Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS tại Hải Phòng đến năm 2030 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài Luận văn

HIV/AIDS là một đại dịch bệnh nguy hiểm, là mối hiểm họa luôn đe dọa đối với tính mạng, sức khỏe con người và tương lai nòi giống của các Quốc gia, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, sự phát triển bền vững của các Quốc gia đó khi dịch HIV/AIDS hoành hành.

Ở Việt Nam, kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1990, tính đến tháng 6 năm 2023 số người nhiễm HIV còn sống theo số liệu thống kê chưa đầy đủ là 227.144 người, trong đó có 71.115 người đã chuyển sang giai đoạn AIDS, có 74.442 người tử vong do chuyển sang AIDS. Đại dịch HIV đã có mặt ở 100% số tỉnh thành phố, hơn 80% số xã, phường, thị trấn. Theo ước tính của các chuyên gia, hiện có tới khoảng 260.000-290.000 ngàn người nhiễm HIV đang sống trong cộng đồng xã hội [Nguồn: Trung tâm y tế dự phòng]

Vào những năm đầu 2008, dịch HIV/AIDS ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh. Tính từ năm 2008 phát hiện được khoảng 10.000 người nhiễm thì năm 2014-2015, mỗi năm Việt Nam phát hiện được hơn 30.000 người nhiễm mới HIV và có tới 15.000 người tử vong do AIDS. Phần lớn số người nhiễm HIV là ở lứa tuổi từ 20 đến 49 tuổi là độ tuổi lao động, trụ cột chính của gia đình cũng như đất nước. HIV/AIDS đã trở thành một đại dịch vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Ngay từ khi dịch HIV/AIDS xảy ra, Chính phủ đã quan tâm hình thành bộ máy tổ chức phòng, chống HIV/AIDS. Đầu tiên là thành lập Ủy ban phòng, chống các bệnh truyền nhiễm do Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương trực tiếp thực hiện. Sau đó là Ủy ban quốc gia phòng chống SIDA mà cơ quan thường trực là Vụ Vệ sinh phòng dịch của Bộ Y tế. Năm 2002, Ủy ban Quốc gia đươc tách ra khỏi Bộ Y tế và được chuyển thành “Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS” do Phó thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch và Cơ quan thường trực là Văn phòng Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS. Tại Bộ Y tế, Ban phòng chống AIDS được thành lập để giúp Bộ trưởng quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống AIDS thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành.

Trước tình hình dịch HIV/AIDS ngày càng trầm trọng và lan rộng, một việc hết sức cần thiết và cấp bách là phải thành lập một tổ chức chuyên trách giúp Bộ trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về phòng chống HIV/AIDS. Một tổ chức phải đủ mạnh để giúp việc chỉ đạo, điều hành thống nhất các hoạt động. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngày 20/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 432/QĐ-TTg thành lập “Cục phòng chống HIV/AIDS Việt Nam” thuộc Bộ Y tế trên cơ sở tách ra từ Cục Y tế Dự phòng và phòng chống HIV/AIDS. Ngày 26/7/2013, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 21/2013/QĐ-BYT về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống HIV/AIDS. Trên cơ sở đó, từ ngày 01/08/2013 Cục Phòng chống HIV/AIDS chính thức đi vào hoạt động, tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong công tác phòng chống HIV/AIDS ở nước ta và cũng là một minh chứng về sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ nhằm quyết tâm đẩy lùi đại dịch nguy hiểm này.Đây chính là tiền đề của các hoạt động Marketing xã hội đối với công tác phòng chống HIV/AIDS

Mặt khác Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ bắt đầu giảm và cắt giảm rất nhanh nguồn tài trợ kể từ năm 2022-2024. Hiện chỉ còn hai nguồn chính là Quỹ toàn cầu phòng chống lao, sốt rét và HIV/AIDS (QTC) và Chương trình hỗ trợ khẩn cấp của tổng thống Mỹ (PEPFAR). Nhưng cả hai nguồn này cũng chỉ cam kết đến năm 2025 và chưa cam kết thêm. Việt Nam đang hy vọng QTC có thể gia hạn sau năm 2025, còn PEPFAR gần như chắc chắn không gia hạn. Trong khi đó “95% tiền chi cho thuốc ARV là từ viện trợ, trên 90% thuốc methadone (điều trị thay thế) cho người nghiện ma túy cũng từ nguồn viện trợ. Các chi phí khác như đào tạo cán bộ, cung cấp trang thiết bị… dù có nguồn tài chính trong nước nhưng chủ yếu vẫn là nhờ viện trợ nước ngoài”

Để đạt được mục tiêu 90-90-90 là tiền đề hướng tới kết thúc dịch AIDS vào năm 2040 của Liên Hiệp quốc tại Việt Nam đề ra tức là 90% người nhiễm vi rút HIV/AIDS biết được tình trạng của mình, 90% số người nhiễm HIV/AIDS được điều trị liên tục bằng thuốc ARV và 90 % được xét nghiệm thường xuyên về lượng tải vi rút HIV thì Việt Nam phải chủ động trong công tác điều trị, tuyên truyền, ngăn chặn và sản xuất đại trà thuốc kháng virút HIV, tiến tới điều trị HIV như điều trị các bệnh mãn tính khác như bệnh tiểu đường, huyết áp cao, béo phì, viêm gan B

2. Mục đích giới hạn và nhiệm vụ Luận văn

Xác định sự cần thiết phát triển và hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội tại Việt Nam phục vụ xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và định hướng Xã hội Chủ nghĩa theo Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam “ Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển … khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo”.

Đánh giá các mặt tích cực, tồn tại trong hoạt động Marketing xã hội tại Việt Nam trong thời gian qua làm cơ sở khoa học và thực tế đề xuất, đóng góp một số giải pháp có tính khả thi để hoàn thiện hoạt động này.

Để bảo đảm điều kiện thực hiện, trong luận văn có đề xuất một số khuyến nghị nhằm hỗ trợ cho hoạt động Marketing xã hội ngày càng phát triển.

3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là làm rõ thêm hoạt động của Marketing xã hội trong hoạt động phòng chống lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS tại Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.

Nghiên cứu về nội dung hoạt động của Marketing xã hội đã diễn ra tại Việt Nam đối với công tác phòng chống HIV/AIDS.

Không gian nghiên cứu trong phạm vi hoạt động Marketing xã hội gồm các chương trình được thực hiện bằng nguồn vốn xã hội hóa, ngân sách Nhà nước và nguồn vốn ODA tài trợ không hoàn lại của các tổ chức nước ngoài, các tổ chức Phi chính phủ, ..

Thời gian nghiên cứu được phân tích từ khi xuất hiện thực trạng hoạt động Marketing xã hội từ năm 2023 đến nay. Từ đó đề xuất các giải pháp tổng thể

Để có thể đạt được mục tiêu của Luận văn nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây:

  • Tìm hiểu lịch sử hình thành Marketing xã hội.
  • Tiến hành đọc và lược thuật các Bộ Luật, Nghị định phòng chống vi rút HIV/AIDS, chuyển giao công nghệ.
  • Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản về Marketing xã hội đối với việc phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS, liên kết các nội dung theo thực tế.
  • Hoàn thiện Marketing xã hội trong công tác truyền thông ngăn chặn các dịch bệnh nói chung và phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS nói riêng.

4. Phương pháp nghiên cứu trong luận văn

Vận dụng những nguyên lý của học thuyết Mác Lê Nin phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về các chiến lược, mục tiêu Quốc gia.

Sử dụng lý thuyết khoa học của Marketing truyền thống được phát triển phân ngành Marketing xã hội áp dụng các phương pháp thống kê, phân tích so sánh, đánh giá rủi ro..

Cơ sở lý nghiên cứu: Marketing xã hội, Marketing dịch vụ, Chiến lược kinh doanh, Đạo đức kinh doanh, các Bộ luật, quy phạm pháp luật liên quan.

Tài liệu, dữ liệu được thu thập từ các ấn phẩm: Trong nước, Ngoài nước, Website, các trang mạng xã hội Facebook, Twiter, Zalo, báo cáo trong các hội nghị khoa học về phòng chống và điều trị lây nhiễm vi rút HIV.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

  • Phương pháp chung: logic lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân tích tổng hợp.
  • Phương pháp cụ thể: đọc – thu thập- phân loại – xử lý thông tin, lược thuật, tổng thuật, nghiên cứu tài liệu…

5. Một số đóng góp, đề xuất, giải pháp của luận văn

Marketing là một thuật ngữ quen thuộc trong gần 20 năm trở lại đây đối Việt Nam kể từ khi mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Marketing không chỉ được dùng trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà Marketing còn được nói đến trong rất nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội khác, đặc biệt Marketing còn là một môn khoa học được giảng dạy và nghiên cứu nghiêm túc tại các trường đại học hàng đầu của các nước phát triển. Việt Nam một đất nước đang phát triển, marketing đang trở thành mối quan tâm lớn, được thể hiện trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức phi kinh doanh, các tổ chức chính trị xã hội.

Trong quá trình hình thành và phát triển, bắt đầu từ lĩnh vực thương mại, dịch vụ với mục tiêu chỉ để tiêu thụ sản phẩm tối đa hàng hóa, dịch vụ được sản xuất nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Marketing cùng với các hình thái xã hội đã có những bước phát triển cao hơn và đa dạng hơn, chúng không còn chỉ là lợi nhuận mà còn là các mục tiêu không vì lợi nhuận. Marketing xã hội còn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Tên gọi Marketing cũng có những thay đổi, phân ngành cho phù hợp với khoa học công nghệ và hình thái xã hội như: Marketing công nghiệp (IndustrialMarketing), Marketing tư liệu sản xuất (Means of production Marketing), Marketing dịch vụ (Service Marketing), Marketing kinh doanh (Trade Marketing), Marketing xuất nhập khẩu (Import –Export Marketing).. và gần đây Marketing xã hội hay còn gọi là Tiếp thị xã hội (Social Marketing) hiện đang trong quá trình du nhập vào Việt Nam thông qua các chương trình, dự án phục vụ cho người dân, doanh nghiệp, Chính phủ.. với mục tiêu không vì lợi nhuận.

Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lĩnh vực khoa học mới mẻ này, qua đó khuyến nghị với các Cơ quan quản lý Nhà nước, các Tổ chức hữu quan về các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội đang triển khai tại hình thái xã hội tại Việt Nam theo thực tế, phạm vi các ví dụ đã diễn ra và dự báo sẽ diễn ra nhằm mục tiêu hướng tới các lợi ích xã hội Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng đang mong muốn.

Trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các định nghĩa về Marketing xã hội của các học giả nước ngoài, phân tích các khái niệm để khẳng định 8 thành phần của Marketing xã hội gồm: Sản phẩm, Giá, Phân phối, Cổ động, Cộng đồng, Đối tác, Chính sách và Tài chính đồng thuận với quan điểm của học giả nước ngoài xác định 4 thành phần truyền thống của Marketing –Mix kinh doanh là: Sản phẩm, Giá, Phân phối và Cổ động. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Luận văn xác định một số đặc điểm riêng của Marketing xã hội sản phẩm phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS gồm có: Không vì lợi nhuận, tính tự nguyện, công tác xã hội, quản trị linh hoạt, thương hiệu, thương mại hóa sản phẩm, trợ giá sản phẩm; qua đó nhấn mạnh lợi ích xã hội là mục tiêu cơ bản của Marketing xã hội.

Luận văn vận dụng phương pháp xác định chỉ tiêu định lượng hiệu quả hoạt động của Marketing xã hội sản phẩm thuốc HIV/AIDS, số người nhiễm HIV/AIDS trong năm trong các phân tích nghiên cứu làm cơ sở khoa học để đánh giá lợi ích xã hội của hoạt động này.

Từ phân tích đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế của Thành phố Hải Phòng nhận định thị trường sản phẩm phòng chống và điệu trị vi rút HIV/AIDS tại Hải Phòng làm cơ sở thực tiễn cho việc giải quyết vấn đề nghiên cứu.

Qua phân tích thực trạng hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS tại Hải Phòng thời gian qua, rút ra các mặt tích cực và tồn tại của hoạt động này; đi sâu phân tích cụ thể từng thành phần của Marketing xã hội. Nội dung phân tích này là cơ sở đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc điều trị vi rút HIV/AIDS tại Hải Phòng.

Trong Luận văn xin mạnh dạn đề xuất một tập hợp giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS ARV tại Hải Phòng đến năm 2030 theo các mục tiêu và quan điểm xây dựng giải pháp.

Nhằm bảo đảm tính khả thi của các giải pháp được nêu, luận văn đề xuất, khuyến nghị cụ thể đối với thành phố Hải Phòng, Nhà nước.

Luận văn nghiên cứu về một lĩnh vực khoa học còn mới ở Việt Nam trong khi hoạt động Marketing xã hội đã được thể hiện trong thực tế và được đề cập trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo luận văn có kết cấu gồm:

  • Chương 1: Cơ sở lý thuyết về Marketing xã hội
  • Chương 2: Phân tích hoạt động Marketing xã hội về bệnh truyền nhiễm vi rút HIV/ AIDS
  • Chương 3: Giải pháp về Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn HIV/AIDS giai đoạn từ 2025-2030
  • Kết luận và khuyến nghị

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MARKETING XÃ HỘI

1.1. Cơ sở lý thuyết về Marketing xã hội

1.1.1. Khái niệm và các hoạt động của Marketing xã hội Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Cũng giống như nhiều ý tưởng giàu sáng tạo khác, “Markeling xã hội”, hay còn gọi là “Tiếp thị xã hội” (Social Marketing), là khái niệm được nhiều người nêu lên. Thuật ngữ này là do Philip Kotler đã dùng lần đầu năm 1971; sau đó ông đã viết một quyển sách về đề tài này (Kotler và Roberto, Social Marketing – Strategies for Changing Public Behavior, 1989) [114]; cùng nhiều người khác đã viết (Nedra Kline Weinreich, Hcinds-On Social Marketing A Step by Step Guide, 2007) [110]; (Alan R. Andreasen, Marketing Social Change, 2003) [101]; v.v… Nhưng thực ra các hoạt động Marketing xã hội đầu tiên đã được thực hiện trước khi có tên gọi.

Trên thế giới, cách đây hơn 30 năm, các nhà nghiên cứu hàng đầu của ngành Marketing bắt đầu tìm tới các ứng dụng có thể thực hiện được và không nằm trong giới hạn theo truyền thống là Marketing trong khu vực thương mại, dịch vụ. Những năm 1970, các nhà nghiên cứu Marketing tập trung vào việc đem các tư tưởng, quy trình và khái niệm về Marketing vào hàng loạt các tổ chức thuộc dạng hoạt động không vì lợi nhuận, tổ chức,chương trình, dự án về phòng ngừa dịch bệnh nguy hiểm của thời đại, những vấn đề toàn cầu cùng giải quyết .. Đến những năm 1980 và 1990, một số lớn các học giả và nhà nghiên cứu đã chuyển từ lĩnh vực khởi xướng sang thực hiện trọng tâm các chương trình. Tại Việt Nam một số chương trình Marketing xã hội đã gây được ảnh hưởng lớn đến các hành vi cụ thể: Sinh đẻ có kế hoạch, đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy, không đổ rác bừa bãi, không đi vệ sinh bừa bãi, xóa đói giảm nghèo, xếp hàng, áp dụng biện pháp tình dục an toàn, hoặc đi tiêm chủng cho trẻ em, cấp phát thuốc cho người nhiễm virus HIV.

Tuy nhiên hiện nay đối với giáo dục Việt Nam chưa có đặt Marketing xã hội thành một ngành học riêng biệt trong Marketing nói chung. Đồng thời hoạt động Marketing xã hội được hiểu như việc khởi phát, ấn định bởi Luật pháp, các Nghị định của Chính phủ và các thông tư liên ngành chứu không thuộc các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân. Ví dụ đối với việc phòng chống các bệnh truyền nhiễm được thực hiện bằng Bộ Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm số 03/2015/QH12 ngày 21/11/2025 trong đó tại Điều 3 khoản 1 phần b: “Nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong… bệnh do vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS…” Do vậy chưa kêu gọi các nhà nghiên cứu, chuyên gia kinh tế quan tâm và tham gia nhiều hơn vào việc nghiên cứu Marketing xã hội đối với các vấn đề đang diễn ra trong xã hội nhằm tạo ra môi trường xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Hiện nay ở Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng chưa có các Trung tâm Marketing xã hội theo quan điểm của các học giả, các các chuyên gia về Marketing trên thế giới như:

  • Philip Kotler:

“Marketing xã hội là việc sử dụng các nguyên lý và kỹ thuật Marketing gây ảnh hưởng đến đối tượng mục tiêu để họ chấp nhận, khước từ, thay đổi, hay loại bỏ một cách tự nguyện hành vi nào đó, mà điều đó có ích cho các cá nhân, nhóm người hoặc toàn xã hội”.

  • Alan Andreasen:

“Marketing xã hội là việc áp dụng những kỹ thuật Marketing trong kinh doanh cho việc phân tích, hoạch định, thực thi và lượng giá những chương trình được thiết kế để tác động đến hành vi tự nguyện của tập thể đối tượng mục tiêu nhằm đem lại sự tốt lành cho bản thân họ và cho xã hội mà họ là thành viên”. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

  • Nedra Kline Weinreich:

“Marketing xã hội là sử dụng những kỹ thuật Marketing kinh doanh để khuyến khích sự đồng thuận về một hành vi nào đó nhằm cải thiện sức khoẻ, hạnh phúc của từng đối tượng mục tiêu hay toàn xã hội”

Với hình thái kinh tế, xã hội ở Việt Nam đến thời điểm viết luận văn, tác giả nhận thấy các quan điểm trên chưa phân tích rõ về Marketing xã hội: Sự khác biệt về thành phần của Marketing xã hội so với Marketing kinh doanh phạm vi ứng dụng của Marketing xã hội là môi trường cộng đồng; sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động Marketing xã hội không vì lợi nhuận với Marketing kinh doanh luôn vì lợi nhuận; xác định phạm vi ứng dụng của Marketing xã hội là môi trường cộng đồng.

  • Phân loại về Marketing xã hội

Marketing xã hội không có một khuôn khổ phân loại rõ ràng vì các mặt của đời sống xã hội thì rất đa dạng và luôn luôn chuyển động, vì thế, dựa vào các quan điểm của Marketing xã hội thì mọi hoạt động áp dụng các kỹ thuật Marketing kinh doanh nhằm mục tiêu phục vụ cho lợi ích của đối tượng mục tiêu hay cho toàn xã hội đều là hoạt động Marketing xã hội dù chúng có thể được đặt dưới những hình thức khác nhau.

Tác giả nhìn nhận hiện nay đã và đang có một số hoạt động Marketing xã hội cho các mục tiêu xã hội cụ thể khác nhau như sau:

Mục tiêu xã hội có các hoạt động:

  • Marketing xã hội về việc cổ động chiêu sinh cho trường dân lập, dạy nghề
  • Marketing xã hội về việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy, xe mô tô
  • Marketing xã hội về phòng chống lạm dụng trẻ

Mục tiêu sức khoẻ cộng đồng có các hoạt động:

  • Marketing xã hội về phòng chống bệnh truyền nhiễm;
  • Marketing xã hội về phòng chống HIV/AIDS.
  • Marketing xã hội về phòng chống cao huyết áp.
  • Marketing xã hội về lương thực, thực phẩm sạch, an toàn.
  • Marketing xã hội về phòng ngừa suy dinh dưỡng.
  • Marketing xã hội về phòng ngừa loãng xương.

Mục tiêu phát triển nhận thức công chúng có các hoạt động như:

  • Marketing xã hội về việc vận động nuôi con bằng sữa mẹ.
  • Marketing xã hội về phòng chống lạm dụng dược phẩm.
  • Marketing xã hội về chống hút thuốc lá.
  • Marketing xã hội về tiêm chủng mở rộng
  • Marketing xã hội về nhà tiêu dùng thông tháiv…

Đối với phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS từ năm 2011, có một chương trình Marketing xã hội về phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) được Thủ tướng Chính phủ khởi phát bằng Quyết định số 36/2012/QĐ-TTg ngày 17/3/2012 về việc phê duyệt chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2018 và tầm nhìn đến năm 2030, thực hiện bởi Uỷ ban phòng chống các bệnh truyền nhiễm do Viện vệ sinh Dịch tễ thực hiện (sau này Uỷ ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS với các tổ chức quốc tế tài trợ.

1.1.2. Các giai đoạn trong quá trình Marketing xã hội Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

  • Quá trình Marketing xã hội được hình thành qua 5 giai đoạn :
  • Giai đoạn 1: Hoạch định.
  • Giai đoạn 2: Triển khai tài liệu, đưa ra thông điệp và phát triển các sản phẩm
  • Giai đoạn 3: Kiểm tra thử nghiệm.
  • Giai đoạn 4: Thực hiện.
  • Giai đoạn 5: Thẩm định và thu thập thông tin phản hồi.

Trong thực tế, Marketing xã hội không nhất thiết phải là một chuỗi rõ ràng các giai đoạn nhưng là một quá trình của việc thu thập thông tin phản hồi và điều chỉnh. Điều này có thể bao gồm cả việc xem xét lại những giai đoạn đã thực hiện và có những điều chỉnh dựa trên thông tin mới.

05 giai đoạn Marketing xã hội chi tiết như sau:

  • Giai đoạn 1: Hoạch định

Đây là giai đoạn lập kế hoạch định hình nền tảng để phát triển những bước tiếp theo. Để tạo ra một hoạt động Marketing xã hội hiệu quả, chúng ta phải hiểu được vấn đề mà chúng ta đang quan tâm, đối tượng mục tiêu của chúng ta và môi trường để thực hiện hoạt động Marketing xã hội. Phân tích những yếu tố này và phát triển chiến lược hành động tác động đến quá trình tự nhận thức và thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu.

  • Giai đoạn 2: Triển khai tài liệu, đưa ra thông điệp và phát triển các sản phẩm Marketing xã hội.

Giai đoạn này sử dụng thông tin có được từ giai đoạn lập kế hoạch để tạo ra những thông điệp thuyết phục cũng như tài liệu và các sản phẩm Marketing để truyền tải thông điệp đến đối tượng mục tiêu.

  • Giai đoạn 3: Kiểm tra, thử nghiệm

Là giai đoạn kiểm tra trước, bao gồm sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để kiểm tra thông điệp và tài liệu với đối tượng mục tiêu để xác định xem những công việc nào hoàn thành phù hợp mục tiêu của hoạt động. Việc lặp lại nhiều lần quá trình thực hiện giai đoạn 2 và giai đoạn 3 (triển khai – kiểm tra) nhằm mục đích có những điều chỉnh cần thiết cần thiết về thông điệp, tài liệu hoặc tất cả chiến lược và thăm dò xem việc tiếp cận có hiệu quả không?.

  • Giai đoạn 4: Thực hiện Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Để thực hiện hoạt động, công tác chuẩn bị rất quan trọng cho sự thành công của hoạt động và phải giám sát quá trình thực hiện để bảo đảm rằng mỗi yếu tố được triển khai theo đúng kế hoạch đã được hoạch định.

  • Giai đoạn 5:Thẩm định và thu thập thông tin phản hồi

Đây là bước cuối cùng đánh giá và thu thập thông tin phản hồi. Đánh giá hoạt động vừa là một tổng thể vừa là một yếu tố độc lập của chiến lược hoạt động. Đánh giá diễn ra không phải vào cuối hoạt động mà là cả trong suốt quá trình triển khai và thông tin phản hồi được sử dụng vào mỗi giai đoạn để có những điều chỉnh cần thiết nhằm hoàn thiện hoạt động.

1.2. Vai trò, ý nghĩa của Marketing xã hội trong hoạt động truyền thông và ngăn chặn các loại dịch bệnh truyền nhiễm HIV/AIDS Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Marketing xã hội trong hoạt động truyền thông có một vai trò quan trọng trong cuộc chiến với HIV/AIDS. Điều này thể hiện rõ trong nhu cầu duy trì mối quan tâm, tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng về nguyên nhân, thực trạng dịch HIV/AIDS cũng như làm giảm kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia, các nhà nghiên cứu, các nhân viên y tế, những người hoạt động trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS và các nhà truyền thông luôn duy trì một mối quan hệ tốt đẹp để cùng thực hiện công việc mang đầy ý nghĩa xã hội này. Những cá nhân, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS đã biết dựa vào truyền thông để tăng mức độ bao phủ hoạt động. Trong khi đó, các cơ quan truyền thông qua việc đăng tải thường xuyên những thông tin nóng bỏng về đại dịch này do đối tác cung cấp cũng đã hoàn thành tốt mục đích tuyên truyền của mình tới những người sống chung với HIV/AIDS cũng như toàn xã hội.

Marketing xã hội trong hoạt động truyền thông có vai trò quan trọng trong việc giúp các cơ quan truyền thông điện tử, báo viết trong nước có một đội ngũ các nhà báo chuyên viết về vấn đề HIV/AIDS. Hầu hết các bài viết về vấn đề này sẽ được thực hiện dựa trên kinh nghiệm và sự hiểu biết vấn đề chính xác. Trên cơ sở đó sẽ gây ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống của những người có HIV, làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với họ, hỗ trợ tốt cho công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS của cả cộng đồng.

1.3. Ý nghĩa của Marketing xã hội trong hoat động ngăn chặn và đẩy lùi nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)

Marketing xã hội đối với việc ngăn chặn, phòng chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người là việc vận dụng các thành phần của Marketing xã hội nhằm xúc tiến trong cộng đồng. Marketing xã hội, là một trong những thành công đáng kể trong các chương trình Marketing được áp dụng để phòng chống, điều trị vi rút HIV/AIDS tại nhiều nước trên thế giới. Các sản phẩm của Marketing xã hội đối với việc ngăn chặn và đẩy lùi lây nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) phần lớn là vận động dùng bơm kim tiêm sạch, quan hệ tình dục an toàn, sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục và lồng ghép với chương trình kế hoạch hóa gia đình, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và cuối cùng là sử dụng sản phẩm thuốc ARV là loại thuốc kháng vi rút HIV để người nhiễm vi rút HIV có thể sống bình thường, giảm tỷ lệ tử vong do chuyển sang AIDS và lây nhiễm sang các đối tượng khác.

Đối tượng cụ thể: Người mua, bán dâm, người nghiện chất dạng gây nghiện, người nhiễm HIV, người có quan hệ tình dục đồng giới, người thuộc nhóm người di chuyển, mẹ truyền sang con, hoặc làm việc trong môi trường có khả năng nhiễm bệnh cao.

Marketing xã hội có các đặc điểm nhận dạng sau:

1.3.1. Không vì lợi nhuận Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Từ các khái niệm về Marketing xã hội có thể thấy rõ đặc trưng cơ bản của hoạt động Marketing xã hội là không vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tất cả các hoạt động Marketing không vì lợi nhuận đều là Marketing xã hội. Điểm khác biệt căn bản để phân biệt Marketing xã hội với Marketing kinh doanh cũng như với các loại Marketing không vì lợi nhuận khác là ở mục tiêu sau cùng của chúng, đó là lợi ích dành cho đối tượng mục tiêu và cho xã hội chứ không dành cho tổ chức tiến hành Marketing, và lợi ích này tập trung vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống. Điều này giúp phân biệt Marketing xã hội với việc làm Marketing cho các hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội, đảng phái, các tổ chức thể thao, văn nghệ, tôn giáo v.v…

Marketing xã hội ngăn chặn, phòng chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS có những đặc trưng cơ bản của Marketing xã hội nói chung, là hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và lợi ích đạt được tập trung vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua các tác động nhằm chuyển đổi ý thức và hành vi của đối tượng mục tiêu trong việc sử dụng các sản phẩm phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS cho mục tiêu hồi phục các chức năng miễn dịch cho người khi nhiễm vi rút HIV/AIDS nhằm cải thiện sức khoẻ và nâng cao chất lượng cuộc sống.

1.3.2. Tính tự nguyện

Tính tự nguyện trong Marketing xã hội được hiểu là quá trình tự nhận thức của đối tượng mục tiêu về lợi ích do hoạt động Marketing xã hội đem lại cho bản thân, tự ý thức được lợi ích và trách nhiệm của bản thân đối với xã hội trong việc tham gia thực hiện hay thay đổi các hành vi mà xã hội mong muốn nhằm đem lại hiệu quả tích cực về sức khoẻ cộng đồng, nòi giống, sức lao động.. cho toàn xã hội.

Việc đồng thuận thực hiện hay thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu trong Marketing xã hội phòng chống bệnh lây nhiễm cũng đồng thời phải trên cơ sở của tính tự nguyện. Ở đây từ “tự nguyện” phải được nhấn mạnh. Những biện pháp có tính chất cưỡng chế, biện pháp mạnh tay như (Philipin 2023 -2024) trước tiên là sự tước đoạt nhân quyền, mạng sống khi họ đang là nạn nhân của các tệ nạn xã hội như nghiện ma túy, mại dâm.. Đã là Marketing xã hội thì không được ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào dù cho việc thực hiện hành vi có thể đem đến một kết quả tích cực. Đây là một đặc điểm quan trọng của Marketing xã hội nhằm tránh được bất kỳ hậu quả tai hại nào cũng như các yếu tố gây tranh cãi nhiều về đạo đức cũng như điều hành của chính thể.

1.3.3. Công tác xã hội Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Ngoài những nội dung Marketing và kinh doanh thông thường, hoạt động Marketing xã hội đối với các biện pháp phòng tránh lây nhiễm vius HIV/AIDS đồng thời cũng có tính chất là một công tác xã hội. Bên cạnh những công việc có tính sáng tạo như: truyền hình, băng rôn, khẩu hiệu tờ rơi, tư vấn trên truyền thanh, internet .. còn những hoạt động tiếp cận cộng đồng như: tập huấn kiến thức về các biện pháp phòng tránh, thành lập các diễn đàn, hội người đồng đẳng cho các đối tượng tượng thanh niên, tổ chức các cuộc hội thi tìm hiểu về nguyên nhân và cách phòng tránh đối với các dịch bệnh nguy hiểm của thời đại, hoạt động Marketing xã hội được đánh giá đã góp phần cứu được nhiều sinh mạng cũng như giảm gánh nặng Ngân sách Nhà nước, kinh tế của nhiều gia đình trong xã hội.

1.3.4. Quản trị kinh hoạt

Hoạt động Marketing xã hội từ trước đến nay đa số được hiểu rằng việc quản trị là các Viên chức, Công chức Nhà nước của các tổ chức xã hội thông bằng nguồn tài chính của các tổ chức tài trợ nước ngoài hoặc các nguồn ODA không hoàn lại. Việc đa dạng hóa các tổ chức, doanh nghiệp dược phẩm tham gia chế tạo thông qua các chuyên gia dược phẩm để tiếp cận hoặc mua lại công nghệ, công thức sản xuất các loại thuốc cũng như vác xin để phòng chống bệnh truyền nhiễm sản xuất trong nước. Tuy nhiên vấn đề này còn rất nhiều hạn chế đối với các doanh nghiệp, tổ chức mong muốn vì chương trình Marketing xã hội phải theo sát vận hành của xã hội và nền kinh tế thị trường tại các Quốc gia đó.

1.3.5. Thương hiệu

Đa phần các hoạt động Marketing xã hội đối với những sản phẩm đặc dụng với thương hiệu cụ thể.

Quảng cáo cho thương hiệu được tài trợ không mang tính ban phát. Thương hiệu cho phép phân khúc thị trường và dễ gây ấn tượng.

Quảng cáo một sản phẩm có thương hiệu giúp người xem ghi nhớ lâu hơn. Thương hiệu giúp xác định và dễ gây chú ý trong một chiến dịch hoạt động. Thương hiệu giúp sáng tác các thông điệp cần chuyển tải tới đối tượng.

  • Thương mại hoá sản phẩm. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Riêng đối với “Thương mại hoá sản phẩm” cần nhấn mạnh tới các sản phẩm thuốc phòng, chống các bệnh lây nhiễm phù hợp với thu nhập người bệnh thì sẽ tạo điều kiện cho nhiều người có hoàn cảnh khó khăn sử dụng đều đặn và tránh được diễn biến xấu về phát triển của bệnh lý. Câu hỏi đặt ra thế tại sao không hạ giá đến mức thấp nhất – thậm chí là cấp phát miễn phí? Lý do chính yếu khiến phải bán là vì một chương trình Marketing xã hội không thể tồn tại nếu không có sự tham gia của những người kinh doanh, Nhà nước đứng vai trò quản lý, nhằm mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm thuốc phòng chống các bệnh truyền nhiễm cũng như được bán rộng rãi như các bệnh khác như: tiểu đường, huyết áp cao, viêm gan B… nhằm:

Tránh lãng phí, cửa quyền, tham nhũng và đẩy nhanh tiến trình điều trị cho các bệnh nhân khi có nhu cầu.

Việc cấp phát, cho không, thường dựa vào các tài trợ nguồn tài trợ của các Tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài, cho vay ODA không hoàn lại. Kiểm soát nguồn cấp phát thì dựa trên các báo cáo niên độ và các báo cáo này độ chính xác không cao (bệnh nhân nhiễm HIV nên không công bố tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ..liên lạc, nơi thường trú..)

Tóm lại, khi thương mại hóa sản phẩm thuốc phòng chống các bệnh truyền nhiễm nhằm minh bạch hóa việc chi tiêu đúng mục đích, đúng đối tượng, các nguồn tài trợ, nguồn vốn vay ODA không hoàn lại và khẳng định vai trò của Nhà nước là kiểm tra, giám sát, định hướng, ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ.

Một số chỉ tiêu định lượng hiệu quả hoạt động Marketing xã hội khi thực hiện các chương trình, dự án can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.

Trong những điểm ưu việt nhất của Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh lây nhiễm và thuốc điều trị vi rút HIV/AIDS và các biện pháp hỗ trợ là định lượng được kết quả, là hoạt động không vì lợi nhuận nhưng theo đuổi mục tiêu nhân đạo. Những hoạt động khác trong lĩnh vực này, ở tầm Quốc tế hay từng Quốc gia, đều phải chịu đựng thường xuyên từ việc xác định mục tiêu yếu kém và khó khăn to lớn trong đánh giá kết quả. Không giống như các công ty thương mại thường được đánh giá bằng kết quả lợi nhuận sau cùng, các nhà quản trị hoạt động không vì lợi nhuận thường không có phương tiện đánh giá tương xứng những hoạt động của họ vì nhiều lý do.

Trước tiên, Nhà quản trị hoạt động không vì lợi nhuận rất ngại việc tính toán sổ sách bởi vì họ nghĩ họ có thể tạo ra một dịch vụ hữu ích cho xã hội mà không phải trở thành đối tượng của những yêu cầu khắt khe của kết quả sau cùng. Tổ chức không vì lợi nhuận cũng cần kết quả sau cùng và những nhà quản trị hoạt động không vì lợi nhuận phải có trách nhiệm đạt được điều đó. Họ cần phải có một tập hợp những mục tiêu được xác định rõ ràng và những tiêu chuẩn so sánh để đo lường kết quả hoạt động.

  • Chỉ tiêu định lượng và hiệu quả phòng tránh HIV/AIDS

Việc định lượng hiệu quả phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS có từ công trình nghiên cứu của Tổ chức Family Health International (FHI – Hoa kỳ) với phương pháp tính toán có tên gọi là phương pháp AVERT, thông qua các thực nghiệm khoa học và phép ngoại suy trong toán học, đóng vai trò làm cơ sở cho việc định hình những ước lượng dưới đây đối với một loại hình phòng chống lây nhiễm vi rút HIV/AIDS. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Lấy ví dụ một trong những sản phẩm phòng chống lây nhiễm vi rút HIV/AIDS bằng bao cao su khi có hành vi quan hệ tình dục:

Xác suất lây nhiễm vi rút HIV là 0,15% cho mỗi hành vi giao hợp bởi một cặp bạn tình khác giới (nam – nữ) có tình trạng nhiễm HIV ngược nhau (một người đã nhiễm và người kia chưa nhiễm HIV) nhưng cả hai không có những viêm nhiễm đường niệu sinh dục GUI (Genital Urirary Infections). Nếu một trong hai người có GUI, khả năng lây nhiễm lên đến 6%.

  1. Trong trường hợp giao hợp giữa hai người đồng tính nam (nam – nam), xác suất lây nhiễm là 1 % nếu không có GUI, và lên đến 30% nếu có GUI.
  2. Các giả thiết được thiết lập như sau:

95% những trường hợp giao hợp là giữa nam – nữ; 5% là giữa nam – 15% dân số có GUI, cả nam lẫn nữ.

  1. Cứ 100 trường hợp giao hợp bởi những cặp có tình trạng nhiễm HIV ngược nhau và không được bảo vệ, sẽ dẫn đến các kết quả trung bình sau đây:
  • 85% (không GUI) của 95% (nam-nữ) = 80,75%, với xác suất lây là 0,15%
  • 15% (có GUI) của 95% (nam – nữ) – 14,25%, với xác suất lây là 6%
  • 85% (không GUI) của 5% (nam – nam) = 4,25%, với xác suất lây là 1%
  • 15% (có GUI) của 5% (nam – nam) = 75%, với xác suất lây là 30%.
  • > 80,75 x0,0015 = 0,12113
  • > 14,25×0,06 = 0,855
  • > 4,25×0,01 =0,0425
  • > 0,75 x 0,30 = 0,225

Tổng cộng = 1,24 xV (với V = 1 trừ số phần trăm dân số đã nhiễm HIV).

  1. Nếu 5% dân số nhiễm HIV có hoạt động tình dục, thì sẽ có 1,24 x0,05 x0,95 = 0,059 số ca bị lây nhiễm cho mỗi 100 hành vi giao hợp.
  2. Nếu 1% dân số nhiễm HIV có hoạt động tình dục, số ca lây nhiễm cho mỗi 100 hành vi giao hợp sẽ là 1,24 x0,01 x 0,99 = 0,0123; và nếu con số nhiễm HIV là 10% dân số, số ca lây nhiễm sẽ là 1,24 x 0,1 x 9 = 0,112 cho mỗi 100 hành vi giao hợp.

Nếu độ an toàn của bao cao su là 90%, số ca lây nhiễm vi rút HIV tránh được cho mỗi 1 triệu bao cao su (10.000 ) được sử dụng sẽ là: Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Bảng 1.1. Bảng tính dự báo

Tỷ lệ nhiễm HIV trong dân số Số ca lây nhiễm tránh được khi dùng 1 triệu bao cao su
1% 0,0123 x 10.000×90% = 111
5% 0,059×10.000×90% = 531
10% 0,112x 10.000×90% = 1.008

[Nguồn: USAID-wat we do]

Để đơn giản hơn, từ những kết quả trên đây, chúng ta ghi nhận rằng với 1 triệu bao cao su cho 10.000 sẽ phòng tránh được xấp xỉ 100 ca lây nhiễm cho mỗi phần trăm của tỷ lệ dân số nhiễm vi rút HIV (phòng tránh được 100 ca cho 1%; 200 ca cho 2%; 300 ca cho 3% dân số nhiễm HIV; v.v…)

Số ca lây nhiễm được tính toán nêu trên chỉ được tính ở mức lây nhiễm HIV tiên phát là lây nhiễm ở những người lần đầu tiên bị nhiễm. Nếu tính ở mức lây nhiễm HIV thứ phát là ở những người đã bị nhiễm trước đó và tiếp tục bị lây nhiễm nữa, thì phải thêm 70% vào số ca lây nhiễm tiên phát. Ví dụ: Trong dân số có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS là 1%, 1 triệu bao cao su giúp phòng tránh 100 ca lây nhiễm HIV tiên phát, có nghĩa là 1 triệu bao cao su nói trên giúp phòng tránh được 170 ca lây nhiễm HIV thứ phát.

1.4. Ý nghĩa hoạt động về chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc ARV tại Hải Phòng, Việt Nam Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

1.4.1. Nguyên nhân phải chuyển giao công nghệ, hình thức chuyển giao công nghệ

Không quốc gia nào trên thế giới có đủ mọi nguồn lực để làm ra tất cả các công nghệ cần thiết một cách kinh tế, do đó đối với các nước đang phát triển muốn có một công nghệ thường cân nhắc về phương diện kinh tế giữa mua công nghệ và tự nghiên cứu chế tạo.

Sự phát triển không đồng đều của các quốc gia trên thế giới về công nghệ (85% các sáng chế công nghệ nằm trong tay các nước phát triển), nhiều nước không có khả năng tạo ra công nghệ mà mình cần, buộc phải mua để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết.

Xu hướng mở rộng hợp tác như thương mại bằng các Hiệp định thương mại WTO, EVFTA, FTA, TPP, ATGA đã khuyến khích thương mại, tạo thuận lợi cho mua, bán thương mại giữa các Quốc gia trong đó có mua bán, chuyển giao công nghệ.

Các thành tựu của khoa học đã thúc đẩy nghiên cứu khoa học và ứng dụng các nghiên cứu khoa học nhằm mục đích chế ngự thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động và trả lời các câu hỏi về trái đất nơi con người đang tồn tại. Công nghệ hiện đại làm rút ngắn tuổi thọ của các công nghệ, khiến nhu cầu đổi mới công nghệ tăng cao. Trong lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh, chu trình sống của công nghệ rất ngắn, những người đi sau trong các lĩnh vực công nghệ này muốn có công nghệ đã xuất hiện trên thị trường thông qua chuyển giao thay vì bắt đầu từng nghiên cứu và triển khai. Việc triển chuyển giao công nghệ được xuất phát từ lợi ích của 2 bên, đó là

Bên chuyển giao công nghệ:

  • Thu lợi nhuận cao hơn ở địa phương hay ở chính quốc (do giảm chi phí nguyên vật liệu, nhân công và các chi phí cao về cơ sở hạ tầng khác).
  • Chấp nhận cạnh tranh về sản phẩm để nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, do đó có điều kiện đổi mới công nghệ.
  • Thu được các lợi ích khác như: Bán nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng thay thế, tận dụng nguồn chất xám ở địa phương; thâm nhập vào thị trường bên nhận công nghệ…

Bên nhận công nghệ: Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

  • Thông qua chuyển giao công nghệ, tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
  • Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết, đặc biệt tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
  • Nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách; nhu cầu thiết yếu của xã hội, nhu cầu đổi mới công nghệ để đáp ứng sức ép của cạnh tranh.
  • Có điều kiện nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ, học tập các phương pháp quản lý tiên tiến.
  • Tránh được rủi ro nếu phải tự làm nhờ mua lại công nghệ.
  • Nếu thành công có cơ hội rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, đồng thời đi tắt vào các công nghệ hiện đại nhất, đạt được đồng thời hai mục tiêu; công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy nhiên thực tế thị trường có thêm một bên nữa là bên môi giới chuyển giao công nghệ

Thế mạnh của bên môi giới chuyển giao công nghệ là họ có các chuyên gia công nghệ trong từng lĩnh vực cụ thể. Các chuyên gia công nghệ sẽ phân tích đánh giá công nghệ để thực hiện môi giới cho người có công nghệ cần giao đi và người muốn nhận công nghệ đó, thậm chí các công ty môi giới này làm luôn các thủ tục hành chính, tài chính, cho cả bên giao và bên nhận và bên nhận chỉ cần tiếp nhận công nghệ và nhận nợ.

1.4.2. Hình thức chuyển giao công nghệ

Việc phát triển công nghệ ở một quốc gia có thể diễn ra dưới hai hình thức. Thứ nhất, công nghệ được nghiên cứu thành công và được triển khai áp dụng lần đầu ngay ở chính Quốc gia đó. Phương thức này được gọi là phương thức phát triển nội sinh và công nghệ được tạo ra như vậy gọi là công nghệ nội sinh, sơ đồ phát triển công nghệ nội sinh được trình bày như sau:

Sơ đồ 1.1. Chuyển giao công nghệ

Ý tưởng nghiên cứu tạo ra một công nghệ xuất phát từ nhu cầu của thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Nghiên cứu thị trường ghi nhận được nhu cầu của khách hàng. Giai đoạn tiếp theo là nghiên cứu để tạo ra công nghệ. Sau khi quá trình nghiên cứu này thành công thì một công nghệ mới được tạo ra, sau đó công nghệ này được truyền bá và được sử dụng rộng rãi trên thị trường thông qua các hoạt động mua bán. Trong quá trình sử dụng, người sử dụng công nghệ có thể tiến hành cải tiến công nghệ đang vận hành giúp cho công nghệ có thể phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng.

Hoạt động nghiên cứu và tạo ra công nghệ nội sinh tạo điều kiện cho doanh nghiệp cũng như các Quốc gia dễ dàng làm chủ công nghệ. Các công nghệ nội sinh giúp cho các doanh nghiệp không phụ thuộc nhiều vào nước ngoài đặc biệt là kỹ thuật. Trên cơ sở đó tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có tại địa phương. Nếu trình độ nghiên cứu và thiết kế công nghệ đạt trình độ tiên tiến thì các doanh nghiệp này có thể tiến hành xuất khẩu công nghệ, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp cũng như các Quốc gia đó. Tuy nhiên phương thức này lại có rất nhiều rủi ro vì nghiên cứu có thể không thành công và để nghiên cứu thành công đòi hỏi phải có nhiều thời gian và tiền bạc. Nếu trình độ nghiên cứu và triển khai không cao, công nghệ tạo ra ít giá trị, gây lãng phí do không thể sử dụng, nhất là trong điều kiện kinh tế hội nhập, công nghệ lạc hậu sẽ tạo ra sản phẩm không có tính cạnh tranh cao trên thị trường ngay ở trong nước. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Để tránh rủi ro và nhanh chóng có được công nghệ, doanh nghiệp cũng như các Quốc gia có thể có được công nghệ bằng cách nhận công nghệ từ các Quốc gia khác. Phương thức này được gọi là phát triển công nghệ theo hình thức chuyển giao và công nghệ được gọi là công nghệ chuyển giao hay công nghệ ngoại sinh.

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ lựa chọn công nghệ

Để thực hiện chuyển giao một công nghệ, bên nhận cũng như bên giao công nghệ phải tiến hành nghiên cứu thị trường nơi mà công nghệ sẽ được triển khai sử dụng trong tương lai để có được đánh giá sơ bộ về tính khả thi của việc chuyển giao về các khía cạnh như: nhu cầu đối với sản phẩm, mức độ về tài nguyên, nhân lực… sự chấp nhận về văn hóa, xã hội, chính trị – pháp lý,… Sau khi xác định được tính khả thi của việc chuyển giao người ta sẽ tiến hành đánh giá các công nghệ hiện đang sử dụng để làm căn cứ lựa chọn công nghệ phù hợp nhất. Kế tiếp nghiệp vụ giao và nhận sẽ được tiến hành. Sau khi bên nhận đã có công nghệ họ sẽ tiến hành triển khai sử dụng với sự trợ giúp, hướng dẫn của bên giao công nghệ. Trong quá trình sử dụng, bên nhận công nghệ cùng với sự trợ giúp của các chuyên gia sẽ tiến hành cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp, từng Quốc gia đó.

Phát triển công nghệ theo phương thức ngoại sinh có cả ưu điểm và nhược điểm. Theo phương thức này thì thời gian ngắn hơn và không chịu rủi ro của nghiên cứu do không thành công. Quan hệ, đặc biệt là quan hệ quốc tế sẽ được mở rộng hơn. Tuy nhiên, công nghệ ngoại sinh sẽ khó thích hợp hơn, bên nhận công nghệ cũng cần có một thời gian nhất định để làm chủ công nghệ và sẽ phụ thuộc vào bên giao công nghệ. Các doanh nghiệp của các nước có tiềm lực kinh tế yếu có thể sẽ bị các doanh nghiệp lớn giao công nghệ bắt chịu các điều khoản tiếp nhận không có lợi, chẳng hạn như không xâm nhập được hoặc xâm nhập có điều kiện những thông tin về công nghệ mà bên giao công nghệ đang nắm giữ.

1.4.3. Ý nghĩa đối với chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc ARV tại Hải Phòng, Việt Nam.

Công nghệ sản xuất thuốc ARV được chuyển giao tại Hải Phòng, Việt Nam sẽ nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách về thuốc ARV để điều trị cho các bệnh nhân đã nhiễm vi rút HIV/AIDS kéo dài tuổi thọ và hòa nhập cộng đồng.

Hải Phòng, Việt Nam thông qua chuyển giao công nghệ, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, các nguồn vốn ODA cho vay không hoàn lại, Việt kiều, tư nhân, các doanh nghiệp trong nước để đẩy nhanh tốc độ tiếp nhận công nghệ và tự sản xuất cung ứng thuốc ARV.

Hải Phòng, Việt Nam có điều kiện nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ sinh học, dược học và học tập các phương pháp quản lý tiên tiến.

Hải Phòng, Việt Nam có điều kiện xây dựng, đào tạo một đội ngũ chuyên gia về dược học, các nhà khoa học, doanh nghiệp trước tiên là việc tiếp nhận công nghệ, sử dụng tốt công nghệ và tiến tới nghiên cứu độc lập để có thể tiếp tục chuyển giao công nghệ theo hướng nội sinh.

Cuối cùng việc chuyển giao công nghệ Công nghệ sản xuất thuốc ARV được chuyển giao tại Hải Phòng, Việt Nam theo mô hình Marketing xã hội góp phần xã hội hóa đối với sản phẩm thuốc ARV và tiến tới có thể tạo ra vắc – xin dùng cho phòng, chống lây nhiễm vi rút HIV.

1.5. Vai trò Marketing xã hội ngăn chặn lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Quá trình hoạch định, nghiên cứu đối tượng mục tiêu và ra quyết định thực hiện hoạt động Marketing xã hội nói chung cũng như Marketing xã hội sản phẩm phòng chống lây nhiễm và điều trị vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS nói riêng đều có chung thường được gọi là 4P của Marketing kinh doanh truyền thống.

  • Sản phẩm (Product) Giá cả (Price)
  • Phân phối (Place)
  • Cổ động (Promotion)

Những thành phần nêu trên trong Marketing xã hội, theo các học giả nước ngoài và thực tế còn có thêm 4P đặc thù gồm:

  • Cộng đồng (Publics) Đối tác (Partnership) Chính sách (Policy)
  • Tài chính (Purse-strings)

Đây là những thành phần đặc thù mới và khác biệt của Marketing xã hội so với Marketing kinh doanh. Sự điều chỉnh này xuất phát từ khái niệm của Marketing xã hội là làm thay đổi hành vi của những nhóm đối tượng trong cộng đồng; với sự tham gia của các đối tác khác nhau; mà sự thay đổi của hành vi này chịu ảnh hưởng của các chính sách và điều kiện bảo đảm hoạt động là phương tiện tài chính cần thiết.

Thứ tự 8 P theo quan điểm tác giả gồm:

1.5.1. Giá cả Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Chính sách giá là một thành phần quan trọng trong các chương trình Marketing xã hội vì chúng phải dung hòa giữa những yêu cầu có vẻ trái ngược nhau. Giá cần phải tạo cho phía buôn bán một khoản lợi nhuận để họ có động cơ tham gia phân phối sản phẩm. Biên lợi nhuận không được quá lớn, nhưng cũng phải đủ để khuyến khích người bán chấp nhận phân phối sản phẩm. Đồng thời, giá cũng phải phù hợp để vừa túi tiền người tiêu dùng có thu nhập thấp và trung bình có khả năng mua được.

Triết lý giá của hoạt động Marketing xã hội phải phù hợp với đường lối chung của WHO (Tổ Chức Y Tế Thế Giới) cho rằng các chi phí cho sản phẩm thuốc được sử dụng trong năm không nên vượt quá 1% GDP bình quân đầu người. Chính sách giá và cơ cấu lợi nhuận cần phải mềm dẻo để có thể điều chỉnh và thực hiện khuyến mãi nhằm đối phó với một số tình huống có thể xảy ra như biến động tiền tệ, nguồn cung cấp hàng bị trục trặc và các biến cố thị trường khác.

Giá cả hay chi phí là những giá trị mà đối tượng phải bỏ ra để tiếp nhận sản phẩm. Giá cả thông thường là tiền bạc nhưng trong Marketing xã hội nó bao gồm cả những giá trị vô hình như thời gian, nỗ lực, thói quen mà đối tượng phải từ bỏ để tiếp nhận sản phẩm hoặc hành vi.

Có nhiều loại giá phải trả khác nhau trong Marketing xã hội có thể phân làm 2 nhóm:

  • Giá có thể đo lường:
  • Giá bằng tiền tệ
  • Giá bằng hao phí thời gian Giá khó đo lường :
  • Giá bằng sự nỗ lực cá nhân Giá bằng việc hy sinh bản ngã Giá bằng đạo đức nghề nghiệp
  • Giá bằng sự chịu đựng tình trạng khi thay đổi hành vi v.v…

Đặc điểm rõ nhất của thành phần giá cả là nếu chi phí cao hơn lợi ích do sản phẩm mang lại thì sản phẩm không hấp dẫn và không khả thi.. và còn một yếu tố nữa có thể là cảm giác bị kỳ thị khi giao tiếp; điều trị; sử dụng.

Ý nghĩa hay sự ảnh hưởng của giá cả bằng tiền tệ trong hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc kháng vi rút HIV/AIDS là chiến lược xây dựng giá cả. Thiết lập giá cả bằng tiền, đặc biệt là đối với một sản phẩm đặc thù như thuốc ARV điều trị vi rút HIV/AIDS có thể rất phức tạp. Nếu sản phẩm được định giá quá thấp hay phát miễn phí thì người bệnh có thể nghĩ rằng sản phẩm có chất lượng kém hoặc ỷ lại bởi sự tài trợ cấp phát miễn phí. Sản phẩm được định giá quá cao thì sẽ nhiều người không đủ khả năng tiếp cận, sử dụng sản phẩm. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Nếu muốn thực hiện Marketing xã hội đối với sản phẩm thuốc kháng vi rút HIV/AIDS phải cân bằng chi phí và lợi nhuận luôn ở mức trung bình để người tiêu dùng có thể tiếp cận và chấp nhận sản phẩm khi các nguồn tài trợ cấp phát thuốc miễn phí của nước ngoài không còn.

Bên cạnh đó, giá phải trả không đo lường được đối với việc phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS như sự nỗ lực cá nhân từ bỏ thuốc gây nghiện, hy sinh thói quen bản ngã, đạo đức trong nghề nghiệp của các y bác sĩ tại các bệnh viện hay chịu đựng khi thay đổi hành vi có ý nghĩa rất quan trọng trong Marketing xã hội trong việc phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV/AIDS. Hoạt động tư vấn, điều trị cũng như tư vấn gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự thay đổi hành vi này của đối tượng mục tiêu.

1.5.2. Phân phối

Phân phối là các hoạt động có tổ chức, điều hành sự lưu thông của sản phẩm trên thị trường từ lúc đưa sản phẩm ra cho đến lúc người tiêu dùng tiếp nhận được sản phẩm theo đúng thời gian, đúng vị trí trên cơ sở đúng kênh phân phối. Hoạt động phân phối các sản phẩm trong Marketing xã hội nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho việc thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu, được thực hiện trên những kênh sau.

Nhà phân phối là một công ty thương mại có mạng lưới tiêu thụ trên thị trường. Công ty này thực hiện chức năng như một đại lý phân phối chịu trách nhiệm việc lưu thông phân phối sản phẩm trên thị trường theo đúng mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra.

Kênh bán buôn gồm những nhà buôn đầu mối, sản phẩm mua bán của họ là những nhóm dược phẩm hoặc dụng cụ y tế được mua bán với số lượng lớn.

Kênh bán lẻ bao gồm các hiệu thuốc, phòng khám, bệnh viện, khách sạn, cửa hàng thuốc.

Nhân viên bán hàng lưu động là những nhân viên của đại lý phân phối có trách nhiệm cung ứng sản phẩm cho các kênh phân phối theo đúng các quy định về đơn hàng, số lượng, giá cả và phương thức giao hàng cho từng kênh phân phối.

Hiện nay hoạt động Marketing xã hội đối với sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV/AIDS bao gồm: Các loại bao cao su, bơm kim tiêm và thuốc ARV Đặc điểm phân phối của hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị thuốc kháng vi rút HIV hiện nay là các hình thức phân phối độc quyền, các loại thuốc phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS được mua từ nguồn ngân sách Nhà nước hoặc do các Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ. Bộ Y tế thống nhất phân phối trong phạm vi cả nước [trang 6 – NĐ 108/2015 ngày 26/8/2015].

Thị trường bao cao su và bơm kim tiêm có kênh bán lẻ, bán buôn là các trung tâm buôn bán dược phẩm tại các cửa hàng thuốc. Ngoài ra còn có hệ thống các công ty dược và vật tư y tế của các tỉnh, thành phố và trung ương. Các công ty này cũng nằm trong kênh mua bán và phân bổ xuống cho các hiệu thuốc trực thuộc. Riêng đối với thuốc ARV chưa được bán tại các cửa hàng thuốc trên thị trường do thuốc ARV đang được quản lý như một loại biệt dược và chưa được phân phối rộng rãi trên trường.

Sử dụng hệ thông phân phối theo Marketing xã hội có thể đo lường chính xác kết quả của hoạt động. Doanh số cấp phát qua các kênh phân phối là các báo cáo về số lượng theo kế hoạch đã được lập từ trước năm kế hoạch. Hoạt động Marketing xã hội đến các phường, xã thôn thông qua các cơ sở y tế địa phương, nhân viên tiếp cận cộng đồng.

1.5.3. Cổ động Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Cổ động, hay còn gọi là xúc tiến, là công cụ quan trọng và có hiệu quả trong hoạt động Marketing nhằm mục tiêu cho cung – cầu gặp nhau. Trong hoạt động Marketing xã hội, cổ động nhằm giải quyết vấn đề để đưa thông điệp đến đối tượng, nhằm hỗ trợ cho việc thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu.

Cổ động bao gồm nhiều cách thức truyền đạt thông điệp khác nhau như: chính xác, thiết thực, đơn giản phù hợp với lứa tuổi và quan trọng không cường điệu hóa và hù dọa, không đưa những hình ảnh mang tính tiêu cực về người nhiễm vi rút HIV/AIDS.

  • Quảng cáo: qua các phương tiện thông tin đại chúng, pa-nô, áp phích, báo, đài, trang mạng xã hội facebook, twitter v.v…
  • Quan hệ công chúng: thông cáo báo chí, thư gửi biên tập viên, tọa đàm tại các buổi nói chuyện trên truyền hình, tham dự các hội thảo v.v
  • Khuyến mãi: phiếu quà tặng, giải thưởng cho các cuộc thi, tranh tài thể thao, hoạt động biểu diễn v.v…
  • Ủng hộ truyền thông: những sự kiện báo chí được thiết kế để khuyến khích thay đổi chính sách v.v ….
  • Gặp gỡ cá nhân: tư vấn trực tiếp, giáo dục đồng đẳng, chăm sóc người có vi rút HIV và người có nguy cơ cao lây nhiễm.
  • Những sự kiện đặc biệt: kỷ niệm ngày 01/12 hàng năm thế giới phòng chống AIDS, những hội nghị về chăm sóc y tế, hội thảo v.v
  • Giải trí: diễn kịch, bài hát, chương trình biểu diễn trên truyền hình

Mặc dù chỉ là một trong số 8 thành phần, nhưng cổ động lại rất quan trọng trong hoạt động Marketing xã hội đối với phòng chống và điều trị vỉ rút HIV/AIDS. Đặc điểm quan trọng của nó là đưa thông tin về các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV/AIDS ra thị trường, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cũng như củng cố vị thế của sản phẩm trên thị trường.

Cổ động trong hoạt động Marketing xã hội các sản phẩm phòng chống lây nhiễm vi rút HIV làm cho người tiêu dùng biết đến thông điệp và sản phẩm phòng tránh được (sản phẩm bao cao su, bơm kim tiêm, dụng cụ y tế). Các thông điệp sẽ nhấn mạnh tính chất an toàn, hiệu quả và chất lượng của sản phẩm cũng như giá cả hợp lý của chúng. Các thông điệp dùng hình ảnh để giới thiệu các mạng lưới cung cấp sản phẩm, là nơi mà chất lượng phục vụ được nâng cao. Các chiến dịch cổ động được bổ sung bởi những phương tiện quảng bá có mục tiêu gây mối quan tâm vào sản phẩm và giáo dục cả người tiêu dùng lẫn nhà cung cấp về tính hiệu quả của sản phẩm và cách sử dụng sản phẩm cho đúng đắn.

1.5.4. Cộng đồng

Như đã đề cập ở phần khái niệm, hoạt động Marketing xã hội là quá trình tác động vào đối tượng mục tiêu để họ thực hiện những hành vi mong muốn phục vụ cho lợi ích của bản thân họ và cho xã hội. “Cộng đồng” là thành phần muốn đề cập đến những người thuộc và không thuộc đối tượng mục tiêu của chương trình nhưng lại có những ảnh hưởng nhât định đến quá trình Marketing xã hội. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Có 2 loại cộng đồng chính trong hoạt động Marketing xã hội. Mỗi loại cộng đồng lại gồm những đối tượng khác nhau:

  • Cộng đồng bên ngoài, gồm các đối tượng:
  • Đối tượng nguyên cấp:đối tượng mục tiêu của chương trình.
  • Đối tượng thứ cấp: những người có mối quan hệ mật thiết, có ảnh hưởng nhất định đối với đối tượng mục tiêu của chương trình (bạn bè, gia đình, thầy dạy, thầy thuốc,…)
  • Đối tượng “Các nhà làm chính sách”: Hạ viện, Thượng viện, cán bộ các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong các lĩnh vực có liên quan đến chương trình.
  • Đối tượng Quản trị viên: Các công ty quảng cáo, các hãng truyền thông, v.v…, nơi kiểm soát các thông điệp của chương trình.
  • Cộng đồng bên trong, gồm các đối tượng:
  • Các nhà quản trị hoạt động.
  • Cán bộ, nhân viên thừa hành của chương trình.

Trong hoạt động Marketing xã hội sản các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV thì đối tượng nguyên cấp của thành phần cộng đồng bên ngoài bao giờ cũng là những người có nguy cơ lây nhiễm vi rút HIV/AIDS như bán dâm (nam và nữ), tiêm trích các chất ma túy, quan hệ đồng tính. Đối tượng thứ cấp thường bao gồm bạn bè, đồng nghiệp, thầy thuốc, nhân viên y tế. Đối tượng “Các nhà làm chính sách” gồm các quan chức chính phủ chịu trách nhiệm trong lĩnh vực y tế, các Cục phòng chống và các lĩnh vực khác có liên quan. Đối tượng “Những người gác cổng”gồm Giám đốc các đài phát thanh, truyền hình, ban biên tập các báo và tạp chí và những người có thẩm quyền kiểm duyệt các thông điệp của chương trình. Cộng đồng bên trong gồm các quản trị viên và các cán bộ của chương trình.

Ý nghĩa của thành phần cộng đồng trong hoạt động Marketing xã hội sản các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV ở chỗ có sự phân khúc đối tượng Marketing xã hội không coi thị trường của mình là một khối thuần nhất và không đối xử với các đối tượng của mình như một đám đông, và mặc dù không thể đối xử với khách hàng từng người một, ngoại trừ trong những hoạt động quy mô nhỏ và được tài trợ dồi dào, nhưng vẫn có thể tập hợp đối tượng theo từng nhóm, từng độ tuổi, giới tính mà những người làm Marketing gọi là phân khúc thị trường để có các kế hoạch chiến lược khác nhau.

1.5.5. Đối tác

Đặc điểm của thành phần đối tác trong Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị HIV/AIDS ở Việt Nam là tính đa dạng của đối tác. Chương trình hành động Quốc gia về thông tin, giáo dục và truyền thông là hoạt động phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Để có thể huy động được những nguồn lực cần thiết cho việc thực thi các hoạt động của Chương trình trong đó có hoạt động Marketing xã hội, đòi hỏi phải có chính sách và cơ chế kêu gọi các đối tác tiềm năng từ các ngành, các cấp, các cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.

Đối tác là những tổ chức hoặc cá nhân cùng cộng tác với cơ quan tiến hành Marketing xã hội để cùng tham gia hoạch định hoặc thực thi các hoạt động. Trong Marketing xã hội các sản phẩm phòng chống lây nhiễm vi rút HIV, thành phần đối tác bao gồm các cá nhân, nhóm, tổ chức mà khi phối hợp hành động sẽ gia tăng được thêm nguồn lực nhằm hỗ trợ cho việc thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

  • Có 2 loại đối tác trong hoạt động Marketing xã hội các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV là:

Đối tác có cùng mục tiêu là những đối tác có cùng mục tiêu hoạt động với Marketing xã hội các các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV. Mục tiêu chung là vận động những đối tượng có nguy cơ lây nhiễm vi rút HIV/AIDS và xã hội thông qua sử dụng các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm cụ thể như bao cao su, bơm kim tiêm, cho máu, bán máu, mẹ truyền sang con, các dụng cụ y tế chưa được vô trùng triệt để,

Đối tác không cùng mục tiêu là những đối tác còn lại, mục tiêu hoạt động của đối tác này có thể không phải là Marketing xã hội và không cùng trong lĩnh vực, nhưng khi kết hợp hoạt động với những đối tác này sẽ tạo ra những hiệu ứng tích cực cho các mục tiêu khác nhau của cả đôi bên.

Đặc điểm của thành phần đối tác trong hoạt động Marketing xã hội các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV là tính đa dạng của đối tác. Đối tác có thể là cá nhân hoặc tổ chức, mục tiêu hoạt động có thể là kinh doanh hoặc phi kinh doanh trong cả khu vực Nhà nước hoặc khu vực Tư nhân. Để có thể huy động được những nguồn lực cần thiết cho việc thực thi các hoạt động của Chương trình trong đó có hoạt động Marketing xã hội, đòi hỏi phải có chính sách và cơ chế kêu gọi các đối tác tiềm năng từ các ngành, các cấp, các cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.

Những vấn đề xã hội thì khá rộng và chuyển biến liên tục nên một tổ chức không thể tự làm nên mô hình hoạt động. Bằng cách liên kết với những cá nhân hoặc tổ chức khác nhau trong cộng đồng, hoạt động Marketing xã hội có thể mở rộng nguồn lực cũng như phương pháp tiếp cận đối tượng mục tiêu. Nhận định được đối tác nào có thể kết hợp hoạt động và tìm ra cách mà Marketing xã hội có thể làm việc được với đối tác đó để các bên đều đạt được những mục tiêu của mình là một công việc quan trọng cho các nhà quản trị hoạt động Marketing xã hội.

1.5.6. Chính sách

Chính sách là những quy định, phương hướng và giới hạn của một lĩnh vực hoạt động được đề ra bởi các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia, cấp ngành và cấp địa phương hoặc cấp tổ chức.

  • Phân loại chính sách:

Chính sách đối với Việt Nam được đề ra bởi các nhà hoạch định chính sách thuộc Quốc hội, Chính phủ với phạm vi áp dụng trong toàn lãnh thổ.

Chính sách cấp ngành, địa phương là chính sách được đề ra bởi các nhà hoạch định chính sách cấp ngành hoặc chính quyền địa phương.

Chính sách cấp tổ chức là chính sách được đề ra bởi các nhà hoạch định chính sách cấp Sở, Ban ngành, doanh nghiệp, Đoàn thể, Tổ chức. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Hoạt động Marketing xã hội nói chung có hiệu quả tốt trong việc vận động các đốì tượng mục tiêu thay đổi hành vi của họ nhưng chúng khó duy trì bền vững, trừ khi môi trường xung quanh đối tượng mục tiêu cũng hỗ trợ sự thay đổi đó lâu dài. Trong nhiều trường hợp, chính sách là thành phần đóng vai trò rất hiệu quả trong việc cung cấp loại hỗ trợ này. Những phương pháp vận động bằng phương tiện truyền thông cũng như các vận động hành lang để tác động đến những người hoạch định chính sách rất có hiệu quả trong hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS.

1.5.7. Tài chính

Tài chính trong hoạt động Marketing xã hội là nguồn tiền phục vụ cho các khoản chi tiêu trong quá trình hoạt động.

Có 3 loại nguồn ngân quỹ chủ yếu trong hoạt động Marketing xã hội là:

  • Nguồn tiền từ tổ chức sáng lập gồm cá nhân hoặc tập thể các thành viên sáng lập ra tổ chức đóng góp.
  • Nguồn tiền từ Chính phủ được phân bổ từ ngân sách nhà nước theo kế hoạch hoạt động đã được phê duyệt.
  • Nguồn tiền từ quyên góp được hình thành từ việc vận động quyên góp các cá nhân, tổ chức ( gọi tắt là các nhà tài trợ).

Đặc điểm của thành phần tài chính trong hoạt động Marketing xã hội thường hình thành từ người sáng lập và trong quá trình hoạt động được bổ sung và phát triển thêm từ ngân sách Nhà nước, các nguồn tài trợ khác từ các tổ chức trong nước, nước ngoài..

Cũng như các hoạt động xã hội khác, hoạt động Marketing xã hội các sản phẩm phòng tránh và giảm lây nhiễm vi rút HIV/AIDS phải hoàn toàn dựa vào nguồn tài trợ và một phần ngân sách Nhà nước. Do vậy tính bền vững của hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào việc duy trì và phát triển nguồn tài trợ. Tuy nhiên, sự khác biệt của hoạt động Marketing xã hội là sử dụng toàn bộ ngân quỹ cho việc chi tiêu hoạt động, không có các khoản thu khác từ lợi nhuận. Tuy nhiên đối với hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS có thể giảm dần nguồn ngân quỹ bằng nguồn thu từ việc trợ giá các sản phẩm phòng chống (bao cao su, bơm kim tiêm, chi phí xét nghiệm, thuốc) nhằm mục tiêu khuyến khích sự thay đổi hành vi, nhờ đó ổn định và gia tăng được phần nào tính bền vững của hoạt động tài chính.

Hoạt động Marketing xã hội ở Việt Nam đối với chương trình hành động Quốc gia về thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi, phòng chống HIV/AIDS do Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Bí thư, Quốc hội, Thủ tướng Chính Phủ, Bộ Y tế đề ra nhằm “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”

Marketing xã hội trong việc phòng chống, điều trị vi rút HIV/AIDS được thực hiện bởi nguồn tài chính do cộng tác giữa hai cơ quan là Uỷ ban phòng chống lây nhiễm vi rút HIV/AIDS (nay là Uỷ ban phòng chống HIV/AIDS) và chương trình của Liên hiệp quốc về HIV/AIDS viết tắt là UNAIDS và một số các tổ chức khác như USAID.

1.5.8. Sản phẩm Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Sản phẩm của hoạt động Marketing xã hội là những dịch vụ tư vấn, thông tin giáo dục truyền thông và các sản phẩm đặc dụng: bao cao su, bơm kim tiêm và cuối thuốc kháng vi rút HIV nhằm phục vụ cho nhu cầu của đối tượng mục tiêu.

Sản phẩm phòng chống lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS hiện nay có 2 loại sản phẩm:

Loại thứ nhất là các sản phẩm lâm sàng, là loại sản phẩm mà người sử dụng phải thực hiện tại các cơ sở Y tế với sự trợ giúp của Nhân viên y tế, như: thuốc điều trị và chống phơi nhiễm vi rút HIV là thuốc ARV, xét nghiệm và được quản lý theo quy định hiện hành.

Loại thứ 2 là sản phẩm phi lâm sàng như: bao cao su, bơm kim tiêm được bán phổ biến trên thị trường, dễ mua bán và không hạn chế quyền kiểm soát của Nhà nước, nhờ đó đã hỗ trợ tốt hơn cho sự thay đổi hành vi của đối tượng mục tiêu.

1.6. Vai trò của hoạt động xã hội trong hoạt động ngăn chặn bệnh AIDS

Như tất cả các hoạt động kinh tế – xã hội khác, hoạt động Marketing xã hội ở Việt Nam được phát động bởi các Nghi quyết của Đảng, Chính phủ và chịu sự điều chỉnh của Pháp luật, mức độ ảnh hưởng bởi chính sách của Nhà nước, bao gồm các chính sách là Luật, Nghị định, thông tư hướng dẫn nhằm thể chế hoá chính sách trong chương trình hành động Quốc gia về Thông tin, Giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng, chống, ngăn chặn và điều trị. Chính sách của Nhà nước cũng là chính sách của các Chính quyền địa phương nhằm cụ thể hoá chính sách Nhà nước trong điều kiện của địa phương cụ thể.

Tại Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2013 của Bộ Chính trị về “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong thời kỳ mới” đã nêu rõ:

“Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ  ”

Liên quan đến chính sách đối với hoạt động Marketing xã hội, trong chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 36/2012/QĐ-TTg ngày 17/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết số 46/ NQ- TW ngày 23/3/2013 của Bộ Chính trị về việc phê duyệt “ Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam năm 2018 và tầm nhìn đến năm 2030” Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Vai trò nguồn tài chính trong hoạt động Marketing xã hội các sản phẩm phòng chống lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS tại Việt Nam rất quan trọng, thường được hình thành từ hai nguồn chủ yếu:

Nguồn tài trợ chính từ các Tổ chức nước ngoài (chiếm 90%) do các nhà tài trợ như: Quỹ Toàn cầu trong phòng chống AIDS, Lao, Sốt rét của Liên Hiệp quốc, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC Hoa Kỳ); Chương trình hỗ trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ về phòng chống HIV/AIDS .. tài trợ và một phần nhỏ từ Ngân sách Nhà nước.

Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) ra đời năm 2004, đóng vai trò dẫn dắt Thế giới ứng phó với đại dịch HIV/AIDS. UNAIDSđã dẫn dắt và truyền cảm hứng cho toàn thế giới trong nỗ lực thực hiện tầm nhìn chung về: Không còn người nhiễm mới HIV, Không còn phân biệt đối xử và Không còn người tử vong do AIDS. UNAIDS đứng ra tập hợp nỗ lực của 11 tổ chức Liên Hợp Quốc, gồm UNHCR, UNICEF, WFP, UNDP, UNFPA, UNODC, UN Women, ILO, UNESCO, WHO và Ngân hàng thế giới WB, và phối hợp chặt chẽ với các đối tác toàn cầu cũng như ở cấp quốc gia nhằm tiến tới kết thúc dịch AIDS vào năm 2040, để AIDS không còn là một mối nguy cho sức khỏe cộng đồng. Nguồn tài chính còn lại là nguồn vốn đối ứng rất nhỏ không đáng kể của các nhà tài trợ trong nước và ngân sách kinh tế trung ương và ngân sách kinh tế địa phương.

Từ việc phân tích vai trò thành phần tài chính trong Marketing xã hội, một vấn đề được đặt ra là làm thế nào giải quyết được tình trạng Marketing xã hội luôn phải phụ thuộc vào các nguồn tài trợ. Nói một cách khác đi, tính bền vững của hoạt động Marketing xã hội luôn là một vấn đề trăn trở và rất khó làm do dòng tiền của nguồn tài chính. Nếu đó là dòng tiền dương thì không phải là Marketing xã hội, ngược lại dòng tiền âm tính bền vững của Marketing xã hội sẽ trở nên mong manh vấn đề còn lại là tìm ra giải pháp sao cho dòng tiền không dương và cũng không âm, nó phải ở vị trí cân bằng.

Thực tế khi hoạt động Marketing xã hội ở Việt Nam cho thấy việc xác lập các mục tiêu hoạt động là một công việc rất quan trọng và cần thiết. Mục tiêu của hoạt động Marketing xã hội ờ Việt Nam là làm cho các sản phẩm và các kỹ thuật y tế đơn giản có mặt ở mọi nơi để giúp mọi người thực hành các hành vi cần thiết để tự bảo vệ mình tránh lây nhiễm, hay rơi vào các tình huống không mong muốn. Mục tiêu của Marketing xã hội ở Việt Nam đồng thời nhằm mở rộng và bổ sung vào hai kênh cung cấp sản phẩm y tế truyền thống, đó là, các cơ sở y tế của Nhà nước, nơi cung cấp miễn phí hoặc với giá rất rẻ các sản phẩm và dịch vụ y tế, và mạng lưới thương mại tư nhân – khu vực cung cấp rộng hơn nhưng lại bán sản phẩm theo giá thương mại. Marketing xã hội ở Việt Nam cho thấy giữa các sản phẩm được phân phối miễn phí qua hệ thống của Chính phủ và các sản phẩm được bán với giá đắt qua mạng lưới thị trường vẫn còn tồn tại khoảng trống. Ví dụ, với các sản phẩm được phát không hoặc cung cấp với giá rẻ ở các cơ sở y tế Nhà nước, các trạm bảo vệ sức khoẻ hay bệnh viện thì có thể lại không được phân phối rộng khắp theo địa lý và do đó sản phẩm không đến được tay đa số người dân. Ngược lại, các mạng lưới thương mại tư nhân như hiệu thuốc hay phòng mạch tư nói chung được phân bố với diện rộng hơn trong cộng đồng, nhưng vấn đề giá cả lại làm tầng lớp dân nghèo không thể với tới. Hoạt động Marketing xã hội tìm đến phục vụ ở giữa hai hệ thông phân phối nói trên. Thực hiện chính sách trợ giá sản phẩm, đồng thời áp dụng các kỹ thuật Marketing thương mại, những nguyên tắc quản trị kinh doanh, và hoạt động trên diện rộng, hoạt động Marketing xã hội đã tạo ra sự sẵn cỏ các sản phẩm phòng chống HIV/AIDS trên thị trường Việt Nam ở mức giá chấp nhận được đáp ứng quyền lợi và khuyến khích khối doanh nghiệp tư nhân đàm phán chuyển giao công nghệ cũng như huy động các chuyên gia để tiếp nhận và sử dụng công nghệ sản xuất thuốc ARV cũng như các sản phẩm phòng chống lây nhiễm và điều trị HIV/AIDS.

1.7. Kết luận chương 1 và nhiệm vụ chương 2 Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

Từ việc phân tích cơ sở lý thuyết, vai trò, ý nghĩa, hoạt động Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn bệnh AIDS nhằm đưa ra mô hình các thành phần của Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn lây nhiễm các đại dịch bệnh cũng như bệnh HIV/AIDS; đồng thời đánh giá vai trò của các thành phần Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn bệnh AIDS bằng các thành phần theo lý thuyết của Marketing xã hội.

Các thành phần gồm: Sản phẩm: Đa dạng hoá sản phẩm – phát triển thị trường mục tiêu; về giá: Xây dựng giá bán sản phẩm hợp lý; về phân phối: Mở rộng kênh phân phối tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; về cổ động: Phát triển hoạt động truyền thông, cổ động rộng rãi với mọi hình thức; về cộng đồng: Tăng cường tập huấn kiến thức về phòng chống lây nhiễm và điều trị HIV/AIDS trong cộng đồng; Về đối tác: Huy động rộng rãi mọi thành phần, đối tác tham gia vào hoạt động Marketing xã hội phòng chống lây nhiễm và điều trị HIV/AIDS.

Thực tế sự kỳ thị với người nhiễm HIV/AIDS là thái độ coi thường, làm mất thể diện hay không tôn trọng một người hoặc gia đình họ vì biết họ nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm HIV/AIDS. Kỳ thị có thể do các cá nhân, bạn bè, gia đình, cộng đồng và cả cán bộ y tế, thậm chí từ phía chính quyền gây ra với người nhiễm HIV/AIDS Những người nhiễm HIV thường phải giấu diếm, lẩn trốn thậm trí có tư tưởng trả thù xã hội bằng các hành vi khủng bố, tấn công, ….gây mất an ninh trật tự xã hội.

Ý nghĩa về chuyển giao công nghệ thuốc ARV tại Hải Phòng, Việt Nam về việc đánh giá thực trạng các thành phần Marketing xã hội đã diễn ra đối với công tác phòng chống HIV/AIDS (hệ thống phân phối sản phẩm, huy động các nguồn tài chính, truyền thông..) sẽ được phân tích, đánh giá theo mô hình Marketing xã hội tại Chương 2 của Luận văn. Luận văn: Hoạt động Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993