Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: phân tích môi trường phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1 Giới thiệu tổng quan ngành du lịch tỉnh Bến Tre
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Bến Tre có toạ độ địa lý 9048′ đến 10020′ vĩ độ Bắc, 105057′ đến 106048′ kinh độ Đông; phía Bắc giáp Tiền Giang; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây và Nam giáp Vĩnh Long và Trà Vinh. Ranh giới tự nhiên của tỉnh là sông Tiền, sông Cổ Chiên và biển Đông, chảy qua tỉnh còn 2 con sông lớn là sông Hàm Luông và Ba Lai. Trung tâm của tỉnh là Thành phố Bến Tre cách Tp.HCM 86 km về phía Bắc.
Là tỉnh đồng bằng nằm cuối nguồn sông Cửu Long tiếp giáp biển Đông, Bến Tre có 65 km đường bờ biển và được 4 con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên như các nan quạt xoè ra phía biển chia lãnh thổ tỉnh ra thành 3 cù lao lớn là:
- Cù lao An Hoá (gồm 2 huyện Châu Thành, Bình Đại)
- Cù lao Bảo (gồm Thành phố Bến Tre và 2 huyện Giồng Trôm, Ba Tri)
- Cù lao Minh (gồm 3 huyện Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú)
Ngoài các con sông lớn còn có nhiều kênh rạch chằng chịt thuận tiện cho việc phát triển giao thông đường thuỷ giữa các vùng, các khu vực trong ngoài tỉnh. Với địa hình bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng, vườn trái cây ngon ngọt, những vườn dừa bạt ngàn xanh biếc, không có các rừng cây lớn mà chỉ có một số rừng chồi và rừng ngập mặn ven biển và vùng cửa sông. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Về khí hậu, tỉnh Bến Tre mang nét chung của đồng bằng Nam Bộ là nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ ổn định trung bình hàng năm là 27,30C và chia ra hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với hướng gió chủ đạo là gió mùa Tây Nam đến Tây Tây Nam, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với hướng gió chủ đạo là Bắc đến Đông Bắc. Lượng mưa trung bình hàng năm là từ 1.250mm đến 1.500mm. Nhìn chung toàn tỉnh Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão, lũ lớn hàng năm.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2 Điều kiện Kinh tế – Xã hội
Nằm ở phía Đông của ĐBSCL, Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.322 km2. Kinh tế Bến Tre phát triển tương đối nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt khoảng 9,41%/năm trong giai đoạn 2019-2024. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu vực nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao (45,66%), khu vực công nghiệp-xây dựng chiếm tỷ trọng 18,57% và khối dịch vụ chiếm tỷ trọng 35,77%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt khoảng 866USD. Đời sống của người dân từng bước được cải thiện. (Nguồn: Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh Bến Tre tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần IX).
Cây trồng chủ lực của Bến Tre là cây ăn trái, lúa, dừa phục vụ công nghiệp chế biến. Đặc biệt dừa Bến Tre đã trở thành biểu tượng của địa phương. Các sản phẩm từ dừa có giá trị kinh tế cao, đồng thời góp phần tạo nên bản sắc của hình ảnh du lịch địa phương.
Trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp, diện tích trồng lúa ngày càng giảm, diện tích trồng cây ăn trái ngày càng được mở rộng.
Cầu Rạch Miễu và cầu Hàm Luông hoàn thành, Bến Tre kỳ vọng sẽ có bước phát triển đột phá trong việc thu hút đầu tư cũng như phát triển khối du lịch – dịch vụ – thương mại. Sự phát triển của kinh tế – xã hội góp phần thúc đẩy phát triển du lịch cũng như đầu tư du lịch. Vị trí của Bến Tre tương đối thuận lợi trong giao lưu kinh tế, thương mại và du lịch. Từ đây, có thể nối các tuyến du lịch liên hoàn trong vùng ĐBSCL và các tuyến du lịch quốc gia. Mặt khác Bến Tre còn nằm trong khu vực của dự án Tiểu vùng sông Mê kông mở rộng, nằm gần tuyến du lịch xuyên Á…, đây là những yếu tố rất quan trọng để Bến Tre phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch
2.1.3 Dân tộc, dân cư Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Cho đến cuối thế kỷ 17, vùng Đồng Nai – Gia Định (tức Nam Bộ nói chung), vùng đất Bến Tre ngày nay về cơ bản vẫn còn là vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy. Vùng đất này được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ thế kỷ 18, nhưng từ lâu người Việt đã đến đây ở từ trước đó khá lâu. Những đoàn lưu dân người Việt, người Hoa đến vùng Bến Tre khai phá trong những năm cuối thế kỷ 17 và thế kỷ 18 hầu hết là những người chuyển cư từ miền ngoài, chủ yếu ở các tỉnh miền Trung vào đất Đồng Nai Gia Định diễn ra không ồ ạt nhưng tương đối đều đặn và liên tục. Những người lưu dân vào miền đất mới theo hai con đường chính: bằng ghe xuồng từ cửa Cần Giờ ngược dòng Đồng Nai đến ngã ba Nhà Bè, rồi theo sông rạch đổ về miền Tây hoặc đến bằng đường biển, theo các cửa sông: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông rồi ngược các dòng sông lớn tiến sâu vào nội địa, định cư trước tiên ở cù lao, những vùng đất cao hai bên bờ sông hoặc ven kênh rạch…Bến Tre đã trở thành nơi lưu dân đi theo đường biển đến định cư nhiều nhất, từ những đoàn lưu dân tự phát gồm những người cùng quê hương, cùng dòng họ, đến những đợt di dân do triều Nguyễn tổ chức “những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn mộ vào Nam khai phá”.
Dân số Bến Tre hiện nay là 1.354.589 người, mật độ bình quân khoảng 583 người/km2, đa số là dân tộc Kinh. Lực lượng lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi chiếm 64,64% tổng số dân. Con người Bến Tre hiền hoà, mộc mạc chất phát, thân thiện mến khách. Về tôn giáo, do ảnh hưởng truyền thống lâu đời, phần lớn người dân ở Bến Tre theo đạo thờ cúng ông bà, tổ tiên và các tôn giáo như: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành và đạo Cao Đài.
2.1.4 Tài nguyên du lịch
2.1.4.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
Cồn Phụng nằm giữa sông Tiền, án ngữ ngay cửa ngõ đi vào Bến Tre, thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, cách trung tâm Thành phố 12 km. Cồn Phụng có diện tích 52 ha được tạo nên từ những vườn cây trái trĩu cành, khí hậu mát mẻ, môi trường sinh thái trong lành. Ngoài việc tận hưởng khí trời, tham quan quần thể kiến trúc Đạo Dừa vẫn còn giữ nguyên hiện trạng, du khách còn có dịp biết thêm về làng nghề thủ công mỹ nghệ từ cây dừa.
Cồn Qui nằm giữa sông Tiền thuộc xã Tân Thạch và xã Quới Sơn huyện Châu Thành, thuộc cụm cồn tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng), cùng cồn Phụng án ngữ cửa vào Bến Tre. Cồn Qui có diện tích 40 ha, với những vườn cây trĩu cành, còn mang nét hoang sơ của miệt vườn sông nước, môi trường sinh thái trong lành.
Cồn Ốc thuộc xã Hưng Phong huyện Giồng Trôm, có chiều dài 8,3 km, rộng 1,2 – 1,5 km. Diện tích 1.284 ha nằm trên sông Hàm Luông, cách Thành phố Bến Tre khoảng 10 km về hướng Đông. Cồn Ốc đặc biệt với những vườn dừa gồm nhiều chủng loại như dừa xiêm, dừa dứa… đan xen với vườn cây ăn trái, với không khí trong lành, mát mẻ của vùng sông nước. Người dân sống hiền hoà, thân thiện. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Vùng du lịch 8 xã ven sông huyện Châu Thành hấp dẫn du khách bởi sự đậm đà, mộc mạc của một làng quê Việt Nam với bạt ngàn vườn cây trái, với những điểm du lịch miệt vườn, ăn trái cây, nghe ca nhạc tài tử, ngắm đom đóm về đêm, đi xe ngựa, xuồng chèo, tham quan mô hình ruộng lúa nước, sản xuất kẹo dừa, nấu rượu, nuôi ong, sản xuất hàng thêu bằng tay, hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ nguyên liệu của cây dừa… đặc biệt được hoà mình vào cuộc sống của những người dân ở đây và luôn được đón tiếp bằng lòng nhiệt tình, thân thiện và hiếu khách.
Làng hoa kiểng Chợ Lách nổi tiếng với nghề sản xuất cây giống, trồng hoa kiểng, tập trung chủ yếu ở các xã Vĩnh Thành, Vĩnh Hoà, Phú Sơn, Long Thới, ngoài ra còn nổi tiếng với những loại trái cây ngon. Cung cấp phần lớn các loài cây giống, hoa kiểng, trái cây ngon cho toàn quốc.
Làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc ở huyện Giồng Trôm, không chỉ nổi tiếng trong tỉnh mà còn cả vùng Nam Bộ. Làng nghề này có bề dày truyền thống trên 50 năm, người dân nơi đây đã giữ gìn và phát huy những bí quyết của mình để cho ra đời loại bánh phổ biến, mang đậm sắc thái Nam Bộ mà không đâu có được.
Làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa: Vốn là tỉnh có lợi thế về cây dừa, người dân đã tận dụng tất cả các thành phần của cây dừa như thân, cọng, gáo dừa … làm ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, rất được du khách ưa chuộng, đồng thời trở thành một nghề thủ công đặc trưng của Bến Tre, tập trung nhiều ở cồn Phụng (huyện Châu Thành), Hưng Phong (huyện Giồng Trôm).
2.1.4.2 Tài nguyên du lịch nhân văn (bao gồm di tích lịch sử – văn hoá)
Bến Tre có nhiều di tích văn hoá lịch sử có giá trị độc đáo được cả nước biết đến như Bảo tàng Bến Tre, các nhân sĩ trí thức yêu nước như Nguyễn Thị Định, Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản … các địa danh nổi tiếng như làng du kích xã Định Thủy đã đi vào lịch sử với phong trào Đồng Khởi đầu tiên ở năm 1960 với đội quân tóc dài ”Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” lừng danh, khu di tích Vàm Khâu Băng là nơi tiếp nhận vũ khí được chi viện từ Bắc vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển … Các di tích cách mạng tiêu biểu của Bến Tre có thể kể đến các di tích lịch sử đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, bao gồm: Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
- Di tích lịch sử mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu
Thuộc xã An Đức, huyện Ba Tri, cách Tp.Bến Tre 38 km, cách thị trấn Ba Tri 2 km. Hiện có thể tiếp cận thuận lợi tới khu tưởng niệm bằng xe hơi. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu không sinh ra trên đất Bến Tre, nhưng ông đã chọn nơi đây để sinh sống, mở trường dạy học, bốc thuốc trị bệnh cho dân, sống với văn thơ cho đến cuối đời. Khu di tích gồm: đền thờ, nhà lưu niệm và khu mộ. Khu mộ gồm có mộ của ông, vợ là bà Lã Thị Điền, và con gái là bà Sương Nguyệt Anh (nữ chủ bút báo “Nữ giới chung”). Đây có thể coi là một trong những điểm tài nguyên nhân văn quan trọng nhất của tỉnh, để phục vụ phát triển du lịch.
- Di tích lịch sử Đồng Khởi
Toạ lạc tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nơi nổ ra phát súng đầu tiên của phong trào Đồng Khởi năm 1960 nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra toàn miền Nam. Chính từ phong trào Đồng Khởi năm đó, quê hương Bến Tre được vinh dự mang tên quê hương Đồng Khởi. Nơi đây trưng bày nhiều hiện vật và hình ảnh minh chứng cho hào khí của phong trào Đồng Khởi năm xưa.
- Di tích lịch sử Chùa Tuyên Linh
Được xây dựng từ năm 1861 tại xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. Chùa không phải là chùa cổ nhưng nơi đây đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng chú ý. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thời gian sống tại đây, dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Nơi đây từng là cơ sở che chở, đùm bọc cán bộ cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
- Di tích lịch sử Đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc – Nam
Bao gồm các di tích vàm Khâu Băng, cồn Bửng, cồn Lợi, cồn Lớn. Đó là những dãy cồn tiếp giáp với biển Đông thuộc Thạnh Phong – Thạnh Phú. Nơi đây ngày xưa là bến cảng dã chiến của những chuyến tàu đặc biệt tiếp tế vũ khí từ Bắc vào Nam để cung ứng cho chiến trường Bến Tre và một số tỉnh ở khu 8 Nam bộ, góp phần quan trọng trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.
- Di tích lịch sử mộ cụ Phan Thanh Giản (1796 – 1867)
Ông sinh tại làng Tân Thạnh huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn – Vĩnh Long, nay thuộc tỉnh Bến Tre. Ông là vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam kỳ vào năm 1826, làm quan trải qua 3 triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với nhiều chức vụ quan trọng. Tháng 6 năm 1867, sau khi không giữ được thành Vĩnh Long, ông tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự tử. Hai người con của ông là Phan Liêm – Phan Tôn sau đó đã thảo hịch, chiêu mộ hào kiệt Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Đéc khởi nghĩa chống Pháp và hy sinh anh dũng. Lăng mộ Phan Thanh Giản và ảnh thờ hiện ở xã Bảo Thạnh huyện Ba Tri.
- Di tích lịch sử mộ cụ Võ Trường Toản Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Thuộc xã Bảo Thạnh huyện Ba Tri. Cụ Võ Trường Toản người Bình Dương, tỉnh Gia Định, là người học rộng tài cao, thông đạt kim cổ. Thời chiến tranh Tây Sơn – Nguyễn Ánh, ông ở ẩn nơi quê nhà, mở trường dạy học, không tham gia vào chính trị. Ông mất ngày 27 tháng 7 năm 1792. Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc Pháp, một số trí thức ở Gia Định không muốn người thầy kính yêu của mình gửi xương cốt ở nơi bị giặc chiếm nên đã tổ chức di dời hài cốt của ông về làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri.
- Đình Phú Lễ
Thuộc xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, cách Thành phố Bến Tre 40 km, cách thị trấn Ba Tri 4 km. Đình Phú Lễ được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826). Đình Phú Lễ có qui mô lớn và đẹp nhất của các làng quê ven biển Bến Tre. Nét đẹp của Đình do cảnh quan thiên nhiên bên ngoài và bài trí bên trong tạo nên. Bên trong đình là những tác phẩm điêu khắc hết sức tinh xảo, độc đáo, đạt những giá trị nghệ thuật cao và tất cả đều được sơn son thếp vàng. Lễ cúng hàng năm diễn ra vào rằm tháng 3 (âm lịch).
- Đình Bình Hoà
Thuộc thị trấn Giồng Trôm. Đây là ngôi đình cổ có tuổi gần 200 năm. Trang trí bên trong và ngoài đình là sự kết hợp yếu tố nghệ thuật cung đình với nghệ thuật tôn giáo được dân gian hoá. Hiện còn hơn 100 hiện vật điêu khắc gỗ tinh vi, sắc sảo, gồm những bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu… được lưu giữ. Lễ cúng đình hàng năm diễn ra hai lần vào rằm tháng riêng và rằm tháng chạp (âm lịch).
- Đình Tân Thạch
Thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành. Đình Tân Thạch có tên nôm là Thạch Hồ Đình, thuộc Thạch Hồ thôn. Theo truyền tụng, đình Thạch Hồ được xây dựng vào những năm 1843 – 1844 do ông Nguyễn Quý Bằng đứng ra vận động và hiến đất xây dựng. Đình có cấu trúc hình chữ tam.Cột bằng gỗ lim, nền lát gạch tàu, xung quanh có tường bao bọc. Hiện nay Đình còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị về mỹ thuật và lịch sử rất cao: 6 sắc phong (4 của vua Thiệu Trị và 2 của vua Tự Đức), 4 bộ lư mắt tre bằng đồng thau, 7 lư trầm bằng đồng thau, bộ chân đèn, đèn thủy tinh, quả cẩn… Ngoài ra, trang trí bên trong đình còn có các hoành phi, long trụ thờ, bao lam… được chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy.
- Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Khu lưu niệm tại xã Lương Hoà, huyện Giồng Trôm, nơi đã sinh ra người con ưu tú, người nữ tướng đầu tiên, người lãnh đạo xuất sắc đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đền thờ lưu giữ những kỷ vật và ghi lại những chiến tích oai hùng cho thế hệ sau đến tưởng niệm.
- Bảo tàng Bến Tre
Bảo tàng tại 146 Hùng Vương, phường 3, Tp. Bến Tre hiện nay, Bảo tàng được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 theo kiến trúc của Pháp, đã từng là dinh Tham biện (thời Pháp) và dinh Tỉnh trưởng (thời Ngụy), với khuôn viên rộng 02 ha. Tại đây trưng bày hiện vật, tư liệu lịch sử truyền thống cách mạng Bến Tre. Bảo tàng tỉnh là tiền đề quan trọng để tăng cường thu thập, trưng bày các hiện vật lịch sử và trở thành điểm tham quan quan trọng của du lịch Bến Tre.
- Tượng đài Đồng Khởi
Tượng đài tại phường 4, Thành phố Bến Tre. Đây là một công trình văn hoá đẹp được xây dựng và khánh thành vào ngày 17 tháng 01 năm 2009 nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bến Tre Đồng Khởi. Tượng chính là một bà mẹ tay vươn cao ngọn đuốc lá dừa ở tư thế tiến công; nhóm tượng phụ thể hiện cuộc chiến tranh nhân dân, phù điêu mô tả tiến công và nổi dậy giành chính quyền làm chủ ở nông thôn trong những ngày Đồng khởi.
- Nhà cổ Đại Điền
Ngôi nhà cổ thuộc xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú, được xây dựng vào năm 1884. Ngôi nhà được xây dựng theo kiểu hình chữ nhất, gồm ba căn, hai chái ba và hai liễn đôi. Ngôi nhà được trang trí bằng những hoa văn chạm trổ khéo léo từ những bàn tay điêu khắc gỗ điêu luyện. Tuy tuổi đời trên 100 năm nhưng nhà cổ Đại Điền vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn, có đến với nhà cổ Đại Điền mới thấy hết giá trị nghệ thuật, giá trị văn hoá của ông bà ta để lại cho các thế hệ sau và thấy được tinh thần, ý thức trách nhiệm của các thế hệ sau đối với việc giữ gìn và bảo tồn di sản văn hoá của cha ông.
Hội Tôn Cổ Tự tại xã Quới Sơn, huyện Châu Thành là chùa xưa nhất của tỉnh, được xây cất từ đời Cảnh Hưng (1740) do hoà thượng Long Thiền trụ trì, chỉ sau ngôi chùa xây dựng sớm nhất ở Nam bộ 30 năm.
Đạo Thiên chúa có mặt ở Bến Tre vào giữa thế kỷ 18, các cơ sở của đạo Thiên chúa có nhà thờ Cái Bông là nhà thờ xưa nhất ở Bến Tre, nhưng đẹp và lớn là 2 nhà thờ tại Tp.Bến Tre và Cái Mơn (Chợ Lách).
Đạo Cao đài ở Bến Tre gồm có 4 chi phái: Ban Chỉnh, Tây Ninh, Tiên Thiên, và Minh Chơn Lý. Bến Tre có nhiều thánh thất, thờ tự của đạo Cao đài nhưng lớn và đẹp nhất là toà thánh Cao đài Ban Chỉnh tại phường 6, Tp. Bến Tre và toà thánh Cao đài Tiên Thiên tại xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành. Điều đáng lưu ý là 2 toà thánh này tuy không bề thế bằng toà thánh Cao đài Tây Ninh, nhưng đây là Trung ương đạo, cho nên trong những ngày lễ lớn của đạo, nơi đây thu hút tín đồ ở khắp nơi đổ về.
- Các loại hình nghệ thuật Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Các loại hình nghệ thuật dân tộc của Bến Tre với nhiều điệu lý đa dạng, phong phú, là một trong những cái nôi của dân ca Nam bộ. Làn điệu dân ca ở Bến Tre mang đậm sắc thái vùng sông nước miền Tây, có đủ các làn điệu hát ru, các điệu hò, vè, hát lý, hát sắc bùa, ca múa nhạc dân tộc, ca tài tử cải lương, hát bội, … Nơi đây còn có kho tàng văn học dân gian với những chuyện cổ, thơ ca, câu đố, những câu chuyện nổi tiếng từ thời khẩn hoang, thời nhà Nguyễn và những giai thoại về danh xưng “Ông già Ba Tri”.
- Các lễ hội dân gian
Lễ hội dân gian đặc trưng và lâu đời nhất ở Bến Tre là cúng đình hàng năm. Ở Bến Tre hiện có 207 đình, trong đó có 3 đình được Bộ VHTTDL công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia (Bình Hoà, Phú Lễ, Tân Thạch). Thông thường mỗi đình đều có một kỳ cúng lớn, còn gọi là cúng Kỳ Yên, mục đích cúng Kỳ Yên là cầu mong mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an. Cúng đình là đặc trưng của người dân sản xuất nông nghiệp, cũng là ngày hội văn hoá của nhân dân địa phương.
Lễ hội cúng Ông là đặc trưng của ngư dân vùng biển ở Bến Tre và có tất cả 12 lăng thờ cá Ông, lễ cúng Ông lớn nhất là ở xã Bình Thắng (Bình Đại) hàng năm được tổ chức vào ngày 15, 16 tháng 6 âm lịch.
Lễ hội truyền thống văn hoá tổ chức vào dịp kỷ niệm ngày sinh của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu vào mồng 1 tháng 7 hàng năm, tại xã An Đức và thị trấn Ba Tri với nhiều loại hình văn hoá phong phú, đa dạng.
Lễ hội truyền thống cách mạng tổ chức vào dịp kỷ niệm ngày Bến Tre Đồng Khởi 17 tháng 01 hàng năm tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày.
Ngày hội cây trái ngon an toàn hàng năm được tổ chức vào dịp Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch) tại huyện Chợ Lách. Đây là dịp du khách được thưởng thức và chiêm ngưỡng những loại trái cây ngon và độc đáo của miệt vườn Bến Tre. Trong tương lai, khi ngày hội trái cây được tổ chức quy mô hơn thành lễ hội thì khả năng thu hút du lịch sẽ cao hơn.
Tóm lại: Các tài nguyên du lịch của Bến Tre khá đa dạng phong phú thuận lợi cho việc tổ chức và phát triển nhiều loại hình du lịch sinh thái sông nước miệt vườn. Riêng tài nguyên du lịch nhân văn mang đậm tính lịch sử cách mạng truyền thống nên rất thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch văn hoá. Tuy nhiên, các tài nguyên du lịch về lịch sử nhân văn nói chung chưa có quy hoạch đầu tư khai thác và còn mang tính thực dụng. Có nơi còn rất hoang sơ, còn nằm trong dự kiến khai thác, tôn tạo. Việc khai thác, tôn tạo các đặc điểm nổi trội đó của vùng đất này không chỉ là những nỗ lực nhằm thu hút du khách mà còn là trách nhiệm tôn tạo và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc một cách nghiêm túc, quảng bá cho du khách về nền văn hiến của một vùng đất giàu truyền thống như Bến Tre.
2.2 Phân tích môi trường phát triển ngành du lịch Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
2.2.1 Phân tích tác động của các yếu tố vĩ mô
2.2.1.1 Môi trường kinh tế chính trị thế giới và khu vực
- Kinh tế
Bước sang thế kỷ 21, thế giới đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, trong đó con người sử dụng tri thức và khả năng hiểu biết của mình đặc biệt là công nghệ thông tin viễn thông đã được ứng dụng ngày càng nhiều vào phục vụ sản xuất đời sống xã hội. Đây cũng là thời kỳ diễn ra quá trình biến đổi từ một nền kinh tế thế giới bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang nền kinh tế toàn cầu, từ sự phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu, nền kinh tế phát triển bền vững.
Những năm đầu của thế kỷ 21 nền kinh tế thế giới tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng ổn định và phát triển theo xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan mà mỗi quốc gia muốn phát triển nền kinh tế của mình đều phải tham gia. Xu hướng liên kết toàn thế giới thành một thị trường thống nhất đang được đẩy mạnh hơn, phản ánh quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay.
Trong tình hình mới hiện nay, các nước có nền kinh tế phát triển muốn mở rộng thị trường phải mở rộng quan hệ quốc tế, là một phương hướng mới của quan hệ kinh tế quốc tế, tạo ra cơ hội để các quốc gia có điều kiện mở rộng các quan hệ phụ thuộc vào nhau. Không thể phát triển kinh tế bằng cách xây dựng một nền kinh tế khép kín, tự cô lập trong một nước.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã đưa nền kinh tế thế giới chuyển biến nhanh chóng, đưa nền kinh tế bước vào thời kỳ cạnh tranh toàn cầu bên cạnh sự đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh, sự gia tăng các rủi ro kinh tế (khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu,…)
Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu đang trong giai đoạn hồi phục sau nhiều biến động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2022, nhưng mức độ hồi phục ở các khu vực là không đồng đều. Một số khu vực đã hồi sinh trở lại, một số khu vực vẫn đang phải vật lộn với khủng hoảng, khó khăn chồng chất như một số quốc gia thuộc khu vực Châu Âu. Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), kinh tế thế giới năm 2024 tăng trưởng 3,1%, cao hơn so với mức 1,1% của năm 2023, song vẫn thấp hơn so với các năm trước. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
- Chính trị
Nhìn tổng thể trên thế giới, hoà bình hợp tác và phát triển vẫn tiếp tục là xu thế chủ đạo. Tình hình xung đột vũ trang cục bộ, bất ổn chính trị, mâu thuẩn sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên, thiên tai,… diễn ra ở một số nơi. Chủ nghĩa ly khai đã và đang trỗi dậy tạo ra thách thức mới đối với một số quốc gia, khu vực trên thế giới, ảnh hưởng lớn đến ngành du lịch toàn cầu. Trong bối cảnh đó, dòng khách du lịch thế giới đang hướng tới những khu vực có nền chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đặc biệt là dòng khách du lịch thế giới đang có xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á, những nơi có nền kinh tế phát triển năng động và nền chính trị hoà bình ổn định (trong đó có Việt Nam).
2.2.1.2 Tình hình kinh tế chính trị của nước ta
- Kinh tế
Kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng khá trước ngưỡng cửa thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, năm 2024 nền kinh tế nước ta tăng trưởng đạt 6,78%, mức tăng trưởng khá của khu vực và thế giới, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.160 USD/năm. Mức sống ngày càng nâng cao, nếu như trước đây nhu cầu du lịch chỉ dành cho một số ít người dân có thu nhập cao thì nay nhu cầu này trở nên phổ biến trong nhiều thành phần. Đặc biệt là các Thành phố lớn và các khu đô thị Việc tham gia WTO phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, nên khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp trong khi nước ta đã hội nhập đầy đủ với thế giới, các doanh nghiệp trong nước luôn đối mặt rất lớn trong cạnh tranh ngay cả trên thị trường của mình. Tuy nhiên, từ năm 2022 đến nay cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến kinh tế Việt Nam, chúng ta đối mặt với những khó khăn về vấn đề thị trường bị thu hẹp, thương mại bị xáo trộn, tỷ giá, giá vàng biến động mạnh, lãi suất ngân hàng tăng cao, thị trường chứng khoán tiếp tục giảm…ảnh hưởng bất lợi cho tăng trưởng kinh tế nước ta. Theo báo cáo tình hình nhiệm vụ kinh tế năm 2025 của Chính phủ thì tăng trưởng đạt (7% – 7,5%).
- Chính trị Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Tình hình chính trị – xã hội ở Việt Nam ổn định trong điều kiện thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp như tình hình rối loạn chính trị ở Thái Lan, quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc có xu hướng xấu đi thêm một bước và hàng loạt vụ đánh bom khủng bố ở nhiều nước trên thế giới…làm cho Việt Nam được xem là điểm đến an toàn cho du khách quốc tế khi đến nước ta. Trên trường quốc tế vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, hình ảnh một Việt Nam hoà bình, ổn định, an ninh trật tự đảm bảo và mến khách được khẳng định, được nhiều tổ chức nghiên cứu du lịch bình chọn là điểm đến an toàn – thân thiện nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, du khách quốc tế tìm đến nước ta ngày càng nhiều.
2.2,1.3 Các chính sách điều tiết của Nhà nước:
Chính phủ đã ban hành chính sách miễn thị thự cho kiều bào định cư ở nước ngoài, đã thu hút kiều bào về quê du lịch và đóng góp phát triển đất nước, chính sách dược mua nhà ở cho kiều bào và người nước ngoài làm việc lâu dài tạibViệt Nam, góp phần tác động đến sự phát triển ngành du lịch. Luật du lịch ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy ngành du lịch phát triển bền vững.
2.2.1.4 Môi trường pháp lý, thủ tục hành chính
Chính phủ không ngừng nổ lực cải thiện môi trường pháp lý, thủ tục hành chính phù hợp với tập quán quốc tế, thực hiện đúng lộ trình cam kết hội nhập quốc tế, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực nhạy cảm: Viễn thông, ngân hàng, tài chính…thực hiện cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế doanh nghiệp nhà nước lớn.
2.2.1.5 Yếu tố tự nhiên:
Nước ta có các điều kiện thiên nhiên thuận lợi để phát triển du lịch, nhiều thắng cảnh đẹp được UNESCO công nhận là di sản thế giới như kinh đô Huế, vịnh Hạ Long, khu di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Hoàng thành Thăng Long… và các khu dự trữ sinh quyển của thế giới như Cù Lao Chàm, khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, Cần Giờ…
2.2.1.6 Yếu tố văn hoá:
Nước ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước với hàng ngàn lễ hội văn hoá dân tộc đặc sắc diễn ra suốt năm, chính những di sản văn hoá, lịch sử, phong tục tập quán, nghệ thuật truyền thống cùng với môi trường văn hoá và cách ứng xử của cộng đồng được nhìn nhận có giá trị, để tạo nên các loại hình du lịch văn hoá phong phú.
2.2.1.7 Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE)
Từ các yếu tố phân tích trên, kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia, tác giả lập bảng ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài như sau Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
TT | Các yếu tố bên ngoài | Mức độ quan trọng | Phân loại | Tổng điểm |
1 | Nền kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển | 0,08 | 2 | 0,16 |
2 | Tiềm năng thị trường | 0,12 | 3 | 0,36 |
3 | Sự cạnh tranh mạnh mẽ của đối thủ | 0,08 | 2 | 0,16 |
4 | Tình hình an ninh chính trị Việt Nam ổn định | 0,15 | 4 | 0,6 |
5 | Sự bất ổn về chính trị, mất an ninh tại một số quốc gia, khu vực | 0,12 | 3 | 0,36 |
6 | Nhu cầu du lịch khách nội địa tăng cao | 0,14 | 4 | 0,56 |
7 | Hợp tác du lịch quốc tế của Việt Nam ngày càng mở rộng | 0,07 | 2 | 0,14 |
8 | Nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục | 0,07 | 2 | 0,14 |
9 | Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Việt Nam còn hạn chế | 0,07 | 2 | 0,14 |
10 | Nằm trong khu vực dự án tiểu vùng sông Mêkông mở rộng và tuyến du lịch xuyên Á | 0,1 | 3 | 0,3 |
Tổng cộng | 1,0 | 2.92 |
Nguồn:Tham khảo ý kiến các chuyên gia. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Nhận xét: Tổng số điểm quan trọng là 2,92 điểm, cho thấy ngành du lịch Bến Tre phản ứng với các yếu tố môi trường bên ngoài ở mức độ trung bình khá trong việc tận dụng các cơ hội và tránh những mối đe dọa từ bên ngoài. Qua bảng đánh giá trên, chúng ta nhận thấy du lịch Bến Tre phản ứng tốt với các yếu tố như: Tình hình an ninh chính trị Việt Nam ổn định, nhu cầu du lịch khách nội địa tăng cao, nằm trong k hu vực dự án tiểu vùng sông Mêkông mở rộng và tuyến du lịch xuyên Á, tiềm năng thị trường…tránh các mối đe dọa từ bên ngoài như: Sự cạnh tranh mạnh mẽ của đối thủ trên thị trường, nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục …
2.2.1.8 Những cơ hội – nguy cơ
- Cơ hội:
Kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển, thu nhập đời sống của người dân tăng lên góp phần kích thích nhu cầu du lịch. Sự ổn định về chính trị – xã hội của đất nước góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Thị trường du lịch tiềm năng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nằm trong dự án tiểu vùng sông Mêkông mở rộng và tuyến du lịch xuyên Á.
- Nguy cơ
Kinh tế thế giới suy thoái tác động trực tiếp đến ngành du lịch. Sự bất ổn về chính trị, mất an ninh tại một số quốc gia và khu vực có thể ảnh hưởng tâm lý du khách. Quan hệ hợp tác du lịch quốc tế rộng mở, áp lực cạnh tranh ngày càng lớn của các đối thủ trên thị trường. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn hạn chế.
2.2.2 Phân tích tác động của các yếu tố vi mô
2.2.2.1 Tình hình phát triển du lịch trên thế giới và khu vực
Thế kỷ 21, tình hình thế giới sẽ có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt về khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá là một xu thế khách quan… Trong bối cảnh đó, nhu cầu đi du lịch của người dân tăng nhanh. Du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh và trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu của thế giới. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), năm 2024 ngành công nghiệp không khói này có doanh thu chiếm 9,3% tổng thu nhập nội địa toàn cầu, tạo nhiều việc làm cho người lao động và hiện đang thu hút 230 triệu lao động trực tiếp, với lượng khách du lịch quốc tế đạt 935 triệu lượt khách, tăng 6,7% so năm 2023. Trong những năm tới, viễn cảnh của ngành du lịch toàn cầu nhìn chung rất khả quan. Theo UNWTO đã dự báo du lịch thế giới sẽ tăng trưởng và sẽ đạt lượng khách du lịch quốc tế là 1.600 triệu lượt khách vào năm 2035.
2.2.1.2 Tình hình phát triển du lịch của Việt Nam Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn định với tốc độ trung bình ở mức tương đối cao, thị phần và thu nhập từ du lịch của Việt Nam trong khu vực đã tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn vào GDP. Đến nay, Việt Nam đã ký 15 hiệp định song phương và đa phương về du lịch và có quan hệ trên 1000 hãng, tổ chức du lịch nước ngoài, các hãng lữ hành du lịch lớn nhất trên thế giới.
Theo UNWTO, hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới và được xếp thứ 7 thế giới về tăng trưởng lượng khách trong số 174 nước. Xếp vào nhóm 10 điểm đến hàng đầu thế giới.
Theo địa chỉ trực tuyến Cheapflights.c (Anh), một công cụ tìm kiếm và so sánh giá cả du lịch cho biết Việt Nam là một trong ba địa điểm ở Châu Á ngày càng được nhiều người biết đến nhất (tăng 94%).
Như vậy, du lịch nước ta đứng từ vị trí thấp nhất khu vực nhưng đến nay vươn lên vị trí thứ 5 của khu vực chỉ sau các quốc gia Singapore, Thái Lan, Indonesia và Malaysia có ngành du lịch phát triển mạnh .
Theo số liệu thống kê cho thấy ( tham khảo phụ lục 3), mặc dù với bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến còn nhiều khó khăn phức tạp đã ảnh hưởng tức thời đến sự phát triển của ngành du lịch nước ta nhưng ngành du lịch nước ta đã tăng trưởng mạnh mẽ.
Năm 2024 ngành du lịch Việt Nam đã đón và phục vụ 5,168 triệu lượt khách quốc tế, 28 triệu lượt khách nội địa, thu nhập du lịch đạt 96.000 tỷ đồng tăng 37% so năm 2023, đóng góp 4,5% GDP, giải quyết việc làm 14 triệu lao động. Bởi đây là năm nền kinh tế được cải thiện, nhiều sự kiện trọng đại của đất nước được tổ chức thành công, tạo ấn tượng tốt đẹp cho bạn bè quốc tế: Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, năm du lịch quốc gia 2024, chương trình kích cầu du lịch “Việt Nam điểm đến của bạn”, hội chợ du lịch quốc tế Tp.HCM 2024 với chủ đề “Đa quốc gia một điểm đến”… Theo Tổng cục Du lịch mục tiêu năm 2025 đón 5,6 triệu khách quốc tế và 30 – 31 triệu khách nội địa, thu nhập du lịch đạt 110.000 tỷ đồng
Theo số liệu thống kê, hiện cả nước có 8.556 khách sạn được xếp hạng 3 – 5 sao với 180.551 phòng, trong đó có 200 khách sạn 4 – 5 sao với 24.970 phòng. Trong khi dự báo 2025 Việt Nam phải có trên 280.000 phòng, do vậy không đáp ứng được nhu cầu khách hàng nhất là vào mùa cao điểm.
2.2.2.3 Các nhà cung ứng:
Vô cùng quan trọng đối với sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ của tổ chức, đặc biệt đối với sản phẩm lữ hành do có đặc thù là quá trình tiêu thụ sản phẩm diễn ra đồng thời cùng với quá trình tạo nên sản phẩm. Yếu tố này làm cho chương trình du lịch phong phú, khó kiểm soát. Các nhà cung ứng gồm: Cơ sở cung ứng dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, các điểm tham quan… Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
2.2.2.4 Áp lực cạnh tranh
Trong thế kỷ 21, xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới chuyển biến nhanh chóng, đưa ngành du lịch bước vào thời kỳ cạnh tranh toàn cầu và khu vực ngày càng gay gắt, bên cạnh việc đẩy mạnh các chiến lược kinh doanh, tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh, sự nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ du khách không ngừng được đầu tư phát triển với quy mô hiện đại hơn, chuyên nghiệp hơn. Trong khi khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam, trong đó có du lịch Bến Tre còn rất hạn chế kém xa các nước trong khu vực và thế giới.
Ở trong nước sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều các điểm du lịch có khả năng cạnh tranh cao như: Tp.HCM, Bình Thuận, Nha Trang, Cần Thơ, Phú Quốc, Tiền Giang, …với những sản phẩm du lịch đặc trưng, đa dạng, phong phú với chất lượng cao hấp dẫn thu hút khách quốc tế, là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành du lịch Bến Tre, cụ thể:
- Thành phố Hồ Chí Minh
Trong những năm qua du lịch Thành phố có tốc độ tăng trưởng ổn định, đóng góp có hiệu quả vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Phó chủ tịch UBND Thành phố cho biết, du lịch là một trong bốn ngành dịch vụ chủ yếu đóng góp 5,5% vào GDP của Thành phố.
Tp.HCM là trung tâm du lịch lớn nhất nước, thu hút hàng năm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Bởi vì ngoài cơ sở hạ tầng khá tốt, giao thông tương đối thuận tiện, còn là nơi có tài nguyên du lịch phong phú với cảng Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh, địa đạo Củ Chi, hệ thống các bảo tàng, nhà hát, nhà văn hoá, các công trình kiến trúc thời Pháp là những điểm du lịch hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Gần đây Tp đã đầu tư nhiều khu du lịch vui chơi giải trí như: Thanh Đa, Bình Quới, Đầm Sen, … đã thu hút và hấp dẫn du khách.
Công tác quảng bá xúc tiến, giới thiệu hình ảnh điểm đến Tp.HCM chuyển biến rõ nét thông qua việc tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Tp.HCM và ở nước ngoài. khai thác lợi thế của các hãng hàng không, báo chí quốc tế, tổ chức tốt một số sự kiện tại Tp.HCM, thu hút được sự tham gia của nhiều doanh nghiệp du lịch quốc tế hàng đầu. Tiêu biểu là triễn lãm quốc tế du lịch Tp.HCM 2024 với chiủ đề “Đa quốc gia một điểm đến”… Thường xuyên duy trì chương trình truyền hình du lịch với chủ đề “Du lịch và cuộc sống” trên kênh HTV9, giới thiệu du lịch Tp.HCM trên kênh truyền hình quốc gia như VTV2,VTV9. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Xu hướng liên kết doanh nghiệp lữ hành trong ngành để tăng chất lượng phục vụ và sức cạnh tranh đang phát triển mạnh không chỉ giữa các doanh nghiệp lớn mà còn khá phổ biến ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp du lịch còn chủ động bắt tay liên kết với các tập đoàn lớn có thương hiệu mạnh trên thế giới để hỗ trợ phát triển, khai thác thị trường hai bên, tạo nguồn khách ổn định.
Hưởng ứng chương trình hành động của Bộ VHTT&DL nhằm tăng cường thu hút khách quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa. Ngành du lịch Tp.HCM triển khai chương trình “Tp.HCM – 100 điều thú vị” bao gồm: 10 khách sạn mang ấn tượng Việt Nam, 10 nhà hàng Việt Nam đặc sắc, 10 hãng vận chuyển uy tín, 10 món ăn Việt được yêu thích nhất, 10 đặc sản được ưa chuộng nhất, 10 điểm tham quan tiêu biểu, 10 điểm mua sắm được yêu thích, 10 chương trình tour thú vị, 10 điểm giải trí được ưa thích và 10 sự kiện tiêu biểu.
Theo Sở VHTT&DL Tp.HCM, hiện có 634 doanh nghiệp lữ hành (300 doanh nghiệp lữ hành quốc tế và các văn phòng đại diện, 334 doanh nghiệp lữ hành nội địa ), 875 khách sạn được xếp hạng từ 1 – 5 sao với 45.312 phòng (trong đó có 224 khách sạn xếp 3-5 sao với 10.550 phòng), 700 cơ sở lưu trú được công nhận đạt chuẩn với 10.954 phòng.
- Tiền Giang
Cách Tp.HCM 70 km. Đây là vùng đất có thiên nhiên và con người mang đặc trưng của nền văn minh sông nước Nam Bộ, vị trí thuận lợi nằm cạnh biển Đông với 32km bờ biển và nằm trải dài trên dòng sông Tiền, có hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy tỏa khắp trong tỉnh đã tạo nên những ưu thế và thuận lợi cho hoạt động du lịch, tạo sự hấp dẫn và thu hút du khách theo hướng du lịch sinh thái, du lịch lịch sử – văn hoá, và lễ hội dân gian. Là vùng đất truyền thống cách mạng gắn liền tên tuổi các anh hùng dân tộc với các chiến tích lẫy lừng như: Trương Định, Thủ Khoa Huân, Lê Thị Hồng Gấm,… trên quê hương Tiền Giang còn có địa danh Gò Thành nằm trong di chỉ khảo cổ Óc Eo cách đây 15 thế kỷ. Cảnh quan phong phú với những lăng mộ, đền chùa, đình miếu vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn hoá như: Lăng Trương Định, lăng Hoàng Gia, đền thờ Thủ Khoa Huân, chùa Vĩnh Tràng, đình Long Hưng,…và nhiều khu điểm du lịch đã được đầu tư phát triển như: Khu du lịch cù lao Thới Sơn, biển Tân Thành, khu du lịch chợ nổi Cái Bè, khu di tích chiến thắng ấp Bắc, trại rắn Đồng Tâm…
Với tình hình đầu tư cơ sở hạ tầng hiện nay như: Đường cao tốc Tp.HCM-Trung Lương, Cầu Mỹ Lợi … rút ngắn thời gian cho khách du lịch đến với Tiền Giang. Qua đó tạo cơ hội để khai thác khách du lịch quốc tế qua cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất và khách nội địa từ thị trường trọng điểm Tp. HCM và các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Trong khuôn khổ dự án phát triển du lịch Mêkông, Tiền Giang đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng và tăng cường hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mêkông. Việc đưa vào khai thác bến tàu du lịch Mỹ Tho nhằm phục vụ khách tham quan sông nước Tiền Giang và đón các tàu du lịch hành trình trên tuyến du lịch Tp.HCM – Phnom Penh. Bên cạnh sẽ mở ra vận hội mới cho ngành du lịch trong việc liên kết tour tuyến giữa đường thủy và đường bộ, giữa các tỉnh ĐBSCL và các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mêkông.
Theo số liệu mới nhất, hiện Tiền Giang có 17 đơn vị lữ hành, phần lớn là lữ hành quốc tế, đã khai thác và phục vụ du khách nhiều tour tham quan, du lịch trong và ngoài nước. Bên cạnh lữ hành, lưu trú là một dịch vụ có bước phát triển mạnh bởi sự đầu tư của các thành phần kinh tế. Hiện có 101 cơ sở lưu trú với 1.545 phòng và 1.918 giường. Trong đó có 36 khách sạn đã được xếp hạng, chủ yếu tập trung ở đường 30/4, đường Trưng Trắc, nơi có không gian thoáng và đẹp, đó là sông Tiền và công viên Lạc Hồng. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
- Thành phố Cần Thơ
Từ lâu, Tp.Cần Thơ được xem là thủ phủ miền Tây – nơi đô hội nhất vùng châu thổ ĐBSCL, trải dài 65km bên bờ sông Mêkông huyền thoại. Ngày nay, Cần Thơ là đô thị trẻ, diện tích 2.964km2, với 1.852.000 dân, mang đậm nét văn hoá phương Nam. Vị trí địa lý thuận lợi, nhiều năm liền Tp.Cần Thơ là nơi níu chân khách phương xa trong những chuyến tham quan vùng sông nước. Điểm hẹn của sông nước miền Tây, ngoài đặc trưng về địa lý là đầu mối giao thông quan trọng giữa các tỉnh trong khu vực ĐBSCL, Tp.Cần Thơ được ví như “Đô thị miền sông nước”. Hệ thống sông ngòi chằng chịt, vườn cây ăn trái bạt ngàn, đồng ruộng mênh mông. Các cù lao như: Tân Lộc, cồn Sơn, cồn Khương, cồn Ấu, chợ nổi Cái Răng – chợ mua bán trên sông một nét sinh hoạt đặc trưng văn hoá Nam bộ …. Ngoài ra, du khách có dịp gần gũi tâm sự với những người gọi là “Dân thương hồ”. Họ lấy sông nước làm bầu bạn quanh năm.
Cơ sở hạ tầng được cải thiện, sân bay quốc tế Trà Nóc lớn nhất đồng bằng, cảng Cái Cui, cầu Cần Thơ là cây cầu dây giăng dài nhất Đông Nam Á đã hoàn thành đưa vào hoạt động để du lịch Cần Thơ vươn xa hơn. Hệ thống siêu thị, dịch vụ đã hoạt động rất hiệu quả như: Metro, Coopmart, City mart… luôn cung cấp đủ hàng hoá và trò vui chơi để phục vụ tốt khách du lịch.
Theo Sở VHTT&DL Tp.Cần Thơ, hiện Tp.Cần Thơ có 19 doanh nghiệp lữ hành, trong đó có 07 doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Có 145 khách sạn, trong đó có 05 khách sạn 04 sao, 09 khách sạn 03, 45 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 đến 2 sao, với trên 3.000 phòng, có 11 khu sinh thái vườn và vô số vườn cây gia đình lúc nào cũng đón mời khách lạ, với bầu không khí trong lành mát..mẽ.
2.2.2.5 Khách hàng:
Khách quốc tế rất đa dạng, có cơ cấu về nguồn gốc, đặc điểm sở thích, quốc tịch khác nhau như các nước Đông Bắc Á, các nước Tây Âu, các nước Bắc Mỹ, cơ cấu thị trường khach quốc tế đến Việt Nam có nhiều biến động trong thập kỷ vừa qua, trong đó đáng chú ý là sự tăng trưởng trở lại của thị trường khách Đông Âu chủ yếu là Nga và các nước ASEAN. Đây là những thị trường tiềm năng trong tương lai của du lịch Việt Nam. Phần đông khách quốc tế đến tham quan nước ta đều theo các tour du lịch do các công ty ở Tp.HCM tổ chức thường có nhu cầu khám phá thiên nhiên, yêu thích sự yên tĩnh, tìm hiểu bản sắc văn hoá dan tộc…ham quan phong cảnh sông nước, núi, biển, vườn cây ăn trái…Nếu như đa số khách đến từ Tây Âu, Mỹ, Nhật có yêu cầu cao về dịch vụ, chương trình tour dài ngày, thì số khách còn lại có nhu cầu dịch vụ ở mức thấp hơn, chương trình tour tương đối ngắn. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Khách du lịch nội địa tăng trưởng mạnh trong giai đoạn hiện nay do nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, tạo điều kiện tăng thu nhập của người dân và người dân ngày càng thích đi du lịch, thời gian nghĩ rỗi trong năm kéo dài hơn do áp dụng chế độ làm việc 40h tuần và nghỉ bù nếu như ngày lễ, Tết rơi vào cuối tuần. Các điều kiện giao thông đi lại ngày dễ dàng hơn do dường sá cải tạo mở rộng, sự hoạt động tích cực của các hãng lữ hành, các công ty vận chuyển khách. Họ có đặc điểm sau: Họ phân thành nhiều loại từ bình dân đến cao cấp, đến từ các đô thị lớn, đi du lịch dưới nhiều hình thức như sử dụng dịch vụ của các công ty du lịch hoặc tổ chức theo nhóm lẻ…Họ có thể đi nhiều lần trong năm hơn trước, xu hướng đi nghỉ cuối tuần tăng, nhất là người dân sống ở đô thị lớn. Mức chi tiêu nhiều hơn và chi cho dịch vụ ăn uống, mua sắm, giải trí…
2.2.2.6 Sản phẩm thay thế:
Dịch vụ du lịch là sản phẩm đặc thù gồm nhiều yếu tố dịch vụ vật chất và phi vật chất, do đó dự báo trong tương lai gần áp lực sản phẩm thay thế là không có.
2.2.2.7 Ma trận hình ảnh các đối thủ cạnh tranh
Từ các yếu tố phân tích trên, kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia, tác giả lập bảng ma trận hình ảnh các đối thủ cạnh tranh như sau
Các yếu tố | Mức độ quan trọng | Du lịch Bến Tre | Du lịch Tp.HCM | Du lịch Tiền Giang | Du lịch Cần Thơ | ||||
Hạng | Điểm | Hạng | Điểm | Hạng | Điểm | Hạng | Điểm | ||
1. Thị phần | 0,12 | 3 | 0,36 | 4 | 0,48 | 3 | 0,36 | 3 | 0,36 |
2. Uy tín thương hiệu | 0,09 | 2 | 0,18 | 4 | 0,36 | 2 | 0,18 | 3 | 0,27 |
3. Lợi thế phát triển du lịch sinh thái | 0,1 | 3 | 0,3 | 3 | 0,3 | 3 | 0,3 | 3 | 0,3 |
4. Khả năng cạnh tranh | 0,11 | 3 | 0,33 | 3 | 0,33 | 3 | 0,33 | 3 | 0,33 |
5. Hoạt động marketing, xúc tiến du lịch | 0,09 | 2 | 0,18 | 3 | 0,27 | 3 | 0,27 | 3 | 0,27 |
6. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang đầu tư nâng cấp, phát triển | 0,11 | 3 | 0,33 | 4 | 0,44 | 4 | 0,44 | 4 | 0,44 |
7. Tài nguyên mang đậm nét văn hoá, di tích lịch sử hiếm có | 0,13 | 4 | 0,52 | 4 | 0,52 | 3 | 0,39 | 4 | 0,52 |
8. Nguồn nhân lực | 0,09 | 2 | 0,18 | 3 | 0,27 | 3 | 0,27 | 3 | 0,27 |
9. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch | 0,08 | 2 | 0,16 | 4 | 0,32 | 3 | 0,24 | 3 | 0,24 |
10. Sự đa dạng sản phẩm | 0,08 | 2 | 0,16 | 3 | 0,24 | 3 | 0,24 | 3 | 0,24 |
Tổng cộng | 1,0 | 2,7 | 3,53 | 3,02 | 3,24 |
Nguồn: Tham khảo ý kiến các chuyên gia. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Nhận xét: Qua phân tích ma trận hình ảnh cạnh tranh trên, ta thấy đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của du lịch Bến Tre là du lịch Tp.HCM với 3,53 điểm, là đối thủ có nhiều thế mạnh về thị phần, uy tín thương hiệu, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tài nguyên mang đậm nét văn hoá, di tích lịch sử hiếm có, kế đến du lịch Cần Thơ 3,24 điểm, du lịch Tiền Giang 3,02 điểm. Do đó mục tiêu phát triển của du lịch Bến Tre chính là khắc phục hạn chế những điểm yếu như: Thương hiệu, hoạt động marketting và xúc tiến thị trường, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, sự đa dạng sản phẩm, trình độ cán bộ & lao động trong ngành. Đồng thời phát huy những mặt mạnh như: Tài nguyên mang đậm nét văn hoá, di tích lịch sử hiếm có, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang đầu tư, thuận lợi phát triển du lịch sinh thái, khả năng cạnh tranh, thị phần.
2.2.3 Phân tích tác động của các yếu tố bên trong
2.2.3.1 Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch
- Doanh thu du lịch (Tham khảo phụ lục 6)
Giai đoạn 2009 – 2014 là giai đoạn phát triển khởi đầu của du lịch Bến Tre. Là điểm du lịch mới trên bản đồ du lịch của cả nước và thế giới, cùng với chính sách mở cửa, ngành du lịch Bến Tre bắt đầu được du khách chú ý, lượng khách đến tham quan tăng nhanh khiến doanh thu du lịch Bến Tre tăng theo. Nếu như năm 2009 doanh thu toàn ngành mới chỉ đạt 10,9 tỷ đồng thì đến năm 2014 doanh thu đã đạt con số 32 tỷ (tăng 2,93 lần), tăng trưởng bình quân 24,95%/năm. Với xuất phát điểm thấp, những kết quả đạt được của du lịch Bến Tre là một dấu hiệu lạc quan, mở ra một triển vọng phát triển trong những giai đoạn tiếp theo.
Bước sang giai đoạn 2014 – 2024, ngành du lịch Bến Tre đã nhận được một số nguồn vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung ương, cùng với các đơn vị kinh doanh du lịch tăng cường đầu tư cho mạng lưới kinh doanh du lịch của mình trên địa bàn tỉnh và đặt đại diện tại một số địa phương đã tạo điều kiện để doanh thu du lịch Bến Tre ngày càng tăng. Mặc dù trong giai đoạn này, du lịch Việt Nam và du lịch thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của thiên tai dịch bệnh, các cuộc khủng bố, khủng hoảng kinh tế toàn cầu…, đã gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch Bến Tre, lượng khách đến có giảm sút nhưng doanh thu vẫn đảm bảo được mức tăng trưởng ổn định. Nguyên nhân do tỉnh đề ra những biện pháp thích hợp như ưu tiên đầu tư phát triển loại hình du lịch sinh thái, đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế gắn với phát triển du lịch, đầu tư nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch đã có cùng với việc hình thành các khu vui chơi giải trí gắn với di tích lịch sử – văn hoá… từ đó giúp du lịch Bến Tre nhanh chóng bình ổn và phát triển, Năm 2024 doanh thu ngành du lịch đã đạt 280 tỷ đồng (tăng 8,75 lần so với năm 2014). Tốc độ tăng trưởng bình quân 2014 – 2024 đạt 24,35% . Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
- Lượng khách du lịch (Tham khảo phụ lục 7)
Kết quả phân tích hoạt động du lịch Bến Tre thời kỳ 2009 – 2024 cho thấy tốc độ tăng trưởng về khách du lịch khá nhanh.
Giai đoạn 2009 – 2014, ngành du lịch Bến Tre còn non trẻ, với điểm xuất phát thấp, lại là một điểm đến mới trên bản đồ du lịch của cả nước và khu vực, khách du lịch đến Bến Tre tăng đều qua từng năm. Năm 2014 lượng khách du lịch đến Bến Tre đạt 155.122 lượt khách du lịch, tăng gấp 1,7 lần so với năm 2009, với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 11,8%/năm. Trong đó khách quốc tế đạt 58.060 lượt khách, tăng trưởng bình quân 34,31%
Giai đoạn 2014 – 2024, ngành du lịch thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tình hình chính trị bất ổn tại một số khu vực, thiên tai, dịch bệnh cùng với việc liên tiếp xảy ra các cuộc khủng bố. Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà Việt Nam được các Hiệp hội du lịch, Tổ chức du lịch thế giới đánh giá là điểm đến an toàn và thân thiện, chính vì vậy mặc dù có sự tăng trưởng chậm nhưng du lịch Bến Tre vẫn đạt mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Thời kỳ này hoạt động du lịch Bến Tre đã có bước phát triển khá hơn, hệ thống các tuyến, điểm du lịch đã hình thành và dần hoàn thiện đã thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 2024 khách du lịch đến Bến Tre đạt 540.209 lượt khách tăng 3,48 lần so với năm 2014, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14.28%/năm. Trong đó khách du lịch quốc tế đạt 229.943 lượt khách, tăng trưởng bình quân 16,91%, đây là một dấu hiệu lạc quan của du lịch Bến Tre..Tính chung cho cả giai đoạn 2010 – 2024, tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch đến Bến Tre vẫn đạt mức 13,49%/năm.
Tuy nhiên, hạn chế chung của du lịch Bến Tre cũng như các địa phương khác trong vùng là điều kiện cơ sở hạ tầng. Cầu Rạch Miễu, Hàm Luông hoàn thành khách du lịch đến Bến Tre không phải mất nhiều thời gian cho giao thông như trước đây. Dù vậy để khách đến với các điểm du lịch ở các huyện vẫn còn gặp khó khăn khi lưu thông bằng đường bộ. Thật sự có không ít du khách muốn đi du lịch Chợ Lách để tham quan làng hoa kiểng, cây giống nổi tiếng miền Tây, tham quan nhà thờ Cái Mơn… nhưng vẫn vắng khách, do tuyến đường bộ để tham quan các điểm du lịch này là quốc lộ 60, 57 tuy đã hoàn chỉnh nhưng còn nhiều cây cầu bắt qua sông rạch đang được nâng cấp, không đảm bảo an toàn với những xe khoảng 45 chỗ khi qua cầu, xe chở khách du lịch đi ngang phải để khách xuống đi bộ. Ở tất cả các huyện hầu như không có nơi nào đảm bảo được chỗ nghỉ ngơi tốt qua đêm cho một đoàn khách tham quan… Trong khi đó khách đi du lịch, nhất là khách nước ngoài có nhu cầu đối với hoạt động vui chơi giải trí, nhưng phải an toàn tuyệt đối và không phải đối phó với nhiều thứ phiền muộn. Vì những vướng mắc này mà nhiều tour du lịch ở một số huyện của Bến Tre tuy hấp dẫn nhưng khách ngán ngại không đi.
2.2.3.2 Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng của ngành
Cơ sở vật chất
- Hoạt động lưu trú Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Do nhu cầu ăn nghỉ tại khách sạn ngày càng tăng, nên số lượng phòng, giường trong các cơ sở lưu trú cũng không ngừng phát triển. Năm 2009, toàn tỉnh chỉ có 4 cơ sở lưu trú với 88 phòng và 189 giường thì đến 2024 toàn tỉnh đã có 43 cơ sở lưu trú với 755 phòng và 1.146 giường. (Tham khảo phụ lục 4)
Để đảm bảo phục vụ số lượng khách đến Bến Tre ngày càng tăng, các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở lưu trú. Hệ thống này đã phát triển phong phú, đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, liên doanh đầu tư trong nước…, tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc, mang những sắc thái riêng đối với từng loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chất lượng của hệ thống cơ sở lưu trú ở Bến Tre còn ở mức độ thấp. Đến nay mới chỉ có 25 cơ sở được thẩm định và công nhận cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn tối thiểu, trong đó có một khách sạn 03 sao. Đây cũng là một trong những yếu tố làm cho sản phẩm du lịch Bến Tre chưa có sức hấp dẫn khách, chưa chiếm được ưu thế cạnh tranh trên thị trường du lịch, hạn chế này cần nhanh chóng khắc phục trong những giai đoạn phát triển sắp tới để du lịch Bến Tre có thể bắt kịp với các địa phương khác trong nước cũng như trên thị trường du lịch quốc tế.
- Hoạt động ăn uống
Cùng với sự gia tăng nhanh của khách du lịch cũng như các cơ sở lưu trú, hệ thống các cơ sở ăn uống cũng phát triển khá nhanh. Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ đều có các phòng ăn, quầy bar… không những chỉ phục vụ cho khách nghỉ tại khách sạn mà còn phục vụ cả khách bên ngoài. Ở những cơ sở này, du khách được thưởng thức đầy đủ các món ăn dân tộc, Âu, Á… với chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh thực phẩm, vừa ăn uống du khách có thể vừa được thưởng thức các làn điệu dân ca mang đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên giá cả ở đây thường cao hơn từ 2 đến 3 lần so với nơi khác, nên đối tượng khách của các cơ sở này thường là người có thu nhập cao, hoặc khách đi du lịch theo tour trọn gói. Theo số liệu thống kê của Sở VHTT&DL Bến Tre, hiện có 15 cơ sở ăn uống nằm trong hệ thống các cơ sở lưu trú với 4.200 ghế.
Ngoài các cơ sở ăn uống nằm trong khách sạn ra, các cơ sở ăn uống nằm ngoài khách sạn cũng phát triển mạnh, hầu hết các thành phần kinh tế đều tham gia kinh doanh dịch vụ này. Nếu như năm 2009, toàn tỉnh mới có 15 cơ sở ăn uống có khả năng phục vụ tối đa 1.000 khách thì đến 2024 đã có 60 cơ sở dịch vụ ăn uống với số lượng 12.550 ghế. Chủng loại thực đơn đồ ăn – thức uống ở các cơ sở dịch vụ này cũng phong phú, chất lượng đa dạng, đáp ứng được nhu cầu không những cho nhiều loại đối tượng khách du lịch khác nhau mà còn cho cả nhân dân địa phương.
- Hoạt động lữ hành Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Đến 31/12/2024, trên địa bàn tỉnh có 07 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đang hoạt động, trong đó có 03 doanh nghiệp lữ hành quốc tế và 42 điểm du lịch sinh thái. Thời gian qua, các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn đã tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện và lao động, tăng cường các hình thức liên kết, hợp tác để đưa khách từ tỉnh ngoài về Bến Tre và ngược lại. Hình thức trung chuyển du khách giữa các tỉnh qua Bến Tre cũng ngày càng phổ biến, nhờ vậy hoạt động kinh doanh lữ hành đã có bước cải thiện cả về năng lực và tính hiệu quả.
Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động lữ hành hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Các doanh nghiệp lữ hành của tỉnh vẫn chưa có sự đầu tư đúng mức nên chưa đủ mạnh cả về quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật và thị trường, hoạt động chủ yếu là khai thác nguồn khách trong nước. Việc tổ chức, khai thác các tuyến du lịch quốc tế vẫn phải phụ thuộc vào sự phối hợp các doanh nghiệp lữ hành lớn của Tp.HCM.
- Cơ sở hạ tầng
Mặc dù là một tỉnh cù lao, nhưng nhờ sự nổ lực của tỉnh và sự trợ giúp của Trung ương nên hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư đáng kể, quy mô ngày càng mở rộng, góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch Bến Tre trong tương lai.
Hệ thống giao thông đường bộ phát triển, cầu và đường đã được thông suốt và nối liền với các trung tâm huyện, Tp, thị tứ và trung tâm các xã. Đặc biệt cầu Rạch Miễu và cầu Hàm Luông hoàn thành, tạo bước đột phá về phát triển hạ tầng, tạo nên cơ hội tăng trưởng mạnh về kinh tế – xã hội trong đó có du lịch. Tuy nhiên, một số tuyến điểm du lịch phải đi qua những con đường đang nâng cấp mở rộng, lòng đường hẹp, xe hai chiều khó tránh nhau, mùa mưa đi lại rất trở ngại, xe 45 chỗ chưa đến được. Đây là một trong những hạn chế, thách thức lớn nhất đối với phát triển du lịch Bến Tre. Hệ thống giao thông đường thuỷ khá thuận lợi và là một trong những kênh vận chuyển quan trọng nối liền với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Tp.HCM. Tuy có thế mạnh về vận tải đường thuỷ nhưng đến nay tỉnh chỉ khai thác dưới dạng tự nhiên.
Hệ thống điện được kết nối với lưới điện quốc gia. Hệ thống điện trung và hạ thế phát triển mạnh, lưới điện phủ khắp toàn tỉnh. Nguồn điện cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội cũng như phát triển du lịch và sinh hoạt của người dân.
Hệ thống cấp nước không ngừng hoàn thiện và mở rộng, hiện tại các thị trấn, thị tứ, trung tâm trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được 47 nhà máy có hệ thống xử lý nước, chủ yếu sử dụng nước mặt và một số ít nước ngầm tầng sâu. Tính đến nay, có 857.145 người được cấp nước, chiếm 63,4% dân số. Số dân còn lại sử dụng nước mưa khoảng 20%, nước giếng sạch 6,6%, nước sông rạch có xử lý 10%. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Hệ thống bưu chính viễn thông được đầu tư phát triển tương đối hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc trong – ngoài tỉnh và quốc tế. Độ phủ sóng điện thoại di động phát triển nhanh, chủ yếu tập trung tại các đô thị, thị tứ. Tuy nhiên, một số điểm du lịch sinh thái vườn ở nông thôn sóng di động còn chập chờn.
Các phương tiện vận chuyển phục vụ đưa đón khách du lịch: Từ năm 2014 đến nay, các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm đầu tư phát triển phương tiện vận chuyển khách, đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Đến nay có trên 100 xe từ 7 chỗ đến 45 chỗ chất lượng khá tốt phục vụ đưa đón du khách, cùng với 60 đò du lịch, 30 đầu xe ngựa, trên 100 xuồng chèo được khách du lịch ưa chuộng. Các phương tiện vận chuyển công cộng đang phát triển mạnh.
Nhìn chung, hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Bến Tre còn khó khăn do đặc thù địa lý. Mặc dù có nhiều nổ lực trong thời gian qua nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch hiện tại. Cải thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật chính là lĩnh vực cần được đặc biệt chú trọng đầu tư nhằm tăng cường khả năng tiếp cận du lịch cũng như đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
2.2.3.3 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến quá trình phát triển du lịch. Số lượng và chất lượng lao động trong ngành du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch. Trong những năm gần đây, số lượng lao động trong ngành du lịch gia tăng một cách đáng kể. Cùng với sự gia tăng không ngừng về số lượng, chất lượng lao động cũng được nâng cao, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, thái độ và khả năng giao tiếp của nhân viên phục vụ được hoàn thiện từng bước để đáp ứng các yêu cầu của khách du lịch. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Theo số liệu thống kê của Sở VHTT&DL Bến Tre (Tham khảo phụ lục 5), năm 2009 lao động trong ngành du lịch là 660 người, đến 2024 số lao động trong ngành có 4.040 người, tăng gấp 6.12 lần so năm 2009. Thực trạng về cơ cấu và trình độ đào tạo lao động ngành du lịch là một vấn đề còn nhiều bất cập. Trong số 4.040 lao động đang làm việc trong ngành du lịch thì có 404 lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên, trong đó số lao động được đào tạo về chuyên ngành du lịch khoảng 6%), số còn lại là lao động được đào tạo các chuyên ngành khác, lao động có trình độ trung cấp được đào tạo qua các trường nghề, nhưng phần lớn chỉ được đào tạo ở loại hình cấp tốc (từ 1 tháng đến 1 năm) nên trình độ nghiệp vụ, kiến thức về du lịch còn thấp.
Nhìn chung lao động trong ngành du lịch chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ một cách có hệ thống và chuyên sâu theo từng công đoạn của quy trình công nghệ phục vụ du lịch. Trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của khách du lịch. Để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách, đội ngũ lao động cần phải được đào tạo và đào tạo lại một cách có hệ thống. Các chuyên ngành đào tạo, các cấp đào tạo và số lượng lao động cần được đào tạo phải theo nhu cầu thực tế phát triển của ngành. Ngay từ bây giờ việc chuẩn bị tri thức, nghề nghiệp cho cán bộ nhân viên du lịch phải được ưu tiên hàng đầu để chuẩn bị cho các kế hoạch tương lai, việc đào tạo phải được chuẩn hoá ở cả 3 trình độ sơ cấp, trung cấp và đại học. Ngoài ra, đội ngũ lao động cũng cần phải được thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, cập nhật các tri thức, kỹ thuật mới, hiện đại cho phù hợp với nhu cầu, xu thế phát triển của thời đại.
2.2.3.4 Công tác quảng bá xúc tiến du lịch
- Công tác nghiên cứu thị trường
Đến nay, đã xây dựng được một số chương trình du lịch đưa vào khai thác có hiệu quả: Chương trình tham quan du lịch tại các địa danh: Vĩnh Thành, Chợ Lách, Tân Thạch, Quới Sơn, Phú Túc, An Khánh, Mỹ Thạnh An, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại… Các sản phẩm du lịch chủ yếu là tham quan du lịch sinh thái nhà vườn, tham quan các di tích văn hoá lịch sử, du lịch làng nghề
Chương trình du lịch nối tour với các địa phương trong nước nhằm tăng cường khả năng liên kết khai thác du lịch. Đến nay, đã phối hợp gửi khách đến các thị trường trong khu vực ĐBSCL, Tp.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Kiên Giang, Tây Ninh, Bình Thuận, Tây Nguyên, Nha Trang…Các chương trình du lịch quốc tế đến Campuchia, Hồng Kông, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia.
Ngoài ra, các doanh nghiệp du lịch trong tỉnh tiếp tục tiến hành nghiên cứu các thế mạnh đặc thù, khai thác các địa danh, các di tích văn hoá lịch sử để đưa vào khai thác nhiều tour, tuyến du lịch mới. Tăng cường liên doanh, liên kết, với các doanh nghiệp, các hộ gia đình nhằm tạo nguồn khách, tạo sản phẩm mới…
- Công tác tuyên truyền, quảng bá Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Ngành du lịch đã tổ chức các hoạt động xúc tiến thị trường rộng rãi, đồng loạt và liên tục dưới nhiều hình thức. Nhanh chóng tạo dựng được hình ảnh tốt về du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Bến Tre nói riêng. Tuy nhiên, so với các nước phát triển du lịch thì kinh phí dành cho công tác này còn hạn hẹp, năng lực thực hiện yếu, công tác kế hoạch, chiến lược về marketing, xúc tiến quảng bá chưa tập trung.
Công tác quảng bá xúc tiến du lịch cũng được chú trọng. Trong đó đáng chú ý là việc xây dựng trang thông tin điện tử của ngành du lịch, đĩa VCD giới thiệu chương trình du lịch Bến Tre, xây dựng và phát hành ấn phẩm “Chào đón quý khách đến Bến Tre”, tham gia quảng bá bằng các bài viết, hình ảnh ở các báo, tạp chí trong nước. Phối hợp với Công ty Vietbooks soạn thảo, phát hành ấn phẩm “Welcome to Ben Tre”, bản đồ du lịch tỉnh Bến Tre. Phối hợp các báo, đài phát thanh, truyền hình Trung ương, tỉnh bạn và địa phương viết bài giới thiệu về đất nước con người Bến Tre với du khách trong và ngoài nước.
2.2.3.5 Công tác đầu tư
Đầu tư là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và các ngành kinh tế nói chung. Theo Sở VHTTDL Bến Tre giai đoạn 2010 – 2014 tổng mức đầu tư là 17,561 tỷ đồng, bình quân mức đầu tư là 3,512 tỷ/năm, nguồn vốn chủ yếu là vốn của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: xây dựng mới 7 cơ sở lưu trú du lịch, 16 nhà hàng, 12 điểm tham quan du lịch sinh thái trong cộng đồng dân cư, nâng cấp các cơ sở nhà hàng, khách sạn, điểm du lịch đã có.
Giai đoạn 2015 – 2024 tổng mức đầu tư là 311,721 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là 12,068 tỷ, nguồn vốn từ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế là 299,653 tỷ đồng. Đầu tư xây dựng mới 28 cơ sở lưu trú du lịch, 18 nhà hàng, 30 điểm tham quan du lịch sinh thái, nâng cấp sữa chữa lớn 4 nhà hàng, 2 khách sạn.
Để phát triển KTXH trong đó có ngành kinh tế dịch vụ du lịch, tỉnh Bến Tre ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư tạo môi trường thông thoáng cho phát triển du lịch, đã ra chủ trương xã hội hoá du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh trên lĩnh vực du lịch và bố trí các nguồn vốn để thực hiện công tác đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, đón đầu sự phát triển du lịch sau khi cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông hoàn thành – một trong những đòn bẩy quan trọng gắn kết du lịch Bến Tre với các địa phương trong cả nước và với thị trường du lịch khu vực, quốc tế.
Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: đây là lĩnh vực không chỉ có ý nghĩa đối với phát triển KTXH mà còn có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch. Trong những năm qua, bằng nguồn vốn sẵn có của các doanh nghiệp và nguồn vốn huy động từ bên ngoài, Bến Tre đã từng bước nâng cấp hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển du lịch. Cụ thể, nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng đường giao thông đến các điểm du lịch ven sông thuộc huyện Châu Thành, đầu tư cơ sở hạ tầng khu du lịch làng quê Hưng Phong. Đầu tư nâng cấp hạ tầng giao thông, điện nước xã Mỹ Thạnh An để kết hợp phát triển kinh tế dân sinh và du lịch.
Về đầu tư phát triển du lịch: đầu tư phát triển các khu điểm du lịch là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của du lịch Bến Tre giai đoạn 2015 – 2024 nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch có chất lượng, có sức hấp dẫn cao với du khách. Đến nay ngành du lịch Bến Tre đã phát triển 7 khu điểm du lịch trọng điểm của tỉnh, nâng cấp các cơ sở dịch vụ lưu trú, nhà hàng ăn uống phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. Việc thực hiện các dự án đầu tư trên đã và đang góp phần tích cực vào phát triển du lịch Bến Tre. Ngoài ra, các dự án đang tiếp tục triển khai là dự án đầu tư phát triển khu du lịch Phú Bình (vốn đầu tư 40,5 tỷ), dự án xây dựng khách sạn 4 sao Việt – Úc: 120 tỷ đồng, khu Resort Forever Green (50tr.USD), khu du lịch Mekong Peart Cồn Phụng (200 tỷ đồng)… Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Đầu tư tôn tạo di tích văn hoá lịch sử gắn kết phục vụ khách du lịch đến nay đã tập trung nguồn vốn đầu tư vào các khu di tích quan trọng của tỉnh như khu di tích lịch sử Nguyễn Đình Chiểu, khu di tích lịch sử Đồng Khởi, đền thờ nữ tướng Nguyễn Thị Định, tôn tạo khu di tích Võ Trường Toản với tổng số vốn là 12,507 tỷ đồng.
2.2.3.6 Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE)
Từ các yếu tố phân tích trên, kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia, tác giả lập bảng ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài như sau
TT | Các yếu tố bên trong | Mức độ quan trọng | Phân loại | Tổng điểm |
1 | Đặc thù địa lý tạo thế mạnh để phát triển du lịch sinh thái sông nước, miệt vườn | 0,11 | 4 | 0,44 |
2 | Trình độ CB và lao động trong ngành còn nhiều bất cập | 0,08 | 2 | 0,16 |
3 | Hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang đầu tư nâng cấp, phát triển | 0,09 | 3 | 0,27 |
4 | Chất lượng sản phẩm du lịch | 0,08 | 2 | 0,16 |
5 | Kinh tế Bến Tre phát triển tương đối ổn định, mức sống của người dân từng bước được cải thiện | 0,1 | 3 | 0,3 |
6 | Thị phần nhò bé | 0,06 | 2 | 0,12 |
7 | Uy tín thương hiệu chưa được nhiều người biết đến | 0,06 | 2 | 0,12 |
8 | Vốn đầu tư xã hội cho phát triển du lịch tăng | 0,09 | 3 | 0,27 |
9 | Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Bến Tre chưa phát triển đúng tầm | 0,06 | 2 | 0,12 |
10 | Con người Bến Tre thân thiện và mến khách | 0,1 | 3 | 0,3 |
11 | Tài nguyên du lịch tương đối đa dạng phong phú, đặc biệt tài nguyên mang đậm nét văn hoá, di tích lịch sử hiếm có | 0,11 | 3 | 0,33 |
12 | Hoạt động marketing, xúc tiến du lịch còn hạn chế. | 0,06 | 2 | 0,12 |
Tổng cộng | 1,0 | 2,71 |
Nguồn: Tham khảo ý kiến các chuyên gia. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
Nhận xét: Tổng số điểm quan trọng là 2,71 điểm, cho thấy các yếu tố bên trong của du lịch Bến Tre ở mức độ trung bình, còn nhiều điểm yếu mà ngành du lịch phải có giải pháp trong thời gian tới như: cần phải phát triển đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch (cơ sở lưu trú,…), nâng cao trình độ cho CB và lao động trong ngành xem đó là nguồn lực cho sự phát triển, đa dạng hoá sản phẩm du lịch, hoạt động marketing xúc tiến thị trường chưa được chú trọng hiệu quả hoạt động chưa cao, kinh phí dành cho hoạt động này còn hạn chế, uy tín thương hiệu còn quá mới, thị phần lữ hành nhỏ bé. Bên cạnh đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy điểm mạnh của du lịch Bến Tre như: Phát triển du lịch sinh thái sông nước miệt vườn, tài nguyên mang đậm nét văn hoá di tích lịch sử hiếm có, vốn đầu tư xã hội tăng. Con người Bến Tre thân thiện và mếm khách, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang đầu tư nâng cấp phát triển, kinh tế Bến Tre phát triển tương đối ổn định mức sống của người dân từng bước được cải thiện.
2.2.3.7 Điểm mạnh – Điểm yếu
- Điểm mạnh
Du lịch Bến Tre có đặc thù về địa lý tạo thế mạnh để phát triển du lịch sinh thái sông nước, miệt vườn. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang được đầu tư nâng cấp phát triển. Tài nguyên du lịch tương đối đa dạng phong phú, đặc biệt là tài nguyên mang đậm nét văn hoá, di tích lịch sử hiếm có. Vốn đầu tư cho phát triển du lịch tăng. Kinh tế Bến Tre phát triển tương đối nhanh và ổn định, mức sống của người dân từng bước được cải thiện. Con người Bến Tre thân thiện mến khách.
- Điểm yếu
Uy tín thương hiệu du lịch Bến Tre chưa được nhiều người biết đến. Thị phần của du lịch Bến Tre còn thấp nhỏ bé. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát triển du lịch như chất lượng trang thiết bị, cơ sở lưu trú, điểm du lịch vui chơi giải trí…thiếu đồng bộ, yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách.
Công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch Bến Tre để các nhà quản lý kinh doanh, khách du lịch hiểu biết thêm về tiềm năng thế mạnh du lịch và con người của vùng đất có truyền thống về lịch sử văn hoá chưa mang lại hiệu quả cao. Sản phẩm du lịch chưa đa dạng phong phú, nghèo nàn. Trình độ cán bộ nhân viên trong ngành còn nhiều bất cập, yếu và thiếu
Tóm tắt chương 2
Trong chương này, với cách tiếp cận nguồn số liệu, dữ liệu thứ cấp của Tổng cục Du lịch, Tổng cục Thống Kê, Viện nghiên cứu phát triển Du lịch Việt Nam, Sở VHTT&DL Bến Tre, Cục Thống kê tỉnh Bến Tre, các tạp chí, đặc san du lịch, báo, internet, các đề tài khoa học liên quan đến du lịch Bến Tre. Tác giả tập trung làm rõ thực trạng phát triển du lịch Bến Tre trong thời gian qua. Cụ thể đã trình bày khái quát được bức tranh tổng thể quá trình phát triển ngành du lịch tỉnh Bến Tre qua việc phân tích đánh giá tác động các yếu tố bên ngoài (EFE) và bên trong (IFE) để thấy được những điểm mạnh, mặt yếu của ngành du lịch, đồng thời xây dựng ma trận hình ảnh cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành để so sánh. Từ đó, tác giả có cơ sở đề xuất các giải pháp hợp lý nhằm khắc phục những khiếm khuyết đang tồn tại và góp phần đưa du lịch tỉnh Bến Tre phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của mình ở chương 3. Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp chiến lược phát triển du lịch tỉnh bến tre

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Phân tích phát triển ngành du lịch tỉnh bến tre […]