Mục lục
tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hiện nay, để đáp ứng xu hướng phát triển cạnh tranh và thực hiện đề án của Chính phủ, các NHTM Việt Nam đã không ngừng mạo hiểm vào các lĩnh vực ngoài truyền thống, thực hiện nhiều các hoạt động có thu nhập ngoài lãi làm đa dạng hóa thu nhập cho ngân hàng. Khi thực hiện đa dạng hóa thu nhập thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Qua lược khảo các nghiên cứu trước thì các nghiên cứu hiện tại trên thế giới về tác động của việc đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM đưa đến các kết luận khác nhau. Bên cạnh đó, việc lý giải tại sao các ngân hàng đa dạng hóa khác nhau cũng chưa được giải thích rõ ràng mặc dù cũng có khá nhiều các nghiên cứu ở nước ngoài nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến đa dạng hóa thu nhập ngân hàng. Ở Việt Nam chỉ có một số ít nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời điều chỉnh rủi ro tại NHTM Việt Nam có sự trái ngược nhau nên chưa có kết luận về lợi ích của đa dạng hóa thu nhập đối với ngân hàng. Bên cạnh đó, ở Việt Nam cũng rất ít nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến đa dạng hóa thu nhập, đặc biệt là công trình nghiên cứu tiếp cận theo hướng tìm hiểu đồng thời tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng đến đa dạng hóa thu nhập tại NHTM Việt Nam trong bối cảnh độ mở tài chính ở Việt Nam ngày càng mở rộng. Do đó, đề tài nghiên cứu “tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam” là cần thiết để bổ sung cơ sở lý luận cũng như bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này.
MỞ ĐẦU
Là một đất nước đang trong quá trình phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang bước sang giai đoạn kinh tế thị trường và tiến trình hồi nhập kinh tế thế giới. Hệ thống các ngân hàng Việt Nam đóng vai trò chính là đòn bẩy quyết định đến sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của xã hội, cung cấp kênh thanh toán an toàn và nhanh chóng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Hoạt động ngân hàng cũng ngày càng có sự cạnh tranh gắt gao giữa các định chế tài chính tham gia vào thị trường kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng liên tục cạnh tranh về quy mô cho vay, quy mô tiền gửi… để đạt được lợi nhuận bên cạnh mục tiêu phát triển bền vững. Trong bối cảnh hoạt động cấp tín dụng có nhiều rủi ro và chi phí vận hành cao, các hoạt động tạo ra thu nhập ngoài lãi đang dần trở thành trọng tâm phát triển của các ngân hàng nhằm tạo ra nguồn thu nhập ổn định và gia tăng lợi nhuận một cách an toàn.
Mối liên hệ giữa đa dạng hóa thu nhập thông qua thu nhập ngoài lãi và khả năng sinh lời của ngân hàng chính là chủ đề đang được quan tâm nghiên cứu trong tình hình hiện nay, phần lớn các nghiên cứu khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa hai yếu tố này, tuy nhiên tại Việt Nam mối liên hệ này cần được nghiên cứu để đưa ra khẳng định chính xác dựa trên kết quả nghiên cứu. Luận văn tập trung nghiên cứu tác động của việc đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong bối cảnh hoạt động ngân hàng ngày một hướng đến thu nhập ngoài tín dụng.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngành ngân hàng ở Việt Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ thời gian gần đây, theo xu hướng phát triển của thế giới, hoạt động ngân hàng tại nước ta đã từng bước tiến sâu hơn vào quá trình hội nhập quốc tế và đồng thời mở ra những cơ hội cũng như thử thách mới. Theo danh sách công bố của Ngân hàng Nhà nước đến ngày 30/06/2026, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm: 7 ngân hàng thương mại do Nhà nước nằm giữ trên 50% vốn điều lệ (bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu, Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương và Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng); 28 ngân hàng thương mại cổ phần; 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 2 ngân hàng liên doanh. Với sự xuất hiện và nổi lên của các ngân hàng ngước ngoài (NHNNg) mang đến hiệu ứng ứng lan tỏa về công nghệ, vốn và quản lý, tuy nhiên đồng thời cũng làm tăng sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Nhằm đảm bảo thị phần của mình, trong nỗ lực cạnh tranh, các NHTM Việt Nam phải giảm lãi suất cho vay và tiêu chuẩn xét duyệt tín dụng dẫn đến gia tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vào giai đoạn này. Bối cảnh hoạt động cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro càng thúc đẩy các NHTM cần phải tăng cường đa dạng hóa thu nhập – đặc biệt là thu nhập phi tín dụng với mục tiêu gia tăng khả năng sinh lời, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tại các quốc gia có nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng phát triển, đa dạng hóa thu nhập được xem là biện pháp an toàn và hữu hiệu nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay tồn tại nhiều ý kiến trái chiều về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các ngân hàng trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Xu hướng dịch chuyển từ hoạt động ngân hàng truyền thống sang các hoạt động ngân hàng phi truyền thống nhằm giảm rủi ro và gia tăng khả năng sinh lời là xu hướng tất yếu của các NHTM. Đa dạng hóa thu nhập sẽ làm giảm các biến động mang tính chu kỳ của lợi nhuận trong điều kiện các nguồn thu nhập của ngân hàng là không tương quan hoàn hảo. Như vậy, đa dạng hóa thu nhập là yếu tố quan trọng giúp các ngân hàng gia tăng khả năng sinh lời.
Giai đoạn gần đây, Chính phủ đã phê duyệt các Quyết định số 254/QĐ-TTg về đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2015 – 2019 “Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng”, Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2020 – 2024” trong đó có nội dung chuyển đổi mô hình kinh doanh của tổ chức tín dụng từ lệ thuộc hoạt động tín dụng sang mô hình kinh doanh đa dịch vụ, Quyết định 689/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2025 – 2025” có nội dung phấn đấu tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng tại các NHTM lên khoảng 16 – 17% vào cuối năm 2025. Điều này cho thấy cơ quan quản lý ngân hàng đã bắt đầu quan tâm và đặt ra các chiến lược phát triển các nguồn thu nhập ngoài lãi của NHTM.
Tại các quốc gia có nền tài chính phát triển trên thế giới, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập (Noninterest income to total income) của các ngân hàng thậm chí lên tới trên 40% (theo World Bank – Global Financial Development Database đến cuối năm 2021). Theo số liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính của các ngân hàng đã niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi thuần trong tổng thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tăng từ 23,7% (năm 2021) lên 25,2% (năm 2024). Trong đó, tỷ trọng thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ tăng từ 8,6% (năm 2021) lên 10,4% (năm 2024). Mặc dù tỷ trọng thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ trong tổng thu nhập có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng chậm và chưa đạt được mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (mới chỉ đạt mức 10,4%, trong khi mức mục tiêu là 12 – 13% đến cuối năm 2024). Cho nên tỷ lệ thu nhập ngoài lãi của các NHTM Việt Nam vẫn còn thấp. Các NHTM Việt Nam cần phải đa dạng hóa thu nhập, giảm rủi ro tín dụng, từ đó nâng cao khả năng sinh lời, đảm bảo hoạt động của tổ chức tín dụng được vận hành lành mạnh và an toàn.
Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và khả năng sinh lời của ngân hàng rất là quan trọng đối với những nhà điều hành ngân hàng, người làm chính sách, những nhà đầu tư. Vì vậy việc hiểu rằng liệu đa dạng hóa thu nhập có tạo thêm giá trị cho ngân hàng hay không rất quan trọng cho những người đưa ra quyết định kể trên.
Qua các nghiên cứu về đa dạng hóa thu nhập tại các NHTM được tìm thấy, có thể thấy rằng ở Việt Nam có khá nhiều nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời điều chỉnh rủi ro tại NHTM Việt Nam có sự trái ngược nhau nên chưa có kết luận về lợi ích của đa dạng hóa thu nhập đối với ngân hàng. Mặt khác, qua số liệu trên báo cáo tài chính, các ngân hàng có mức độ đa dạng thu nhập khác nhau. Nguyên nhân khác nhau về mức độ đa dạng hóa ngân hàng là gì? Việc tìm hiểu các yếu tố tác động lên đa dạng hóa thu nhập sẽ giúp ngân hàng có chiến lược và kế hoạch kinh doanh, điều chỉnh các yếu tố nhằm thực hiện đa dạng hóa thu nhập, đem lại khả năng sinh lời cao hơn cho ngân hàng. Theo hiểu biết của tác giả, chưa có quá nhiều công trình nghiên cứu đầy đủ các tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam và các yếu tố cấu thành nên đa dạng hóa thu nhập tại NHTM Việt Nam, để từ đó ngân hàng có sự đánh giá đầy đủ về lợi ích của đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố cấu thành nên đa dạng hóa thu nhập để mang lại khả năng sinh lời cao nhất cho ngân hàng.
Luận văn này từ đó được thực hiện nhằm tìm hiểu “Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam” với tầm nhìn cung cấp thêm cơ sở thực nghiệm khoa học, tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ đề này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác động của việc đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị, góp ý chính sách nhằm nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM tại Việt Nam.
Đề tài có hai mục tiêu nghiên cứu như sau:
- Đánh giá tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời tại các NHTM Việt Nam.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Từ những mục tiêu trên, nghiên cứu cần trả lời được các câu hỏi như sau:
- Đa dạng hóa thu nhập tác động theo chiều hướng như thế nào đến khả năng sinh lời tại các NHTM Việt Nam?
- Các giải pháp nào giúp nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Luận văn sử dụng dữ liệu được khai thác trong giai đoạn từ 2014 – 2025.
- Về không gian: Luận văn sử dụng mẫu là 32 NHTM theo danh sách công bố của Ngân hàng Nhà nước đến ngày 30/12/2025.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời tại NHTM Việt Nam dựa trên nghiên cứu của Lee và cộng sự (2018) và một số nghiên cứu liên quan. Mô hình nghiên cứu này áp dụng đối với cả hai cách đo lường đa dạng hóa thu nhập là đo lường thông qua chỉ số Herfindahl – Hirshman và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi.
Đối với mô hình nghiên cứu trên thì luận văn sử dụng ước lượng SGMM (SystemGMM) hai bước của Arellano và Bover (1995) và Blundell và Bond (1998), một phương pháp nghiên cứu hiệu quả trong các nghiên cứu trước để khắc phục các thiếu sót của mô hình.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp là các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 32 NHTM Việt Nam trong 11 năm từ 2014 đến 2025. Các NHTM Việt Nam trong mẫu nghiên cứu gồm: ABB, ACB, Agribank, BAB, BaoVietBank, BID, BVB, CTG, DongABank, EIB, HDB, KLB, LPB, MBB, MSB, NAB, NVB, OCB, PGB, PvcomBank, SCB, SGB, SHB, SSB, STB, TCB, TPB, VAB, VBB, VCB, VIB và VPB (Phụ lục 1). Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính đến 30/06/2026 thì các NHTM Việt Nam bao gồm 7 ngân hàng thương mại do Nhà nước nằm giữ trên 50% vốn điều lệ; 28 ngân hàng thương mại cổ phần. Trong các NHTM Nhà nước thì dữ liệu nghiên cứu không bao gồm 3 ngân hàng bị mua lại 0 đồng (Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu, Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương và Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng). Dữ liệu nghiên cứu gồm 400 quan sát và có cấu trúc bảng không cân bằng.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm 31/12/2025, tổng tài sản của các NHTM Việt Nam là 13.603.792 tỷ đồng. Tổng tài sản của 32 NHTM trong mẫu nghiên cứu là 13.572.615 tỷ đồng, chiếm 99,77% tổng tài sản các NHTM Việt Nam. Như vậy các NHTM trong mẫu nghiên cứu đảm bảo đại diện cho các NHTM Việt Nam.
1.6. Đóng góp của nghiên cứu
Đề tài mang lại hai đóng góp về mặt khoa học và về mặt thực tiễn.
Đối với đóng góp về mặt khoa học, luận văn có một số đóng góp mới sau:
Luận văn vừa nghiên cứu về lợi ích của đa dạng hóa thu nhập làm tăng khả năng sinh lời tại các NHTM Việt Nam vừa nghiên cứu về các yếu tố cấu thành nên đa dạng hóa thu nhập, trong khi các nghiên cứu khác ở Việt Nam thường chỉ xem xét tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.
Luận văn thực hiện kiểm tra tác động của đa dạng hóa thu nhập tới khả năng sinh lời, tác động của đa dạng hóa thu nhập tới khả năng sinh lời có xét đến yếu tố rủi ro của các NHTM Việt Nam. Ngoài ra, luận văn cũng xem xét mô hình trong bối cảnh kinh tế và độ mở tài chính Việt Nam.
Đối với đóng góp về thực tiễn, đề tài mang lại cơ sở thực tiễn để có thể đưa ra các khuyến nghị, góp ý trực tiếp đến hệ thống các NHTM tại Việt Nam nhằm tối đa hóa lợi nhuận đạt được, nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM tại Việt Nam giữa bối cảnh hoạt động tài chính – tín dụng ngày càng có nhiều sự cạnh tranh quyết liệt trong ngành giữa các NHTM trong nước và các NHNNg. Đề tài kỳ vọng có thể trở thành cơ sở tham khảo của các nhà lãnh đạo NHTM để góp phần củng cố và mở rộng giá trị thương mại cũng như thị phần trong tương lai.
1.7. Kết cấu của nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu gồm 5 chương:
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương 1 giới thiệu về lý do nghiên cứu, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu cũng như phương pháo nghiên cứu và đóng góp của nghiên cứu. Thông qua chương này, người đọc sẽ hình dung tổng quát về đề tài nghiên cứu.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Chương 2 giải thích khái niệm, cách đo lường khả năng sinh lời, đo lường đa dạng hóa thu nhập và giới thiệu một số lý thuyết liên quan đa dạng hóa thu nhập và khả năng sinh lời của ngân hàng. Chương này cũng khảo lược các nghiên cứu trước liên quan đến đề tài gồm các nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời và các nghiên cứu về yếu tố tác động đến đa dạng hóa thu nhập.
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 trình bày mô hình nghiên cứu, giải thích cách đo lường các biến và đưa ra các giả thuyết nghiên cứu. Ngoài ra chương này cũng trình bày nguồn dữ liệu và phương pháp ước lượng mô hình nghiên cứu.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận kết quả nghiên cứu của 2 mô hình là tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam và các yếu tố tác động đến đa dạng hóa thu nhập tại các NHTM Việt Nam.
Chương 5. Kết luận và khuyến nghị
Chương 5 trình bày kết luận rút ra từ nghiên cứu và gợi ý một số giải pháp, chính sách để các NHTM Việt Nam thực hiện tăng đa dạng hóa thu nhập và tăng khả năng sinh lời. Ngoài ra, chương 5 cũng trình bày hạn chế của nghiên cứu này và hướng nghiên cứu tiếp theo liên quan đến chủ đề này.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng sơ khai hoạt động dưới hình thức là nơi để ký gửi tài sản quý như đá quý, tiền vàng… của những người giàu có và thương nhân trong xã hội, bảo vệ của cải của những người này khỏi trộm cướp, ngân hàng cũng cung cấp chứng từ – séc – để những chủ sở hữu tài sản đổi tài sản đã ký gửi phục vụ cho thanh toán, giúp hạn chế được rủi ro trong việc vận chuyển và sử dụng tiền vàng trực tiếp. Ngân hàng bắt đầu tham vào quá trình cung ứng tiền tệ khi nhận thấy nhu cầu vay tiền để phục vụ kinh doanh tiêu dùng trong xã hội là rất lớn, ngân hàng đã dùng tiền ký gửi của công chúng để cho vay.
Hệ thống ngân hàng đã được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử xã hội cũng như nền kinh tế, ngân hàng đến thời hiện đại vận hành đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian kết nối giữa những chủ thể thâm hụt vốn và chủ thể có vốn nhàn rỗi từ đó điều tiết dòng vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, kích thích và thúc đẩy các hoạt động kinh tế.
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng số 47/2014/QH12 do Quốc hội ban hành ngày 16/06/2014 quy định khái niệm NHTM như sau: NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng này nhằm mục tiêu lợi nhuận. NHTM có hoạt động chủ yếu và thường xuyên đó là nhận tiền gửi của các cá nhân hoặc tổ chức để cấp tín dụng đến các cá nhân hoặc tổ chức thiếu hụt nguồn vốn và thu lãi, phí từ hoạt động cấp tín dụng này, trên cơ sở đó hoạt động của NHTM là nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Với số lượng NHTM được thành lập và tham gia vào nền kinh tế Việt Nam ngày một gia tăng, có thể phân loại NHTM dựa trên tiêu chí hình thức sở hữu như sau: NHTM quốc doanh là NHTM có vốn sách Nhà nước, bao gồm các NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn và các NHTM đã được cổ phần hóa.
NHTM cổ phần là NHTM được thành lập dựa trên vốn góp kinh doanh của các cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức.
NHTM liên doanh là NHTM được thành lập theo hình thức góp vốn liên doanh giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài (trong đó vốn nước ngoài không quá 50%), đặt trụ sở chính tại Việt Nam và hoạt động theo sự quản lý của pháp luật Việt Nam.
NHTM 100% vốn nước ngoài được thành lập với toàn bộ vốn điều lệ từ nước ngoài, có trụ sở tại Việt Nam và hoạt động theo sự quản lý của pháp luật Việt Nam.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHNNg) là NHTM được thành lập do vốn nước ngoài theo luật pháp nước ngoài, đặt chi nhánh tại Việt Nam và hoạt động theo sự quản lý của pháp luật Việt Nam.
- Dù được tổ chức hay hoạt động theo loại hình nào hay ở quốc gia nào, NHTM có các chức năng chính như sau:
Chức năng trung gian tín dụng: NHTM là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn trong nền kinh tế. Chức năng mang lại lợi ích giúp người thừa vốn tích trữ tài sản an toàn và tiện ích trong khi người thiếu vốn được tiếp cận và đáp ứng nhu cầu nguồn vốn một cách tiết kiệm, kịp thời, an toàn và hợp pháp. Đối với NHTM chức năng này chính là nguồn tạo ra lợi nhuận chính từ chênh lệch lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, bên cạnh đó với vai trò điều hòa vốn trong nền kinh tế, chức năng này của NHTM còn thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế.
Chức năng trung gian thanh toán: NHTM thay mặt khách hàng trích tiền từ tài khoản chuyển trả cho bên thụ hưởng, mang lại kênh thanh toán nhanh chóng, tiện ích, không sử dụng tiền mặt và an toàn cho các bên đồng thời NHTM có thể thu phí dịch vụ từ khách hàng, xây dựng kênh thu hút nguồn vốn huy động. Chức năng này cũng góp phần giảm chi phí lưu thông và sử dụng tiền mặt trong xã hội, hình thành kênh thanh toán tiện ích, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển lưu thông hàng hóa dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Chức năng tạo tiền: Thông qua chức năng trung gian tín dụng và thanh toán, dòng tiền từ nguồn vốn huy động được sẽ được NHTM sử dụng cho vay bằng chuyển khoản, số tiền gửi ban đầu thông qua chức năng này của NHTM có thể nhân lên nhiều lần, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế.
Là những định chế tài chính đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, các NHTM sẽ vận hành theo các nguyên tắc nhất định để phù hợp với nhu cầu của thị trường đồng thời đảm bảo lợi ích của chính NHTM. Các NHTM luôn đặt ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh nhằm hạn chế những tác động biến đổi của thị trường, giảm thiểu thiệt hại cho NHTM.
2.1.2. Khái niệm về khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại
Tương tự như một doanh nghiệp, NHTM hoạt động với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận. Khả năng sinh lời chính là chỉ số đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của NHTM trong một khoảng thời gian hoạt động nhất định, phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực hiện hữu là tài sản và nguồn vốn để sinh ra lợi nhuận. Chính vì vậy khả năng sinh lời cũng là chỉ số quan trọng để phản ánh mức độ kinh doanh có hiệu quả hay không của các NHTM, từ đó giúp các nhà đầu tư, nhà quản trị, khách hàng, đối tác… của NHTM thông qua các chỉ số này đưa ra các quyết định trong mối quan hệ với NHTM, các quyết định này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược hoạt động và tình hình kinh doanh của NHTM.
Chỉ số khả năng sinh lời của NHTM là yếu tố quan trọng được quan tâm nghiên cứu bởi nhiều đối tượng khác nhau: Các chủ sở hữu sẽ dựa vào chỉ số này để đánh giá mức độ hiệu quả khi đầu tư hoặc ra quyết định đầu tư; Các nhà lãnh đạo hoạch định của NHTM sẽ sử dụng chỉ số này để đánh giá tính phù hợp của chiến lược hoạt động hiện tại để kịp thời đưa ra những quyết định hợp lý; Các đối tác và khách hàng có thể dựa trên chỉ số này để đánh giá mức độ vững mạnh, mức độ uy tín của NHTM trong hoạt động để đưa ra quyết định sử dụng dịch vụ hoặc hợp tác.
- Có hai chỉ số thường được sử dụng để đo lường khả năng sinh lời:
Lợi nhuận trên tổng tài sản – ROA (Return on Assets): thể hiện mức độ hiệu quả trong việc chuyển đổi tài sản thành lợi nhuận của NHTM.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE (Return on Equity): thể hiện mức độ hiệu quả trong việc chuyển đổi vốn chủ sở hữu thành lợi nhuận của NHTM. Các chỉ số ROA và ROE được sử dụng như một thước đo hữu hiệu cho mức độ hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực để tạo ra lợi nhuận của NHTM.
2.1.3. Khái niệm về đa dạng hóa thu nhập
Tại Việt Nam, ngày càng nhiều NHTM được thành lập, thị trường kinh doanh tiền tệ ngày càng có nhiều định chế tài chính tham gia với nguồn lực mạnh mẽ về cả nhân lực và vật lực, các NHTM vì vậy luôn trong trạng thái cạnh tranh gay gắt với nhau để đảm bảo thị phần của chính mình trên thị trường, đòi hỏi các NHTM có chiến lược phát triển đúng đắn, cải tiến cập nhật, gia tăng chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng.
Dưới góc độ là một tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, đa dạng hóa thu nhập là xu thế tất yếu của các NHTM để đảm bảo lợi nhuận trong bối cảnh hoạt động tín dụng ngày một rủi ro và cần sự giám sát, điều tiết chặt chẽ của Nhà nước thông qua NHNN. Đa dạng hóa thu nhập thể hiện thông qua sự thay đổi giữa thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi của NHTM, trong đó thu nhập từ lãi là thu nhập từ các hoạt động cấp tín dụng và thu nhập ngoài lãi là thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng.
Đa dạng hóa thu nhập cũng là kênh gia tăng thu nhập và lợi nhuận một cách an toàn cho NHTM khi giảm thiểu được hầu hết rủi ro trong nghiệp vụ cấp tín dụng truyền thống và không phải trích lập dự phòng, đây cũng dần trở thành nguồn thu nhập ổn định cho NHTM. Thu nhập ngoài lãi có thể đến từ các nguồn thu phí ổn định như phí dịch vụ tiền gửi, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ, kinh doanh ngoại tệ, tài trợ thương mại… Nguồn thu nhập ngoài lãi ngày một được các NHTM chú trọng tăng trưởng nhằm đảm bảo hoạt động ngân hàng phát triển bền vững và an toàn.
2.1.4. Khái niệm về thu nhập ngoài lãi
Theo cách hiểu thông thường: Thu nhập ngoài lãi là những thu nhập từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng không kể đến thu nhập từ hoạt động truyền thống là nhận tiền gửi và cho vay.
Theo Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Hạnh Hoa (2016): “Thu nhập ngoài lãi là những khoản thu không trực tiếp liên quan đến hoạt động lãi suất”.
Trong phạm vi của luận văn này, thu nhập ngoài lãi được hiểu là thu nhập của ngân hàng không tính đến thu nhập từ lãi và được thể hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam, bao gồm:
- Thu nhập từ hoạt động dịch vụ
- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
- Thu nhập từ hoạt động mua bán chứng khoán
- Thu nhập từ hoạt động góp vốn, mua cổ phần
- Thu nhập từ hoạt động khác.
2.2. Tác động của đa dạng hóa thu nhập lên khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại
Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của NHTM là chủ đề nghiên cứu ngày càng được quan tâm trong bối cảnh hoạt động ngân hàng đang có xu hướng giảm dần sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng. Đa dạng hóa thu nhập có thể giúp các NHTM nâng cao lợi nhuận một cách an toàn, khi gia tăng các hoạt động tạo ra thu nhập ngoài lãi, các NHTM có khả năng tận dụng các nguồn lực về cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân sự để vận hành, từ đó tiết kiệm chi phí quản lý hoạt động, gia tăng lợi nhuận cho NHTM.
Đa dạng hóa thu nhập được đa số nghiên cứu khẳng định có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lời của NHTM, các hoạt động tạo ra thu nhập ngoài lãi có thể tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho NHTM và giúp phân tán rủi ro giữa các nghiệp vụ ngân hàng.
Dưới góc độ lý thuyết, đa dạng hóa các nguồn thu nhập chính là phương pháp lý tưởng để gia tăng hiệu quả hoạt động và quản lý rủi ro tại NHTM. Klein và Saidenberg (1997) cũng cho rằng việc mở rộng các loại hình dịch vụ tài chính cũng sẽ giúp NHTM gia tăng lợi nhuận. Ý tưởng được đưa ra đó là các loại hình dịch vụ tạo ra thu nhập ngoài lãi không tương quan hoặc tương quan không hoàn hảo với những thu nhập tạo ra từ lãi vay. Đa dạng hóa thu nhập mà cụ thể hơn là đa dạng các nguồn thu nhập ngoài lãi hoặc thu nhập phi tín dụng còn được xem như phương án hiệu quả nhằm tăng trưởng quy mô lợi nhuận lành mạnh cho ngân hàng. Hoạt động ngân hàng truyền thống từ trước đến nay luôn gắn liền với việc cho vay – cấp tín dụng nên luôn đi kèm với rủi ro tín dụng tiềm ẩn, lợi nhuận của các NHTM vì vậy cũng bị suy giảm do phải trích lập dự phòng rủi ro, từ đó có thể thấy rằng việc đa dạng hóa thu nhập sẽ giúp NHTM có được dòng thu nhập ổn định hơn, an toàn hơn, tăng cường khả năng sinh lời cho ngân hàng. Ngoài ra khi nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng, các nhà nghiên cứu tin rằng đa dạng hóa thu nhập cũng làm giảm rủi ro cho NHTM. Lý thuyết cũng cho rằng tác động của việc đa dạng hóa thu nhập lên hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của ngân hàng sẽ được thể hiện rõ rệt tại các ngân hàng có quy mô từ vừa đến lớn, các ngân hàng có quy mô nhỏ thường ít có khả năng tận dụng các cơ hội để đa dạng hóa thu nhập.
Một số lý thuyết liên quan đồng thời cho rằng việc đa dạng hóa thu nhập không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả tích cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Luận điểm được đưa ra rằng các chi phí liên quan để có thể triển khai đa dạng hóa thu nhập có thể nhiều hơn là lợi ích mang lại thật sự, tức việc tốn kém rất dễ xảy ra nếu các NHTM không kiểm soát được chi phí, do việc đầu tư mở rộng công nghệ nhân lực để phát triển hoạt động tạo ra thu nhập ngoài lãi khiến cho chi phí hoạt động của ngân hàng gia tăng đáng kể, dẫn đến thu nhập đồng thời bị ảnh hưởng. Lý giải cho điều này, luận điểm được đưa ra rằng sự khác biệt về quy mô, tiềm lực của mỗi loại hình ngân hàng sẽ dẫn đến tác động khác nhau của đa dạng hóa thu nhập lên khả năng sinh lời của ngân hàng. Việc đa dạng hóa thu nhập dường như có hiệu quả tích cực rõ rệt trong việc gia tăng khả năng sinh lời đối với các ngân hàng tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, tuy nhiên tác động là không rõ rệt cũng như chưa chắc chắn là tích cực đối với các ngân hàng khác
2.3. Các nghiên cứu có liên quan tiền nhiệm
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM. Vấn đề đặt ra rằng các nghiên cứu này được thực hiện trong quá khứ, dữ liệu được thu thập không còn đảm bảo tính cập nhật nên kết quả nghiên cứu không còn phản ánh chính xác tác động của đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM, cùng với đó các nghiên cứu cũng đưa ra ý kiến ngược chiều về tác động của đa dạng hóa thu nhập lên khả năng sinh lời cũng như hiệu quả hoạt động của ngân hàng, mà trong đó với môi trường ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian trước đây, việc đa dạng hóa thu nhập dường như chưa thật sự có tác động tích cực.
2.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Maudos (2020) phân tích về mối quan hệ giữa rủi ro, lợi nhuận và cấu trúc thu nhập ngân hàng Châu Âu. Trong đó tác giả có xét đến ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ việc cho vay dưới chuẩn ở Mỹ năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa dạng hóa thu nhập làm cho khả năng sinh lời giảm mặc dù kết quả chỉ có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn khủng hoảng (2012-2016).
Nghiên cứu của Sanya và cộng sự (2015) phân tích về lợi ích từ đa dạng hóa thu nhập của các NHTM tại các nền kinh tế mới nổi. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 226 ngân hàng niêm yết thuộc 11 quốc gia nền kinh tế mới nổi từ năm 2004-2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa dạng hóa thu nhập làm giảm rủi ro vỡ nợ và làm gia tăng khả năng sinh lời của các NHTM ở các nền kinh tế mới nổi.
Nghiên cứu của Brahman và cộng sự (2022), phân tích về đa dạng hóa thu nhập và hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các ngân hàng tại Malaysia trong giai đoạn 2009 – 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa dạng hóa làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng, giảm rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Chiorazzo và cộng sự (2012) nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng ở Ý với mẫu nghiên cứu là 85 ngân hàng trong giai đoạn 1993- 2007. Kết quả nghiên cứu thông qua hồi quy ước lượng với tác động cố định và ngẫu nhiên cho thấy đa dạng hóa thu nhập làm tăng lợi nhuận có điều chỉnh rủi ro. Nhóm tác giả lý giải rằng các ngân hàng có quy mô nhỏ sẽ có ưu thế hơn khi đa dạng hóa thu nhập. Do phần thu nhập ngoài lãi chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập nên việc gia tăng thu nhập ngoài lãi làm tăng hiệu quả tài chính.
Elsas và cộng sự (2014) sử dụng dữ liệu bảng từ chín quốc gia (Úc, Canada, Pháp, Đức, Ý, Anh, Mỹ, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ) trong giai đoạn 1996-2012 để kiểm tra sự đa dạng hóa doanh thu ảnh hưởng đến giá trị ngân hàng như thế nào. Kết quả nghiên cứu thông qua hồi quy với tác động cố định cho thấy đa dạng hóa làm tăng lợi nhuận, do đó làm tăng giá trị thị trường.
Gurbuz và cộng sự (2017) nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và hiệu quả kinh doanh có điều chỉnh rủi ro của các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ. Nghiên cứu áp dụng phương pháp GMM trên dữ liệu bảng không cân bằng của 26 ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ trong thời gian 2009-2015. Kết quả cho thấy đa dạng hóa thu nhập làm tăng hiệu quả kinh doanh điều chỉnh rủi ro cho các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.
Tác giả Stiroh (2008) cũng thực hiện nghiên cứu tại các ngân hàng cộng đồng tại Mỹ trong giai đoạn 1984-2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi các ngân hàng nhỏ (không phải ngân hàng tập đoàn) đa dạng hóa thu nhập thì làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Việc đa dạng hóa thu nhập với ngân hàng có quy mô nhỏ thì dẫn đến giảm lợi nhuận và tăng rủi ro như hoạt động cho vay thương mại và cho vay công nghiệp. Nhưng những ngân hàng có quy mô lớn hơn thì khi đa dạng hóa thu nhập cho thấy hiệu quả kinh doanh được cải thiện (tăng lợi nhuận và giảm rủi ro). Việc tìm kiếm thu nhập từ hoạt động ngoài lãi mang lại rủi ro cao hơn do ngân hàng nhỏ có ít kinh nghiệm quản trị so với ngân hàng có quy mô lớn dạng tập đoàn. Stiroh (2008b) nghiên cứu hệ thống ngân hàng ở Mỹ trong giai đoạn 1984-2005 và kết quả cho thấy: có mối tương quan mạnh giữa tỷ lệ tăng trưởng thu nhập lãi thuần và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập ngoài lãi. Thu nhập ngoài lãi thì biến động mạnh hơn thu nhập lãi, từ đó làm giảm thu nhập từ hoạt động. Sự ổn định biến động thu nhập là do sự ổn định của thu nhập lãi thuần chứ không phải lợi ích đạt được từ đa dạng hóa thu nhập. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng đưa ra kết luận thu nhập ngoài lãi tác động tỷ lệ nghịch đến lợi nhuận ngân hàng. Từ những bằng chứng đó nhóm tác giả đưa ra kết luận có rất ít lợi ích khi ngân hàng thực hiện đa dạng hóa thu nhập.
DeYoung và Rice (2008) kiểm tra mối quan hệ giữa thu nhập phi lãi và hiệu quả tài chính của 4.712 ngân hàng Mỹ thời kỳ 1989 – 2005. Kết quả nghiên cứu bằng hồi qui với ước lượng bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa thu nhập phi lãi và hiệu quả tài chính điều chỉnh rủi ro của các ngân hàng Mỹ.
Stiroh và Rumble (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng hóa và hiệu quả có điều chỉnh rủi ro của các công ty tài chính Mỹ giai đoạn 1997 – 2006, trong đó các tác giả phân tích tác động trực tiếp và tác động gián tiếp của đa dạng hóa. Hồi qui với phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS, nghiên cứu đã cho thấy lợi ích của đa dạng hóa đã bị bù lại bởi việc tăng chi phí cho các hoạt động phi lãi. Do đó, đa dạng hóa không làm tăng hiệu quả điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.
Ủng hộ cho quan điểm của đa dạng hóa thu nhập không mang lại lợi ích cho lợi nhuận ngân hàng còn có nghiên cứu của Mercieca và cộng sự (2011). Với dữ liệu của 755 ngân hàng nhỏ ở Châu Âu từ 1997-2007 và dùng hồi qui với phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS, kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng này không có lợi khi đa dạng hóa, và có mối quan hệ ngược chiều giữa thu nhập ngoài lãi và hiệu quả kinh doanh có điều chỉnh rủi ro.
Bên cạnh đó còn có Lepetit và cộng sự (2012) nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro ngân hàng và đa dạng hóa sản phẩm trong các ngân hàng ở Châu Âu. Với dữ liệu từ 734 ngân hàng trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2006, các tác giả áp dụng hồi quy với phương pháp bình phương bé nhất OLS, cho thấy kết quả đầu tiên chỉ ra rằng những ngân hàng mở rộng thu nhập ngoài lãi có rủi ro cao hơn và rủi ro phá sản cao hơn những ngân hàng chủ yếu cung cấp tín dụng. Khi xem xét quy mô thì bài nghiên cứu phát hiện ra: các ngân hàng có quy mô nhỏ thì thu nhập ngoài lãi có mối quan hệ mạnh với rủi ro từ đó nhóm ngân hàng quy mô nhỏ sẽ gặp rủi ro cao hơn khi đa dạng hóa thu nhập. Các kết luận được nhóm tác giả của bài nghiên cứu lý giải là do các hoạt động phát sinh thu nhập ngoài lãi như: hoạt động đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán, bất động sản,… luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các khoản thu nhập ngoài lãi này rất nhạy cảm với rủi ro do đó thu nhập mang lại từ hoạt động phi truyền thống không ổn định và ảnh hưởng đến thu nhập chung của ngân hàng.
2.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2019) phân tích về đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 22 NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 – 2017.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa dáng hóa thu nhập có tác động cùng chiều với khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.
Nghiên cứu của Võ Xuân Vinh và Trần Thị Mai Phương (2019) phân tích về lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của NHTM Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 37 NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng càng đa dạng hóa thu nhập từ các hoạt động thì lợi nhuận ngân hàng càng cao. Tuy nhiên, phân tích yếu tố rủi ro cho thấy các ngân hàng có mức độ đa dạng hoá thu nhập càng cao thì lợi nhuận điều chỉnh rủi ro giảm.
Nghiên cứu của Tu DQ Le (2025) phân tích về tác động của việc mở rộng phạm vi địa lý và đa dạng hóa thu nhập đến tính ổn định của ngân hàng. Dữ liệu nghiên cứu được lựa chọn từ các NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019. Tác giả đưa ra kết luận trong giai đoạn khảo sát việc mở rộng về địa lý mang tác động tích cực đến tính ổn định của ngân hàng trong khi việc đa dạng hóa thu nhập có chiều hướng làm tăng nguy cơ mất thanh khoản của ngân hàng.
Lê Long Hậu, Phạm Xuân Quỳnh (2021) sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của 26 NHTM Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2020, nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa thu nhập ngoài lãi và hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Kết quả ước lượng với tác động cố định FEM và tác động ngẫu nhiên REM cho thấy thu nhập ngoài lãi có mối tương quan thuận với hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh có điều chỉnh rủi ro của ngân hàng, tăng thu nhập từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh và đầu tư thì khả năng sinh lời sẽ tăng.
Nguyễn Minh Sáng (2021) thực hiện phân tích tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt động của 34 ngân hàng trong giai đoạn 2011 – 2019, bằng phương pháp hồi quy Tobit. Kết quả cũng tương tự các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam là đa dạng hóa có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Ngoài ra còn có nghiên cứu của Hoàng Hải Yến và Vũ Thị Lệ Giang (2021) tập trung nghiên cứu khi ngân hàng đa dạng hóa sang thu nhập ngoài lãi thì có sự đánh đổi lợi nhuận và rủi ro như thế nào. Nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi 27 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2019. Nhóm tác giả sử dụng hai chỉ số Vi (được tính bằng độ lệch chuẩn của thu nhập so với thu nhập trung bình) và RAPi (chênh lệch giữa thu nhập trung bình với thu nhập trung bình từ các tài sản phi rủi ro so với độ lệch chuẩn của thu nhập) để đo lường sự đánh đổi lợi nhuận và rủi ro của 27 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy NHTM nên đa dạng hóa thu nhập sang cả thu nhập ngoài lãi vì sẽ làm rủi ro tổng thể của ngân hàng giảm. Tuy nhiên, không phải lúc nào điều này cũng làm lợi nhuận ngân hàng tăng thêm nhiều hơn như mong muốn.

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com