗi thời kỳ bắt đầu bằng một thời gian phát triển, dẫn đến cực điểm của đời sống và văn hóa Công Giáo, và chấm dứt bằng giai đoạn xuống dốc về đời sống tâm linh hoặc với các loại khủng hoảng khác. Theo ông Dawson:
Thời Kỳ Ðầu Tiên của Giáo Hội được bắt đầu bằng sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, dẫn đến sự hoán cải của rất nhiều người trong Ðế Quốc Rôma, bất kể sự bách hại của nhà cầm quyền. Giai đoạn này chấm dứt không phải vì sự suy thoái tâm linh nhưng vì sự bách hại ghê gớm của chế độ trong năm 259 và đầu thế kỷ thứ tư, trong đó rất nhiều Kitô Hữu đã hy sinh tính mạng vì đức tin.
Thời Kỳ Thứ Hai của Giáo Hội bắt đầu với sự chiến thắng của Constantine, giúp cho Kitô Hữu được tự do tôn giáo vào năm 313 và đưa đến sự hoán cải của rất nhiều người thuộc Ðế Quốc Rôma qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ðây cũng là thời kỳ vĩ đại về tâm linh và sáng tác thần học thường được gọi là Thời Giáo Phụ của Giáo Hội. Giai đoạn này được chấm dứt với sự tiếp quản chính trị Ðế Quốc Rôma bởi các sắc tộc không phải Kitô Giáo, và tột độ của giai đoạn này là khi Hồi Giáo xâm chiếm Giêrusalem năm 643.
Thời Kỳ Thứ Ba của Giáo Hội bắt đầu bằng sự hoán cải của một vài sắc tộc và được khuấy động bởi sự canh tân của Chúa Thánh Thần, và hoạt động truyền giáo ra bên ngoài được bắt đầu dưới thời Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô I. Ðây là khởi đầu của Kitô Giáo ở phương Tây, cũng như bắt đầu thời kỳ liên minh giữa Giáo Hội Công Giáo và các thể chế chính trị mà cao điểm là trong thời gian trị vì của hoàng đế Charles Ðại Ðế. Sau cái chết của ông, Ðế Quốc Rôma bị phân chia và Giáo Hội Công Giáo trải qua thời kỳ suy sụp tâm linh.
Thời Kỳ Thứ Tư của Giáo Hội bắt đầu bằng sự canh tân đời sống đan viện của Chúa Thánh Thần được bắt đầu ở Cluny năm 910 và đạt đến tâm điểm của Giáo Hội qua các cuộc cải cách của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII vào năm 1073 (Người là một đan sĩ ở Cluny). Tuy nhiên, linh đạo và văn hóa của Giáo Hội trong giai đoạn này chỉ đạt đến cực điểm vào thế kỷ 13 qua các dòng Khất Thực của Thánh Phanxicô và Thánh Ða Minh và các đại học cũng như trường phái Công Giáo. Nhưng sự suy thoái tâm linh và tư duy của giai đoạn này bắt đầu vào cuối thế kỷ 13, xuống đến độ thấp nhất vào khoảng năm 1500, với biến cố Cải Cách Tin Lành. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Thời Kỳ Thứ Năm của Giáo Hội bắt đầu từ thế kỷ 16, với sự canh tân của Chúa Thánh Thần, đưa đời sống Công Giáo ra khỏi các xáo trộn của cuộc Cải Cách Tin Lành. Sự canh tân lớn lao này đạt đến cực điểm vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17. Sau đó, ảnh hưởng của phong trào Khai Sáng và các cuộc chiến tranh tôn giáo đã bắt đầu làm suy yếu đời sống, tư duy, sức mạnh tâm linh của Công Giáo một cách trầm trọng, và xuống đến độ thấp nhất vào thế kỷ 18.
Thời Kỳ Thứ Sáu của Giáo Hội bắt đầu trong thế kỷ 19 qua việc Chúa Thánh Thần đưa ra các vị giáo hoàng và các người Công Giáo vững mạnh để có thể đối phó với các cuộc tấn công và sự ảnh hưởng của phong trào Khai Sáng, cũng như các thử thách chính trị và ý thức hệ mà Giáo Hội phải đương đầu. Vài người nhận xét rằng, mỗi một vị giáo hoàng từ thế kỷ 19 cho đến nay đều là các nhà lãnh đạo thánh thiện, cương quyết, và đầy ơn sủng. Ðó là điều chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa. Vì đây là thời đại chúng ta đang sống, do đó thật khó để biết rằng đó có phải là thời kỳ tiến bộ hay suy thoái, nhưng chúng ta phải kiên trì cầu xin Chúa Thánh Thần để Người tiếp tục dẫn dắt, kiên cường, và canh tân Giáo Hội Công Giáo.
Dựa trên cái nhìn về sáu giai đoạn của Giáo Hội với những thăng trầm của nó, một biểu đồ sơ phác lịch sử Giáo Hội Công Giáo có thể vẽ ra như sau:
Biểu Đồ Những Thăng Trầm Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo
1.1.2 Các nội dung chính của Đạo Công giáo Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
- Giáo Lý: Giáo Lý của hội thánh công giáo là một hệ thống từ đơn giản cho mọi tín đồ đến cực kỳ phức tạp của các học thuyết kinh viện với các quan điểm về triết học và thần học siêu hình. Căn cứ vào kinh thánh nhưng phải dựa vào những lời giải thích truyền thống là thẩm quyền của giáo hội. luật lệ của giáo hội rất nhiều bao gồm các tín điều, 10 điều răn, 6 điều răn của hội thánh, 7 bí tích…nhưng đơn giản ta có thể hiểu 2 điều mà người công giáo cho là quan trọng nhất vẫn là mến Chúa-Yêu người. Đạo Công Giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối (chúa quan phòng mọi chuyện).
- Hệ thống kinh thánh: Kinh Thánh của Đạo Công Giáo gồm 2 phần là: Tân Ước và Cựu Ước.
Cựu ước: gồm 46 cuốn, là những sách có từ trước chúa giáng sinh, được chia là 4 Nhóm:
- Ngũ thư: sáng thế, xuất hành, dân số, đệ nhị luật, lêvi
- Sử thư: macabe1, macabe 2,…
- Giáo Huấn: huấn ca,..
Sách tiên tri: gồm 16 cuốn.
Tân ước: gồm 27 cuốn, là các văn bản do các môn đệ của Chúa Giêsu (và những người thừa kế họ) viết ra với nội dung liên quan đến cuộc đời của Chúa Giêsu. bao gồm sách Phúc Âm, sách Công vụ Tông đồ, các thư của Phaolô, các thư của các tông đồ khác và sách Khải Huyền.
Kinh Thánh là bộ sách bán chạy nhất mọi thời đại, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản, và nó đã gây sức ảnh hưởng lớn về văn học và lịch sử, đặc biệt là ở phương Tây, nơi mà nó là sách đầu tiên được in hàng loạt.
- Một số tín điều về đức Maria: Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
- Tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
- Tín điều này được tuyên tín bởi Công Ðồng Êphêsô (năm 431).
- Tín điều Đức Maria trọn đời đồng trinh (Aeiparthenos).
- Tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội.
- Tín điều Đức Maria hồn xác về trời.
- 7 phép bí tích:
- Bí tích rửa tội.
- Bí tích thêm sức.
- Bí tích Mình Thánh Chúa.
- Bí tích hòa giải.
- Bí tích xức dầu bệnh nhân.
- Bí tích truyền chức Thánh.
- Bí tích hôn phối.
- 8 mối phúc(hiến chương nước trời)
- Ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.
- Ai hiền lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy.
- Ai khóc lóc, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được yên ủi vậy.
- Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy.
- Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.
- Ai giữ lòng sạch sẽ, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy.
- Ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy.
- Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.
- 10 điều răn Đức Chúa Trời:
- Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
- Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
- Thứ ba: Giữ ngày Chúa nhật.
- Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ.
- Thứ năm: Chớ giết người.
- Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục.
- Thứ bảy: Chớ lấy của người.
- Thứ tám: Chớ làm chứng dối.
- Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người.
- Thứ mười: Chớ tham của người. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy.
Amen.
- 6 điều răn của Hội Thánh
- Thứ Nhất: Xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc
- Thứ Hai: Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc
- Thứ Ba: Xưng tội trong một năm ít là một lần
- Thứ Bốn: Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh
- Thứ Năm: Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc
- Thứ Sáu: Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng các ngày khác Hội Thánh dạy
- Phẩm trật của hội thánh công giáo:
Giáo hội Công giáo phân chia phẩm trật giáo sĩ thành ba chức: giám mục, linh mục và phó tế. Theo Giáo hội, thuật ngữ “hiearchy” (nghĩa là “thừa kế”) để chỉ những người có thẩm quyền trong một đơn vị giáo hội của họ. Thẩm quyền cơ bản nhất là chức giám mục vì họ được coi là những người kế vị các tông đồ, trong khi chức thấp hơn là linh mục và phó tế phục vụ như người trợ lý và cộng tác của giám mục. Như vậy, phẩm trật trong Giáo hội Công giáo Rôma đôi khi cũng được chỉ riêng về chức giám mục mà thôi.
Mỗi giáo phận Công giáo đều do một giám mục lãnh đạo. Giáo phận được chia thành các cộng đoàn giáo dân nhỏ hơn được gọi là giáo xứ, mỗi giáo xứ cũng do một hoặc nhiều linh mục coi sóc. Các linh mục ở những giáo xứ lớn có thể có thêm các phó tế phụ giúp mục vụ và quản nhiệm.
Tất cả các phó tế, linh mục và giám mục đều có quyền giảng đạo, cử hành nghi thức bí tích rửa tội, hôn phối và tang lễ. Nhưng chỉ có các linh mục và giám mục mới có quyền cử hành Bí tích Thánh Thể, Bí tích Hòa Giải (giải tội), Bí tích Thêm Sức (linh mục có thể cử hành nếu có sự chấp thuận của giám mục) và Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Chỉ có giám mục mới có quyền cử hành Bí tích Truyền Chức Thánh, tức là truyền chức linh mục hoặc tấn phong chức giám mục.
1.2. Lược sử truyền giáo vào Việt Nam Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
1.2.1 Quá trình Đạo công giáo du nhập vào Việt Nam
Đạo Công giáo tại Việt Nam được du nhập từ các tu sĩ, linh mục người ngước ngoài. Quá trình du nhập vào Việt Nam đã trải qua một thời gian dài và khá phức tạp. Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam trải qua gần 500 năm có thể chia thành 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn đầu : Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị trong nước đang lâm vào khủng hoảng, các cuộc nội chiến liên miên diễn ra giữa các tập đoàn phong kiến Lê – Mạc. Dưới tính hình đó, đất nước bị chia cắt, kinh tế khó khăn. Lúc bấy giờ, đạo Công giáo đã được truyền vào từ năm 1533, do giáo sĩ Tây Dương tên là In-nê- khu, đã đến làng Ninh Cường thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Trong giai đoạn này, nhằm chống lại ảnh hưởng từ phái cải cách Tin Lành, giáo hội Công giáo Roma đang không ngừng gửi các thừa sai theo tàu buôn đến các nước Châu Á để truyền giáo, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian đầu việc truyền giáo không thu lại được kết quả mấy. Mãi đến năm 1615, việc truyền giáo vào Việt Nam mới thực sự có được thành quả nhất định. Các thừa sai dòng Tên dừng chân nơi nào, họ lập Hội Thầy giảng để giúp việc truyền giáo đến đó. Ban đầu, họ đã dùng mẫu tự La Tinh để phiên âm tiếng Việt và soạn thảo Kinh thánh. Nhờ kinh nghiệm truyền giáo ở các nước trong khu vực khác mà khi đặt chân đến Việt Nam các thừa sai đã quan tâm đến việc học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc luôn. Lúc này Việt Nam lại đang bị chia cắt thành đàng Trong và đàng Ngoài bởi 2 thế lực Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Tại Đàng Trong, Linh mục Fancessco Buzomi, dẫn đầu một đoàn Tu sĩ dòng Tên đến Hải Phố ( Hội An) vào ngày 18/01/1615. Ngài xin phép chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613- 1635) giảng đạo tại Nam Hà. Ở Hải Phố, cha xây cất một nguyện đường dâng lễ phục sinh năm 1615 và rửa tội cho 10 tân tòng đầu tiên. Sau cha đi giảng ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) Nước Mặn (Quy Nhơn), dần dần công việc truyền giáo được thuận lợi và tốt đẹp. Nhiều thừa sai khác, nhiều thừa sai đến và các Cha chia nhau 3 giáo điểm là Hội An, Đà Nẵng và Quy Nhơn ngày nay. Đặc biệt chính Chúa Sãi cung cấp cho Linh mục Buzomi một khu đất để xây một nhà thờ ở kinh đô Trà Bát (Quảng Trị). Trong suốt năm 1615 đến 1663 con số tín đồ đã lên đến 50.000 người.
Tại đàng Ngoài: Các linh mục Dòng Tên tại Macao cũng tổ chức một phái đoàn truyền giáo do cha Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ) dẫn đầu. Ông là người gốc Bồ Đào Nha, đến giảng đạo ở Đàng Trong 3 năm thì chuyển ra đàng Ngoài. Ngày 19/03/1627 ông cập bến tại tỉnh Thanh Hóa và thi hành việc giảng đạo suốt trên con đường tiến ra Thăng Long để gặp Chúa Trịnh. Ngài được đón tiếp tử tế và được lòng dân đón nhận. Số người theo đạo ngày một nhiều khiến cho vua Lê Chúa Trịnh bắt đầu lo lắng quyền lực của Chúa sẽ bị giảm sút. Vì thế cuộc cấm đạo, bách đạo đã nhen nhóm và ngày một quyết liệt. Đến năm 1630 linh mục Alexandre de Rhoodes bị trục xuất khỏi thành Thăng Long. Sau ông, các nhà truyền giáo khác vẫn tiếp tục đến Việt Nam nhưng đến năm 1663 Chúa Trịnh và năm 1665, Chúa Nguyễn, đều lần lượt ra lệch trục xuất vĩnh viễn các linh mục là giáo sĩ nước ngoài. Tuy nhiên, cha Alexandre de Rhodes đã truyền giáo trong suốt 50 năm, thu về 350.000 giáo dân và xây dựng được 414 nhà thờ.
Có thể nói đạo Công giáo là một tôn giáo mới lạ so với tín ngưỡng người Việt Nam. Đối với nhà nước thời đó vốn lấy Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo nhằm trị nước yên dân, nên trong quá trình truyền giáo nhất là thời nhà Nguyễn đạo Công giáo bị cấm gay gắt. Tuy nhiên sau khi pháp chính thức chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, triều đình nhà Nguyễn buộc phải nới lỏng cho phép truyền đạo ở miền Nam. Đến hòa ước Giáp Tuất 1874 việc truyền giáo được chính thức mở rộng và lịch sử Công Giáo sang một trang khác. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Giai đoạn 1884-1954: Trong giai đoạn này Pháp bắt đầu đô hộ Việt Nam (với hòa ước Giáp Thân ngày 06/06/1884). Việc Pháp đô hộ đã tạo thuận lợi cho hoạt động của đạo Công giáo, người dân không còn bị cấm đạo, sát đạo nữa. Cũng trong giai đoạn này mà các Tòa Giám Mục, Nhà Thờ, Chủng Viện, các dòng tu… được xây dựng nhiều hơn, số tín hữu cũng tăng nhanh hơn. Giai đoạn này cũng đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng của giáo hội Việt Nam. Điển hình như biến cố ngày 3/12/1924, tòa thánh Vatican đổi tên các giáo phận Tông tòa tại Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt Tòa Giám Mục như ngày nay.
Năm 1925 tòa thánh thiết lập Tòa Khâm Sứ ở Đông Dương và đặt tại Phú Cam ( Huế). Năm 1993 Tòa thánh tấn phong giám mục người Việt – Nguyễn Bá Tòng (vị giám mục đầu tiên là người Việt Nam). Sau 400 năm truyền giáo, năm 1934 cộng đồng Đông Dương với 19 giám mục, 5 bề trên dòng tu và 21 linh mục cố vấn đã họp tai Hà Nội, bàn về việc tiến tới thiết lập hàng giáo phẩm và đào tạo giáo sĩ… ở Việt Nam. Giáo hội Việt Nam phát triển nhanh vì được định hướng rõ rệt, nhiều giáo phận mới được thành lập. Năm 1939 đạo Công giáo Việt Nam có 16 giáo phận, 17 Giám muc và 1.544.765 giáo dân.
Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc Pháp phải kí hiệp ước Giơ-ne-vơ và rút quân khỏi Việt Nam. Từ đó miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tranh thủ cơ hội, vì nhiều lý do đã diến ra cuộc đại di cư của đồng bào bà con miền Bắc vào Nam. Đối với người Công Giáo cuộc di cư có đến 72% linh mục, 40% giáo dân ( 650.000 người), 2000 nữ tu sĩ và hơn 1000 chủng sinh miền Bắc di cư vào Nam. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Việc di cư của người Công giáo trong giai đoạn này là một mốc lịch sử, làm cho giáo hội Công giáo Việt Nam rơi vào khủng hoảng, đặc biệt là người dân miền Bắc. Chính vì vậy, khi các tu sĩ di cư nhiều, đời sống người dân ở miền Bắc không được thường xuyên sinh hoạt tôn giáo, nhiều nhà thờ bỏ không, nhiều tu viện, chủng viện không một bóng người; đời sống tinh thần của người dân không được chăm lo, nhiều người vì một số lí do mà bỏ đạo.
Giai đoạn 1954- 1975: trong giai đoạn này, có sự xáo trộn ở cả hai miền Nam Bắc. Chính sự di cư bất đắc dĩ mà miền Bắc còn lại 28% linh mục, 60% giáo dân, các địa phận như Phát Diệm, Bùi Chu, Hải Phòng … có số lượng di cư đông. Điều đó khiến cho hoạt động tôn giáo bị lắng xuống, ảm đạm hơn. Đối với miền Nam: Cuộc di cư năm 1954 khiến cho đời sống đạo ở Miền Nam thêm sôi động hơn. Các giáo phận đông dân hơn, một số giáo phận, giáo xứ mới được thành lập trong thời kì này, ví dụ như Cần Thơ thành lập năm 1955, Nha Trang thành lập năm 1957. Chính trong giai đoạn này mà nhiều sự kiện quan trọng đã diễn ra trong đạo Công giáo Việt Nam. Ngày 24/11/1960 giáo hoàng Gioan 23 đã ban hành Sắc chỉ thiết lập hàng giáo phẩm cho giáo hội Việt Nam. Giáo Hội Công giáo Việt Nam với 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Điều này đã đánh dấu vị thế của đạo Công giáo ở Việt nam trong hệ thống giáo hội Công giáo toàn cầu. Năm 1960 giáo hội Việt Nam đã có 20 giáo phận, với 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu sĩ và 1.530 chủng sinh.
Năm 1975 Mỹ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam, miền Nam được giải phóng. Giáo hội công giáo Việt Nam lại có biến động bởi một lượng lớn tu sĩ và giáo dân ra ngước ngoài. Theo thống kê thì có tới 400 tu sĩ, 50.000 giáo đã di cư ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tại miền Nam lúc đó chỉ còn lại 25 giám mục, 2.000 linh mục, gần 7.500 tu sĩ. Mặc dù là giáo hội Công giáo Việt Nam đang có những khủng hoảng, khó khăn khi một lượng lớn tu sĩ và giáo dân ra nước ngoài, hoàn cảnh chính trị, kinh tế trong nước cũng chưa được ổn đinh, kinh tế khó khăn, tuy vậy, hai miền Nam, Bắc vẫn thống nhất chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo và vượt qua khó khăn. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Giai đoạn 1975 đến nay: nhận thấy khó khăn đất nước và giáo hội Việt Nam đang phải hứng chịu, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã họp tại thủ đô Hà Nội năm 1980 và đưa ra đường hướng là “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Đây là sự kiện quan trọng, Giáo hội xây dựng một hội thánh tại Việt Nam gắn bó với đất nước, cùng đồng bào cả nước chung tay xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua hơn 400 năm truyền giáo, hiện nay Công giáo là một trong số các tôn giáo lớn ở Việt Nam. Theo thống kê được trình báo cho Giáo hoàng trong chuyến thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam thì cho đến năm 2018, hiện nay, Công giáo tại Việt Nam có hơn 7 triệu tín hữu, với 47 giám Mục, 4.000 linh mục, 4.500 giáo xứ, 22.000 tu sĩ với hơn 240 dòng tu, hơn 2400 đại chủng sinh trong tổng số 27 giáo phận. Ta có thể thấy, lịch sử hình thành và phát triển đạo Công giáo Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động. Sự du nhập của một tôn giáo xa lạ với xã hội Việt Nam, đã đem đến cho đất nước Việt Nam một tầm nhìn mới. Đến nay, đạo Công giáo đã phát triển trở thành tôn giáo lớn với nhiều hoạt động đa dạng và có những ảnh hưởng trong đời sống văn hóa- xã hội Việt Nam.
1.2.2 Lịch sử truyền giáo của giáo phận Thái Bình Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Giáo phận Thái Bình (tiếng Latin: Dioecesis de Thai Binh) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam nằm trên địa bàn của hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên.
Về mặt địa lý, địa hình, Giáo phận Thái bình phía Đông Bắc giáp giáo phận Hải Phòng bằng con sông Hóa, phía Tây Bắc giáp giáo phận Hà Nội, phía Nam giáp giáo phận Bùi Chu bằng con sông Hồng và phía Đông là Biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Tổng dân số trên địa bàn giáo phận Thái Bình thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng khoảng chừng hơn một triệu người, đại đa số là người Kinh, trong đó khoảng 60% làm nông nghiệp, còn lại là đa số làm nghề thương mại, cơ khí, kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp …
Giáo phận Thái Bình được bao bọc bởi hai con sông, tiếp giáp với ba giáo phận và biển Đông rộng lớn. Hai con sông Hồng và sông Hóa tựa như hai cánh tay khoẻ bao bọc lấy giáo phận. Nhờ có hệ thống sông là những trục giao thông rất thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển. Khu vực giáo phận trở nên rất trù phú, dân cư đông đúc sống hiền lành chất phác. Đây là một môi trường thuận lợi cho việc đón nhận và phát triển đức tin, in dấu vết của những cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của các nhà truyền giáo. Có thể nói, đạo công giáo được truyền vào miền đất Thái Bình từ khá sớm. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Theo sử sách để lại, năm 1638 đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Dương Hòa thứ tư, linh mục Felice Morelli – một vị thừa sai dòng Tên, người Ý, sau khi được cử đến rao giảng tại vùng Kẻ Chợ, đã xuôi dòng sông Hồng rồi rẽ vào sông Luộc đến giảng đạo tại làng Bồ Trang (thuộc xứ Bồ Ngọc – Giáo phận Thái Bình ngày nay). Cuộc gặp gỡ với người dân nơi đây đã trở thành cộc gặp gỡ lịch sử. Kể Từ đây đạo công giáo dần dần được lan rộng ra các làng khác trong phủ Thái Bình như Lai Ổn, Ninh Cù.
Thái Bình tuy là một trong những vùng đất hình thành các giáo xứ Công giáo tại Việt Nam. Tuy nhiên, Giáo phận Thái Bình lại là giáo phận được thành lập muộn nhất trong Giáo tỉnh Hà Nội. Ngày 9 tháng 3 năm 1936, Giáo hoàng Piô XI ban Sắc chỉ Praecipuas inter Apostolicas thành lập Giáo phận Thái Bình gồm hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên, tách ra từ Giáo phận Bùi Chu (Nam Định). Ngày 15 tháng 6 năm đó, Tòa Thánh bổ nhiệm một linh mục dòng Dominic người Tây Ban Nha tên là Juan Casado Obispo làm Giám mục đại diện tông tòa Thái Bình. Ông có tên Việt là Thuận và trở thành Giám mục tiên khởi của giáo phận.
Thái Bình còn thêm vào trang sử hào hùng của Giáo Hội Việt Nam: 19 vị thánh tử vì đạo sinh quán tại giáo phận trong số 117 vị thánh tử vì đạo nước Việt Nam. Đó là những vị hiển thánh tử vì đạo đại diện cho hàng chục nghìn vị anh hùng tử vì đạo đã chết để làm chứng cho Chúa, thuộc hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong giáo phận Thái Bình.
Đến năm 2015, Giáo phận Thái Bình có tới 95 linh mục triều, 24 linh mục dòng, 112 đại chủng sinh, 225 tu sĩ đang phục vụ tại giáo phận và khoảng gần 132 ngàn giáo dân trên tổng số hơn ba triệu người trên địa bàn và 108 giáo xứ và 354 giáo họ, diện tích của giáo phận là 2.301 km2. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
1.2.3 Lịch sử truyền giáo của Giáo Xứ Bác Trạch
Giáo Xứ Bác Trạch nằm trên địa hạt hành chính của xã Vân Trường – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình.
Bác Trạch – Vân Trường do sự xếp đặt của một nhà Văn Thân yêu nước trong phong trào Duy Tân của cụ Phan Bội Châu và thế kỷ XVII.
Nằm ở phía nam Quốc lộ 33B. Cách Thành Phố Thái Bình 22Km về phía đông nam. Đất Bác Trạch có hai tôn giáo: Công Giáo – Phật Giáo.
Đạo Công Giáo có vào từ năm 1735, còn trước không rõ. Về truyền thống của Bác Trạch từ xa xưa luôn đoàn kết lương giáo và tôn trọng tín ngưỡng của nhau.
Lần theo truyền thuyết thì không có gì làm bằng chứng nhưng theo “sử ký địa phận trung – trang 44” thì linh mục Tế đầu tiên đến Bác Trạch. Gọi là Cha Phan-xi-cô Tế, tên ở nước người là Francisco ctit de Re do Rinh được cử về Bác Trạch giảng đạo vào năm 1735. Dưới thời Lê Trịnh
Về dân cư bấy giờ có ông Phạm Đình Nghiễm được nhà Vua phong là Vũ Bá Hộ, ông có nhiều bằng hữu với tầm nhìn xa. Ông đã có diễm phúc được gặp nhiều các Đấng Bậc cho nên ông đã vinh dự được đón nhận đức tin. Rồi chính ông là cái nhịp cầu đưa ánh sáng đức tin đến với con người Bác Trạch. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Năm 1735, Cha Phan-xi-cô Tế dòng Đa minh gốc Tây Ban Nha được Đức Giám Mục Giáo Phận khi đó gọi là địa phận đông đằng ngoài cử về giảng đạo tại Bác Trạch được 2 năm, đến năm 1737 đời vua Lý Tông niên Hựu ráo riết cấm bắt đạo thì người lại bị bắt vào ngày 3 tháng 8 năm 1737, tại Lục Thủy – Nam Định, rồi sau được quan phủ đưa ra pháp trường Đồng Mơ Hà Nội và xử chém. Vào ngày 22 tháng 01 năm 1745. Thời điểm này, Bác Trạch đã có 1429 nhân danh.
Đất Bác Trạch vào năm 1895 sau thời kỳ vua Tự Đức ra sắc chỉ pháp sấp điền địa phước Tập, vì thế nhiều người đã lánh thân nơi hầm mỏ,.. để tránh thời cuộc, vì thế, thời này nhiều người vẫn còn ngân nga câu thơ để nhắc nhớ lại cho con cháu thời sau rằng:
Mồ hôi đổi lấy lúa thơm, hai sương một nắng sớm hôm chuyên cần”. Lần theo sử ký Địa Phận Trung (Bùi Chu-Nam Định) năm 1916. nói về các đời Vua Chúa cấm đạo.
Từ lúc đề ra luật cấm đạo, vua An Vương năm 1712 cho đến thời Tự Đức giảm và bỏ luật cấm đạo năm 1862 là 150 năm. Trong thời gian này vùng Bác Trạch và lân cận ít nhiều bị ảnh hưởng do nhiều tín hữu bị bách hại. Trong đó Bác Trạch có 5 vị đã chết vì đạo, hồ sơ của các vị này đang được lưu trữ tại Roma chờ ngày phong thánh.
Qua nhiều năm tháng số tín hữu của Bác Trạch được gia tăng, chính vì thế vào năm 1858 Bác Trạch được Đức Cha Địa Phận Bùi Chu ban sắc chính thức thành lập Giáo Xứ. Lúc này Thái Bình-Bùi Chu còn chung một địa phận. Đến ngày 9/3/1936 (Bính Tý) Địa Phận Thái Bình mới được tách ra.
Hiện nay Bác Trạch là một trong những giáo xứ lớn nhất Giáo phận Thái Bình, là mọt trong số những giáo xứ quản hạt của giáo phận với 6.541 nhân danh (thống kê năm 2011 của TGM Thái Bình). Với 1 ngôi nhà thờ với tước hiệu là Đền Thánh kính Lòng Thương Xót Chúa Bác Trạch. Linh mục chánh xứ hiện nay là cha vinc. Vũ văn Hướng, là linh mục thứ 52 về coi sóc giáo xứ Bác Trạch từ ngày thành lập.
1.3. Việc khai thác Đạo Công giáo phục vụ du lịch trên Thế Giới và Việt Nam Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
1.3.1. Trên Thế Giới
Tôn giáo, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi con người, vì thế các vùng thánh địa, các điểm hành hương luôn có một sức hút vô cùng lớn đối với các tín đồ. Như đã nói ở phần đầu, chẳng hạn việc hành hương thánh địa Mecca của người Hồi Giáo hay việc đến thăm vùng đất mang vết tích của đạo phật Nepal của các tin đồ Phật Giáo.đối với đạo Công Giáo thì cũng không nằm ngoài sự lan tỏa đó, các tín hữu (có mức chi trả tốt) gần như họ đều có mong ước được đến thăm quan, tìm hiểu, hành hương đất thánh,… Chính vì thế nguyện vọng hành hương đến các vùng đất thánh thiêng mở ra, phát triển một loại hình du lịch mới là du lịch hành hương.
Mặt khác, đạo công giáo là một trong những tôn giáo đã khai thác thành công nhất đối với những trường phái kiến trúc độc đáo bằng việc xây dựng những công trình như : tượng đài, trường học chủng viện, khu hành hương,,…nhưng hơn cả có lẽ nhà thờ là công trình được khai thác nhiều nhất. những ngôi nhà thờ của đạo công giáo đa số được thiết kế với những lối kiến trúc độc đáo, cổ kính của châu âu như Gothic, Roman,..vì thế những nét kiến trúc đó gây nên sự tò mò tìm hiểu của nhiều người, điều đó tạo nên những cuộc thăm quan nhà thờ công giáo của nhiều khách du lịch. Trên thế giới đã có một số quốc gia phát triển loại hình du lịch như thế này, ở một số nước ở Nam Mỹ và Châu Âu như Brazil hay Peru, Đức,.. rất nhiều người đã đến thăm các nơi như Fatima-Bồ Đào Nha, Vatican-Ý, Giêrrusalem- Palestine,.. những điểm đến này theo thống kê hàng năm đã đón hàng chục triệu khách du lịch. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Như ngôi Nhà thờ Đức Bà Paris, một trong những kiến trúc nổi tiếng nhất thế giới, là nhà thờ Thiên Chúa giáo tiêu biểu cho phong cách kiến trúc gothique nằm ở đảo Île de la Cité (giữa dòng sông Seine) của Paris. Nhà thờ này được bắt đầu xây dựng từ năm 1163 dưới thời vua Louis VII, kéo dài hai thế kỷ, tới năm 1345 mới hoàn thành. Từ đó đến nay, trải qua 856 năm dưới sự chứng kiến nhiều biến cố, biến động của lịch sử ngôi nhà thờ kỳ diệu này vẫn giữ nguyên vẹn. Nhưng thật đáng tiếc, vì mới đây do sơ ý khi đang thi công sửa chữa, phần mái của ngôi nhà thờ và phần tháp nhọn bằng ghỗ đã bị cháy rụi. hy vọng một ngày không xa du khách có thể tiêp tục được thăm quan địa điểm du lịch nổi tiếng này.
Nhà Thờ Đức Bà Nhà Thờ Đức Bà là một trong các công trình xây dựng có các cột chịu lực vòng cung bên ngoài nhờ đó bên trong có các cửa sổ kính màu rộng lớn đưa ánh sáng mặt trời rọi qua. Đứng trước mặt tiền của nhà thờ, du khách có thể nhận ra các trang trí điêu khắc bằng đá, bên trái của mặt tiền là phần cửa của Đức Mẹ Đồng Trinh mô tả, hoàng đạo và cảnh đăng quang của Đức Mẹ. Phần giữa của mặt tiền mô tả cảnh phán xét cuối xùng với 3 phần, phần thấp nhất nói về các thói xấu và các đức tính, phần giữa trình bày cảnh Chúa Jesus và các Tông Đồ và trên cùng là cảnh Khải Hoàn của Chúa sau khi Phục Sinh. Phần bên phải của mặt tiền được gọi là phần của Thánh Anne diễn tả cảnh Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng lên ngôi Vương. Đây là phần điêu khắc đẹp nhất và được bảo toàn cẩn thận nhất của Nhà Thờ. là Trung Tâm của Thành Phố Paris và của cả nước Pháp bởi vì mọi khoảng cách gần xa đều được tính từ Trung Tâm này và trước Nhà Thờ là tấm bảng đồng ghi rõ “Cây Số Không” (Kilomètre Zéro). Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Nhà Thờ Đức Bà Paris là một trong những công trình kiến trúc Công giáo nổi tiếng không chỉ ở Pháp mà còn đối với toàn thế giới, đây dược coi là một biểu tượng không thể thiếu của thủ đô Paris hoa lệ. Nơi đây đã từng đi vào văn chương trong tác phẩm nổi tiếng “Thằng gù nhà thờ Đức Bà” của nhà văn Victor Huygo.
Hiện nay Nhà thờ Đức Bà Paris là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo thu hút nhiều du khách nhất trên thế giới. Số liệu thống kê của cơ quan du lịch Paris cho biết Paris là thành phố đứng đầu thế giới về lượng du khách tới thăm quan, dự tính hàng năm vào năm 2018 thành phố đón khoảng 16 triệu du khách tới đây thăm quan trong đó có khoảng 13 triệu du khách và khách hành hương đến tham quan Nhà thờ Đức Bà Paris với nhịp độ 100 hay 150 người/phút.
Hay đối với các ngày lễ lớn cộng thêm những ngày có sự kiện lớn xảy ra ở các điểm hành hương, đất thánh, hay ở Vatican người Công Giáo, khách du lịch đổ về rất đông. Ví dụ như hôm 3/2/2019 gần đây đã có khoảng 120.000 người dự giờ đọc kinh chung cùng Đức Giáo Hoàng Francis.
Có thể nói việc khai thác du lịch đối với tôn giáo đang được các công ty du lịch trên Thế Giới quan tâm, mà đặc biệt đối với các công trình kiến trúc của đạo Công giáo. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
1.3.2. Ở Việt Nam
Đối với người công giáo ngay từ khi Giáo hội Công giáo vào Việt Nam đã có một hệ thống các luật lệ, nghi lễ rất chi tiết và được áp dụng trên toàn thế giới. Việc này nhằm xây dựng và nuôi dưỡng đức tin của người Ki-tô giáo. Mỗi ngày lễ đều có ý nghĩa và được thực hiện theo nghi thức khác nhau.
Lễ trọng: là những ngày lễ trong lịch phụng vụ của giáo hội Công giáo có liên quan đến sự kiện Đức tin về Chúa Ba Ngôi, Chúa Giê-su, Đức Mẹ Maria hay các vị thánh quan trọng. Việc cử hành thánh lễ và tham dự là bắt buộc tín đồ phải tham dự và giữ lễ gọi là lễ trọng. Những ngày lễ trọng có thể kể đến là ngày Chúa sinh ra đời hay còn được gọi là lễ Giáng Sinh, Lễ Noel. Thánh Lễ được tổ chức là 25 tháng 12 hàng năm kỉ niệm ngày Chúa sinh ra đời. Ngày nay, ở Việt Nam dù không phải là chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như ngày lễ không chỉ của riêng người Ki-tô giáo mà còn là ngày vui của tất cả mọi người. Vào dịp lễ giáng sinh nay thì người dân dù có bận mải như thế nào đi nữa thì họ cũng sắp xếp công việc để cũng gia đình, bạn bè chào đón ngày kỉ niệm Chúa chào đời và họ dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp vào ngày này. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
Lễ phục sinh cũng là một trong những đại lễ của người Ki-tô giáo. Đây là ngày kỉ niệm Chúa sống lại, được tổ chức vào trung tuần của tháng 4. Ngày này giáo dân các địa phương sẽ tụ họp về nhà thờ để dự lễ, đón chờ giờ khắc kỉ niệm Chúa sống lại.Trong ngày lễ này, ở châu âu rất hay được người công giáo thực hiện thói quen là người tín hữu thường tặng cho nhau những món qùa hay quả trứng phục sinh được trang trí rất là đẹp mắt và chúc nhau những điều tốt lành. Ngày Chúa phục sinh mang lại hi vọng cho mọi người. Vào các dịp lễ trọng này của người công giáo thì ngoài các tín hữu tham dự còn có rất nhiều người có thể là những người không theo đạo hay khách ở các nơi đến thăm quan tìm hiểu về các nghi thức đó.
Ngoài ra ở một vài nơi như: Nhà Thờ lớn Hà Nội, các Nhà Thờ Chính Tòa,các trung tâm hành hương của đạo công giáo Việt Nam…có tổ chức một số thánh lễ riêng có liên quan đến địa phương đó, vì là những nơi được tổ chức này là đại diện cho cả một vùng hoặc cho cả Giáo Phận, chính vì thế số lượng người tham gia là rất đông.
Du lịch Việt Nam ngày một phát triển. Việc du khách đi đến các ngôi thánh đường đẹp chưa được khai thác nhiều đã trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, một số công ty lâu năm đã đang đưa vào quảng cáo và xây dựng chương trình cho du khách đến với các nhà thờ nổi tiếng. Các chương trình du lịch dựa vào lợi thế là các dịp lễ Noel hay lễ phục sinh… của Công giáo để tạo nên chương trình du lịch lễ hội cho du khách. Để du khách đi tham quan có thể tham dự lễ và hội cùng với người Công giáo. Có thể nói, du lịch tâm linh đối với Phật giáo rất phát triển trên khắp đất nước Việt Nam. Còn đối với Công giáo thì du lịch mới bắt đầu có chút phát triển. Với kho tàng văn hóa lớn của người Công giáo, trong tương lai sẽ phát triển và được nhiều người biết đến.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 đã khái quát về quá trình hình thành và phát triển của đạo Công Giáo trên Thế Giới cũng như ở Việt Nam, Giáo phận Thái Bình và Giáo xứ Bác Trạch. Bên cạnh đó em có đưa ra cái nhìn chung về việc khai thác để phát triển du lịch đối với đạo Công Giáo. Đó sẽ là tiền đề để giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nhà thờ Bác Trạch phục vụ phát triển du lịch. Khóa luận: Khai thác nhà thờ Bác Trạch nhằm phát triển du lịch.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng khai thác nhà thờ Bác Trạch phục vụ du lịch
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com