Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: thực trạng về việc khai thác các di tích của ba trạng nguyên ở hải phòng phục vụ du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

1.1. Đền Trạng nguyên Lê Ích Mộc

1.1.1. Các hạng mục công trình và kiến trúc

Xã Quảng Thanh nằm ở phía Tây Bắc huyện Thủy Nguyên, phía Đông giáp xã Chính Mỹ và Cao Nhân, phía Nam giáp xã Hợp Thành, phía Tây giáp xã Phù Ninh và phía Bắc giáp xã Kỳ Sơn. Nơi đây gắn liền với di tích tưởng niệm Trạng nguyên Lê Ích Mộc. Ngôi đền xưa được dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nơi ông cùng dân khai phá đất hoang lập nên đồn điền Quảng Cư. Trong những năm kháng chiến chống Pháp thực hiện tiêu thổ kháng chiến, ngôi đền cổ xưa không còn. Đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc là một trong những di sản văn hoá ít ỏi còn lại góp phần nghiên cứu truyền thống khoa bảng ở Hải Phòng trong lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc là tấm gương sáng cho thế hệ nối tiếp nhau phấn đấu, học tập. Là một di sản văn hoá giáo dục đã được nhà nước công nhận cấp quốc gia năm 1991.

Cổng đền

Công trình là một tam quan gồm 3 khối cổng được làm bằng chất liệu gạch đỏ và gỗ sơn đỏ. Khối cổng chính giữa xây dựng to hơn với mái chồng diêm, 2 tầng 8 mái Phía dưới là cổng vòm, trên đỉnh mái có lưỡng long chầu nguyệt. Phía trán của cổng có biểu tượng thánh chỉ hình cuộn giấy mạ vàng, trên đó ghi: Khu tưởng niệm Trạng nguyên Lê Ích Mộc. Hai bên lối đi đắp câu đối chữ đen nền vàng:

  • “標英高占三尖筆:Tiêu Anh Cao Chiếm Tam Tiêm Bút
  • 及第香留一甲名: Cập Đệ Hương Lưu Nhất Giáp Danh”

Nghĩa là : Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

  • “Anh tài tiêu biểu chiếm vị trí cao được bút “tam tiêm”,
  • Đỗ hàng cập đệ lưu truyền tiếng thơm ghi danh nhất giáp”

Hai khối cổng phụ hai bên, dưới là cổng vòm, trên là mái kiểu chồng diêm, 2 tầng, 8 mái.

Cổng xây dựng với kiểu ngói âm dương với ưu điểm độ bền cao, cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông. Cổng đền được làm to và khang trang thể hiện sự tông sùng và kính trọng của người dân nơi đây đối với Trạng nguyên Lê Ích Mộc.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

Sân đền

Sân đền được lát đá xi măng, trong sân xây dựng các khuôn bồn để trồng các cây cảnh được các nhà hảo tâm quyên tặng đền. Phía bên trái có một ao nhỏ với thiết kế tạo kiểu thú vị cùng với cây cầu nhỏ bằng đá được bắc qua.

Đối diện với cổng tam quan là cột cờ với lá cờ đỏ sao vàng ở trên cùng, ở dưới là cờ ngũ sắc lễ hội. Cột cờ được xây dựng cao 3 bậc so với nền sân, bậc của cột cờ được lát đá hoa đen.

Phía bên phải sân là bức phù điêu hình chữ nhật được khắc họa vô cùng sinh động cảnh tượng sinh hoạt của người dân cũng như cảnh tượng Trạng nguyên Lê Ích Mộc thành danh khi về quê. Hai bên là câu tục ngữ: “ Tiên học lễ – Hậu học văn” chữ đen nền vàng. Phía trên bức phù điêu là hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt vô cùng sinh động.

Phía trước đền là lư hương bằng đá. Hai bên của lư hương là 2 trụ biểu bằng đá. Đỉnh trụ 2 bên là hình ảnh con nghê chầu quay mặt vào nhau, thân trụ là 2 câu đối với viền họa tiết được trang trí xung quanh, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Bao quanh cột trụ là khuôn bồn cây làm tăng thêm tính thẩm mỹ.

Phía góc đền bên tay trái là có xây dựng một khu riêng để đốt vàng mã, tiền vàng và có biển chỉ dẫn để du khách có thể dễ dàng nhận biết và di chuyển Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Phía góc đền bên tay phải là khu vệ sinh được xây dựng khang trang, sạch sẽ

Ngoài ra quanh khu vực sân đền thờ được lắp đặt các thùng rác để du khách có thể thuận tiện bảo vệ môi trường và không làm mất mỹ quan của đền thờ.

Đền thờ tưởng niệm

Đền được nằm trên một bệ cao đá cao 17 bậc so với mặt sân. Hai lan can phía ngoài là hình tượng rồng màu vàng nằm phục với một bên móng vuốt giữ ngọc được trạm khắc vô cùng tinh xảo và sống động.

Kiến trúc đền hiện nay mới được khôi phục. Đền dựng theo hướng chính nam, có kiến trúc 3 gian với nhiều tầng mái đao cong vút, trên đầu mỗi mái đao là hình rồng quay mặt vào phía trong tạo nên sự thanh thoát. Tại các góc có các trụ bằng đá sơn màu gỗ đỡ mái cong.

Phía trong đền chia thành 3 gian thờ tự. Gian thờ tự chính chia làm 3 lớp với 6 cột trụ được trạm khắc và trang trí vô cùng bắt mắt và tinh xảo với màu chủ đạo là vàng, các biểu tượng như là rồng, phượng, tùng, cúc, trúc, mai… Di vật có giá trị nhất còn lại là tượng Trạng nguyên. Tượng tạc bằng gỗ, ngồi trong ngai, hình dáng hài hoà mang tư thế của vị quan đương thời có giá trị điêu khắc của thế kỷ XIX. Ngoài ra phía trong bàn thờ có bày giấy công nhận di tích lịch sử- văn hóa được nhà nước công nhận. Phía trước gian thờ giữa, ở 2 bên là bộ nghi trượng. Gian bên trái và phải là nơi thờ các vị quan đã đỗ đạt

Trong đền còn có tấm bia trên mặt có khắc danh sách các vị khoa bảng được thờ tại nhà tưởng niệm, tuy nhiên theo thời gian những dòng chữ đã mờ và khó đọc, vì vậy ban quản lý di tích đã làm thêm một tấm bảng kính ghi lại rõ ràng treo ngay trên bia đá để khách tham quan có thể dễ dàng đọc được.

Ngoài ra phía trong đền trải thảm vải đỏ, khi bước chân vào du khách phải để lại giày dép bên ngoài. Cạnh bia đá có đặt bình cứu hỏa. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Lăng mộ

Mộ Lê Ích Mộc được xây bằng gạch trên sườn núi Lăng, vốn là khu rừng lim xưa kia ông vận động dân trồng.Đường đến lăng mộ được xây dựng bê tông với hành lang xây cao khoảng 35-40cm so với mặt đường đi, trên đó đặt các chậu hoa nhiều chủng loại. Trên đường đi đến đến khu lặng mộ có một giếng ngọc.

Trước mộ xây dựng một phương đình 2 tầng 8 mái với 4 trụ xi măng tứ diện đỡ 4 góc mái. Giữa phương đình đặt bát hương và hòm công đức

Mộ đặt hướng Tây Nam, nhìn ra sông Việt trên thế đất được gọi là đắc địa theo con mắt phong thuỷ của người xưa. Mộ được xây dựng trên một trụ tròn với 3 bậc với đường kính mỗi vòng tròn khác nhau. Trên mộ gắn tâm bia khắc dòng chữ Trạng nguyên Lê Ích Mộc (1438-1538). Đỗ Trạng Nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), đời Lê Thánh Tông, làm quan tới chức Tả Thị Lang.

Trước bia đặt bát hương đá tròn, 2 nấc. Tương truyền bát hương đá này được mang từ đền quan Trạng trên nền cũ của ngôi đền xưa.

Đằng sau của lăng mộ có bức tường đá trên đó ghi: 香各留國史- Hương Các Lưu Quốc Sử ( Lưu truyền tiếng thơm trong sử sách quốc gia ). Hai bên lăng mộ là hình rổng vàng nằm phục được điêu khắc tinh xảo giống như đang canh phục.

Việc trùng tu lăng mộ của Trạng nguyên Lê Ích Mộc được khởi công từ ngày 29/11/2014 ( tức ngày 8/9 năm Giáp Ngọ ) và được khánh thành vào ngày 3/4/2015 ( tức ngày 15/ 2 năm Ất Mùi ). Đơn vị thi công là Công ty cổ phần Khánh Thiện, chế tạo bởi Công ty đầu tư xây dựng đá mỹ thuật Đức Tín với chủ đầu tư là UBND xã Quảng Thanh.

Lăng mộ quan Trạng đã trải qua hàng trăm năm trường tồn luôn được bảo vệ tôn tạo và trở thành một di sản văn hoá vượt khỏi khuôn khổ của một dòng họ, của một làng, một xã mà trở thành tài sản của đất nước.

1.1.2. Tình hình khai thác khách Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Hiện nay ở huyện Thủy Nguyên chưa có bộ phận nào chịu trách nhiệm về việc theo dõi và thống kê số lượng khách cụ thể. Lượng khách đến với cụm di tích tập trung vào các ngày lễ hội, nhất là những ngày đầu xuân, sau Tết Nguyên Đán, có ngày tới hơn 1000 người, chủ yếu là khách lẻ. Hoặc là đến vào các dịp cuối tháng 5,6 là thời điểm học sinh chuẩn bị sắp bước vào những kì thi quan trọng thì đền tiếp đón khoảng 3-4 đoàn/ngày, trung bình mỗi đoàn có từ 30-50 người. Khách quốc tế đến rải rác trong năm nhưng với số lượng nhỏ lẻ, chủ yếu là do các công ty lữ hành tổ chức. Mỗi năm Đền đón khoảng 9.000-10.000 lượt khách ghé thăm.

1.1.3. Hoạt động quản lý

Hiện nay chưa có một bộ phận nào của huyện Thủy Nguyên chuyên trách về hoạt động du lịch văn hóa. UBND huyện chỉ giao cho Phòng Văn hóa Thông tin nhiệm vụ quản lý và tổ chức các lễ hội lớn trong đó có lễ hội đền thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc.

Tại đền thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc – là một điểm du lịch đang trong quá trình hoàn thiện nhưng lại không có người thường trực đón tiếp khách. Các hoạt động du lịch văn hóa ở đây đa số mang tính tự phát, chưa có đầu tư nghiên cứu thị trường, chưa có các hoạt động quảng bá để thu hút khách

1.2. Đền Trạng nguyên Trần Tất Văn Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

1.2.1. Các hạng mục công trình và kiến trúc

Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn cách trung tâm thành phố khoảng 13 km về phía Tây Nam, bằng các loại phương tiện giao thông như ô tô, xe máy, xe đạp có thể dễ dàng đến với di tích bằng đường bộ qua quận Kiến An.

Đền được xây dựng nằm gần sát toà phật điện. Đền quay cùng hướng với ngôi chùa nhìn về phía Tây Bắc, cách nơi linh địa này không xa phía trước là dòng sông Đa Độ uốn khúc chảy qua và đằng sau là dãy núi sừng sững trụ vững với thời gian.

Được sự quan tâm của các cấp, các ngành năm 2004 UBND thành phố Hải Phòng đã kí quyết định công nhận cụm di tích đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố

Năm 2007 UBND huyện An Lão đã lập dự án trùng tu, phục dựng, đầu tư xây dựng khuôn viên đền thờ cùng với các nhà hảo tâm và du khách thập phương đã tôn tạo, kiến thiết đền ngày càng khang trang và đẹp

Ngày 26 tháng 07 năm 2008 UBND huyện An Lão tổ chức lễ động thổ xây dựng đền Trạng

Ngày 20 tháng 12 năm 2008 UBND huyện An Lão đã lập dự án xây dựng, tu bổ, tôn tạo và phục dựng di tích lịch sử văn hóa đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn Mặc dù ở Nguyệt Áng đã trải qua bao lần san lấp mặt bằng để phục vụ sản xuất nông nghiệp, song đến nay, khu đất linh địa, đất xây đền, chùa quan Trạng ngày xưa vẫn còn gần như nguyên vẹn.

a) Cổng tam quan

Cổng chính tam quan được xây dựng với hai trụ chính có tiết diện hình vuông , đỉnh trụ trang trí con nghê chầu, có thân trụ phía trên là các ô lồng đèn vàcó đắp vế đối Hán tự , đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai khối cổng phụ hai bên với một tầng mái, mái ghép gạch đỏ mũi hài và phía dưới là cổng vòm. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Sân đền

Qua Tam quan là đến sân đền được lát gạch vuông đỏ. Sân đền được bày đặt các chậu cảnh được cúng tiến , ghế đá đều được tặng lưu niệm với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi đền.

Trong sân có lư hương và hồ hình nguyệt bên trong có thả sen, mặt ngoài của hồ được chạm bong kênh các họa tiết quen thuộc như lá, hoa, mây…

Nhà bia

Nhà bia nằm trên bệ đá cao 3 bậc so với mặt sân, bề mặt cạnh của bậc được chạm khắc nổi họa tiết hoa sen vô cũng mềm mại. Nhà bia được xây dựng với mái cong lợp ngói vẩy, 2 bên đỉnh chạm hình tượng rồng tư thế bay , 4 trụ bằng gỗ đỡ 4 góc mái.

Ở giữa là bia đá được xây dựng theo phong cách: bia dẹt, trán cong, hình vòm. Các tấm bia được đặt trên lưng rùa, rùa được tạo dáng : to, đậm và chắc khỏe. Cạnh bia đá là tượng bác Hồ quay hướng về phía cổng đền.

Nhà tiền đường và nhà hậu cung

Đền được xây dựng theo kiểu chữ nhị (二). Nhà tiền đường phía trước nằm trên một bệ cao đá cao 5 bậc so với mặt sân. Công trình có ba gian, bốn mái lợp ngói mũi hài với các góc đao uốn cong mềm mại tạo nên một sự thanh thoát cho kiến trúc. Bốn hàng cột lim được kê trên những chân tảng đá giữ vững cho cả hệ thống khung gỗ liên kết với nhau bằng các xà ngang, xà dọc, vì kèo… rất vững chắc. Trên mái, bờ nóc, bờ chảy bố trí rất cân đối, hợp lý. Tại bờ nóc có lưỡng long chầu nguyệt nằm giữa một không gian thoáng đãng , với nhiều khúc uốn lượn, đường nét mềm mại, cùng với những con rồng từ các đao góc đang uốn mình vươn lên, góp phần tô điểm cho công trình thêm sinh động và làm tăng giá trị thẩm mỹ cho di tích.Mỗi một gian đều được thiết kế cửa gỗ 2 lá với những hình nét chạm khắc mang dáng điệu của những ngôi nhà cổ miền Bắc ngày xưa.Nét mộc mạc, sự giản đơn đã mang đến vẻ đẹp kiêu sa thanh thoát cho Đền thờ từ ngoài vào. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Phía sau nhà tiền tế là tòa hậu cung với 3 gian và bên trong: bàn thờ Đức thánh trạng Trần Tất Văn, bên phải bàn thờ là tượng quan Tiến sỹ Trần Tảo – con trai cụ, phía trong có một văn bia ghi lại quê quán và những thành tích đạt được của cụ. Phần mái cong của Đền đắp nổi “ Long – Li – Phượng” , ở giữa bờ nóc được đắp nổi hình “Lưỡng long chầu nguyệt”. Hai bên là hình rồng, thân uốn lượn chạy dài theo bờ nóc của Đền. Tuy nhiên hiện nay phía Đền đặt một bàn gỗ ở bên ngoài cửa của toàn nhà để du khách thập phương thắm nhang bên ngoài.

1.2.2. Tình hình khai thác khách

Số lượng khách đến với Đền chưa nhiều, hầu hết chỉ vào dịp đầu xuân, mùa thi, tổng kết của học sinh – sinh viên với khoảng 3-4 đoàn/ngày, mỗi đoàn từ 50-70 người. Còn lại các khoảng thời gian khác vẫn có những đoàn khách ghé thăm nhưng số lượng rất ít và rải rác, thường là những hộ gia đình từ 4-5 người. Các dịp khác: thường vào dịp tuần rằm thì người dân địa phương và số ít những khách ở khu vực lân cận đến hành hương. Mỗi năm Đền đón từ 4000-5000 lượt khách ghé thăm.

1.2.3. Hoạt động quản lý

Đền trạng nguyên Trần Tất Văn được quản lý và theo dõi bởi UBND xã Thái Sơn – huyện An Lão – TP Hải Phòng

Khu di tích không có người thường trực đón tiếp, còn nặng về quản lý theo cách trông coi.

Một số công trình phụ cận vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và chưa hoàn thiện. Vấn đề vệ sinh môi trường, đảm bảo mĩ quan tại Đền vẫn chưa được thực hiện tốt.

1.3. Đền Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

1.3.1. Các hạng mục công trình và kiến trúc

Khu di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Có vị trí giao thông thuận lợi, cách trung tâm thành phố khoảng 50km

Theo hồ sơ công nhận di tích Quốc gia đặc biệt Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có diện tích 91.500,7m2

Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm các đơn nguyên kiến trúc chính: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; đền thờ Thân phụ, Thân mẫu; Am Bạch Vân; Quán Trung Tân; Tháp Bút Kình Thiên; mộ phần cụ Nguyễn Văn Định (Thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm); quảng trường; tượng đài, ngoài ra còn có Vườn tượng

Các đơn nguyên kiến trúc

Nghi môn ngoại

Nghi môn tạc bằng đá, đỉnh hai cột giữa tạc cách điệu quả dành dành, đỉnh hai cột bên tạc đôi nghê hướng mặt vào lòng cổng. Khối đèn lồng của trụ tạc tứ linh trong tư thế hàm thư, cõng thư, cuốn thư. Thân trụ là khối hình chữ nhật tạc các vế câu đối chữ Hán, đế trụ tạo kiểu thắt đáy cổ bồng.

Nghi môn nội

Được xây dựng với phong cách kiến trúc 2 tầng 8 mái, đao cong bốn phía gắn các linh vật rồng, phượng. Cổ diêm và thân cổng có đắp các câu đối, đại tự chữ Hán. Mặt ngoài đắp bức đại tự “ Trung Am từ”, mặt trong đắp “Trình Quốc Công”. Tất cả như một sự khẳng định tên gọi cho ngôi đền Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Hồ Thái Ất, Thái Nhâm

Không gian phía trước đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm là hai hồ nước “ Thái Ất” và hồ “ Thái Nhâm”. Nối bờ hồ với đảo nhỏ ở giữa là cây cầu đá xanh được bắc 5 nhịp, thân cầu được khắc hoa văn sóng nước mềm mại. Trên đảo có đặt tấm bia đá ghi việc dựng lại đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Ngôi đền lập trên nền nhà cũ của Trạng trình từ năm 1765. Qua thời gian, chiến tranh, đền bị hủy hoại, ngôi đền được dựng lại vào năm 1927 , đến năm 1985 nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì được sửa chữa và tu bổ thêm. Ngôi đền có bố cục mặt bằng theo hình chữ Đinh (丁) với tiền tế 3 gian 2 chái và hậu cung có 2 gian.

Toà tiền tế

Hệ thống khung chịu lực có 4 bộ vì, chia không gian tòa nhà thành 3 gian. Gian chính giữa rộng 3m17, 2 gian bên mỗi gian rộng 2m80 và 2 gian chái mỗi gian rộng 2m10. Toàn bộ công trình được dựng trên 22 cột gỗ lim. Khoảng cách giữa 2 cột cái là 2m50, chi vi cột cái 1m02. Khoảng cách giữa các cột cái với cột quân 1m46, chu vi cột quân 0.91m

Vì nóc kết cấu kiểu “chồng rường giá chiêng”. Về hoa văn trang trí, trên thân các con rường và má câu đầu được chạm bong kênh đề tài lá lật, trụ đầu chạm cánh sen, dạ câu đầu khắc dòng lạc khoản tu sửa ngôi đền (ngày tốt tháng 10 năm 1928). Bốn đầu dư được chạm thủng kết hợp kênh bong bốn đầu rồng theo phong cách rồng thời Nguyễn đầu thế kỷ 20.

Vì nóc “ván mê”, hai mặt của vì được trang trí dầy đặc, tỉ mỉ nhiều hoa văn khác nhau. Mặt phải của vì được những nghệ nhân dân gian sử dụng kết hợp hai hình thức chạm nổi và bong kênh đề tài rồng với cái nhìn toàn thân, đầy đủ các bộ phận trên cơ thể rồng. Kết hợp với rồng là các đề tài vân mây, lá lật, sóng nước, hoa văn chữ triện, hoa lá sen, thủy ba, cá chép. Mặt trái của vì nách được trang trí hoa văn đơn giản hơn mặt phải, đề tài chủ yếu là văn lá lật, “văn hóa long” theo lối chạm nối kết hợp kênh bong. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Tòa hậu cung

Tòa hậu cùn được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, cả tòa nhà có hệ thống khung chịu lực gồm hai bộ vì kèo. Vì nóc và vì nách đều có liên kết kiểu vì “ ván mê”. Hoa văn trang trí trên hệ vì là những đề tài quen thuộc như: lưỡng long chầu nhật, cây mai, cành sen, rù, long mã…

Bộ vì thứ hai, vì nóc “ biến thể giá chiêng chồng rường”, đề tài trang trí cỏ, chính giữa là mâm ngũ quả, hai bên là hai lọ hoa cúc và đôi hạc sắp xếp đăng đối. Vì nách “ván mê”, để mộc không trang trí hoa văn. Không gian linh thiêng trong cung cấm là nơi đặt khảm và thờ tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tượng Trạng Trình được làm bằng gỗ, ngồi trên ngai, mình mặc áo rồng vua ban, đầu đội mũ cánh chuồn, tay phải cầm cuốn tập giơ lên như đang giảng bài cho các học trò. Bức hoành phi đại tự ở chính giữa có 4 chữ “An Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu trình tuyền” có nghĩa là am hiểu về môn lý học ở nước An Nam chỉ có Trình tuyền hầu (tước vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm), do Chu Sán, sứ giả nhà Thanh (Trung Quốc) đề tặng. Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến của ông về thế sự và hậu thế ca ngợi công đức của ông.

Phía trước đền, 2 con rồng đá ngự bên bức bình phong như trang sách mở ra tôn thêm vẻ trang nghiêm.

Gắn với đền thờ là rất nhiều giai thoại và có một giai thoại quê Trạng kể lại rằng : Năm 1833 Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng điều Nguyễn Công Trứ đi khai hoang ở Hải Dương. Nguyễn Công Trứ xem xét địa thế, thấy cần phải phá đền thờ trạng Trình để đào sông.

Sau khi người dân đào bát hương lên, ông thấy dưới bát hương có tấm bia đá phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ sai người lau sạch bia thì đọc được mấy câu: Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

  • “Minh Mạng thập tứ
  • Thằng Trứ phá đền
  • Phá đền phải làm đền
  • Nào ai động đến doanh điền nhà bay.”

Ông liền thảo sứ về triều, xin bãi bỏ lệnh phá đền, đồng thời sửa sang lại ngôi đền của vị trạng nguyên nhà Mạc.

Đền thờ thân phụ – thân mẫu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phía sau đền thờ chính là đền thờ song thân phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm được khởi công xây dựng vào năm 2010 nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày sinh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và khánh thành vào năm 2011, được đầu tư với kinh phí khoảng 45 tỷ đồng. Toàn bộ đền đều được làm bằng gỗ lim. Đền thờ có bố cục mặt bằng với các đơn nguyên kiến trúc như: tòa đền chính hình chữ công (工), hai tòa giải vũ hình chữ nhất (一) và Nam / Bắc môn

Nam, Bắc môn:

Cổng được dựng theo kiểu nhất môn, với hệ thống 4 mái lợp ngói vẩy, tường bờ nóc đắp xi măng đặc, chính giữa gắn mặt trời, hai đầu kìm đắp hoa văn cách điệu chữ triện, bốn đầu đao cong tạo dải vân mây,

Nhà Tả vu, Hữu vu :

Hai dãy nhà Tả/Hữu vu có bố cục mặt bằng hình chữ nhất và được phân bố theo chiều Đông-Tây. Mỗi đơn nguyên được dựng trên hệ thống khung chịu lực của 8 bộ vì gỗ chắc khỏe. Tám bộ vì là ranh giới phân chia không gian tòa nhà thành 7 gian, với thiết kế kiểu vì 4 hàng chắn cột. Vì nóc theo kiểu “ chồng rường giá chiêng”, vì nách “ chồng rường trụ trốn”. Hoa văn trang trí trên bộ vì có trụ đấu hoa sen, má các con rường, bẩy hiên chạm bong kênh hoa văn lá lật.

Tòa đền chính: Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Tòa công trình có tòa tiền tế 3 gian 2 chái, tòa thiêu hương 1 gian và tòa hậu cung 3 gian. Các toàn nhà được liên kết chặt chẽ với nhau bằng hệ thống tường bao để tạo thành chính thể thống nhất có bố cục mặt bằng hình chữ công (工)

Tòa tiền tế:

Hệ thống khung chịu lực có 4 bộ vì chính. Vì được làm theo thể thức 4 hàng chắn cột. Toàn bộ tòa nhà được dựng trên 26 cột gỗ. Tính từ trái qua phải theo hướng di tích, ta có bộ vì số 1,2,3,4.

Khoảng cách hai bộ vì 2 và vì 3 tạo không gian trung tâm tòa tiền tế. Vì nóc kiểu “chồng rường giá chiêng”, vì nách “ bán chồng rường giá chiêng”. Hoa văn trang trí đơn giản với hoa sen trụ đấu, má các con rường và má câu đầu được chạm bong kênh đề tài lá lật, bẩy hiên trang trí hoa dây lá lật

Tòa ống muống:

Tòa ống muống được tạo bởi 2 bộ vì vững chắc. Tòa nhà là một gạch nối linh thiêng, quan trọng để đưa con người đến gần hơn với thần linh, đến chốn linh thiêng tôn thờ các ngài. Vì nóc của 2 bộ vì có kết cấu dạng “ chồng rường giá chiêng”, vì nách “ chồng rường trụ trốn”, hoa văn trang trí trên bộ vì tương trụ hoa văn các hệ vì tòa tiền tế.

Tòa hậu cung: Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Tòa hậu cung có 4 bộ vì tạo 3 gian thờ rộng rãi. Hệ thống vì và các thức hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc của tòa nhà tương đối giống với hai tòa nhà phía trên nó. Duy chỉ có đôi chút khác biệt ở hai bộ vì nách gian trung tâm là làm theo kiểu vì “ván mê”, vì được để mộc không trang trí hoa văn, má xà nách có điểm hoa văn lá lật với kỹ thuật chạm bong kênh.

Nhà Am Bạch Vân

Am Bạch Vân là công trình kiến trúc với 3 gian nhà lợp cói có nguồn gốc xây dựng từ lâu đời và được dựng lên sau khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê ( Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (thời Tự Đức) và Lịch triều hiến chương loạn chí của Phan Huy Chú ). Sử sách còn ghi lại, sau khi thi đỗ trạng nguyên làm quan trong triều được 8 năm, trước cảnh quyền thần tranh giành địa vị, bổng lộc, dối vua, hại dân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ lên vua vạch tội và xin xử trảm 18 tên lộng thần biến chất mưu phản song không được nhà vua chấp thuận. Vì thế ông bèn cáo quan về ở ẩn nơi quê nhà; lập Am Bạch Vân dạy học, làm thơ, nghiên cứu kinh sử; lấy biệt hiệu là Bạch Vân cư sĩ.

Bạch Vân Am được làm theo kiểu tứ trụ, trốn cột cái, thượng đấu hạ oai theo dạng bái đường Văn Miếu. Nguyên liệu bằng gỗ xoan, gỗ mít. Mái lợp tranh lá dừa, phủ liếp nứa chống gió lốc. Ngoài hai chái đông tây, am có 3 gian giữa khá rộng dùng làm phòng dạy học. Phía trong gian giữa, kê một sập gụ chân quỳ, mùa hè để trần, mùa đông trải chiếu cạp điều, cải chữ “thọ”.

Am Bạch Vân không chỉ là nhà ở mà còn là trường dạy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nơi ông đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước. Hơn thế nữa, Am Bạch Vân là nơi tạo nguồn cảm hứng của 1000 bài thơ Nôm, để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị như Bạch Vân Am thi tập, Bạch Vân Quốc ngữ thi tập, Trình Quốc Công Sấm ký…

Cũng chính từ mái Am Bạch Vân này, ông đã từng tiếp kiến các sứ giả của các thế lực phong kiến lúc bấy giờ như: Mạc, Trịnh, Nguyễn đến tham vấn về việc quân quốc, trọng sự. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Chùa Song Mai

Chùa Song mai Cách Bạch Vân Am khoảng hơn trăm bước chân, Trạng Trình dựng cho bà vợ thứ Nguyễn Thị Minh Nguyệt ngôi nhà để bà tu tại gia. Bà không con, hướng về cõi Phật lúc tuổi già. Trạng trồng cho bà cây hoa mai lên gọi là chùa Song Mai. Sau nhiều lần trùng tu, gần đây lại được Việt kiều công đức nên đã trở lên khang trang.

Truyện xưa kể lại, thủa còn trẻ Nguyễn Văn Đạt (Nguyễn Bỉnh Khiêm) thường cùng bạn bè dạo chơi những nơi danh lam thắng cảnh. Một lần đến Đồ Sơn. Ngắm cảnh trời đất núi non lồng lộng, Văn Đạt liền cao hứng đọc:

  • “Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn
  • Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”

Câu này có nghĩa

  • “Núi sinh ra anh hùng hào kiệt”.

Các bạn cùng đi không ai đối được vế ra đối nửa chữ nôm, nửa chữ hán. Trong lúc mọi người đang mải nghĩ thì bên triền núi xuất hiện một người con gái. Người con gái đẹp khiến chàng trai nào cũng ngơ ngẩn và lặng đi. Giữa lúc đó, cô gái đưa cho tiểu đồng một tờ giấy nhỏ. Chú bé đến chào mọi người và trao tờ giấy. Đọc mới biết hoá ra là vế đối trả lời Văn Đạt. Vế đối như sau:

  • “Gái minh nguyệt ngồi trong cung nguyệt
  • Nguyệt nguyệt bằng quân tử trượng phu”

câu này có nghĩa

  • “ Trăng làm bạn với quân tử trượng phu.”

Vế đối hay và có tình ý nên mấy người bạn xúm vào ghép nàng cho Văn Đạt. Sau hỏi mới hay, người con gái đó tên là Hương (sau đổi thành Minh Nguyệt), họ Nguyễn. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Cảm kích trước tài năng, sắc đẹp và tấm lòng, sau Văn Đạt tìm đến nhà và cưới người đẹp làm vợ thứ. Lấy được nhau hai người có bạn tâm đắc nhưng sau đó vì không có con, bà buồn rầu nên xin với Nguyễn Bỉnh Khiêm cho tu tại gia. Ông ra sức khuyên giải. Bà nhìn về phía quê cha, nói: “ Hải bất ba đào khan hải tĩnh” – biển không có sóng cạn thành biển lặng. ông đáp lại: Hồ vô minh nguyệt bán hồ mê – Hồ không có ánh trăng thành hồ mê muội. Lòng ông vẫn quyến luyến nhưng bà nhất quyết dứt bỏ cõi phàm, ông đành dựng cho bà ngôi chùa, bà không con nên ông trồng cho bà 2 cây mai cho bà chăm sóc và làm bạn qua ngày. Từ đó chùa gọi là chùa Song Mai.

  • Chùa Song Mai hiện có hai câu đối:
  • “Tốn bút song phong trung phúc quả
  • Hàn giang nhất đời dưỡng tâm hoa.”

Vế đầu bà làm với ý nhờ hàng núi bút mà ông ở đất này hưởng lộc, ông làm vế sau: bà ở bên dòng sông Hàn nuôi tấm lòng đẹp như hoa.

Quần thể Vườn tượng

Khu di tích có tổng cổng 3 vườn tượng với những bức tượng bằng đá granit, có kích thước như người thật, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động.

Vượn tượng thứ nhất nằm ở bên cạnh đền thờ chính tái hiện lại cảnh nhân dân trong làng vui mừng ra đón Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi từ quan trở về quê hương.

Vườn tượng thứ hai là ở ngôi nhà mô phỏng Am Bạch Vân xưa. Khoảnh sân nhỏ cũng là lát cắt trong quãng đời của Bạch Vân cư sĩ từ sau khi cáo quan về ở ẩn được tái hiện qua những bức tượng rất sinh động, hình ảnh những đứa trẻ cùng cha mẹ đến xin cụ dạy chữ, những vị quan đại diện cho các triều đại đến vấn an cụ về việc quân quốc sự…

Vườn tượng thứ ba nằm phía sau nhà Am Bạch Vân tái hiện lại cảnh xét xử việc cha con ông Khả. Nghe dân làng kể, sau khi Trạng mất, ở làng Cổ Am có lập đền thờ. Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt ếch ở bên ngôi mộ cụ vô ý làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng thấy thế bắt về đình phạt ba quan tiền vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:

  • “Cha con thằng Khả
  • Đánh ngã bia tao
  • Làng xóm xôn xao
  • Bắt đền tam quán”.

Cha con ông Khả chạy đi kiếm mãi cũng chỉ có một quan tám nhưng dân làng không chịu, cha con ông bèn cãi liều: “Cha con tôi lỡ lầm nên cụ Trạng bắt phạt có quan tám, “tam quán” nói lái lại thành quan tám chứ không phải ba quan. Dân làng không tin hãy cứ xin âm dương trong đền cụ mà xem.” Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Dân làng nghe cũng có lý mới đi lễ đền cụ xin âm dương thì quả thực như vậy. Cứ xin hoài ba quan mà hai đồng tiền vẫn cứ khi thì xấp cả, khi thì ngửa cả. Chỉ tới khi khấn là quan tám mới được đồng xấp, đồng ngửa nên mọi người lại càng tin và phục tài tiên đoán của cụ Trạng.

Dạo bước trong khu di tích thả hồn vào không gian làng quê yên bình với rặng tre xanh. Lạc vào khu vườn tượng với những bức tượng kích thước và hình dáng như thật diễn tả cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rất nhiều du khách đã chọn nơi này để ghi lại những bức ảnh kỉ niệm. Khu vườn tượng không chỉ có giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị lịch sử quý giá.

Khu vực Phù điêu, Tượng đài, Quảng trường

Hai bức phù điêu, mỗi bức có cao khoảng hơn 5m, dài hơn 20m và được làm khá hoàn chỉnh cả về nội dung, bố cục mỹ thuật, nét vẽ sinh động như một thước phim giúp người xem có thể dễ dàng tái hiện lại. Một bức diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình từ lúc còn bé đến cuối đời; bức kia diễn tả một giai đoạn lịch sử của địa phương từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến nay.

Giữa khu di tích nổi bật với tượng đài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm uy nghiêm tạo thế “tọa sơn vọng thủy”: tượng đài hướng ra hồ bán nguyệt rộng khoảng 1000m2, hàng liễu xanh ngăn ngắt rủ bên bờ, tựa vào chín ngọn núi sấm sừng sững. Trèo lên đỉnh những ngọn núi này, phóng tầm mắt ra xa ngắm nhìn khung cảnh làng mạc mờ mờ trong khói lam chiều, cánh đồng thẳng cánh cò bay, chú bé mục đồng vắt vẻo lưng trâu, rồi thu vào tầm mắt toàn bộ khung cảnh khu di tích.

Tượng đài Trạng trình cao 5,7m, nặng 8,5 tấn bằng chất liệu đá Granit đúc. Tượng trong tư thế ngồi, tay cầm sách trầm tư suy nghĩ về nhân tình thế thái. Y phục của tượng là y phục nhà nho sống giản dị gần dân. Lư hương bên tượng đài lúc nào cũng nghi ngút khói hương. Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Theo KTS. Phạm Vũ Hội, người thiết kế khu di tích cho biết thì đây quy hoạch theo phong thủy, trung tâm là tượng Trạng Trình, trước là hồ bán nguyệt, bồn hoa tượng trưng cho Chu Tước. Hai bên là Bạch Hổ và Thanh Long.

Trước tượng đài là quảng trường lớn – địa điểm tổ chức lễ hội hàng năm của khu di tích, cũng là khu vực để tổ chức các sự kiện của thành phố Hải Phòng, chủ yếu liên quan đến lĩnh vực giáo dục, văn hóa, lịch sử. Đặc biệt, cứ đến mỗi kì thi hoặc vào đầu năm học mới, các phụ huynh và học sinh thường đến đây xin chữ cầu may mắn.

Nhà trưng bày

Nhà trưng bày các tư liệu lịch sử liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm ở phía trước cổng tam quan. Đó là một kiến trúc có mái hình bát giác. Trong số các hiện vật trưng bày ở đây, có chiếc tủ kê ở chính giữa. Trên đó là một số tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Sấm ký bí truyền gồm các lời tiên đoán của ông về tương lai; Bạch Vân am thi tập, Trình Quốc công Bạch Vân am thi tập là tập hợp một số những bài thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông về nhân ảnh thế thái hay cảnh đẹp thiên nhiên.

Đáng chú ý, có một hiện vật gốc là một phiến đá phẳng còn lại của một cây cầu đá, phiến đá xanh có thước 1,2m x 0,4m x 0,6m, trên đó có 3 chữ Hán: “Trường Xuân Kiều” (tức cầu Trường Xuân). Phiến đá xanh đã nhăn một mặt bởi dấu chân người đi qua. Dòng chú thích bên cạnh ghi rõ đây là cây cầu do Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhân dân trong vùng dựng vào năm 1543 dùng để bắc qua con mương nhỏ vào chùa Mét. Tương truyền: cây cầu của một bà Hậu, con dâu họ trần buôn bán đồ lụa, đũa, vãi, tơ, do làm ăn phát đạt nên xin tiến cúng làng một cây cầu bắc qua một con ngọi chạy từ Đại Đình ra sông Hoá chia hai làng Đông Am và Cổ Am. Phía Bắc cầu là chùa Mét, Phía Nam là đầm Đuổi và sông Hoá. Phía Đông là Cổ Am qua Đông Am sang Liễu Điện. Cây cầu có một nhịp, 4 trụ đá ở bốn góc. Trên bốn trụ có hai thanh ngang bằng đá lát ở trên.

Tháp bút Kình Thiên Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Tổng diện tích của tháp là 845.5m2 . Tương truyền, tháp được học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng lên cách đây hơn 400 năm, tháp được xây dựng để thể hiện niềm tôn kính, ca ngợi tài năng Danh nhân như trụ cột chống trời ( Kình Thiên ). Qua năm tháng, gò đất bị bào mòn, tháp bút Kình Thiên bị đổ nát đến thời Nguyễn thì được xây lại. Ngôi tháp được xây dựng kiểu hai tầng tám mái, lòng tháp để rỗng và trong có đặt bát nhang, cửa tháp lắp các câu vế đối. Có thể nói, tháp bút Kình Thiên vẫn tồn tại đến ngày nay như giá trị, ý nghĩa vốn có của nó.

Quán Trung Tân

Quán Trung Tân có tổng diện tích là 905,5m2 . Cũng như Am Bạch Vân, quán Trung Tân được dựng lên sau khi Nguyễn Bỉnh Khiêm rời chốn quan trường về quê để an nhàn dạy học. Quán Trung Tân nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn thường ngồi câu cá và nghĩ suy thế sự.Trung là ở giữa, Tân là bến. Bến Giữa ý muốn nói không tả, không hữu, hành sự phải cho đúng sẽ thành công

Năm 1752 , Vũ Phương Đề có tới thăm quán Trung Tân thì: “ còn tấm bia cũ nhưng nét chữ đã quá mờ không sao đọc nổi”. Đến năm 1777, La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, danh sĩ thời Tây Sơn đến thăm làng Trung Am đã có bài ngũ ngôn ghi rõ: “ Am, bia đều mất hết/ Man mác dòng Tuyết giang”. Như vậy mốc thời gian sau năm 1752 đến trước năm 1777 thì quán Trung Tân đã không còn.

Năm 2001, quán Trung Tân được dựng lại bên bến đò Hàn với 3 gian, giữa quán đặt tấm bia do Hội sử học Hải Phòng làm với sự tài trợ của Tổng cục Du lịch Việt Nam. Bia đá cao 1,5m, nặng 4 tấn được trùng khắc hoàn thành ngày 21 – 12 – 2000. Nội dung bia giải thích chí trung là chí thiện, toát lên quan niệm sống chủ đạo của Trạng trình là “Thiện”. Quán được làm với 3gian nhà, hệ thống khung chịu lực chốn cột cái và được đặt trên hệ thống 8 cột quân bằng đá rất vững chắc.

1.3.2.  Tình hình khai thác khách Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng.

Cơ cấu khách du lịch của đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đa dạng: học sinh, sinh viên, công chức, khách hành hương,những nhà nghiên cứu, khách quốc tế…

Số lượng khách phục vụ tại đền theo thống kê của ban quản lý di tích:

  • Năm 2017: Khu di tích đón 500.000 lượt khách. Trong đó khách quốc tế là 180.000 lượt khách
  • Năm 2018: Khu di tích đón 580.000 lượt khách. Trong đó khách quốc tế là 200.000 lượt khách.
  • 9 tháng đầu năm 2019: Khu di tích đón 750.000 lượt khách. Trong đó khách quốc tế là 120.000 lượt khách.

1.3.3.  Hoạt động quản lý

  • Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã lập một đơn vị quản lý di tích và được UBND xã giao trực tiếp quản lý.
  • Số lượng cán bộ nhân viên là 7 viên chức
  • Trình độ chuyên môn: 6 người trình độ Đại học, 1 người trình độ Trung cấp Công An

XEM THÊM NỘI DUNG TẠI ĐÂY:

==== >>> Khóa luận: Khảo sát điều kiện cơ sở vật chất tại di tích đền

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993