Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh trẻ em tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Lứa tuổi mầm non là giai đoạn mà ở trẻ bắt đầu tự tạo hệ miễn dịch, nếu chúng ta không cung cấp cho trẻ đầy đủ chất dinh dưỡng thì cơ thể trẻ không thể duy trì và phát triển được, thậm chí trẻ còn chịu hậu quả của các bệnh về dinh dưỡng như: suy dinh dưỡng Protein năng lượng, các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng (đần độn do thiếu i ốt, hỏng mắt do thiếu vitamin A…), béo phì và một số bệnh thường gặp như tiêu chảy cấp, nhiễm trùng hô hấp… luôn đang rình rập và đe dọa tính mạng trẻ hàng ngày. Thời gian hoạt động của trẻ ở trường mầm non chiếm tỷ lệ khá lớn so với thời gian ở nhà cùng với gia đình, trường mầm non thực hiện việc chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ, giúp trẻ có được một cơ thể khỏe mạnh để làm được điều đó thì đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non cần có những kiến thức cơ bản về sinh lý, dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ lứa tuổi này, để đáp ứng được yêu cầu của công việc cũng như xử lý các tình huống bất ngờ xảy ra với trẻ tại trường.

Quản lí là nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người khác; là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức, sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Trong những năm gần đây, nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế, sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã hội, trong đó có sự nỗ lực phấn đấu của ngành Giáo dục và Đào tạo đã cải thiện đáng kể chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ, mà chăm sóc dinh dưỡng là khâu quan trọng để nâng cao sức khỏe cho trẻ. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Song song với công tác giáo dục, chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong các cơ sở giáo dục mầm non vì mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ góp phần hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một.

Tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân việc quản lý chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ đã được từng bước quan tâm từ khâu tổ chức ăn, chăm sóc giấc ngủ; theo dõi sức khỏe và phòng bệnh; vệ sinh; bảo vệ an toàn và phòng tránh một số tai nạn thường gặp; tuyên truyền kiến thức về nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh, phối hợp với cơ quan y tế tiêm chủng cho trẻ theo mùa dịch tại trường. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế xuất phát từ sự thiếu hụt kiến thức về chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ từ chính Cán bộ, Giáo viên, Nhân viên nhà trường; Cơ sở vật chất còn hạn chế; Sự phối hợp giữa nhà trường, cha mẹ trẻ và cơ quan y tế chưa thống nhất và đồng bộ dẫn đến tình trạng trẻ dư cân – béo phì, suy dinh dưỡng và một số tồn tại khác.

Xuất phát từ thực tế đó đặt ra yêu cầu người cán bộ quản lý phải nghiên cứu để tìm kiếm các biện pháp quản lý phù hợp tình hình mới. Với những lý do nêu trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh trẻ em tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh trẻ em tại trường mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân, đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ ở trường mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân, giúp trẻ phát triển toàn diện, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ ở trường mầm non.
  • Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân.
  • Đề xuất các biện pháp hoạt động quản lý chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

4.1. Khách thể nghiên cứu

  • Hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ và hoạt động quản lý trường mầm non.

4.2. Đối tượng nghiên cứu

  • Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phạm vi nghiên cứu Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

  • Nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ trong trường mầm non.
  • Khảo sát thực trạng tại đơn vị.

6. Câu hỏi nghiên cứu

  • Những hoạt động cần làm trong quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em ở trường mầm non?
  • Thực trạng của công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại Trường mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân?
  • Biện pháp để khắc phục hoàn thiện công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại Trường mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân?

7. Giả thuyết nghiên cứu

Công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ ở trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân đã được thực hiện nhưng vẫn còn bộc lộ những hạn chế. Nếu có được các biện pháp quản lý phù hợp và khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non.

8. Phương pháp nghiên cứu

Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu, tổng hợp hóa, khái quát, phân tích và trích dẫn các các tài liệu khoa học có liên quan về chăm sóc và phòng bệnh cho trẻ Mầm non, quản lý chăm sóc và phòng bệnh cho trẻ ở trường nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

  • Phương pháp điều tra: Xây dựng các biểu mẫu, phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin về hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ và quản lý hoạt động này ở trường Mầm non Hoàng Anh.
  • Phương pháp quan sát: Dự giờ, thăm lớp.
  • Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn một số cán bộ quản lý và giáo viên, cô nuôi, cha mẹ của trẻ tại trường Mầm non Hoàng Anh để làm rõ thực trạng quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ.
  • Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến chuyên gia về mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ trong nhà trường.

Nhóm phương pháp thống kê toán học:

  • Sử dụng thống kê toán học để xử lý số liệu, định hướng kết quả nghiên cứu, từ đó rút ra các nhận xét khoa học.

9. Ý nghĩa của đề tài

Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lí luận về quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ ở trường Mầm non.

Đánh giá thực trạng hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường mầm non Hoàng Anh, quận Bình Tân và cung cấp những minh chứng cụ thể thực trạng quản lý hoạt động này tại trường.

Đề xuất những biện pháp giúp quản lý tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non trên địa bàn.

10. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em Mầm non.
  • Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em trong trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh.
  • Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em trong trường Mầm non Hoàng Anh quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ PHÒNG BỆNH CHO TRẺ MẦM NON

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước

Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh nói chung và quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em nói riêng là vấn đề được quan tâm từ lâu trên thế giới và coi đó như một trong các biện pháp để phát triển dân số một cách bền vững và có chất lượng. Xuất phát từ lí do trên mà có khá nhiều nghiên cứu có liên quan đến nội dung này.

Tổ chức y tế thế giới (WHO) luôn coi việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em là mục tiêu hàng đầu cho các hoạt động của họ trên phạm vi toàn thế giới. Các báo cáo thường niên cũng như nội dung hoạt động của WHO thường xuyên đề cập đến công tác này với những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em như một cách thức có trách nhiệm và bền vững để hướng đến mục tiêu phát triển chất lượng dân số.

Tại Hội nghị Alma-Ata 1978 – Chăm sóc sức khỏe, y tế cho tất cả nhằm đạt mục tiêu: “Sức khỏe cho mọi người” (SKCMN) bao gồm 8 yếu tố: Giáo dục sức khỏe; Dinh dưỡng; Môi trường – nước sạch; Sức khỏe bà mẹ trẻ em – Kế hoạch hóa gia đình; Tiêm chủng mở rộng; Phòng chống bệnh dịch địa phương; Chữa bệnh và chấn thương thông thường; Thuốc thiết yếu.[15]

WHO The World Health Report 2018 – đưa ra thông điệp: “Primary Health Care – Now More Than Ever”, Chăm sóc sức khỏe ban đầu “Bây giờ hơn bao giờ hết!” Mục đích của chăm sóc sức khỏe ban đầu hiện nay là làm sao cho sức khỏe của mọi người được tốt hơn (better health for all) một cách công bằng và bình đẳng qua các giải pháp; cải thiện mạng lưới y tế cơ sở; tổ chức hệ thống y tế gần dân, đáp ứng nhu cầu và mong đợi (cung cấp tốt dịch vụ y tế); lồng ghép sức khỏe với các lĩnh vực khác (cải thiện chính sách công) và tiếp tục các mô hình hợp tác liên ngành với sự tham gia của các tổ chức quần chúng, cộng đồng.[14]

Ở phạm vi mỗi quốc gia cũng thường xuyên có những ưu tiên cho công tác này, chính quyền bang Victoria (Australia) dành hẳn một nội dung về công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em ở trường mầm non trên trang Web chính thức về lĩnh vực giáo dục với những mục tiêu cụ thể được xác định như: Tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng để cung cấp một chương trình mẫu giáo chất lượng cao đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và phòng bệnh cho tất cả các trẻ em trong năm trước khi đi học. Tăng cường phối hợp giữa các Nhà trường và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Cải thiện tiếp cận với chương trình mẫu giáo chất lượng cao trong cùng một Nhà trường như chăm sóc dài ngày cho trẻ em và các dịch vụ tại gia đình. Tăng cường hình thức tiếp cận và chăm sóc trẻ em từ sơ sinh và trẻ em có nguy cơ cao bị tổn thương sức khỏe từ những lý do hoàn cảnh sống hay bẩm sinh… Từ các mục tiêu cụ thể này, nhiều biện pháp được đưa ra nhằm duy trì và đảm bảo việc quản lý Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại trường mầm non.

Tại Mỹ tổ chức healthychildren organization khuyến cáo đối với việc Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại trường mầm non thì một trong những nội dung quan trọng nhất là quản lý tình trạng lây nhiễm những căn bệnh thông thường như cảm cúm, tiêu chảy và một số dịch bệnh mang tính chu kỳ hàng năm, những hoạt động cần chú trọng là đảm bảo thông tin, phát hiện và phòng ngừa. Điều này phụ thuộc không nhỏ vào chính nhận thức và kỹ năng của người giáo viên.

Một nghiên cứu của tác giả William Fowler vào năm 1980 trong tác phẩm: Curriculum and assessment guides for Infant and Child care, đã chỉ ra những yếu tố nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Nghiên cứu này xác định những chương trình chăm sóc giáo dục trẻ có chất lượng cao có thể giúp phát triển tốt thể chất và tình cảm – xã hội cho trẻ.[27]

1.1.2. Nghiên cứu trong nước Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký công ước về quyền trẻ em, Việt Nam đã có những cam kết thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ bao gồm:[25] Giảm 2/3 tỉ lệ tử vong của trẻ dưới năm tuổi trong thời kỳ: 1990-2025 (Mục tiêu 4). Tuy nhiên, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em đòi hỏi phải đạt các mục tiêu khác liên quan đến sức khỏe – nhất là Mục tiêu Giảm đói nghèo (Mục tiêu 1). Nâng cao Sức khỏe Bà mẹ (Mục tiêu 5) và giảm HIV và AIDS, Sốt rét và các bệnh khác (Mục tiêu 6) và nâng cao tỉ lệ sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường (Mục tiêu 7).

Quản lý hoạt động Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại các trường mầm non được xác định như một trong những mắt xích quan trọng để hiện thực các mục tiêu trên và góp phần vào việc nâng cao chất lượng dân số. Nội dung này đồng thời là một phần trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ và mỗi Cán bộ quản lý tại trường mầm non đều coi việc quản lý hoạt động này nhiệm vụ trọng tâm của mình. Đề cập đến Quản lý hoạt động Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại các trường mầm non có một số tác giả đã đề cập nghiên cứu ở các góc độ khác nhau:

Theo tác giả Lê Thị Thanh thì việc tổ chức và quản lý hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng tại trường mầm non thì cần cập nhật thông tin kịp thời về dinh dưỡng và sức khỏe trẻ, có ứng dụng linh hoạt, phù hợp; có sự kiên nhẫn, kiên trì, luôn thay đổi hình thức, khẩu vị để đem đến cho trẻ sự mới lạ; Có sự phân bố hợp lý thời gian các bữa chính và bữa phụ theo tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng, không nên tính theo chế độ. Nên cho trẻ tập quen dần khi thay đổi chế độ ăn, không nên rập khuôn, máy móc quá theo sách vỡ hay chương trình (vì chương trình còn mang tính tham khảo, tùy theo điều kiện hay vận dụng tùy địa phương; Nên tạo được sự chia sẽ gắn bó với nhau giữa giáo viên và cấp dưỡng cả về vật chất lẫn tinh thần.[21]

Nhóm tác giả Phạm Mai Chi và Lê Minh Hà đã khá công phu khi đặt ra vấn đề nghiên cứu Quản lý hoạt động Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại các trường mầm non. Những khái niệm đã được các tác giả làm rõ như chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, phòng bệnh trẻ em, những nội dung của hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em cũng như vai trò cụ thể của Cán bộ quản lý trong công tác này.[9] Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Đề cập đến một môi trường phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ thì tác giả Nguyễn Thị Thiên Vân cho rằng trong công tác chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng và phòng chống bệnh dịch ở trường thì Nhà trường phải Bồi dưỡng kiến thức chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng và phòng chống dịch bệnh cho giáo viên, nhân viên toàn trường; Cập nhật kịp thời và tìm hiểu kiến thức trong sách, báo, tạp chí, trên mạng Internet… Thực hiện tốt công tác phối kết hợp giữa các bộ phận trong nhà trường và với các cơ quan hữu quan; Hướng dẫn cho các lớp lồng ghép vào chương trình giáo dục trẻ và tuyên truyền với phụ huynh học sinh nội dung việc chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng; Tuyên truyền ở các góc phụ huynh nhóm lớp và ở bảng thông báo của trường nhằm giúp cho phụ huynh theo dõi các chế độ ăn và chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ để phụ huynh phối hợp với nhà trường chăm sóc nuôi dưỡng trẻ; Mỗi người phải hiểu được quá trình dịch bệnh. Nắm vững nguyên tắc phòng chống dịch, vệ sinh trường học và thực hiện tốt các biện pháp phòng chống dịch bệnh; Xây dựng thực đơn, tính khẩu phần dinh dưỡng cân đối phù hợp.[24]

Theo tác giả Đinh Thạc:[20] : Tiêm phòng bằng những loại vắc xin sẵn có là biện pháp phòng bệnh hiệu quả chủ động và thiết thực giúp trẻ phòng tránh những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đôi khi có thể gây nguy hại đến tính mạng. Do vậy, việc đưa trẻ đi tiêm ngừa đầy đủ, đúng lịch các loại vắc xin phù hợp theo lứa tuổi sẽ tạo cho cơ thể trẻ một sức đề kháng tốt hơn để ngăn ngừa những tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, để việc phòng bệnh đạt được hiệu quả tối ưu phụ huynh cần đưa trẻ đi tiêm bổ sung hoặc tiêm nhắc các mũi vắc xin có chỉ định tiêm nhắc theo khuyến cáo của chương trình tiêm chủng mở rộng dành cho trẻ em.

Chia sẻ quan điểm nói trên, tác giả Nguyễn Hải Nam: [30] Vệ sinh cá nhân thường xuyên, vệ sinh môi trường là nội dung quan trọng hàng đầu đối với sức khỏe và cuộc sống, với sự nghiệp giáo dục toàn diện của nhà trường. Nó là vấn đề không chỉ của cá nhân và một cộng đồng mà là vấn đề toàn cầu, lâu dài và vĩnh viễn đòi hỏi các Nhà Quản lý giáo dục tại mỗi trường mầm non, mỗi địa phương cần hết sức quan tâm.

Một nội dung khác cũng có liên quan trực tiếp đến hiệu quả Quản lý hoạt động Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại các trường mầm non là quản lý chế độ chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ. Theo trung tâm nghiên cứu thực phẩm thì dinh dưỡng cho trẻ trong những năm đầu đời là tiền đề, là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển về mọi mặt sau này của trẻ. Lứa tuổi mầm non gần như hoàn toàn phải dựa vào sự giúp đỡ, phục vụ của các bảo mẫu, cô giáo trong việc chơi, học, ăn, ngủ.. Bênh cạnh vai trò đặc biệt quan trọng của người giáo viên trực tiếp dạy dỗ, chăm sóc trẻ thì bếp ăn với số lượng đông mà đối tượng là trẻ nhỏ thì việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non cần được hết sức chú trọng. Đây cũng là một trong những điều kiện bắt buộc phải thực hiện của các trường mầm non trong cả nước như: [22]

Qua nghiên cứu các nghiên cứu trong nước có thể thấy:

  • Đa số các nghiên cứu đều mới chỉ tập trung vào hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em ở trường mầm non với những qui chuẩn mang tính cụ thể nhằm hướng dẫn thực hiện.
  • Những nghiên cứu về Quản lý hoạt động Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em tại các trường mầm non còn chưa nhiều, xu hướng phổ biến vẫn là đề cập đến vai trò Cán bộ quản lý tại trường mầm non với công tác này hay một vài khía cạnh trong quản lý hoạt động mà chưa bao quát được tổng thể hoạt động.

1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

1.2.1. Sức khỏe, chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh

  • Sức khỏe

Khái niệm “Sức Khỏe” có ý nghĩa trừu tượng và rộng rãi do vậy liên quan đến sức khỏe đã có nhiều định nghĩa khác nhau. Thông thường, người ta cho rằng sức khỏe là tình trạng vắng bóng của bệnh tật. Để thay vào đó một định nghĩa bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau về sức khỏe, vào 1946, Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới “The World Health Organization” đã định nghĩa: “Sức khỏe không chỉ là tình trạng vắng bóng của bệnh chứng hay tàn tật, mà còn là tình trạng hạnh phúc về thể chất, tinh thần và xã hội.”[14]

Ngoài ra, một định nghĩa khác, có tính chất thực tế hơn về sức khỏe, được đưa ra bởi The Joint Committee on Health Problems in Education of the U.S. National Educational Association and the American Medical Association: “Sức Khỏe là điều kiện giúp cá nhân có khả năng huy động tất cả tiềm lực thuộc về trí tuệ, cảm xúc, và thể chất để tạo cho đời sống của họ được nhiều thuận lợi nhất”. Định nghĩa này rất hữu ích, và thích hợp nhất cho đại đa số cá nhân, dù thể chất và tâm thần của họ ở bất cứ tình trạng nào; ngay như bị khuyết tật.

Đối với con người, sức khỏe tốt là tình trạng lạc quan của cơ thể và tâm hồn. Tất cả mọi người đều mong muốn có được sức khỏe tốt. Khi sức khỏe trở nên yếu kém, người ta có thể tìm ra nguyên nhân để điều trị, và phục hồi sức khỏe trở lại bình thường. Việc bảo vệ sức khỏe chính là vấn đề hiểu biết những nguyên nhân và những vấn đề gây ra bệnh tật. Từ đó, người ta có thể dùng những bước tiến thích nghi, để ngăn chận bệnh chứng.

Theo quan niệm truyền thống: Sức khỏe là một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể cường tráng. Sức khỏe là tình trạng không có bệnh hoặc không có tàn tật.

  • Quan điểm của Bác Hồ về sức khỏe:
  • “ Khí huyết lưu thông, tinh thần đủ là khỏe mạnh”

Khí huyết lưu thông: Thể hiện sức khỏe thể chất tốt. Tinh thần đầy đủ: Sức khỏe tinh thần hài hòa, cân bằng, sống có ý chí, lí tưởng, có kiểm soát (định vị bản thân, ước mơ, phấn đấu, ham muốn phù hợp với năng lực bản thân).

Theo định nghĩa trên để có được sức khỏe tốt cần có một sự chuẩn bị từ ban đầu cùng với việc chăm sóc lâu dài và phòng ngừa hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng đó, sức khỏe được gắn với nhận thức, trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng nhằm hướng tới một xã hội có chất lượng về dân số. Để có sức khoẻ tốt với sự nỗ lực của mỗi cá nhân là chưa đủ mà cần có sự đóng góp của cả cộng đồng, của toàn xã hội trong các vấn đề an sinh, việc làm và giáo dục hay cụ thể hơn như các vấn đề về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm… Từ những lí do nêu trên, công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh nói chung luôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần được quan tâm để quản lý hoạt động này một cách có hiệu quả.

  • Chăm sóc sức khỏe Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Như đã nói, sự khác biệt cơ bản về nhận thức chăm sóc sức khoẻ sau Hội nghị Alma Ata là sự chuyển biến về quan niệm cũ cho rằng sức khoẻ là trạng thái không có bệnh sang quan niệm mới là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần, xã hội và không bệnh tật. Từ đó dẫn đến sự thay đổi về nội dung chăm sóc sức khoẻ, về đối tượng cần chăm sóc sức khoẻ, về trách nhiệm của người cán bộ y tế, về vai trò của từng người, từng ban ngành trong xã hội trong việc phấn đấu không ngừng nâng cao sức khoẻ cho cá nhân, cho cộng đồng và cho xã hội, trong đó có vai trò của Nhà trường.

Chăm sóc sức khỏe là hoạt động thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật học thực tiễn, có cơ sở khoa học và được chấp nhận về mặt xã hội, phổ biến đến tận mọi cá nhân và gia đình trong cộng đồng, qua sự tham gia tích cực của họ với một phí tổn mà cộng đồng và quốc gia có thể đài thọ được ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, trên tinh thần tự lực và tự quyết. Nó là một bộ phận hợp thành vừa của hệ thống y tế Nhà nước – mà trong đó, nó giữ vai trò trọng tâm và là tiêu điểm chính – vừa của sự phát triển chung về kinh tế xã hội của cộng đồng. Nó là nơi tiếp xúc đầu tiên của người dân với hệ thống y tế, đưa sự chăm sóc sức khỏe đến càng gần càng tốt nơi người dân sống và lao động, trở thành yếu tố đầu tiên của một quá trình săn sóc sức khỏe lâu dài “Tuyên ngôn Alma –Ata 1978). [23] Như vậy hoạt động chăm sóc sức khỏe có thể tóm tắt như sau:

Chủ thể của hoạt động chăm sóc sức khỏe là toàn bộ các lực lượng xã hội, là chính từng người dân với nhận thức và trách nhiệm của mình với cộng đồng và xã hội.

Nội dung về chăm sóc sức khỏe là công tác dự phòng được thực hiện tích cực và liên tục, công tác chăm sóc được thực hiện toàn diện.

Đối tượng chăm sóc sức khỏe là toàn bộ cộng đồng bao gồm người khỏe và cả người ốm, trẻ em cho đến người già…

Sự thay đổi trong quan niệm về sức khỏe cũng dẫn đến những thay đổi về nhận thức và hành động chăm sóc sức khỏe bằng một khái niệm có phần phổ biến và tích cực hơn là khái niệm “chăm sóc sức khỏe từ ban đầu”

Chăm sóc sức khỏe ban đầu nhấn mạnh đến những vấn đề sức khỏe chủ yếu của cộng đồng, đến tăng cường sức khỏe, phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi sức khỏe. Chăm sóc sức khỏe ban đầu gồm tám yếu tố: Giáo dục sức khỏe nhằm thay đổi lối sống và thói quen không lành mạnh. Cung cấp đầy đủ thực phẩm và dinh dưỡng hợp lý, đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sức khỏe; Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường; Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em trong đó có kế hoạch hóa gia đình; Tiêm chủng phòng chống 6 bệnh nhiễm trùng phổ biến ở trẻ em; Phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến tại địa phương; Điều trị hợp lý các bệnh và các vết thương thông thường; Cung cấp các loại thuốc thiết yếu.

  • Chăm sóc sức khỏe ban đầu bao gồm năm nguyên tắc cơ bản sau:
  • Tính công bằng; Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.
  • Tăng cường sức khỏe, dự phòng và phục hồi sức khỏe;
  • Sự tham gia của cộng đồng;
  • Kỹ thuật học thích hợp;
  • Phối hợp liên ngành;

Mục tiêu của chăm sóc sức khỏe ban đầu không chỉ liên quan đến tăng cường tình trạng sức khỏe của cộng đồng mà còn là sự tăng cường các điều kiện kinh tế xã hội của cộng đồng. Triết lý và kinh nghiệm về chăm sóc sức khỏe ban đầu đã được tích lũy ở nhiều nước trên thế giới. Tại hội nghị Riga, tính nhân đạo và công bằng trong chăm sóc sức khỏe được ghi nhận và đánh giá cao. Chăm sóc sức khỏe ban đầu đã góp phần quan trọng vào thực hiện công bằng xã hội thông qua việc giảm dần sự khác biệt trong chăm sóc sức khỏe, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi và tử vong bà mẹ, giảm tỷ lệ bệnh tật và tăng tuổi thọ trung bình khi sinh. Vấn đề hiện nay là cần phải tìm ra những hoạt động cụ thể để đẩy mạnh thực hiện chiến lược sức khỏe cho mọi người thông qua thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe. Phát triển nguồn nhân lực thích hợp là một trong những mặt quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Như vậy có thể thấy từ những thay đổi trong quan niệm về sức khỏe đã kéo theo những sự thay đổi về khái niệm chăm sóc sức khỏe bởi một thuật ngữ có tính phổ biến hơn là chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Hoạt động này được hiểu là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành, đưa đến tận cá nhân và từng gia đình trong cộng đồng, được mọi người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ, với giá thành mà họ có thể chấp nhận được nhằm đạt được mức sức khỏe cao nhất có thể được. Hoạt động chăm sóc sức khỏe đòi hỏi sự tham gia một cách trách nhiệm của tất cả cộng đồng xã hội, của mọi người dân. Có thể nói đây là một hoạt động được xã hội hóa ở mức độ cao nhất. Khái niệm nêu trên cũng chính là khái niệm chúng tôi thống nhất sử dụng làm công cụ lí luận cho đề tài.

  • Phòng bệnh

Từ xa xưa cha ông ta đã có câu phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc phòng bệnh nhằm mục đích ngăn ngừa, không để bệnh chứng xảy ra, hay chẩn đoán để sớm biết, và tiêu diệt bệnh chứng vừa mới chớm nở, mà thường không có những triệu chứng biểu hiện trong giai đoạn sơ khởi. Vì vậy, việc phòng bệnh là một phần của y khoa và ngành chăm sóc sức khỏe, nhằm để nâng cao sức khỏe và giảm thiểu những nguy hiểm, xuyên qua những phương cách ứng dụng để tránh bệnh chứng, sự tàn phế, và tình trạng sớm thiệt mạng đối với con người. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Việc phòng bệnh còn tùy thuộc vào những yếu tố như: tuổi thọ (age), phái tính (se .x), lịch sử gia đình (family history), thói quen (habit) cách sống (lifestyle), và môi trường thể chất và xã hội (physical and social environment). Tuy nhiên, khi một người nhận thức được những yếu tố bất lợi trong chính họ, họ cũng có thể tự áp dụng những bước tiến cải thiện để tối thiểu hóa chúng, xã hội thực hiện công tác quản lý sức khỏe cộng đồng tốt cũng chính là thực hiện hoạt động phòng ngừa.

Trong những năm qua, ngành y tế đi đầu cùng phối hợp nhiều lực lượng xã hội khác đã tích cực trong phòng bệnh có thể giúp ích trong việc nâng cao sức khỏe con người, và có nguồn lực tiềm tàng giúp giảm thiểu tổn phí trong việc chăm sóc sức khỏe cho xã hội. Một trong những thành công nhất của lịch sử phòng bệnh là sự phát triển và phổ biến những việc tiêm chủng ngừa bệnh (vaccines). Tầm soát các dịch bệnh, sàng lọc và theo dõi sức khỏe bà mẹ, chăm sóc sức khỏe thường xuyên cho người dân và đặc biệt là trẻ em, cải thiện chế độ dinh dưỡng.

Đối với công tác phòng bệnh được xác định có bốn thành phần chính

  • Việc chủng ngừa (vaccinations) để ngăn ngừa những bệnh truyền nhiễm như: bệnh sởi (measles), bệnh bại liệt trẻ em (polio);
  • Chương trình kiểm tra tìm bệnh (screening programs) như chứng áp huyết cao, tiểu đường, và ung thư;
  • Việc dùng thuốc để ngừa bệnh (chemoprevention hay drug therapy) như thuốc làm giảm cholesterol để ngừa xơ cứng động mạch (atherosclerosis), thuốc aspirin ngừa đau tim hay công tim (heart attack), hay chứng đột quỵ (strokes), thuốc chống huyết áp cao để giảm áp huyết và ngừa chứng đột quỵ (strokes);
  • Việc cố vấn giúp người ta biết chọn cách sống lành mạnh như: tránh hút thuốc lá, dùng thực phẩm lành mạnh, và việc dùng dây nịt an toàn (seat belts) khi ngồi trong xe, . . . Những thành phần trong việc phòng bệnh được cung cấp để hoàn thành một trong ba vị thế ngừa bệnh như: sơ khởi, thứ nhì, và thứ ba:

Theo tác giả Lê Văn Thảo cơ thể con người do hàng trăm tỷ tế bào tạo nên. Hàng ngày, có hàng triệu tế bào già chết đi và hàng triệu tế bào mới sinh ra đời để thay thế. Nhưng nếu các tế bào mới sinh ra không được chúng ta cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết thì chúng sẽ rất yếu ớt, không thể liên kết chặt chẽ được với nhau, không chống đỡ được các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, làm cho các tổ chức phần mềm bị tổn thương, các cơ quan bị bệnh biến, dẫn đến các hệ bị mất cân bằng đặc biệt là hệ miễn dịch không có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Từ đó bệnh tật có cơ hội phát sinh. Chính vì thế công tác phòng bệnh rất quan trọng và có tác dụng lớn giúp hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Nhưng tùy vào mỗi bệnh chúng ta có cách phòng khác nhau như: Uống đủ nước (nước đun sôi để nguội), ăn đủ chất đặc biệt là những thực phẩm giàu chất xơ (bổ sung rau và hoa quả), vệ sinh cá nhân sạch sẽ, vệ sinh môi trường (nhà cửa sạch sẽ và thông thoáng), ngủ phải giăng mùng, đeo khẩu trang khi đi đường, đội nón rộng vành khi đi ngoài trời nắng, mặc quần áo phù hợp thời tiết, phun thuốc diệt côn trùng, vệ sinh mũi hàng ngày, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.[32]

  • Theo tác giả Hải Thượng Lãng Ông (1720-1791) đã khuyên:[33]
  • “Chớ dùng nước ruộng nước ao,
  • Nước hồ nước vũng, nước nào cũng dơ.
  • Chỉ dùng nước giếng nước mưa, Nước sông nước suối cũng chưa an toàn”
  • Theo tác giả Oliver Holmes (1809-1894) quan niệm:[33] “Đề phòng tốt hơn chữa trị; tấm mộc tuyệt hảo hơn cái giáo”.

Khoa học ngày nay đã hệ thống hóa và cổ vũ, phổ biến sự phòng tránh bệnh giúp cho nhiều loại bệnh một thời tung hoành đều đã bị xóa sổ và một số bệnh khác cũng giảm tần số, nhờ đó tuổi thọ nâng cao. Phòng bệnh có nhiều cấp với mục tiêu khác nhau:

  • Phòng tránh loại 1: ngăn ngừa không cho bệnh tật hoặc các điều kiện xấu xảy ra.
  • Phòng tránh loại 2: Nhận diện, khám phá ra các mầm bệnh từ lúc chưa có dấu hiệu hoặc chưa có thay đổi chức năng, cấu tạo các bộ phận, rồi áp dụng điều trị ngay để trì hoãn hoặc ngăn chặn không cho bệnh xuất hiện.
  • Phòng tránh bệnh loại 3: ngăn ngừa không cho biến chứng, hậu quả xấu của bệnh tật xảy ra.

Ngoài ra khi phòng tránh thì phải biết phòng tránh với những tác nhân, những nguy cơ gây bệnh. Chẳng hạn: Ảnh hưởng xấu của môi trường như thời tiết khắc nghiệt, thiên tai bão lụt; Hậu quả của chiến tranh, bạo lực; Sự xâm nhập của vi sinh vật, hóa chất độc hại; Nếp sống không bình thường của con người; Hậu quả, biến chứng của bệnh hoạn, thương tích; Những biến đổi, thoái hóa tự nhiên trong cấu tạo và chức năng các bộ phận cơ thể; Hậu quả không lường trước của khoa học, kỹ thuật; Ảnh hưởng cùa các hoàn cảnh xã hội như nghèo khó, kém giáo dục, bất công xã hội, bất lực độc quyền hành chánh.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi thống nhất với quan niệm về phòng bệnh là một phần của hoạt động chăm sóc sức khỏe, nhằm để nâng cao sức khỏe và giảm thiểu những nguy hiểm, sử dụng những phương cách mang tính ứng dụng để tránh bệnh chứng, sự tàn phế, và tình trạng đe dọa đến tính mạng đối với con người.

1.2.2. Trẻ mầm non, trường mầm non Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

  • Trẻ mầm non

Theo tác giả Phan Thị Ngọc Yến và Trần Thu Hòa, trẻ mầm non là trẻ thuộc độ tuổi từ 0 đến 6 tuổi trong đó cụ thể nhà trẻ từ 1-3 tuổi; trẻ tuổi mẫu giáo từ 3-6 tuổi.[28]

Theo Điều lệ Trường mầm non, thì tuổi của trẻ em mầm non từ 3 tháng tuổi đến sáu tuổi được nhận vào nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. Trẻ em ở giai đoạn này có những đặc trưng về tâm sinh lý đò hỏi phải được quan tâm và chăm sóc thường xuyên.

Về mặt sinh lý: Trẻ em ở giai đoạn này có cơ thể non nớt song không vì thế mà có thể coi trẻ em là người lớn thu nhỏ. Cơ thể trẻ em có những đặc điểm riêng khác biệt so với người lớn [28, tr.9] Cơ thể trẻ em là một cơ thể đang lớn và đang trưởng thành. Điều kiện môi trường có ảnh hưởng nhiều đến cơ thể trẻ, Cơ thể trẻ em chưa hoàn thiện về cấu trúc và chức năng và còn non yếu, tuy nhiên đây lại là giai đoạn cơ thể trẻ có những chuyển biến rõ rệt về chất và lượng để tiến tới hoàn thiện gắn với từng thời kỳ lứa tuổi và lấy hoạt động chủ đạo tại mỗi thời kỳ để làm cơ sở phân chia. Chính vì lí do trên mà những thay đổi của môi trường dù rất nhỏ đều ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể. Sự phát triển về thể chất ở trẻ: Trẻ em trên 1 tuổi có trọng lượng trung bình là 9kg, trung bình mỗi năm tăng 1.5kg. Chiều cao trung bình của trẻ 1 tuổi là 75cm, chiều cao tăng nhanh nhưng so với trẻ bú mẹ chậm hơn nhiều, trung bình mỗi năm tăng 5cm. [28, tr.15] Sự phát triển về tinh thần và vận động trẻ em [28, tr.18] trẻ ưa thích vận động và đó là cách thức để trẻ làm quen, khám phá thế giới xung quanh trẻ xong nó cũng tiềm ẩm những thách thức đối với công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trong đó có trọng tâm là chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh. Bên cạnh đó hệ thống miễn dịch được tạo thành từ các tế bào đặc biệt, protein, các phân tử và các cơ quan, có tác dụng bảo vệ con người chống lại vi trùng và vi sinh vật có hại mỗi ngày. Do còn non nớt, chưa phát triển đầy đủ, hiệu quả bảo vệ của hệ miễn dịch trẻ lúc này vẫn còn hạn chế, khiến trẻ dễ bị mắc một số loại bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm đường hô hấp, dị ứng,… các hệ cơ quan chưa hoàn thiện nên rất dễ mắc các bệnh khi thời tiết thay đổi, hay môi trường bị ô nhiễm.. nếu không điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và thậm chí tính mạng của trẻ.

Về mặt tâm lý: Các chức năng tâm lý của trẻ cũng hoàn thiện nhanh chóng và dần hình thành những tiền đề đầu tiên của nhân cách. Sự phát triển mạnh của tư duy, ngôn ngữ cùng với thẩm mỹ đã làm cho hoạt động của trẻ có những chuyển biến rõ nét. Cụ thể là: Trẻ em bắt đầu có sự tiếp xúc với bên ngoài, giao tiếp với “ người lạ” khi các em bước vào độ tuổi đi mẫu giáo, bạn bè ở trường mẫu giáo là một thế giới vô cùng rộng lớn đối với trẻ thơ.

Cũng trong giai đoạn này các em có hứng thú với việc khám phá thế giới xung quanh, tò mò và liên tục thắc mắc các vấn đề với cha mẹ, cô giáo. Nếu cha mẹ, cô giáo hiểu được tâm lý của con, và định hướng sẽ có thể đem lại nhiều hiệu quả tích cực.

Ở giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi này, trí tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh và phần lớn thời gian của trẻ là chơi đùa. Trẻ chơi mà học và học mà chơi. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Trẻ thường bắt chước theo các nhân vật trên phim, kịch, có sự nhạy cảm đặc biệt với các yếu tố thẩm mỹ vì thế những tác động từ các hoạt động khiến trẻ thấy hứng thú sẽ ảnh hưởng nhiều đến thói quen và các hành vi đạo đức khác.

  • Qua phân tích có thể khẳng định:

Trẻ em mầm non là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời với ý nghĩa là một thực thể xã hội được qui định từ 0 đến 6 tuổi. Đây là lứa tuổi đang có sự phát triển cả về tâm sinh lý. Những đặc trưng đã phân tích cho thấy có những khó khăn và thuận lợi cho công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ cụ thể là trẻ rất non nớt, sức đề kháng yếu, ưa vận động, nhưng lại chưa có kinh nghiệm và kỹ năng tự chăm sóc mình nên dễ mắc các bệnh do môi trường và sự lây nhiễm trong cộng động. Tuy nhiên với tâm hồn ngây thơ, trong sáng rất dễ hình thành ở trẻ những hiểu biết ban đầu về chăm sóc và phòng bệnh qua việc lồng ghép vào các nội dung chương trình giáo dục như thơ ca kịch thậm chí có thể trở thành các tuyên truyền viên tí hon làm cầu nối giữa Nhà trường và phụ huynh.

  • Trường mầm non

Theo Điều lệ trường Mầm non thì trường mầm non có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: [5]

  • Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
  • Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi. Hằng năm, tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy định về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, báo cáo cấp có thẩm quyền bằng văn bản.
  • Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
  • Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
  • Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa hoặc theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
  • Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
  • Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.
  • Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quy định.
  • Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

1.2.3. Quản lý, quản lý nhà trường, quản lý trường mầm non

  • Quản lý Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Quản lý là một hoạt động mang tính khoa học, có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại trong tất cả các lĩnh vực. Với cách tiếp cận ở mọi gốc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra những quan niệm về quản lý tiêu biểu như:

Theo tác giả Frederick Winslow Taylor (1856-1915), người được coi là cha đẻ của thuyết Khoa học quản lý cho rằng: “Quản lý là biết được điều bạn muốn biết được người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”[8, tr.28]

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.[7, tr.16]

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Công tác quản lý lãnh đạo một tổ chức xét cho cùng là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ trạng thái ổn định. Quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp đổi mới hệ, đưa hệ vào thế phát triển” …. [3, tr.176]

Hiện nay, hoạt động quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận hành các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra. Mục tiêu quản lý là định hướng toàn bộ hoạt động quản lý đồng thời là công cụ để đánh giá kết quả quản lý. Để thực hiện những mục tiêu đó, quản lý phải thực hiện bốn chức năng: Kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra đánh giá.

Chức năng Kế hoạch hóa: Bản chất của khái niệm kế hoạch hóa là quá trình xác định mục tiêu, mục đích đối với các thành tựu, tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức, điều kiện cơ sở vật chất để đạt được mục tiêu, mục đích đó.

Chức năng tổ chức: là quá trình hình thành nên các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.

Chức năng chỉ đạo: là huy động lực lượng để thực hiện kế hoạch, là biến những mục tiêu trong dự kiến thành kết quả thực hiện. Phải giám sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ đúng tiến trình, đúng kế hoạch. Khi cần thiết phải điều chỉnh, sửa đổi, uốn nắn, nhưng không làm thay đổi mục tiêu hướng vận hành của hệ nhằm nắm vững mục tiêu, chiến lược đã đề ra.

Chức năng kiểm tra, đánh giá: Nhiệm vụ của kiểm tra nhằm đánh giá trạng thái của hệ, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đã đạt tới mức độ nào, kịp thời phát hiện những sai sót trong quá trình hoạt động, tìm nguyên nhân thành công, thất bại giúp cho chủ thể quản lý rút ra những bài học kinh nghiệm. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Tóm lại: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá là các chức năng cơ bản được hình thành trong sự phân công và chuyên môn hóa hoạt động quản lý. Trong những chức năng trên, mỗi chức năng đảm nhận vị trí, vai trò nhất định, song các chức năng này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Việc thực hiện các chức năng quản lý không thể thiếu thông tin quản lý. Thông tin là mạch máu của quản lý. Thông tin giúp cho việc tổng hợp các chức năng quản lý, vì thế nó cần cho sự phát triển của tổ chức. Điều này đòi hỏi nhà quản lý phải biết quan tâm, coi trọng đến các chức năng trong quản lý, có như vậy mới chỉ đạo thực hiện đạt được mục tiêu đề ra.

  • Quản lý nhà trường

Nhà trường là một cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện các chức năng xã hội của giáo dục đó là chức năng đào tạo nguồn nhân lực, di truyền nền văn hóa, chức năng chính trị xã hội.

Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường làm cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Theo tác giả M.I.Kondacov: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục”.[13]

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi tác động những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng dẫn của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên”.[18]

Theo tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.[11, tr.20]

Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường[26].

Theo tác giả Nguyễn Quang Giao thì quản lý nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ, giáo viên nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu, kế hoạch chăm sóc giáo dục của nhà trường trên cơ sở tận dụng các tiềm lực vật chất và tinh thần của nhà trường, gia đình và xã hội. Đây cũng là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ và giáo viên để chính họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc giáo dục trẻ em nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung của ngành học[10].

  • Quản lý trường mầm non Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Quản lý trường mầm non là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Quản lý trường mầm non là sự tác động có chủ đích của hiệu trưởng trường mầm non đến cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh, cha mẹ học sinh trong trường mầm non nhằm đạt mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ mầm non theo quy định.

  • Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng trong quản lý trường mầm non [5]

Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền.

Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường, nhà trẻ; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định.

Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng, thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định.

Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà trường.

Tiếp nhận trẻ em, quản lý trẻ em và các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường, nhà trẻ; quyết định khen thưởng, phê duyệt kết quả đánh giá trẻ theo các nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.

Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý.

Tham gia các hoạt động giáo dục 2 giờ trong một tuần; được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định.

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị – xã hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.

Thực hiện xã hội hoá giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng đồng.

1.3. Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ mầm non Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

1.3.1. Khái niệm quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ mầm non.

  • Theo Học viện Nhi khoa của Mỹ: Quản lý chăm sóc sức khỏe cho trẻ em bao gồm các vấn đề sau:[39]
  • Tiếp cận chăm sóc sức khỏe trong một nhà y tế.
  • Bảo trì các thông tin y tế và chăm sóc sức khỏe kỷ lục.
  • Đồng ý ký hợp đồng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho tất cả các chuyên gia y tế cung cấp dịch vụ chăm sóc.
  • Chăm sóc phối hợp, đảm bảo tất cả các dịch vụ chăm sóc y tế thích hợp, cần thiết, và đề nghị được tiếp nhận theo tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe.
  • Truyền thông thông tin y tế trong số tất cả các sức khỏe, sức khỏe tâm thần, phúc lợi trẻ em, luật pháp, tư pháp, và chuyên môn khác.
  • Cung cấp các thông tin y tế và giáo dục cho trẻ em trong chăm sóc nuôi dưỡng và bố mẹ (nuôi và khai sinh) và kin.
  • Nỗ lực phối hợp để kết hợp các thông tin y tế và kế hoạch vào kế hoạch vĩnh cửu.
  • Duy trì một cơ sở dữ liệu y tế để theo dõi và đánh giá sức khỏe của trẻ em và thanh thiếu niên trong chăm sóc nuôi dưỡng để bảo đảm nâng cao chất lượng.

Tác giả Maria M. Mastrobuono Nesti để kiểm soát và phòng ngừa các bệnh lây truyền tại các trung tâm giáo dục nhà trẻ và mẫu giáo cần thực hiện các yêu cầu sau: [42]

Rửa tay đúng cách sau khi tiếp xúc; Việc làm biện pháp phòng ngừa chuẩn; Thói quen tiêu chuẩn hóa cho việc thay đổi và xử lý được sử dụng tã, vị trí và sạch sẽ của khu vực thay đổi, làm sạch và khử trùng các khu vực bị ô nhiễm; Sử dụng các mô dùng một lần cho hỉ mũi; Người lao động riêng biệt và khu vực xử lý thực phẩm; Thông báo của các bệnh truyền nhiễm; Đào tạo công nhân và hướng dẫn cho cha mẹ.

  • Tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Thiên Vân đưa ra quan niệm quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ bao gồm việc:[24] Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Bồi dưỡng kiến thức chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng và phòng chống dịch bệnh cho giáo viên, nhân viên toàn trường. Cập nhật kịp thời và tìm hiểu kiến thức trong sách, báo, tạp chí, trên mạng Internet… Thực hiện tốt công tác phối kết hợp giữa các bộ phận trong nhà trường và với các cơ quan hữu quan.

Tuyên truyền: hướng dẫn cho các lớp lồng ghép vào chương trình giáo dục trẻ và tuyên truyền với phụ huynh học sinh nội dung việc chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng. Tư vấn cho phụ huynh về cách lựa chọn thực phẩm, lên thực đơn phù hợp với trẻ – đảm bảo cân đối, đủ chất, đủ lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP). tuyên truyền giáo dục ý thức phòng bệnh thông qua các bảng tuyên truyền ở lớp, ở những nơi mọi người hay qua lại trong trường, hoặc trao đổi trực tiếp với phụ huynh.

Ban Giám Hiệu đã kịp thời chỉ đạo, đầu tư cơ sở vật chất: mua sắm trang thiết bị, đồ dùng cho bếp và cho các lớp đảm bảo an toàn, có lợi cho sức khoẻ. Mua sắm đầy đủ trang thiết bị y tế, thuốc thiết yếu, thuốc sát trùng, thuốc xịt muỗi và xà phòng rửa tay phục vụ cho việc phòng chống bệnh dịch trong toàn trường. Luôn trang bị tủ thuốc ở trường đầy đủ trong khả năng của mình như bông gòn, thuốc sát rùng, băng keo cá nhân, các loại thuốc thông thường…. và luôn kiểm tra các loại thuốc quá hạn sử dụng thì mang đi hủy có vào sổ kiểm tra cập nhập.

Xây dựng môi trường thân thiện: An toàn mọi lúc mọi nơi cho trẻ, thường xuyên kiểm tra và bảo dưỡng đồ dùng đồ chơi, vệ sinh sạch đẹp, thông thoáng, nhiều cây xanh. Tạo môi trường phù hợp, gần gũi với trẻ từ ở lớp học, nhà vệ sinh, bếp, đến môi trường xung quanh: đồ dùng, đồ chơi tự tạo, trang trí lớp và các góc sắp xếp theo từng chủ đề.

Theo tác giả Phạm Mai Chi, Lê Minh Hà đưa ra quan niệm về Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ trong trường mầm non:

  • Lập kế hoạch về công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ.
  • Tổ chức thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ trong toàn trường theo kế hoạch.
  • Hướng dẫn, tổ chức huấn luyện về chuyên môn cho giáo viên.
  • Giám sát, kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về chất lượng chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ từng bộ phận trong toàn trường.
  • Báo cáo thường xuyên theo yêu cầu của trường và cấp trên, thông tin cho cha mẹ trẻ.
  • Thường xuyên học tập, trao đổi nghiệp vụ. Tuyên truyền giáo dục việc chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho cán bộ, giáo viên, nhân viên, cha mẹ trẻ.
  • Phối hợp với các bộ phận trong toàn trường để thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra.
  • Phối hợp với y tế địa phương, các đoàn thể, và các bậc cha mẹ để làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ.

Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em là biện pháp chăm sóc sức khỏe ban đầu chủ động, tích cực, đồng thời là sự tổng hợp của nhiều biện pháp chăm sóc về xã hội và y tế. Do đó, phải có sự phối hợp hoạt động đa ngành và liên ngành trong lĩnh vực này. Mục tiêu của quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em là hạ thấp tỷ lệ bệnh tật, tàn phế và tử vong, nâng cao sức khỏe cho trẻ. Với phương châm là khám sức khỏe định kì và để chủ động phát hiện bệnh và điều trị kịp thời.

Chúng tôi thống nhất với quan niệm của các tác giả nêu trên sử dụng làm khái niệm công cụ để triển khai nghiên cứu cho đề tài.

1.3.2. Nội dung quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ tại trường mầm non. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Theo hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Công văn số: 4618/BGDĐT-GDMN của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 8 tháng 9 năm 2025, về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2025-2026;

Công văn số: 2724/KH-GDĐT-MN của Sở GD-ĐT thành phố Hồ Chí Minh ngày 31 tháng 8 năm 2025, Kế hoạch năm học 2025-2026 ngành giáo dục mầm non;

Công văn số 726/BYT-DP ngày 30/01/2025 của Bộ Y tế về tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh ho gà; Công điện số 129/CĐ-BYT ngày 12/02/2025 của Bộ Y tế;

Công văn số 1039/UBND-VX ngày 02/3/2025 của Ủy ban nhân dân thành phố về tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh ho gà và bệnh sởi trên địa bàn thành phố;

Công văn số 699/GDĐT-HSSV ngày 17 tháng 3 năm 2025 về việc tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh ho gà, bệnh sởi trong trường học;

Văn bản số 577/UBND, ngày 01 tháng 12 năm 2025 của Ban chỉ đạo phòng chống dịch quận Bình Tân về báo cáo kết quả công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn quận từ ngày 01/01/2025 đến 30/11/2025;

Nhà trường xây dựng kế hoạch năm học 2025-2026, phần công tác chăm sóc sức khỏe và nuôi dưỡng cho trẻ.

  • Quản lý hoạt động khám sức khỏe định kỳ

Quản lý hoạt động khám sức khỏe định kỳ bao gồm những nội dung sau:

Ký kết hợp đồng khám sức khỏe cho trẻ với đơn vị có chức năng khám sức khỏe hàng năm; Thông báo đến tập thể sư phạm và cha mẹ trẻ về ngày khám sức khỏe cho trẻ tại trường và vận động cha mẹ trẻ cho trẻ đi học đầy đủ trong ngày khám sức khỏe; Tổng hợp kết quả khám sức khỏe của trẻ, thông báo đến phụ huynh kết quả khám; Theo dõi kết quả điều trị chuyên khoa của phụ huynh cho trẻ sau khi thông báo kết quả chức khám sức khỏe đầu năm, nhằm giúp trẻ được khỏe mạnh thông qua hoạt động tư vấn: Lưu hồ sơ khám sức khỏe của trẻ. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

  • Quản lý hoạt động theo dõi thể lực và tình trạng dinh dưỡng

Quản lý hoạt động theo dõi thể lực và tình trạng dinh dưỡng bao gồm những nội dung sau:

Trang bị dụng cụ cân, đo trẻ cho nhóm lớp, y tế; Bổ sung biểu đồ cho trẻ mới, kiểm tra biểu đồ của trẻ đang học. Hướng dẫn cách chấm biểu đồ (khi có thay đổi); Lưu hồ sơ báo cáo cân, đo và báo cáo trẻ suy dinh dưỡng, dư cân – béo phì của nhóm, lớp; Báo cáo tình hình khám sức khỏe, thể lực, suy dinh dưỡng, dư cân – béo phì về cấp trên. (tháng, quí); Qui định ngày cân đo cho nhóm, lớp; Khi có trẻ bị suy dinh dưỡng, dư cân – béo phì nhà trường thực hiện chế độ ăn và vận động dành riêng cho từng nhóm; Thực hiện công tác tư vấn cho cha mẹ trẻ trong việc phối hợp với nhà trường giúp cải thiện thể lực cho trẻ.

  • Quản lý hoạt động tiêm chủng và phòng dịch

Quản lý hoạt động tiêm chủng và phòng dịch bao gồm những nội dung sau:

  • Kiểm tra lịch tiêm chủng của trẻ và thông báo đến phụ huynh ngày tiêm chủng tại địa phương để phụ huynh đưa trẻ đi tiêm chủng. Đồng thời cập nhật lịch tiêm chủng của trẻ vào biểu đồ.
  • Vận động phụ huynh đồng ý tiêm chủng cho trẻ khi có chiến dịch tiêm chủng để phòng ngừa dịch bệnh lây lan.
  • Cập nhật hồ sơ trẻ nghỉ bệnh, liên hệ với phụ huynh khi trẻ nghỉ học nhiều ngày mà không có lí do để nắm tình hình sức khỏe của trẻ để phòng dịch bệnh tại đơn vị.
  • Khi có thông báo từ cha mẹ trẻ hoặc y tế, có trẻ học tại trường bị bệnh truyền nhiễm thì nhóm lớp có trẻ học thực hiện vệ sinh phòng dịch theo hướng dẫn của y tế. Đồng thời thông báo đến tập thể sư phạm nhà trường biết để có biện pháp phòng ngừa.
  • Theo dõi trẻ bị bệnh truyền nhiễm và đề nghị phụ huynh cho trẻ nghỉ đúng số ngày cần cách li (tùy bệnh).
  • Xây dựng kế hoạch mua sắm các dụng cụ y tế và thuốc thiết yếu để phục vụ cho công tác xử trí ban đầu một số bệnh và tai nạn thường gặp ở trẻ và phòng dịch.
  • Thường xuyên kiểm tra tủ thuốc (vệ sinh, hạn dùng của thuốc, nhu cầu sử dụng..) để chấn chỉnh, bổ sung kịp thời.

Quản lý hoạt động chăm sóc trẻ

Quản lý hoạt động chăm sóc trẻ bao gồm những nội dung sau:

  • Kiểm tra các hoạt động chăm sóc bữa ăn và giấc ngủ cho trẻ.
  • Kiểm tra vệ sinh môi trường lớp, bộ phận (bếp, phục vụ).
  • Kiểm tra thao tác vệ sinh của cô và trẻ.
  • Kiểm tra hoạt động tổ chức vận động cho trẻ thừa cân – béo phì và thực hiện chế độ ăn dành cho trẻ.
  • Tổ chức học tập qui chế những đều giáo viên và nhân viên không được làm để nâng cao nhận thức và thực hiện đúng qui chế của ngành. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.
  • Tổ chức cho tập thể sư phạm học vệ sinh an toàn thực phẩm và sơ cấp cứu theo qui định.
  • Thực hiện ký kết hợp đồng với các công ty cung cấp nước uống, thực phẩm: sữa, thực phẩm..
  • Sử dụng nguồn nước thủy cục trong sinh hoạt tại trường.
  • Cử nhân viên y tế tham gia các lớp bồi dưỡng về chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ do Trung tâm y tế dự phòng quận triển khai, trung tâm Dinh dưỡng, bệnh viện Nhi đồng 1, bệnh viện Nhi đồng 2….
  • Tư vấn cho phụ huynh cách chăm sóc trẻ bệnh tại nhà.
  • Kiểm tra lịch thăm khám của nhân viên y tế trong việc chăm sóc trẻ.
  • Kiểm tra cơ sở vật chất theo lịch, thực hiện kiểm định công tác phòng cháy tại đơn vị và tổ chức diễn tập phòng cháy (không báo trước).
  • Sửa chữa cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu tại đơn vị: Gia cố hàng rào, nâng chiều cao ban công, hệ thống nhà vệ sinh, quạt, điện….
  • Kiểm tra hoạt động ngoài trời của nhóm, lớp.
  • Kiểm tra hoạt động của nhóm lớp, nắm tình hình của trẻ sau giờ đón và trong ngày trẻ ở tại trường (lưu ý các trường hợp trẻ về sớm) để biết nguyên nhân và xử lý các tình huống xảy ra.
  • Kiểm tra hồ sơ nhân viên y tế cập nhật tình hình trẻ bệnh và thăm khám cho trẻ khi đi học hàng ngày cho đến khi sức khỏe trẻ phục hồi.
  • Kiểm tra sổ tư vấn của giáo viên về sức khỏe của trẻ khi trẻ bệnh, các biện pháp giúp trẻ khỏe mạnh sau khi bệnh và phòng suy dinh dưỡng, dư cân – béo phì….

Quản lý hoạt động tuyên truyền, tư vấn và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ

Quản lý hoạt động tuyên truyền, tư vấn và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ bao gồm những nội dung sau:

  • Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ cho các bậc cha mẹ bằng nhiều hình thức thiết thực và hiệu quả nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện, thông qua hoạt động kiểm tra kế hoạch truyền thông tại đơn vị, và các nội dung phát sinh theo yêu cầu mới.
  • Kiểm tra hồ sơ tư vấn của giáo viên và nhân viên y tế để đánh giá hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.
  • Theo Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non: Giáo viên mầm non phải yêu nghề, tận tụy với nghề, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Chấp hành các quy định của ngành, qui định của trường. Thực hiện các nhiệm vụ được phân công. Không vi phạm các qui định về các hành vi nhà giáo không được làm. Chăm sóc, giáo dục trẻ bằng tình thương yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo. Có kiến thức cơ bản về giáo dục mầm non….[5]

Kiến thức về chăm sóc sức khỏe lứa tuổi mầm non: Hiểu biết về an toàn, phòng tránh và xử lý ban đầu các tai nạn thường gặp ở trẻ. Có kiến thức về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Hiểu biết về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm và giáo dục dinh dưỡng cho trẻ. Có kiến thức về một số bệnh thường gặp ở trẻ, cách phòng bệnh và xử trí ban đầu.

Kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ: Biết tổ chức môi trường nhóm, lớp đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ. Biết tổ chức giấc ngủ, bữa ăn đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ. Biết hướng dẫn trẻ rèn luyện một số kỹ năng tự phục vụ. Biết phòng tránh và xử trí ban đầu một số bệnh, tai nạn thường gặp đối với trẻ.

Kỹ năng quản lý lớp học: Đảm bảo an toàn cho trẻ. Xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý nhóm, lớp gắn với mục đích chăm sóc, giáo dục trẻ. Quản lý và sử dụng có hiệu quả hồ sơ, sổ sách cá nhân, nhóm, lớp. Sắp xếp, bảo quản đồ dùng, đồ chơi, sản phẩm của trẻ phù hợp với mục đích chăm sóc, giáo dục.

Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng. Có kỹ năng giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách chân tình, cởi mở, thẳng thắn. Gần gũi, tôn trọng và hợp tác trong giao tiếp, ứng xử với cha mẹ trẻ. Giao tiếp, ứng xử với cộng đồng trên tinh thần hợp tác, chia sẽ.

Từ những yêu cầu trên, nhà trường tiến hành xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho giáo viên thông qua phim, tài liệu, chuyên đề, báo cáo …..

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ.

1.4.1. Yếu tố chủ quan

Nhận thức của CBQL: Việc mỗi CBQL có được sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác này là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, bên cạnh đó năng lực quản lý cũng thể hiện trong từng chức năng quản lý cần thực hiện như công tác kế hoạch hóa, triển khai thực hiện, chỉ đạo thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá. Dấu ấn của CBQL có thể nói có mặt ở bất kỳ một khâu nào quyết định đến sự thành công của công tác này tại mỗi trường mầm non

1.4.2. Yếu tố khách quan Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

Cơ chế chính sách hiện nay cũng tạo ra những khó khăn không nhỏ cho việc quản lý hoạt động này tại mỗi trường mầm Số trẻ tại mỗi lớp công lập quá đông, biên chế cho giáo viên lại hạn chế nên hiệu quả chăm sóc, phát hiện phòng ngừa đôi khi kém hiệu quả, kinh phí cho hoạt động này quá ít. Cán bộ quản lý thường xuyên phải cân đối để một mặt vẫn triển khai có chất lượng mặt khác có thể động viên tinh thần cho chị em và các đối tác của trường trong hoạt động này.

Điều kiện tự nhiên – xã hội: Quận Bình Tân là quận có nhiều khu công nghiệp nên tỷ lệ người dân nhập cư rất đông dẫn đến tình hình lây lan dịch bệnh, khó kiểm soát; Nhiều trẻ bị thiếu thốn tình thương yêu và sự chăm sóc thường xuyên của bố mẹ do cuộc sống mưu sinh cũng ảnh hưởng đến việc quản lý.

Nhận thức, phối hợp của cha mẹ trẻ: do trình độ học vấn của cha mẹ trẻ hạn chế, kiến thức chăm sóc và phòng bệnh cho trẻ chưa được cập nhật mới, phụ huynh thường gởi trẻ vào trường ngay khi trẻ có bệnh truyền nhiễm, chưa thông báo cho nhà trường biết khi trẻ có bệnh bẩm sinh vì sợ trẻ sẽ không được đi học, phụ huynh thường chăm sóc trẻ theo kinh nghiệm dân gian, thường ra tiệm thuốc tây mua thuốc cho trẻ uống khi trẻ có bệnh mà không dẫn trẻ đi khám chuyên khoa, nuôi trẻ theo kinh nghiệm và chiều theo ý trẻ dẫn đến tình trạng trẻ bị suy dinh dưỡng, dưa cân – béo phì, phụ huynh chưa quan tâm đến tình hình sức khỏe của trẻ tại trường cũng như các hoạt động tuyên truyền của nhà trường đến phụ huynh cũng như đón trẻ quá giờ làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.

Nhận thức và kỹ năng của CB,GV: Là những người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, nhận thức và kỹ năng của CB,GV có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác này. CB,GV đồng thời là người hiện thực hóa các kế hoạch quản lý của lãnh đạo Nhà trường, là cầu nối giữa Nhà trường và phụ huynh học sinh nên chúng tôi đặc biệt coi trọng nhân tố này trong công tác quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ.

Sự phối hợp giữa nhà trường và y tế địa phương: Đây là mối quan hệ tương hỗ đảm bảo cho công tác quản lý được đi đúng mục tiêu và kế hoạch đã đề ra cũng như các yêu cầu về chuyên môn được thực hiện theo đúng qui định

Tiểu kết chương 1

Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non đồng thời góp phần vào mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, công tác quản lý Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ trong trường mầm non có vai trò rất quan trọng. Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em ở trường mầm non được hiểu là biện pháp chăm sóc sức khỏe ban đầu chủ động, tích cực, đồng thời là sự tổng hợp của nhiều biện pháp chăm sóc về xã hội và y tế. Công tác này bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá.

Từ những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em ở lứa tuổi mầm non đòi hỏi phải có những đặc thù trong biện pháp quản lý.

Quản lý hoạt động chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho trẻ em ở trường mầm non bị chi phối bởi một số yếu tố chủ quan và khách quan đòi hỏi phải xác định được các yếu tố này cũng như mức độ ảnh hưởng tại mỗi trường mầm non cụ thể khi thực hiện công tác Quản lý. Luận văn: Quản lý chăm sóc sức khỏe tại trường Mầm non.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:  

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý chăm sóc sức khỏe trường Mầm non

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993