Luận văn: Thực trạng Marketing sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS

Đánh giá post

Phân tích hoạt động Marketing xã hội về bệnh truyền nhiễm vi rút HIV/ AIDS

2.1. Giới thiệu về các Trung tâm Y tế dự phòng trong hoạt động ngăn chặn HIV/AIDS

2.1.1. Giới thiệu về các Trung tâm Y tế dự phòng

Các Trung tâm Y tế ở Hải Phòng bao gồm các Trung tâm sau: Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng: số 140 – Trần Phú.

  • Trung tâm Y tế dự phòng thành phố – Phòng tiêm Vaccin: số 21 – Lê Đại Hành.
  • Trung tâm Y tế dựng phòng quận Lê Chân: số 58 – Nguyễn Đức Cảnh.

Hải Phòng là đơn vị sự nghiệp Y tế công lập trực thuộc Sở Y tế, có chức năng chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, kỹ thuật về Y tế dự phòng trên địa bàn thành phố; tổ chức thực hiện các dịch vụ công về y tế dự phòng theo quy định của Pháp luật.

Được thành lập từ năm 1963, Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng – tiền thân là Trạm Vệ sinh phòng dịch, đến nay vừa tròn 53 năm. Nửa thế kỷ gắn liền với sự xây dựng và phát triển của ngành Y tế nói riêng, của thành phố Hải Phòng và của đất nước nói chung; Trung tâm Y tế dự phòng đã không ngừng được củng cố và phát triển cả về đội ngũ cán bộ cũng như sự lớn mạnh trong hoạt động chuyên môn kỹ thuật. Là đơn vị hạng I sự nghiệp y tế, đầu ngành về lĩnh vực Y tế dự phòng – một lĩnh vực hoạt động đa dạng, đa chuyên khoa luôn gắn liền với cộng đồng: phòng chống và kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm trong cộng đồng; công tác y tế môi trường, y tế trường học; sức khỏe và bệnh nghề nghiệp; vi chất dinh dưỡng; vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêm chủng phòng bệnh; các chương trình mục tiêu Y tế Quốc gia; các dự án hợp tác Quốc tế, phát triển khoa học kỹ thuật, đào tạo huấn luyện và nghiên cứu khoa học phục vụ công tác phòng bệnh, góp phần không nhỏ và rất quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thành phố Hải Phòng và các địa phương lân cận. Sự lớn mạnh cả về lượng và chất trong 53 năm qua của Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo của Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố, sự chỉ đạo sát sao của Bộ Y tế, các viện chuyên khoa đầu ngành của Trung ương, Sở Y tế cùng với sự tham gia tích cực có hiệu quả của các ban ngành, tổ chức đoàn thể thành phố, của các quận, huyện, xã, phường, thị trấn trong toàn thành phố; sự phối hợp từ các trung tâm Y tế dự phòng, các đơn vị y tế Hải Phòng. Đặc biệt là sự cống hiến của các thế hệ cán bộ lãnh đạo, CBNV của Trung tâm qua các thời kỳ, các giai đoạn; Trung tâm Y tế dự phòng đã có phát triển, tạo được nền móng nhưng chưa thực sự bền vững.

2.1.2 Cơ cấu tổ chức

Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế dự phòng

Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị sự nghiệp y tế công lập trực thuộc Sở Y tế, có chức năng chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, kỹ thuật về y tế dự phòng trên địa bàn tỉnh; tổ chức thực hiện các dịch vụ công về y tế theo quy định của pháp luật.

Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng, có trụ sở làm việc theo quy định của pháp luật.

Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, hoạt động và các nguồn lực của Sở Y tế; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Y tế.

  • Nhiệm vụ:

Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, kỹ thuật về y tế dự phòng trên cơ sở định hướng, chính sách, chiến lược, kế hoạch của Bộ Y tế và tình hình thực tế của địa phương trình Sở Y tế phê duyệt, giám sát, phòng chống dịch, bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm, các bệnh xã hội, sức khỏe môi trường, sức khỏe lao động, sức khỏe trường học, chất lượng nước ăn uống, nước sinh hoạt; xét nghiệm an toàn thực phẩm; dinh dưỡng cộng đồng; vệ sinh phòng bệnh; quản lý, xử dụng vắc xin và sinh phẩm y tế; an toàn sinh học; phòng chống tai nạn thương tích; các hoạt động nâng cao sức khỏe, phòng chống các yếu tố nguy cơ tác động lên sức khỏe; khám sàng lọc phát hiện bệnh sớm và quản lý, điều trị dự phòng ngoại trú các bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm.

Chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát chuyên môn, kỹ thuật về y tế dự phòng đối với các Trung tâm Y tế quận, huyện, các cơ sở y tế và Trạm Y tế xã, phường, thị trấn trên địa bàn.

Triển khai các hoạt động truyền thông nguy cơ; phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức triển khai thực hiện công tác thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe thuộc lĩnh vực y tế dự phòng.

Xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo liên tục về chuyên môn, kỹ thuật cho công chức, viên chức, người lao động của Trung tâm; tham gia đào tạo, đào tạo liên tục về chuyên môn, kỹ thuật thuộc lĩnh vực y tế dự phòng theo kế hoạch của thành phố, là cơ sở thực hành của các cơ sở đào tạo nhân lực y tế trên địa bàn và của Trung ương trong lĩnh vực y tế dự phòng.

Nghiên cứu và tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật thuộc lĩnh vực y tế dự phòng.

Đề xuất, quản lý và tổ chức thực hiện các đề án, dự án, chương trình mục tiêu y tế quốc gia và hợp tác quốc tế về y tế dự phòng trên địa bàn thành phố khi được cấp có thẩm quyền giao, phê duyệt.

Tổ chức thực hiện các hoạt động dịch vụ về y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và khám sàng lọc phát hiện bệnh sớm, quản lý, điều trị dự phòng ngoại trú các bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm.

Tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá các hoạt động thuộc lĩnh vực y tế dự phòng trên địa bàn thành phố.

Thực hiện quản lý cán bộ, viên chức, người lao động và quản lý tài chính, tài sản của đơn vị theo quy định của pháp luật.Thực hiện các chế độ thống kê, báo cáo theo quy định của pháp luật. Thực hiện các quyền hạn, nhiệm vụ khác do Sở Y tế và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao.

2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan phòng chống AIDS trên báo cáo về việc ngăn chặn bênh AIDS

2.2.1. Đánh giá thực trạng của các Trung tâm Y tế trong hoạt động ngăn chặn HIV/AIDS

Hải Phòng với vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi là cửa ngõ khu vực Đồng bằng Bắc bộ ra khu vực Quốc tế bằng đường biển, hàng không nên ngay từ những năm 2008 đã có một số trường hợp từ các trại tị nạn nước ngoài về nghi lây nhiễm vi rút HIV. Tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS ở Hải Phòng diễn biến phức tạp nhất vào năm 2011 và bị coi là “điểm nóng” của cả nước về số người nhiễm mới HIV khi toàn thành phố có đến gần 1.570 trường hợp nhiễm mới. Từ năm 2012 đến nay số người lây nhiễm mới HIV/AIDS giảm qua từng năm. Đến năm 2020, số ca mắc mới chỉ còn 324 trường hợp (bằng 85% so với năm 2019). Tỷ lệ phát hiện nhiễm HIV tương đương 0,37% dân số.

Dự án phòng, chống HIV/AIDS ở Hải Phòng hiện nay do Cục phòng chống HIV/AIDS hợp tác cùng Ngân hàng Thế giới (WB) và chính phủ Vương quốc Anh DFID, UNAIDS, USAID tài trợ đã giúp nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của cộng đồng và những đối tượng có nguy cơ cao trong công tác phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn.

Theo số liệu thống kê của Trung tâm Phòng, chống AIDS thành phố Hải Phòng, tính đến tháng 7/2023, số người nhiễm HIV ở Hải Phòng là hơn 10.000 trường hợp, trong đó chuyển AIDS là 5.900 trường hợp và số người nhiễm HIV đang có biến động hết sức phức tạp

Để giảm thiểu số người nhiễm mới HIV trên địa bàn, Hải Phòng đã tích cực vận động triển khai thực hiện Dự án phòng, chống HIV/AIDS do WB và DFID , UNAD, USAD tài trợ với mục tiêu chính là can thiệp phù hợp với các nhóm đối tượng đích có hành vi nguy cơ cao nhiễm HIV và nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của cộng đồng về phòng, chống HIV/AIDS.

Dự án phòng, chống HIV/AIDS Hải Phòng cho biết, trong 10 năm thực hiện, dự án được triển khai ở 62 xã, phường, thị trấn của 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố. Ngay năm đầu triển khai, số người phát hiện nhiễm mới HIV đã giảm gần 100 người so với cùng kỳ năm trước và liên tục giảm trong 8 năm qua.

Trong năm 2023, số người mới phát hiện nhiễm HIV chỉ còn 278 người, giảm gần 70% so với thời điểm trước khi triển khai dự án. Cùng với đó, số người phát hiện mới mắc bệnh AIDS trong năm chỉ còn 65 người, giảm gần 500 người so với thời điểm năm 2013.

Để đạt được kết quả trên, Hải Phòng đã triển khai đồng loạt nhiều biện pháp tuyên truyền, hỗ trợ các đối tượng đích là những đối tượng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS, đồng thời xây dựng mạng lưới cộng tác viên, nâng cao kiến thức và thường xuyên gặp gỡ, trao đổi thông tin về phòng, chống lây nhiễm HIV bằng cách sử dụng bơm kim tiêm sạch, bao cao su.

Số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2014 đến nay, dự án đã phát hơn 9 triệu bơm kim tiêm sạch và gần 3 triệu bao cao su cho các đối tượng đích, với tỷ lệ sử dụng thường xuyên đạt hơn 90%. Đến nay, thói quen sử dụng bơm kim tiêm sạch và bao cao su cũng được nâng lên, một bộ phận người có nguy cơ lây nhiễm cao chuyển dần sang hình thức “tiếp thị bao cao su” thay vì đợi phát miễn phí như trước.

Mặc dù số người nhiễm mới HIV, chuyển sang giai đoạn AIDS liên tục giảm nhưng công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Hải Phòng còn nhiều thách thức. Số người nhiễm HIV/AIDS vẫn tập trung ở những nơi có địa bàn đông dân, phức tạp, khó tiếp cận đối tượng đích. Ngoài ra, tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm nghiện chích ma túy có chiều hướng giảm, nhưng ở nhóm phụ nữ bán dâm lại có chiều hướng tăng nhất là đối với người mẫu thời trang, hoa hậu địa phương bán dâm cho các đại gia, những người giàu có đang diễn biến hết sức phức tạp.

Mục mục tiêu không còn người nhiễm mới HIV, trong thời tới Hải Phòng sẽ triển khai nhiều hoạt động nhằm duy trì hiệu quả của dự án phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn. Đặc biệt, Hải Phòng sẽ tập trung nâng cao hơn nữa nhận thức của cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS, đặc biệt là những đối tượng đích.

Bên cạnh đó, mở rộng mạng lưới cộng tác viên trên toàn địa bàn có kinh nghiệm qua 8 năm thực hiện Dự án phòng, chống HIV/AIDS ở Hải Phòng cho thấy, điều quan trọng nhất đối với sự thành công của dự án là lòng nhiệt huyết, tận tình của đội ngũ Cộng tác viên, Đồng đẳng viên phòng, chống HIV/AIDS. Nhiều người cộng tác viên, Đồng đẳng viên trong số họ nghiện ma túy, bị phơi nhiễm HIV/AIDS do quan hệ tình dục không an toàn, do dùng chung bơm kim tiêm. Hơn ai hết, họ thấu hiểu áp lực cuộc sống và xã hội mà người bị nhiễm HIV/AIDS phải đối mặt. Chính bởi lẽ đó, họ dễ tiếp cận, dễ đồng cảm với những đối tượng có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS hơn, từ đó đẩy mạnh hình thức vận động, tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS phù hợp, gần gũi với các đối tượng đích.

Ngoài ra, Hải Phòng đã tổ chức những buổi chia sẻ, trao đổi kiến thức để xóa bỏ kỳ thị, giúp những người nhiễm HIV/AIDS, nghiện chích ma túy và những gái mại dâm quay lại con đường hoàn lương nhằm giảm thiểu số người nhiễm mới HIV và tái hòa nhập cộng đồng.

Theo đánh giá của Sở Y tế Hải Phòng năm 2024 dịch HIV/AIDS cơ bản vẫn được kiểm soát dưới 0,4%, tiếp tục giảm cả 3 chỉ số (số nhiễm mới, số chuyển sang AIDS và tử vong do AIDS).

Tính đến hết 30/4/2024, Hải Phòng có 11.256 trường hợp nhiễm HIV được phát hiện, 6.097 người chuyển sang AIDS và 3.398 người đã tử vong do HIV/AIDS. So với cùng kỳ năm 2023 đã giảm cả 3 chỉ số: số nhiễm mới, số chuyển sang AIDS và số ca tử vong do AIDS.

Số nhiễm HIV mới phát hiện vẫn tập trung ở nhóm nghiện chích ma túy, đặc biệt có 20 người nhiễm mới thuộc nhóm đối tượng khác thì 100% là nữ. Hầu hết các quận huyện đều có ca nhiễm mới và vẫn tập trung ở các quận, huyện trọng điểm về ma túy như Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Thủy Nguyên; duy trì cao ở nhóm 20 – 49 tuổi (91,54%) và tiếp tục tăng ở nhóm trên 50 tuổi (8,45%) trong số ca nhiễm mới.

Cũng trong 6 tháng đầu năm, công tác phòng, chống HIV/AIDS của thành phố tiếp tục được đẩy mạnh. Các hoạt động giáo dục, can thiệp giảm hại cho các nhóm nguy cơ cao thông qua mạng lưới đồng đẳng viên/các nhóm tự lực được duy trì; hoạt động tư vấn, xét nghiệm HIV lồng ghép vào hệ thống y tế được đảm bảo nhằm giúp các nhóm đối tượng có nguy cơ cao tiếp cận và sử dụng các dịch vụ.

Hiện nay, toàn thành phố có 15 cơ sở điều trị Methadone với 3.855 bệnh nhân, đạt 83,38% chỉ tiêu giao của Chính phủ; 9,23% bệnh nhân điều trị trên 6 tháng có test nước tiểu dương tính với heroin (giảm so với cùng kỳ năm 2023).

Về điều trị HIV, 14 phòng khám ngoại trú điều trị ARV/OPC đang điều trị cho 4.591 bệnh nhân (trẻ em:149); số mới vào điều trị là 164, tử vong 21 (do các bệnh lý khác, tai nạn…). 13/14 OPC đang kiện toàn cơ sở điều trị về hệ thống khám chữa bệnh để thực hiện chi trả bảo hiểm y tế cho người bệnh HIV có bảo hiểm y tế. Ngoài ra chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con được triển khai ở tất cả các tuyến y tế nhằm tư vấn và xét nghiệm HIV sớm cho phụ nữ mang thai 4 tháng đầu năm 2024 đã tư vấn, xét nghiệm cho 8.801 phụ nữ mang thai, phát hiện 2 ca dương tính HIV.

2.2.2. Đánh giá thực tế Marketing xã hội đối với công tác phòng chống HIV/AIDS tại Hải Phòng trong thời gian qua

Đóng vai một người mới nhiễm vi rút HIV và có nguyện vọng được điều trị bằng thuốc ARV miễn phí và xin được cấp phát một số dụng cụ tránh lây nhiễm sang người khác.

Qua nhiều ngày săn đón và tìm gặp (do ông Trạm trưởng bận đi họp, đi công tác và bận đi báo cáo về các dịch bệnh, lập kế hoạch ….. ). Khi gặp Trưởng trạm Y tế phường, quận để trình bày việc bản thân có nhiễm vi rút HIV và muốn xin thuốc điều trị miễn phí (Hiện nay, Phường hoặc Xã là đơn vị sau cùng của hệ thống Y Tế Nhà nước và Trưởng trạm Y tế Phường, Xã, sẽ là cán bộ chuyên trách AIDS của Phường hoặc Xã đó;do vậy, chỉ có người nàymới có đủ “thẩm quyền” và hướng dẫn cho bạn các loại giấy tờ theo quy đinh của Bộ y tế và Chính quyền sở tại. Sau đó để được Trưởng trạm Y tế Phường nơi người nhiễm HIV cư trúsẽ hướng dẫn bệnh nhân đến Văn phòng Thường trực phòng chống AIDS của Thành phố hoặc Trung tâm tham vấn hỗ trợ cộng đồng (OPC) hoặc các Bệnh viện, các điểm có điều trị bằng ARV mất khoảng 01- 02 tháng.

Các nơi điều trị sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết để điều trị theo kế hoạch đã được phân bổ thuốc ARV được lập từ tháng 11-12 của năm trước của địa phương, nguồn ARV có thể nhiều hoặc ít nhưng cơ bản có các điểm sau:

Phải đăng ký sớm thì khi có ARV chuyển về địa phương thì mình sẽ được cấp trước vì thủ tục đã đầy đủ .

Theo quy định thì bệnh nhân và thân nhân sẽ được dự ít nhất là 06 buổi tham vấn (3 buổi tham vấn nhóm và 3 buổi tham vấn cá nhân theo hướng dẫn của Bộ Y Tế ).Vì vậy, thời gian làm thủ tục sẽ không thể nhanh được thường mất từ 2 đến 6 tháng.

Như vậy tổng thời gian kể từ khi bị nhiễm vi rút HIV đến khi được điều trị bằng thuốc ARV như hiện nay cần “đợi” từ 6-10 tháng và tùy thuộc vào thời điểm đăng ký là đầu năm hay cuối năm kế hoạch.

Các trường hợp khẩn cấp tức là đã chuyển sang giai đoạn AIDS (CD4 quá thấp hoặc vì lý do chuyên môn Y tế cần uống thuốc sớm) thì nơi điều trị sẽ có biện pháp can thiệp.

Lưu ý nếu có có nhu cầu thật sự thì người nhiễm nên làm đúng theo “quy trình” thì mới có thuốc ARV phát miễn phí. Còn các loại dụng cụ để tránh lây nhiễm HIV như bao cao su, bơm kim tiêm sạch thì các trạm y tế dự phòng yêu cầu bạn phải đến các buổi tham vấn để nhận từ Hội Đồng đẳng (là hội những người bị nhiễm vi rút HIV) hoặc theo chu kỳ phát động phòng chống lây nhiễm vi rút HIV.

Theo thống kê trên địa bàn Hải Phòng số người nhiễm vi rút HIV được điều trị bằng thuốc ARV đạt tỷ lệ chưa đến 50% tức là khoảng 5.000 người trong thời gian tới sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS và đây cũng là gánh nặng tâm lý, kinh tế của người nhiễm vi rút HIV, gia đình, xã hội.

2.3. Đánh giá đơn vị kiểm soát, phân phối công nghệ sản xuất thuốc ARV

Sản phẩm dùng trong hoạt động Marketing xã hội tại Hải Phòng đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS là:

  • Phòng chống mại dâm, quan hệ tình dục lành mạnh
  • Không tiêm trích ma túy, sử dụng bơm kim tiêm sạch
  • Thuốc ARV chống phơi nhiễm HIV/AIDS

Đối với sản phẩm là Bao cao su và bơm kim tiêm sạch hiện nay cơ bản đã được bán rộng rãi tại các cửa hàng thuốc, có thương hiệu

Đối với các sản phẩm vô hình như: ý thức, đạo đức nghề nghiệp của một số Y- Bác sĩ tại các bệnh viện, các phòng khám đa khoa, nha khoa khi vô tình, chủ quan sử dụng các thiết bị y tế chưa vô trùng cũng là nguyên nhân gây bệnh.

Thương hiệu thuốc ARV chưa được quảng bá rộng rãi, chưa được phổ biến trên thị trường thuốc tại Hải Phòng, do đó vì một lý do nào đó khách hàng khi có nhu cầu không thể mua được mặc dù có phác đồ điều trị của Bác sĩ. Như vậy tính phổ biến của thương hiệu trong Marketing xã hội tạo nên một thế mạnh của sản phẩm chưa được phát huy, đồng thời trong Marketing xã hội thương hiệu sản phẩm phải có tâm lý tự nhiên, không mặc cảm trong việc thực hiện hành vi mua và sử dụng sản phẩm, người nhiễm HIV sẽ bớt lúng túng khi hỏi mua thuốc ARV.

Đối với Marketing xã hội thương hiệu hỗ trợ rất nhiều cho người bán sản phẩm, nó đã làm sản phẩm tiêu thụ dễ hơn nhiều so với những sản phẩm cùng loại nhưng không có thương hiệu. Việc trưng bày hàng tại các hiệu thuốc có được thuận lợi rất nhiều từ những sản phẩm có nhãn hiệu và biểu trưng. Thuốc ARV cũng chưa thực hiện được điều này.

Nói tóm lại, vấn đề xây dựng thương hiệu và phân phối đối với sản phẩm phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS đóng vai trò trong Marketing xã hội. Tuy nhiên thuốc kháng vi rút HIV/AIDS hiện nay chưa được phân phối và bán rộng trên thị trường theo đơn thuốc và phác đồ điều trị đây là vấn đề Marketing xã hội cần giải quyết cấp bách trong năm 2025 và các năm tiếp theo.

2.4. Đánh giá cơ sở để được hỗ trợ (tổ chức, cá nhân và NGOs) về hoạt động của AIDS

2.4.1. Mục tiêu các nguồn tài trợ

Để được hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân và NGOs về hoạt động phòng chống, điều trị HIV/AIDS. Người nhận phải cam kết đạt được các tiêu cụ thể hay nói một cách khác để nhận được tiền tài trợ thì phải sử dụng tiền đúng mục đích và đem lại hiệu quả xã hội đối với việc phòng chống điều trị HIV/AIDS. Việc tài trợ cũng có thời hạn và yêu cầu cụ thể:

Phải nâng nâng cao năng lực của hệ thống chăm sóc y tế để cung cấp các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS có chất lượng, toàn diện và bền vững cho những người nhiễm HIV và những người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV.

  • Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
  • Tiếp cận cộng đồng và Methadone Tư vấn và xét nghiệm HIV

Chăm sóc và điều trị HIV/AIDS người lớn Chăm sóc và điều trị HIV/AIDS trẻ em HIV/Lao

  • Chăm sóc, hỗ trợ trẻ mồ côi và trẻ dễ bị tổn thương bị tổn thương bởi HIV

Phải nâng cao năng lực thu thập, sử dụng số liệu và quản lý chương trình HIV/AIDS thông qua việc nâng cao chất lượng chương trình giám sát HIV/STD/TB và nâng cao năng lực của hệ thống phòng xét nghiệm cho việc giám sát, sàng lọc, theo dõi và điều trị bệnh.

  • Nâng cao năng lực và cơ sở hạ tầng xét nghiệm.
  • Theo dõi và đánh giá.

Phải nâng cao năng lực về kỹ thuật, Tổ chức và Tài chính của Cục Phòng, chống HIV/AIDS để điều phối các nhà tài trợ về lĩnh vực HIV/AIDS, đặc biệt là các đối tác của PEPFAR và Quỹ Toàn cầu trong việc xây dựng, ban hành các hướng dẫn kỹ thuật và giám sát các chương trình cung cấp dịch vụ có chất lượng cao.

  • Nâng cao năng lực hệ thống phòng, chống HIV/AIDS.
  • Lộ trình chuyển giao các hoạt động do Dự án tài trợ khi không còn sự giúp đỡ.
  • Đánh giá khó khăn về hoạt động truyền thông phòng tránh và điều trị HIV/AIDS.

2.4.2. Đánh giá hiện trạng, khó khăn trong hoạt động Marketing xã hội trong công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS theo 8P.

  • Sản phẩm (P1)

Sản phẩm còn đơn điệu, trông chờ và ỷ lại vào các nguồn tài trợ của NGOs và nguồn ngân sách Nhà nước, chưa đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu thị trường cũng như chưa xét đến các yếu tố cạnh tranh của sản phẩm. Các tồn tại này từ những nguyên nhân sau:

Chưa chú ý đến sản xuất sản phẩm và phát triển sản phẩm mới.

Không cần nghiên cứu thị trường.

Chưa khẳng định cạnh tranh của sản phẩm bằng phương pháp sử dụng chứng thực từ các chuyên gia và từ khách hàng.

  • Giá cả (P2)

Về giá bán thuốc ARV chúng ta nhận thấy chưa có giá bán. Hiện thuốc ARV là nhãn hiệu duy nhất được cấp phát thông qua hoạt động Marketing xã hội, chưa xây dựng được giá thành và giá được bán theo Marketing xã hội. Giá bán theo đặc trưng cơ bản của giá cả sản phẩm Marketing xã hội là luôn hướng đến việc phục vụ cho các đối tượng có thu nhập trung bình và thấp trong xã hội. Mục tiêu giá bán thuốc cho người bị nhiễm HIV/AIDS dùng trong một tháng và những bệnh nhân nghèo khó nhất trong xã hội cũng vẫn có thể mua được để phục vụ cho mục tiêu phòng tránh và điều trị chính bản thân mình.

Lưu ý khi xây dựng giá bán của sản phẩm thuốc ARV trong hoạt động Marketing xã hội cần phù hợp với đường lối chung của WHO (Tổ Chức Y tế Thế giới) và của UNFPA (Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc) cho rằng chi phí cho phòng chống và điều trị trong 01 năm không nên vượt quá 1% GDP bình quân đầu người. Như vậy đối với Hải Phòng GDP bình quân đầu người năm 2023 là 2.000 USD tương đương 40.000.000 VNĐ thì chi phí này không vượt quá 400.000 VNĐ, đây là bài toán rất khó đối với người sản xuất sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS.

Nếu giá bán quá thấp thì không thể hấp dẫn người sản xuất cũng như buôn bán trong kênh thương mại, Nếu giá bán cao, tuy tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận biên cao nhưng giá trị tuyệt đối của khoản lợi nhuận lại không cao do sản phẩm có số lượng giao dịch thấp. Đồng thời, nếu giá bán thấp hơn giá thành sản phẩm thì không đủ bảo toàn nguồn lực tài chính cho hoạt động. Tồn tại này từ các nguyên nhân sau:

Do mục tiêu của hoạt động Marketing xã hội là không vì lợi nhuận nên vấn đề định giá không gây sức ép lớn cho các nhà quản trị hoạt động nên dẫn đến:

  • Thiếu chiến lược và chính sách định giá.
  • Chưa xây dựng được các công cụ định giá thích hợp.
  • Phân phối (P3)

Các kênh phân phối nhằm vào đốì tượng mục tiêu là người tiêu dùng sau cùng, sử dụng chiến lược phân phối rộng rãi, hoạt động Marketing xã hội phân phối sản phẩm qua nhiều kênh và thành viên các kênh nhằm mục tiêu đẩy nhanh sản phẩm ra thị trường qua tất cả các đầu ra ra thích hợp.

Nhà phân phối hiện tại đối với công tác phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS là Trung tâm y tế dự phòng của tỉnh, thành phố, tuyến cuối cùng đa phần tại các phường, xã được mô tả như sau:

Hình 2.2: Sơ đồ các kênh phân phối Marketing xã hội hiện trạng đối với sản phẩm phòng tránh và điều trị HIV/AIDS.

Hệ thống kênh phân phối tuy đã được hình thành nhưng hiệu quả chưa cao, đa số tập trung các khu đô thị và bán đô thị là những nơi dân cư tập trung đông, thì hoạt động này vẫn rất khó khăn trong việc mở rộng tới những khu vực nông thôn, vùng xa, vùng sâu, là những nơi dân cư thưa thớt. Hoạt động phân phối tại các vùng nông thôn còn kém, chưa thực hiện được việc chủ động đưa sản phẩm đến từng người bệnh. Điều này có nghĩa là hiện nay, những người có nhu cầu cần mua thuốc điều trị vi rút HIV/AIDS phải tìm đến các Trung tâm y tế dự phòng và làm các thủ tục hành chínhđể được cấp phát chứ chưa thể mua tại các hiệu thuốc là nơi họ thấy thuận tiện, thoải mái nhất. Hơn thế nữa, sự hạn chế này cũng đồng nghĩa với việc bỏ lỡ một cơ hội để chủ động tiếp cận sử dụng sản phẩm, các tồn tại này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

  • Giao thông, đi lại từ các khu vực đô thị đến các vùng nông thôn
  • Nhiều vùng sâu vùng xa, kinh tế còn nhiều khó khăn.
  • Mạng lưới y tế tại các vùng nông thôn vẫn còn kém phát triển.
  • Cổ động, truyền thông (P4)

Chiến dịch cổ động trong hoạt động Marketing xã hội do còn tồn tại nhiều suy nghĩ sai lầm về lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS. Marketing xã hội tuy đã cung cấp các tờ rơi chỉ dẫn phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV, sử dụng bao cao su, bơm kim tiêm, dao cạo râu, mẹ lây sang con.. nhưng chưa thực sự bền vững vẫn mang hình thức mùa vụ, đánh trống bỏ rùi hoặc theo tuần lễ phát động.

Về quảng cáo báo chí, hoạt động Marketing xã hội tại Hải Phòng gần như rất ít đưa tin về dịch bệnh HIV/AIDS và các thuốc điều trị. Rất cần các tờ báo như báo Thanh Niên, Công An Hải Phòng tham gia để những tác động tích cực đến các cơ quan hữu quan đối với hoạt động cổ động phòng tránh, điều trị vi rút HIV/AIDS.

Về quảng cáo truyền hình, có một chướng ngại lớn ngăn trở sự triển khai các chiến dịch quảng cáo trên phương tiện truyền hình, đó là lệnh cấm không được quảng cáo bất cứ sản phẩm thuốc. Đối với thuốc ARV rất cần được giải quyết vấn đề này vì điều kiện then chốt để thực hiện thành công hoạt động quảng cáo sản phẩm xã hội là thuốc ARV.

Chưa có các phóng sự, đoạn phim quảng cáo trên sóng truyền hình để “lách’ được lệnh cấm nhưng cũng chuyền tải được nội dung truyền thông cần thiết cho công chúng. Hoạt động Marketing xã hội phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDSphải trở nên gần gũi, thân thiện và mang tính cộng đồng hơn trong cái nhìn của công chúng thành phố Hải Phòng và Việt Nam

Những tồn tại cần được khắc phục trong vấn đề cổ động phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS là chưa đa dạng hoá các hình thức và phương tiện truyền thông cũng như chưa định lượng được hiệu quả các chiến dịch truyền thông, chưa khai thác thêm nhiều phương tiện cổ động khác như đài phát thanh, quảng bá qua bán hàng cá nhân, quan hệ công chúng, lập website trên mạng internet, các sự kiện đặc biệt, các chương trình khuyến mãi, v.v… các tồn tại này phát sinh từ những nguyên nhân sau:

Chưa xây dựng được một chiến lược quảng cáo với các mục tiêu rõ ràng, cụ thể, định lượng được theo mô hình xã hội hóa

Ngân sách dành cho hoạt động cổ động bị hạn chế nên không khai thác được nhiều phương tiện cổ động.

Chưa chú trọng đến việc phối hợp cổ động lồng ghép với các chương trình truyền thông tại địa phương.

Ý thức của người thực thi các nhiệm vụ về truyền thông đều mang tính hình thức,vụ việc.

  • Cộng đồng(P5)

Môi trường cộng đồng trong hoạt động Marketing xã hội phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS gồm có 02 môi trường là cộng đồng bên ngoài và cộng đồng bên trong.

Cộng đồng bên ngoài gồm đối tượng mục tiêu nguyên cấp là các nhóm đối tượng nghiện ma túy, mại dâm, mẹ truyền sang con đối tượng thứ cấp gồm những người có quan hệ và có những ảnh hưởng nhất định với đối tượng mục tiêu nguyên cấp như thành viên gia đình, họ hàng, bạn bè, nhóm, v.v…đối tượng “Các nhà làm chính sách” gồm quan chức các cơ quan như Uỷ ban Nhân dân, Sở Y tế, Uỷ ban phòng chống HIV/AIDS, Công an, trại cai nghiện, trại tù cùng với một số ban ngành có liên quan của thành phố Hải Phòng. Đối tượng “Những người gác cổng”gồm các cơ quan Phê duyệt nội dung cũng như giá cả các chương trình truyền thông như Sở Văn hoá thông tin, Đài Phát thanh truyền hình và các ban ngành có liên quan của thành phố Hải Phòng.

Cộng đồng bên trong gồm: Các nhà quản trị hoạt động Marketing xã hội, các tổ chức, dự án (UNAIDS,USAID) tư nhân…. xuống các tổ chức bên dưới, cán bộ văn phòng, nhân viên bán hàng, các dược sĩ và nhân viên cấp thuốc đã được chương trình tập huấn (trừ huyện Bạch Long Vĩ) của thành phố Hải Phòng.

Trong Chiến lược, mục tiêu phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS của thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân thành phố về ban hành quyết định số 2260/QĐ-UBND ngày 25/12/2020 về việc ban hành kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2040.

Trong hoạt động cộng đồng chưa đánh giá được hết thực trạng kiến thức, nhận thức và hành vi của các đối tượng. Trong cách tiếp cận cộng đồng, chưa chú ý đến những khác biệt về văn hóa, tín ngưỡng, tập quán truyền thông của từng đối tượng. Từ đó dẫn đến việc xử lý kém những phản ứng khác nhau từ cộng đồng đối với hoạt động. Những tồn tại này xuất phát từ các nguyên nhân sau:

Sự khác biệt về môi trường sống giữa khu vực đô thị và vùng nông thôn, ở khu vực đô thị khác với tập quán ở nông thôn. Do đó, việc xác định đối tượng mục tiêu nguyên cấp hay thứ cấp cần phải tính đến những khác biệt về tập quán và môi trường sống.

Tương tự như thế, văn hóa và tín ngưỡng là những vấn đề rất nhạy cảm từ cộng đồng mà hoạt động Marketing xã hội phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS chưa chú ý đúng mức, nhất là đối với việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS do kỳ thị vì thiếu thông tin hiểu biết về HIV.

Bên cạnh những nguyên nhân trên, các yếu tố tâm lý xã hội do thiếu hiểu biết, truyền miệng, tin đồn…dẫn đến sự kỳ thị, xa lánh thậm chí kinh tởm đối với bệnh nhân HIV/AIDS.

  • Đối tác (P6)

Đối tác cùng mục tiêu

Trong hoạt động Marketing xã hội phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS, đối tác có cùng mục tiêu là đối tác có mục tiêu hoạt động giống nhau, cùng trách nhiệm trong việc thực thi hoạt động Marketing. Sự thành công hay thất bại của hoạt động đều có ảnh hưởng quan trọng đến mỗi bên, hiện tại xác định đối tác có cùng mục tiêu là Uỷ ban phòng chống lây nhiễm và điều trị HIV/AIDS, dự án UNAIDS, USAID.

Đối tác không cùng mục tiêu

Là những đối tác còn lại, mục tiêu hoạt động của đối tác này không liên quan đến hoạt động Marketing xã hội phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS và cũng có thể trong lĩnh vực khác nhưng khi kết hợp hoạt động với những đối tác này sẽ tạo ra những hiệu quả tích cực cho các mục tiêu khác nhau của cả đôi bên. Đối tác không cùng mục tiêu là các cơ quan như:

  • Sở Y tế tỉnh Hải Phòng trong vai trò quản lý, kiểm soát việc kinh doanh dược phẩm các loại, trong đó có thuốc ARV.
  • Sở Văn hoá thông tin, Đài Phát thanh truyền hình, báo Hải Phòng trong vai trò quản lý, kiểm soát các thông điệp quảng cáo cũng như nội dung, hình thức quảng cáo.
  • Với Marketing xã hội là bán sản phẩm cho người tiêu dùng, sản phẩm phòng tránh lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS. Đây là một ví dụ sinh động về việc hợp tác giữa các đối tượng với nhau để đạt được những mục tiêu khác nhau bằng những phương thức giống nhau.

Tuy là đối tác, song mối quan hệ trong công việc giữa hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc điều trị vi rút HIV/AIDS và các đối tác tại Hải Phòng không phải là không có những vấn đề mà trong lý thuyết quản trị, người ta thường dùng đến khái niệm xung đột (Conflict) thường xung đột về thẩm quyền là hay xảy ra giữa việc quyết định nội dung, hình thức truyền thông, quảng cáo sản phẩm, giữa một bên là những nhà quản trị hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS – bên trả tiền cho các chi phí thiết kế và quảng cáo, và bên kia là các quan chức của các cơ quan thông tin đại chúng – người không phải trả tiền cho các hoạt động quảng cáo nhưng lại nắm giữ quyền kiểm duyệt và can thiệp vào các nội dung và hình thức quảng cáo.

  • Chính sách (P7)

Hải Phòng hiện nay các hoạt động phòng chống và điều trị lây nhiễm vi rút HIV/AIDS nằm trong chương trình hoạt động của tổ chức USAID SHIFT chịu sự điều chỉnh, hỗ trợ chính sách của PEPFAR. Các chính sách của tổ chức chính trị xã hội cũng như các dự án hợp tác cũng phải tuân thủ tôn chỉ, mục đích và các nguyên tắc của Marketing xã hội đó là: xác định thương hiệu, thương mại hoá sản phẩm, dựa vào thị trường nhưng phải theo mục tiêu không vì lợi nhuận.

Tuy nhiên đến nay đối với việc phòng chống và điều trị lây nhiễm vi rút HIV/AIDS chưa thể xã hội hoá được đối với sản phẩm thuốc ARV do vậy chưa góp phần giải quyết triệt để đối với HIV/AIDS cũng như các vấn đề về công bằng xã hội, dần dần xoá bỏ tâm lý ỷ lại do ảnh hưởng của cơ chế bao cấp trước đây. Để phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay trong điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn thì việc xã hội hoá đối với sản phẩm thuốc điều trị ARV sẽ là cơ sở đảm bảo sự thành công bền vững của chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất sản phẩm này.

Các hình thức cung cấp dịch vụ phòng chống lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS bao gồm:

Phân phối dựa trên kế hoạch được duyệt, cung cấp miễn phí, tiếp thị xã hội, chưa được bán tự theo nhu cầu điều trị của người nhiễm HIV/AIDS.

Thực tế hoạt động cũng cho thấy bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được nhưng áp dụng theo theo mô hình phân phối Marketing xã hội bộc lộ những tồn tại cần khắc phục, đó là, hoạt động Marketing xã hội chỉ thích hợp ở khu vực đô thị của tỉnh, một số nội dung như truyền thông cổ động sản phẩm, hoạt động tư vấn chưa thích hợp với vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo ở khu vực nông thôn. Nguồn nhân lực cho hoạt động còn thiếu về số lượng, lại chênh lệch về kiến thức Marketing, về nhận thức xã hội, dẫn đến thiếu đồng thuận trong quan hệ phối hợp thực thi hoạt động. Những tồn tại này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

Trình độ dân trí thấp kém, lạc hậu cùng với thu nhập thấp khiến cho những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa không hội nhập được với sự tiến bộ của khu vực đô thị. Kinh tế kém phát triển, nghèo nàn dẫn đến mạng lưới thị trường – điều kiện của Marketing xã không có điều kiện phát triển.

Đội ngũ cán bộ Y tế địa phương nhiều nguồn khác nhau, không qua đào tạo chính quy, có hệ thống. Trình độ kiến thức về Marketing yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu chất lượng dịch vụ và các yêu cầu của hoạt động Marketing xã hội.

Bên cạnh đó, chính sách xã hội hóa công tác phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS chưa huy động được nhiều nguồn lực đầu tư cho hoạt động Marketing xã hội mà chỉ dừng ở mức kêu gọi mà không đưa ra được những môi trường cụ thể để hấp dẫn các nhà đầu tư cho hoạt động này.

  • Tài chính(P8)

Thành phần tài chính trong hoạt động Marketing xã hội được hiểu là chi tiêu tài chính (Purse-strings). Do đó cách tiếp cận thành phần này không theo hướng phân tích công việc điều hành và quản lý tài chính hoặc nguồn vốn của một doanh nghiệp (Finance). Tài chính trong hoạt động Marketing xã hội phòng chống và điều trị lây nhiễm vi rút HIV/AIDS tại Việt Nam nói chung và sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng nói riêng có từ nguồn các nhà tài trợ của tổ chức NGOs, tư nhân, việt kiều….với nội dung tài trợ được thể hiện trong thỏa thuận chính thức giữa Ủy ban Cộng tác về các tổ chức Phi chính phủ đại diện cho Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Viêt Nam và Tổ chức NGOs do vậy việc huy động các nguồn tiền trong nước như các hoạt động thiện nguyện, biểu diễn lấy tiền bán vé chưa được phát huy có hiệu quả.

Đối với Marketing xã hội việc bán sản phẩm trong hoạt động Marketing xã hội là cần thiết, nó giúp có được nguồn thu cho hoạt động, hỗ trợ cho việc quay vòng vốn, tái hoạt động. Bên cạnh đó, giá bán sản phẩm thuốc ARV trong hoạt động Marketing xã hội phải được hỗ trợ giá bán các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ trong nước thì mới có thể duy trì và phát triển hoạt động và sản xuất ở trong nước có thể cạnh tranh với thuốc nhập khẩu và đến được với đa số người dân có thu nhập thấp và trung bình trong xã hội.

Bên cạnh những lợi ích thiết thực, hoạt động Marketing xã hội hiện nay đang thực hiện tại Hải Phòng có những tồn chính cần có giải pháp khắc phục là: tính bền vững của hoạt động không cao, nguồn lực hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tài trợ, khi các nguồn tài trợ bị cắt, giảm dẫn đến kinh phí hoạt động không ổn định, các kế hoạch hoạt động chỉ xây được trong ngắn hạn và không duy trì được thường xuyên do ảnh hưởng:

  • Mất cân đốì tài chính, thu không đủ bù
  • Nguồn vốn ban đầu luôn cạn dần sau mỗi đợt tài trợ giá sản phẩm, quản trị tài chính theo các thủ tục hành chính.
  • Không có kế hoạch phát triển thêm nguồn lực tài chính.
  • Quản trị tài chính không tốt, dễ gây thất thoát.

2.5. Đánh giá khó khăn về hoạt động truyền thông, phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV/AIDS.

Kết quả của hoạt động Marketing xã hội trong công tác phòng tránh lây nhiễm vi rút HIV/AIDS trong 25 năm qua rất đáng khích lệ, nhưng chưa thật sự bền vững vì các vấn đề sau đây:

Các độ tuổi nguy cơ lây nhiễm vi rút HIV ngày càng đa dạng và trẻ hóa bao (gồm cả trẻ sơ sinh) đối tượng phơi nhiễm HIV/AIDS không còn bao gồm các đối tượng mại dâm, tiêm trích ma túy mà còn bao gồm cả mại dâm Nam vì vậy công tác truyền thông cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng có khả năng lây nhiễm cao và luôn phải cảnh giác với con số miễn giảm.

Nguồn lực đầu tư cho hoạt động Marketing xã hội trong công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS tuy được tăng dần qua các năm. Song, nguồn lực đầu tư trực tiếp cho công tác truyền thông, giáo dục và nâng cao kiến thức phòng tránh cho người dân chưa tương xứng với nhiệm vụ.

Tỷ lệ người khi đã phơi nhiễm vi rút HIV được điều trị bằng thuốc ARV có tăng, nhưng tỷ lệ chuyển sang AIDS và gây tử vong vẫn rất cao.

Cơ sở vật chất kỹ thuật và cán bộ phục vụ cho việc điều trị và phòng chống tuy có được tăng cường thông qua đầu tư của ngành y tế và Cục Phòng, Chống HIV/AIDS chưa thoả mãn nhu cầu của người mong muốn sử dụng các biện pháp pháp phòng tránh.

Hoạt động Marketing xã hội trong phong trào chuyển biến chưa đồng đều giữa các quận, huyện, thành thị, nông thôn và vùng sâu vùng xa.

Sự lãnh đạo và điều hành của các Cơ quan chính quyền đốì với hoạt động Marketing xã hội trong công tác phòng chống chưa được xem trọng; tư tưởng chủ quan, thoả mãn đối với kết quả của công tác này đang xuất hiện trở lại ngày càng nhiều hơn.

Đây là những tồn tại hạn chế đồng thời cũng là nguyên nhân làm cản trở việc thực hiện hoạt động Marketing xã hội trong các chương trình cả trong hiện tại và tương lai của Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng, đòi hỏi phải sớm được khắc phục.

2.6. Kết luận chương 2 và nhiệm vụ chương 3

Kết quả phần tích thực trạng hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV tại Hải Phòng được tóm tắt lại như sau:

Phân tích đặc điểm về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS. Trong phân tích đặc điểm về điều kiện tự nhiên, luận văn đã nêu ra các số liệu nghiên cứu về hoàn cảnh địa lý, đất đai.

Về điều kiện xã hội, đã có phân tích về cơ cấu đối tượng nhiễm vi rút HIV/AIDS, Văn hoá, Giáo dục, Y tế, tập quán mua bán thuốc, thói quen khám chữa bệnh của người dân Hải Phòng.

Về ngành Y tế, luận văn đã nêu ra số liệu nghiên cứu về hệ thống các cơ sở y tế, đội ngũ cán bộ, tỷ lệ cơ sở y tế Nhà nước cũng như phân tích chính sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dược phẩm.

Luận văn đã giới thiệu về hoạt động Marketing xã hội đối với sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV từ việc phân tích kết quả hoạt động Marketing xã hội thông qua các giai đoạn phát triển của bệnh truyền nhiễm vi rút HIV, đồng thời xây dựng tổng quan về giá cả thị trường nếu thuốc ARV được sản xuất đại trà tại Việt Nam, Hải Phòng.

Từ kết quả đạt được của hoạt động Marketing xã hộị trong việc phòng tránh, điều trị vi rút HIV/AIDS, luận văn đã tiến hành đánh giá thực trạng các thành phần của Marketing xã hội sản phẩm thuốc phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS tại Hải Phòng thời gian qua, với mặt tích cực đã đạt được, cũng như phân tích những mặt tồn tại và nguyên nhân hạn chế hoạt động này. Điểm mới trong phần phân tích này là văn đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu hạn chế hoạt động sản xuất thuốc ARV do các Tổ chức tài trợ, Cá nhân, NGOs chưa hướng tới và doanh nghiệp chưa nhìn thấy hấp dẫn để sản xuất kinh doanh vì giá trị tuyệt đối của khoản lợi nhuận, canh tranh, khi có phát sinh giao dịch mua bán thuốc ARV. Để giải quyết được những mặt tồn tai này cần có một số giải pháp đồng bộ khắc phục, hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS được đề xuất bằng các giải pháp cụ thể và khuyến nghị để các giải pháp được khả thi trong nhiệm vụ của Chương 3 của Luận văn.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993