Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Huyện Thường Tín vốn là mảnh đánh với truyền thống “Đất danh hương”, đất trăm nghề với 450 di tích lịch sử cùng 126 làng nghề huyện Thường Tín là nơi có nhiều tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch tâm linh gắn với du lịch làng nghề và sinh thái. Những năm qua, khách du lịch đến địa bàn huyện có cả khách quốc tế và nội địa với nhiều độ tuổi khác nhau, nhưng chủ yếu tham quan, học hỏi kinh nghiệm và tìm đối tác kinh doanh… Thời gian lưu trú chủ yếu trong ngày.

Lẽ ra, với 450 di tích lịch sử, trong đó có 108 di tích được xếp hạng như Chùa Đậu, đền thờ Nguyễn Trãi…; nhiều lễ hội đặc sắc như: lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung, lễ hội làng Từ Vân, lễ hội chùa Mui,…; cùng 126 làng nghề, với 46 làng được công nhận làng nghề truyền thống, thuận lợi cho phát triển du lịch – dịch vụ rất đa dạng. Thế nhưng, việc khai thác tài nguyên du lịch chưa mang lại hiệu quả tương xứng, tất cả đang bị bỏ phí…

Nguyên nhân được chính là do việc triển khai các đề án phát triển du lịch, đầu tư tôn tạo các di tích còn chậm. Nguồn nhân lực của cơ sở tham gia dịch vụ du lịch phát triển tự phát, chưa được tập huấn về chuyên môn và kỹ năng phục vụ. Chưa có cơ sở kinh doanh lữ hành chuyên nghiệp, hạ tầng cho du lịch nhất là tại các làng nghề chưa được đầu tư do thiếu nguồn vốn, cơ sở lưu trú còn thiếu và chưa đồng bộ. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa có chương trình liên kết du lịch giữa các xã trong huyện. Hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1. Đặc điểm kinh tế – xã hội

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Hồng Vân là xã nằm ở phía đông của Huyện Thường Tín, cách trung tâm Hà Nội 18 km về phía Nam. Với chiều dài hơn 4,5 km, chiều rộng khoảng 2 km

  • Phía Bắc giáp xã Ninh Sở
  • Phía Nam giáp xã Thư Phú
  • Phía Tây giáp xã Vân Tảo
  • Phía Đông giáp Sông Hồng
  • Phía Đông Nam giáp xã Tự Nhiên

Dòng sông Hồng chảy qua ôm lấy sườn phía Đông của xã từ Bắc xuống Nam, kéo dài từ Xâm Thị đến Vân La, hàng ngàn năm nay bồi đắp phù sa tạo nên vùng đất màu mỡ nuôi sống người dân Hồng Vân. Bên cạnh đó xã có tuyến đường 427 liên tỉnh và hệ thống giao thông đường thuỷ Sông Hồng chạy qua tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.

Diện tích đất tự nhiên toàn xã là 456,71ha. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Trong đó: Diện tích đất canh tác là 182ha, xã có 6 thôn bao gồm Xâm Thị, Xâm Xuyên, Cơ Giáo, Cẩm Cơ, La Thượng và Vân La với 1.699 hộ, 5.748 nhân khẩu.

Xã có 2 tôn giáo chính là đạo Phật và đạo Thiên chúa giáo. Toàn xã có 6 ngôi Chùa, 5 Đình làng, 2 Đền, 1 nhà thờ với 2 tôn giáo chính đó là Đạo phật và đạo Thiên chúa giáo, trong đó có 1 thôn công giáo toàn tòng.

Các Đình và chùa được nằm ở 5 thôn, đa số được xây dựng để thờ Thành Hoàng làng – vị thần coi sóc thần linh trong làng. Ngoài ra còn thờ các vị Phúc thần của làng là những người có công với làng với nước được nhân dân tôn thờ.

Đặc biệt Đình làng Vân La thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa một trong 4 vị thánh tứ bất tử của tục thờ thánh Việt Nam. Các Đình và chùa của xã được xây dựng với lối kiến trúc cổ xưa, làm bằng gỗ quý chạm khắc long ly quy phượng. Xã có Đền thờ Xâm Thị được phong cấp di tích lịch sử cấp thành phố, Đình làng Xâm Xuyên được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Nhà thờ giáo xứ Cẩm Cơ được xây dựng lại và hoàn thành vào năm 2021 với kiến trúc đặc trưng của tôn giáo rất đẹp.

Xã còn có “ chợ Mới ông Già” – nơi lưu giữ dấu tích của cha con thánh Chử Đồng Tử sinh sống lập nghiệp, và theo truyền thuyết thì nơi đây được coi là chợ cổ nhất Việt Nam.

Xã Hồng vân là xã thuần nông, nhân dân trong xã chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp với nghề: Trồng hoa, cây cảnh, chăn nuôi, trồng rau màu…. Đặc biệt xã có 02 làng nghề Sinh vật cảnh được UBND tỉnh Hà Tây công nhận năm 2008 là: Làng nghề Sinh vật cảnh Xâm Xuyên và làng nghề Sinh vật cảnh Cơ Giáo. Hiện nay trên xã có 30 nghệ nhân, thợ giỏi, có khả năng chế tác nhưng tác phẩm cây cảnh nghệ thuật, cây bonsai, đồ đá mỹ nghệ…nổi tiếng xứ Bắc.

2.1.1.2. Địa hình

Là một xã đồng bằng, địa hình của xã phân bố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, thuận lợi cho việc tưới tiêu chủ động. Địa hình nhìn chung bằng phẳng, độ cao giữa các phần lãnh thổ chênh lệch không đáng kể.

2.1.1.3. Khí hậu Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Xã Hồng Vân cũng như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

  • Nhiệt độ: “trung bình năm 23,80C. Nhiệt độ trung bình cao nhất 350C – 370C (tháng 6 – tháng 8), thường kèm theo mưa to. Nhiệt độ trung bình thấp nhất có năm xuống dưới 100C (tháng 12 đến tháng 1), có khi kèm theo sương muối”.
  • Gió: “Hướng gió chủ đạo: gió Đông Nam về mùa hè, gió Đông Bắc về mùa đông. Vận tốc gió trung bình 2 m/s”.
  • Bão: “Xã ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, chủ yếu ảnh hưởng gây mưa lớn, hàng năm thường có 5-7 cơn bão gây mưa lớn”.
  • Mưa: “Lượng mưa trung bình hàng năm thường từ 1600– 1800 mm”.
  • Độ ẩm không khí: “Độ ẩm không khí trung bình năm là 83%, thấp nhất trung bình là 80%(tháng 1), cao nhất trung bình là 88% (tháng 3)”.
  • Nắng: “Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1600 – 1800 giờ/năm”.

2.2. Đặc điểm cơ cấu ngành nghề tại địa phương

2.2.1. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp hàng hóa đang từng bước phát triển. Trong ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo xu thế giảm tỷ trọng ngành thủy sản từ 31,55% năm 2005 xuống còn 25,71% năm 2017. Chăn nuôi tăng từ 41,26% năm 2005 lên 45,71% năm 2017, tỷ trọng của ngành trồng trọt có tăng nhưng không đáng kể..

2.2.2. Làng nghề

Hồng Vân có 2 làng nghề được tỉnh Hà Tây cũ công nhận làng nghề sinh vật cảnh năm 2008 là làng Cơ Giáo và làng Xâm Xuyên. Thời kỳ làng nghề phát triển nhân dân trên địa bàn xã nói chung và nhân dân hai làng Cơ Giáo và Xâm Xuyên đã rất chú trọng đầu tư phát triển cây cảnh, tập trung phát triển những cây cảnh có giá trị kinh tế lớn. Hơn 80% hộ dân hai làng Cơ Giáo và Xâm Xuyên đã tham gia phát triển làng nghề. Những hộ sản xuất ít cũng khoảng 50-100 cây cảnh, những hộ sản xuất lớn như hộ anh Chí, hộ anh Úy, hộ anh Quỳnh, hộ anh Tám… có những thời điểm mỗi hộ sở hữu hàng nghìn cây cảnh giá trị mang lại hiệu quả kinh tế cao so với các cây trồng và công việc khác. Hồng Vân có tiếng là đất sở hữu nhiều bàn tay vàng trong lĩnh vực cây cảnh, và được biết đến ở những sự kiện trưng bày cây cảnh và cây nghệ thuật mang tầm cỡ quốc gia.

Theo thống kê đến thời điểm hiện tại làng Cơ Giáo có khoảng hơn 30 hộ, làng Xâm Xuyên khoảng hơn 20 hộ vẫn duy trì các mô hình cây cảnh. Các mô hình cây cảnh đã kết hợp vừa sản xuất, vừa khai thác du lịch như: mô hình sinh thái của hộ anh Chí thôn Cơ Giáo; mô hình nông trại giáo dục của hộ anh Quỳnh thôn Xâm Xuyên; mô hình sản xuất đồ đá mỹ nghệ và đồ cổ của anh Tuấn thôn Cơ Giáo; mô hình nhân giống và bảo tồn các giống hoa hồng quý của anh Mợi, anh Tráng…. Các mô hình vưà áp dụng sản xuất vừa khai thác du lịch đã tạo ra rất nhiều điểm mới và để lại ấn tượng cho khách du lịch trải nghiệm khi đến Hồng Vân.

Do bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế nên hiện nay số hộ tham gia sản xuất, giá trị cây cảnh đã giảm đi rất nhiều. Hiện nay nhiều hộ gia đình không còn mặn mà về nghề cây cảnh mà đã đổi sang những công việc khác để kiếm sống như ở thôn Cơ Giáo còn 14% hộ, Xâm Xuyên là 5% hộ dân theo nghề sinh vật cảnh. Hai làng hiện nay đều chưa đảm bảo số hộ tham gia làng nghề tối thiểu là 30%.

Những hộ theo nghề thì chưa quan tâm chú trọng vào việc đưa du lịch vào kết hợp với phát triển làng nghề nên chưa mang lại hiệu quả kinh tế.

2.2.3. Công nghiệp – Dịch vụ Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

  • Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng

Giá trị sản xuất CN – TTCN – XD giảm nhưng không đáng kể. Tỷ trọng ngành  CN – TTCN – XD năm 2017 đóng góp 30,63% thu nhập trên địa bàn. Các ngành nghề chủ yếu: Nghề trồng cây cảnh, xây dựng, gò hàn, xay xát, chế biến thực phẩm….

  • Thương mại, dịch vụ, du lịch

Thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế địa phương. Năm 2017 tỷ trọng ngành thương mại dịch vụ là 47,5%.

Thu nhập ngành thương mại dịch vụ đạt 38 tỷ đồng.

Năm 2020, Hồng Vân đã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí NTM, được UBND Thành phố Hà Nội công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2017-2021.

2.3. Hoạt động Du lịch tại địa phương

2.3.1. Mô hình Nông trại giáo dục

Hợp tác xã (HTX) Sản xuất, kinh doanh hoa cây cảnh và dịch vụ Anh Tùng, cho biết, HTX thành lập năm 2021, chuyên nghề sản xuất hoa cây cảnh, du lịch học đường và liên kết chuỗi du lịch với các địa phương trong vùng. Hiện, trang trại của ông có hàng ngàn cây cảnh, cây uốn thế nghệ thuật; các mặt hàng hoa tươi nhiều chủng loại như: hồng, lan, huệ, quỳnh; cây cảnh thế cũng đủ loại: tùng, cúc, trúc, mai…và hàng ngàn giò phong lan rừng.

Ngoài ra, còn có nhiều cây trồng, vật nuôi: bò, lợn, dê, thỏ; gà vịt, ngan ngỗng… để phục vụ học sinh các lứa tuổi từ mẫu giáo đến đại học. Nhất là học sinh, sinh viên các trường đại học; đặc biệt là sinh viên ngành du lịch năm thứ 2, 3 đến để trải nghiệm thực tế. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Mục tiêu của nông trại là đón tiếp tất cả các loại đối tượng đến tham quan, học tập. Sau gần 4 năm hoạt động đã có rất nhiều đoàn khách đến với nông trại. Thời gian hoạt động hầu như diễn ra quanh năm, từ tháng 9 dương lịch đến Tết Nguyên đán, sau Tết lại bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, và vòng quay lặp lại từ đầu.

Được biết, khách đến với trang trại nhiều nhất là lứa tuổi mẫu giáo, mỗi ngày có tới 5 – 10 lớp, mỗi lớp 20 – 30 học sinh. Tại đây các cháu được tìm hiểu về công việc của nhà nông, tận mắt nhìn thấy những loài vật quen thuộc như bò, lợn, dê, thỏ;  gà, vịt, ngan ngỗng; các loài hoa, cây cảnh. Tham quan cánh đồng lúa, khu sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn trái; sản xuất nông nghiệp sạch; trải nghiệm kỹ năng sống, kỹ năng sinh tồn; kỷ luật quân đội; kỹ năng phòng cháy; kỹ năng thuyết trình trước đám đông.

Ngoài ra, các con còn được tập bơi, học nấu ăn…, các tiết dạy kỹ năng thường diễn ra từ 15 – 20 phút; 1 buổi tham quan như vậy học sinh phải trải qua 20 mô hình. Đặc biệt, nông trại còn phục vụ ăn, uống và nghỉ trưa, thức ăn là các sản phẩm sạch của nông trại: gà, cá, vịt, trứng, thịt lợn sạch. Theo đó, các suất ăn có giá từ  50.000 – 60.000, hoặc 100.000 – 150.000 đồng/suất (hiện mỗi ngày có 30 – 50 suất ăn trưa).

Ngoài các đoàn khách lứa tuổi thần tiên, còn có nhiều học sinh phổ thông, sinh viên năm thứ 2, 3 các trường đại học; cao đẳng sư phạm; mầm non, thường xuyên ghé thăm nông trại. Khách nước ngoài 5-7 tốp/tuần, mỗi đoàn thường có 5 15 người (có phiên dịch đi theo). Vé vào cửa 30.000 – 40.000 đồng/người; khách nước ngoài đang trong quá trình quảng bá nên chưa thu phí (dự kiến sẽ thu 5 – 10USD/người, năm 2024 sẽ tiến hành thu phí).

Theo đó, khách được ở trong nông trại cả ngày, có chỗ nghỉ trưa thoáng đãng, sạch đẹp. Sinh viên ngành du lịch được hỗ trợ vé vào cửa và phí tham quan học tập. Mùa hè, có dạy bơi cho học sinh các lứa tuổi, học theo khóa (15 – 20 ngày/khóa), hiện đã dạy được 2 khóa.

Ngoài sự nỗ lực của nông trại, toàn xã Hồng Vân đang phát triển theo hướng, lấy kinh tế du lịch làm mũi nhọn. Tất cả các ngành từ sản xuất nông nghiệp đến văn hóa xã hội; an ninh trật tự, giáo dục, y tế đều có mục tiêu hoạt động nhằm đến đích phát triển du lịch theo hướng bền vững.

Hiện, tất cả tuyến đường, ngõ xóm, cổng thôn, cổng gia đình trên địa bàn xã đều đã tiến hành trồng hoa, cây cảnh và di tu cảnh quan du lịch ở các khu vực công cộng. Đặc biệt, Hồng Vân đã duy trì ngày chủ nhật xanh, mỗi gia đình dành 1 buổi/ngày, dọn vệ sinh, chăm sóc hoa, cây cảnh. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Biểu 2.1. Lượng khách đến Nông trại giáo dục từ năm 2021-2024.

2.3.2. Mô hình HTX hoa, cây cảnh và dịch vụ Hồng Vân

Với mô hình HTX kiểu mới ở Hồng Vân là phát huy thế mạnh của từng hộ để tạo thành một chuỗi mắt xích. Trong HTX, mỗi hộ chịu trách nhiệm một khâu, hộ thì làm giống, hộ trồng nguyên liệu, hộ thu gom để sơ chế, hộ đâu tư công nghệ, máy móc đóng gói sản phẩm để bán ra thị trường.

Mô hình của HTX  là các  hộ xã viên vẫn sản xuất trên thế mạnh của gia đình nhưng được HTX hỗ trợ về kỹ thuật làm giống, kỹ thuật trồng, kỹ thuật sơ chế. Trong hợp tác xã không có yếu tố cạnh tranh nhau mà thúc đẩy nhau sản xuất vì mỗi hộ tham gia được giao thực hiện một khâu trong một chuỗi dây chuyền.

Một điểm mới khác của mô hình HTX hoa cây cảnh và dịch vụ Hồng Vân là các thành viên hỗ trợ  nhau rất hiệu quả, khi người này có khách hàng thì sẽ giới thiệu cho người kia, vì mỗi người đã được giao ở một khâu nhất định. Các hộ nông dân khi tham gia vào hợp tác xã phải sản xuất theo yêu cầu kỹ thuật. Các hộ phải làm theo quy trình. Nếu hộ làm khâu trước không đạt tiêu chuẩn, thì hộ ở khâu sau sẽ không nhập hàng. Như vậy các hộ đã tự kiểm soát để đảm bảo chất lượng của sản phẩm.

Đặc biệt là đối với hộ chịu trách nhiệm sản phẩm đầu ra cho HTX, khi nghiên cứu thị trường, thấy sản phẩm kinh doanh tốt sẽ thông tin lại cho hộ trong HTX để tăng diện tích trồng nguyên liệu. Với chuỗi mô hình như vậy, hiện nay HTX hoa cây cảnh và dịch vụ Hồng Vân đang áp dụng cho sản phẩm Trà Chùm ngây – Đây là một sản phẩm trà được đánh giá là giàu chất dinh dưỡng, thực sự tốt cho sức khỏe.

Ngoài ra, trong HTX còn có các mô hình: Chăn nuôi theo tiêu chuẩn Vietgap, hoa cây cảnh, rau an toàn. Các mô hình hoạt động hiệu quả dưới sự hỗ trợ của HTX trong xây dựng thương hiệu, lo các hành lang pháp lý về xây dựng chất lượng sản phẩm hợp quy với cơ quan chức năng, hỗ trợ kỹ thuật cho các thành viên, lên kế hoạch sản xuất hoa, cây cảnh cho các thành viên để mỗi hộ sản xuất một loại theo năng lực sở trường.

Cùng với quy hoạch sản xuất hoa cây cảnh gắn với du lịch cộng đồng đã tạo một diện mạo xanh, sạch đẹp cho miền quê này. Sự hoạt động hiệu quả của HTX hoa cây cảnh và dịch vụ Hồng Vân đã cho thấy, nếu người nông dân biết cùng nhau liên kết, tập hợp nhau lại cùng tổ chức sản xuất, phân công lao động…thì ở đó sẽ có một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, chuyên canh bền vững, nông dân có thể làm giàu ngay trên mảnh đất của mình./.

Biểu 2.2. Thu nhập bình quân đầu người/ năm của các hộ dân trong HTX

2.3.3. Mô hình rau sạch Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Hiện nay, mô hình trồng rau hữu cơ đã và đang phát triển với tổng diện tích trên  1.5ha. Sản phẩm được tiêu thụ trong hệ thống cửa hàng thực phẩm sạch của HTX. Diện tích trồng chùm ngây là 7ha, mỗi ngày HTX chế biến từ 1 – 1,5 tấn nguyên liệu tươi, đảm bảo cho 18 lao động làm việc thường xuyên với mức lương từ 3 – 4 triệu đồng/người/tháng. HTX đã xây dựng được mô hình khép kín, từ việc tự trồng nguyên liệu đến sản xuất, chế biến và tìm đầu ra cho sản phẩm cây chùm ngây. Trà chùm ngây và các sản phẩm từ cây chùm ngây của HTX Hồng Vân đã có mặt ở hầu khắp thị trường các tỉnh, thành cả nước.

Phỏng vấn chị Nguyễn Thị Thanh Loan, thành viên HTX Hồng Vân, chị chia sẻ: hơn 2 năm nay gia đình chị đã tham gia mô hình HTX kiểu mới, sau khi tham gia vào HTX gia đình chị đã trồng cây chùm ngây rộng hơn 2ha (làm nguyên liệu cho trà chùm ngây, là một sản phẩm nông nghiệp sạch đặc trưng của xã). Trồng cây chùm ngây đem lại hiệu quả cao, trừ chi phí chăm sóc, cây giống mỗi năm gia đình chị thu lãi 15-20 triệu đồng, gấp 3-4 lần so với trồng lúa và ngô trước đây, cây chùm ngây đặc tính là dễ trồng và dễ chăm sóc, ngoài công việc chăm sóc cây chùm ngây thì chị vẫn có thể cấy lúa, trồng ngô, làm thêm nhiều việc khác để có thêm thu nhập.

2.3.4. Mô hình ẩm thực đồng quê

Mô hình ẩm thực đồng quê với diện tích gần 1ha, được chia làm 4 khu: khu nhà ăn trong phòng, khu nhà ăn lá cọ, khu đón tiếp khách và khu nhà bếp.

Mô hình ẩm thực đồng quê với sức chứa trên 100 người, phục vụ khách du lịch các món ăn từ những sản vật có sẵn tại địa phương, chế biến đậm đà hương vị quê hương.

2.3.5. Làng nghề sinh vật cảnh Xâm Xuyên, Cơ Giáo

Hiện nay xã có 2 thôn là Xâm Xuyên và Cơ Giáo đã được Thành phố công nhận làng nghề sinh vật cảnh truyền thống. Với 130 hộ tham gia, diện tích trồng hoa cây cảnh của xã chiếm 50% diện tích đất nông nghiệp, thu nhập từ hoa, cây cảnh cao gấp hàng chục lần cấy lúa, với mức bình quân từ 300 – 400 triệu đồng/hộ/năm. Đường làng, ngõ xóm được bê tông hóa khang trang, 7 tuyến đường lớn trong xã được trồng các loại hoa ban, phượng, hoa sữa, hoàng yến… tạo cảnh quan sinh thái thu hút khách du lịch. Với mô hình nông trại giáo dục của anh Phạm Văn Quỳnh (thôn Xâm Xuyên), hiện nay, những ngày cao điểm, xã đón hàng chục lượt xe chở khách đến tham quan và trải nghiệm thực tế tại địa phương.

Các mô hình vừa áp dụng sản xuất vừa khai thác du lịch đã tạo ra rất nhiều điểm mới và để lại ấn tượng cho khách du lịch trải nghiệm khi đến Hồng Vân.

Chia sẻ với anh Nguyễn Văn Chí, chủ nhà vườn Đức Chí cho hay: với phương thức hoạt động mới của các mô hình trong xã, nhà nhà thi đua làm đẹp vườn, đẹp khuôn viên gia đình, cho ra đời nhiều loại hoa, cây cảnh mới, giữ gìn đường làng ngõ xóm sạch đẹp. Nhờ đó du lịch làng nghề ở xã Hồng Vân đã có bước chuyển mới về chất lượng và dịch vụ, khách đến đây được tham quan, mua sắm nhiều sản phẩm làng nghề thú vị. Từ chỗ chỉ vài trăm khách về thăm làng nghề mỗi tháng, thì giờ vào tháng cao điểm, xã đã đón vài ngàn du khách. Trước khi có du lịch, chủ yếu anh phải đi khắp cả nước để tìm hiểu, học hỏi giúp phát triển cho những nghệ nhân cây cảnh, nhưng sau khi được UBND xã cho tập huấn về cách làm du lịch, anh đã về cải tạo lại chính khu vườn của mình, trang trí, sắp xếp lại khu vườn để có những dịch vụ tốt nhất cho khách du lịch trải nghiệm. Hiện nay nhà vườn của anh Chí là một trong những nhà vườn đẹp nhất tại xã Hồng Vân.

2.3.6. Mô hình cây xanh, đá mỹ nghệ Đức Giang Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Hiện nay với trên dưới 40 công nhân lành nghề, chuyên khai thác đá thô nguyên khối – tiền đề để chế tác thành những sản phẩm tinh túy. Nhằm kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Mô hình cây xanh, đá mỹ nghệ cao cấp Đức Giang đã cho ra đời những sản phẩm đá mỹ nghệ không chỉ phong phú về chủng loại và đa dạng về mẫu mã mà còn chứa đựng cả tâm đức, tâm hồn và tâm linh sâu sắc. Những sản phẩm gây được tiếng vang lớn trên thị trường phải kể đến: Từ các con giống bé đến lăng mộ, tượng đài, bể cảnh, chậu cảnh… Ngoài ra, còn nhận tư vấn và thiết kế các công trình về đá tự nhiên cho những khách hàng có nhu cầu. Dấu ấn của đá mỹ nghệ Đức Giang có mặt ở các công trình, hạng mục cấp quốc gia…, vươn xa ra thế giới, chiếm trọn lòng tin, phù hợp với thị hiếu của khách hàng.

Khách du lịch đến với đồ đá mỹ nghệ Đức Giang sẽ được ngắm nhìn các nghệ nhân chế tác đá chuyên nghiệp chế tác những tác phẩm tinh xảo từ những phiến đá nguyên khối, ngoài ra khách du lịch sẽ được chụp ảnh và mua những sản phẩm lưu niệm tại đây với giá thành rất phải chăng.

2.3.7. Hoạt động khai thác tài nguyên du lịch nhân văn

2.3.7.1. Đền thờ Mẫu thoải – Mẫu địa

Đền Xâm Thị nằm ở thôn Xâm Thị, xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, Hà Nội. Đền Xâm Thị thờ Mẫu Thoải và Mẫu Địa.

Lịch sử và kiến trúc Đền Xâm Thị Đền Xâm Thị đã có từ lâu đời, theo tương truyền có từ thời Vua Trần Nhân Tông.

Ngôi đền trước đây chỉ là một ngôi đền nhỏ có một gian tường gạch lợp lá. Đền chỉ có một ban thờ Mẫu Thoải. Hiện pho tượng Mẫu Thoải đặt tại cung cấm ngày nay chính là pho tượng cổ này. Ngoài ra, đền chỉ có một ban thờ 5 ngai của Ngũ Vị Tôn Quan. Như vậy, trước đây ngôi đền chỉ thờ riêng có Mẫu Thoải. Sau này, do một cơ duyên mà đền đã thờ thêm Mẫu Địa. Cung thờ Mẫu Địa mới được xây dựng cách đây khoảng gần ba chục năm. Ban đầu Mẫu Địa được xây dựng chỉ là một am nhỏ, gần đây được trùng tu thành một gian thờ lớn. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Đền đã có nhiều lần trung tu, tu bổ và đợt trùng tu lớn nhất vào năm 2019 bằng kinh phí của các con nhang, đệ tử, khách thập phương cung tiến. So với trước đây, ngôi đền đã khang trang, tố hảo lên rất nhiều. Đền ngày nay đã được phối thờ thêm các vị thánh khác trong Tứ Phủ.

Không gian kiến trúc tâm linh Đền Xâm Thị Đền Xâm Thị nằm sát bờ sông Hồng và nằm sát chân đê. Từ trên đường đê chúng ta có thể nhìn thấy Tam Quan và mặt lưng của ngôi đền. Phía trước ngôi đền là dòng sông hồng nặng trĩu phù sa.

Nằm sát Tam Quan, phía trong đền là một cây đa có hàng trăm tuổi rủ bóng mát cho ngôi đền tạo nên một khung cảnh tâm linh huyền bí. Qua cửa Tam Quan chúng ta sẽ nhìn thấy dòng sông Hồng thơ mộng, hiền hòa. Kế bên tay phải là Ban Cô Chín, Ban Chúa Thác Bờ và gian đại bái thờ Mẫu Địa, rồi đến gian đền chính thờ Mẫu Thoải. Phía trước đền chính là Lầu Đại Bái nằm dưới gốc cây si cổ thụ xanh rì. Dưới tán si là Ban thờ Cô Bơ, Cậu Bơ. Tất cả tạo nên một không gian thơ mộng, sơn thủy hữu tình.

Đền Xâm Thị có hai nhà Đại Bái. Nhà Đại Bái lớn thờ Mẫu Thoải, nhà đại bái nhỏ nằm ở bên cạnh là nơi thờ Mẫu Địa.

Nhà Đại Bái thờ Mẫu Thoải gồm tiền cung, trung cung và hậu cung. Chính giữa tiền cung là Ban Công Đồng, bên phải là Ban Trần Triều, bên trái là Cung Sơn Trang. Trung cung gồm có: Chính giữa thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ Chầu Bà, bên phải là Ban Chầu Đệ Tam, bên trái là Ban Chầu Đệ Nhị. Hậu cung thờ tượng Mẫu Thoải. Đây chính là ngôi tượng cổ từ xa xưa. Nghe nói, có nhiều lần nhà đền xin tô sửa lại nhưng đều không được.

Trong không gian khuôn viên đền có các ban thờ: Lầu Chúa Thác Bờ, Lầu Cô Chín, Lầu Cô Bơ Thoải và Cô Bé, Lầu Cậu Bơ Thoải và Cậu Bé.

  • Thần tích về Mẫu Thoải tại Đền Xâm Thị

Căn cứ theo tài liệu của nhà đền đã được các cơ quan văn hóa nghiên cứu và ghi chép thì tóm tắt thần tích về Đền Xâm Thị và cũng chính là thần tích về Mẫu Thoải ở Đền Dầm cách đó hơn 2 km.

Vào thời kỳ sơ khai mở nước Văn Lang ta, trên thiên đình có nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu thượng đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Thủy Quốc Động Đình Long Vương, sau gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên. Vợ lẽ của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn đem lòng ghen ghét, giả làm một bức thư, tố cáo Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đầy nàng xuống trần thế, 10 năm sống ở núi Ngọc Hồ Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú, sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một hôm thấy gió lướt mặt hồ, mây đùn lưng núi, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ, lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm một bài thơ rằng:

  • “Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu
  • Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà
  • Tiêu dao trần thế bao ngày tháng
  • Cố hương thủy quốc biết nao về.”

Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây, tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh.

Lại nói thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp, huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một hôm Nghị cùng 1 vài tên ra đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn ra đồng đi theo rằng: “Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy.” Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng: Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại.

Nhân đó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa lệ thưa rằng:”

Thiếp vốn là con gái Động Đìng Quân là vợ của Kinh Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp ngưởi tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa.

Liễu Nghị lại hỏi:

Dương gian thủy quốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được? Nàng nói :

Thiếp có một cây kim thoa trao cho ngài, cảm phiền đi đến bờ biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì cầm cây Trâm gõ vào ba tiếng tất thảy thủy cung sẽ đều nghe biết.

Nói xong nàng đứa một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thứ và cây Trâm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt người đẹp Liễu Nghị gắng sức lên đường, qua bẩy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải (nay là cửa Diêm Hộ huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình) bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn, tay cầm kim thoa gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư cùng trâm vàng dâng lên. Long Vương xem xong thư bèn truyền rắn trắng đưa Liễu Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền sai con trai là Xích Lân và quân thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chú về thủy quốc.

Ngày mùng 9 tháng Giêng vua Long Vương gả công chúa cho Liễu Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tể quận công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai về Ngọc Hồ Kim Quy.

Lại nói từ khi công chúa về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt – Thái Bình đều mắc bệnh dịch. Dân chúng cùng quan lại bèn lập đàn cầu nguyện và dâng biểu lên Thượng đế. Tại vùng đền Xâm Thị ngày nay, vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chó sủa liên hồi và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :

Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp.

Sau được bình yên lên dựng miếu thờ viết thần vị thì ắt được nhân khang vật thịnh.

Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Dần làng bèn cùng nhau xây dựng ngôi miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt.

  • Thánh tích Đền Xâm Thị Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Thánh tích đền Xâm Thị về sự hiển linh của mẫu Thoải giúp vua Trần Nhân Tông cũng tương tự như đền Dầm:

Vào thời Trần Nhân Tông giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta, đức Vua mới ban búa Việt Cờ Mao cho Hưng Đạo Đại Vương tiết chết thủy lục chư binh chống giặc. Một lần, Hưng Đạo Đại Vương kéo quân qua Xâm Thị trời đà xẩm tối bèn cho quân sỹ thuyền bè neo đậu lại bên sông nghỉ lại.

Đương đêm bỗng thấy sóng nổi cát bay mây trời vần vũ, một chốc bống thấy mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Vương cả kinh nhưng tiên nữ bèn nói:

Ta phụng mệnh thượng đế hộ quốc an dân, nay Quốc Công Tiết Chế hành quân qua đây xin âm phù giết giặc.

Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Dương thì bỗng dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số.

Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ Đầu….Đều có Thánh Mẫu  linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng.

Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Thị. Triều đình luận công Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Thị tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong cho Thánh Mẫu.

  • Vị trí Đền Xâm Thị trong việc thờ Mẫu Thoải

Tại vùng Xâm Dương và Xâm Thị, hai địa danh chỉ cách nhau 2 km có chung một thần tích về Mẫu Thoải và thánh tích của Mẫu Thoải giúp vua Trần đánh giặc. Ngôi đền cũng được các triều đình ban nhiều mỹ tự và sắc phong. Sắc phong sớm nhất là từ 1633 và muộn nhất là 1924. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Như vậy, có thể coi Đền Xâm Dương và Xâm Thị là hai ngôi đền gắn liền với thánh tích Mẫu Thoải tại vùng Thường Tín. Chính thế, khó có thể nói đền nào là thờ chính và đền nào là thờ vọng ở nơi này.

Mẫu Thoải được phát tích tại vùng Tuyên Quang còn vùng Xâm Dương, Xâm Thị là nơi Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Trần đánh giặc. Vì vậy, có thể coi Đền Xâm Thị là một trong hai đền chính thờ Mẫu Thoải tại vùng đất linh thiêng này.

Khắp cả nước cùng còn một số đền thờ vọng khác. Nổi bật là đền Mẫu Thoải Hàn Sơn gắn liền với tích Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Lê Lợi đánh giặc. Tại Hà Nội cũng có một ngôi đền nổi tiếng thờ Mẫu Thoải đó là Đền Ghềnh. Tuy nhiên, Mẫu Thoải tại đền Ghềnh được coi là sự ẩn mình của Công Chúa Lê Ngọc Hân – vợ vua Chiêm Thành. Tại Lạng Sơn có ngôi đền thờ Mẫu Thoải ngay trong thành phố… Ngoài ra, Mẫu Thoải luôn được thờ trong Cung Tam Tòa Thánh Mẫu tại các đền phủ thờ Tứ Phủ.

Biều 2.3. Lượng khách đến đền Mẫu – Xâm Thị năm 2025

2.3.7.2. Nhà thờ giáo xứ Cẩm Cơ

Giáo xứ Cẩm Cơ về địa dư hành chính thuộc thôn Cơ Giáo, xã Hồng Vân, huyện Thường Tín – Hà Nội. Trong Giáo phận, xứ Cẩm Cơ thuộc hạt Phú Xuyên, Tổng Giáo Phận Hà Nội. Xứ Cẩm Cơ đã thành lập từ lâu gồm họ nhà xứ Cẩm Cơ và bốn họ lẻ : Tự Nhiên, Vĩnh Lộc, Phú Mỹ và Nội Thôn, với số giáo dân 1.326 người. Người dân nơi đây sống tập trung chủ yếu bằng nghề nông. Từ xa xưa, cộng đoàn tín hữu đã dựng một ngôi nhà thờ bằng tre, lợp bằng lá để làm nơi thờ phượng và sinh hoạt.

Năm 1927, ngôi nhà thờ được xây bằng gạch, lợp ngói có tổng diện tích : 192m2, trong đó chiều dài 24m, chiều rộng 8m, và ngọn tháp cao 17m. Trải qua thời gian, nhà thờ đã bị xuống cấp trầm trọng, đặc biệt qua hai cuộc chiến tranh Mỹ và Pháp; như bom đánh gần của Mỹ và đạn Móc Trê của Pháp làm rạn nứt và hư hỏng nhiều phần ngôi thánh đường. Cũng trải qua dòng thời gian, Giáo phận, giáo xứ và cộng đoàn giáo dân trong xứ cũng đã trùng tu sửa chữa, nhưng vẫn không bảo đảm an toàn cho các buổi cử hành phụng vụ.

Xét thấy tình hình thực tế là cần thiết, cũng như đáp ứng lại nguyện vọng của giáo dân về xây dựng ngôi thánh đường mới, cùng với sự đồng ý của bề trên giáo phận cũng như thủ tục cấp phép giấy tờ xã hội đã đầy đủ.

Vào ngày 17 tháng 04 năm 2018, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm Cha An-tôn Trần Quang Tiến Giám Đốc Trung Tâm Hành Hương Đền Thánh Lê Tùy quản nhiệm thêm Giáo xứ Cẩm cơ. Sau một tháng tiếp xúc và lắng nghe những nguyện vọng của bà con giáo dân, Cha An-tôn đã bàn bạc với Ban Hành Giáo, và Ban Kiến Thiết xúc tiến việc xây dựng nhà thờ mới.

Ngày 13 tháng 05 năm 2018, nhằm ngày lễ Đức Mẹ Fa-ti-ma, Cha An-tôn đã chủ sự Thánh lễ cầu Bình An cho việc Khởi công Đào móng xây dựng nhà thờ mới. Ngôi nhà thờ mới có diện tích 458,4m2; trong đó hai tháp cao 28,3m, chiều dài 38,2m, chiều rộng 12m. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Việc xây dựng nhà Chúa là một quá trình dài, tốn rất nhiều công sức tiền của. Vì vậy, xin anh chị em Cẩm Cơ đang sống tại quê hương cũng như anh chị em xa quê, và cộng đoàn dân Chúa trong và ngoài giáo phận hãy không ngừng cầu nguyện và giúp đỡ vật chất, để ngôi thánh đường xứ Cẩm Cơ sớm được hoàn thành.

2.3.7.3. Khu tâm linh khác

  • Thanh Vân Tự

Từ xa xưa tên chùa có tên là chùa Làng Thượng được đặt theo tên làng là Vân La Thượng. Làng là một dòng chảy từ đệ Tam xưa phía Bắc chùa chạy dọc đê cho đến Chương Dương, chùa được xây dựng từ đầu làng nên tên làng có chữ Thượng tức là đầu nguồn.

Chữ Vân La có ý nghĩa nhân văn (một đám mây che hoặc gọi là vân mây). Vân La còn có từ xa xưa còn có tổng Vân La gồm có nhiều làng như Vân La Thượng, Vân La Thị, Vân La Nội.

Theo Đại Nam nhất thống trí, đất này cũng như phủ Thường Tín nói chung, từ đời giáp nguyên thuộc quận Giao Chỉ, từ thời Trần thuộc châu Thượng Phúc. Thời thuộc Minh là châu Phúc Yên cho đến đời Lê Quang Thuận mới đổi tên thành đất Thường Tín nam sơn thượng Hà Nội.

Chúng tôi lưu ý đến ngôi chùa Vân La Thượng là pho tượng A di đà, không phải ở phong cách mà ở quy mô. Phật A di đà là một vị Phật ngự trị ở cõi tây phương cực lạc, đi theo Đức Phật còn có Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát tiếp dẫn chúng sinh. Còn ý nghĩa thực tiễn của Phật Giáo Việt Nam trong lịch sử, ý kến của nhà nghiên cứu Mỹ thuật Trần Lâm Điền, khi khảo sát cách bài trí tượng Phật thờ trong các ngôi chùa cổ ở miền Bắc Việt Nam dưới triều nhà Lý phật điện chính là một tòa nhà nằm trong tổng thể kiến trúc trong đó bằng những di vật để lại cho chúng ta biết rằng ý kiến của cố giáo sư Trần Lâm Điền.

Cách bài trí tượng trong các ngôi chùa của miền Bắc Việt Nam, phật điện chính là ngôi tháp hay tòa nhà nằm ở trung tâm của quần thể kiến trúc, tượng thờ không nhiều, thông thường chỉ có một pho tượng chính được làm to hơn cả đặt trên một bệ. Bệ tượng lớn nằm riêng một không gian với bộ ba tượng A di đà, Quan thế âm bồ tát, Đại thế trí bồ tát là được xây dựng từ thời nhà Lý. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Tượng thờ trong Phật điện không nhiều, thông thường một pho tượng chính làm to hơn cả đặt trên một bệ tượng riêng như chùa một cột – chùa Long Đọi, chỉ thờ Quan thế âm Bồ tát, chính xuất phát từ lịch sử Phật giáo Việt Nam, và khi xem xết cụ thể tượng phát ở chùa La Thượng, mà chúng tôi cho rằng, chùa La Thượng với dấu tích bệ tượng lớn và bộ ba tượng A di đà, Quan thế âm Bồ tát, Đại thế chí Bồ tát là được xây dựng dựng thì thời nhà Lý.

  • Đất này tổng Vân La nói riêng và phủ Thường Tín nói chung

Theo Đại Nam nhất thống trí, từ đời Hán Nguyên là quận giao chỉ từ thời về trước thuộc châu Thượng Phúc, thời thuộc Minh Châu Phúc Yên, đến thòi Lê Quang Thuận mới đổi tên thành đất Thường Tín, thuộc trấn Sơn Nam Thượng, năm Cảnh Hưng thứ 2 thuộc lộ Sơn Nam. Đời Tây Sơn thuộc Nam Thượng, đến chiều Gia Long vẫn giữ như thế, năm Minh Trị 3 thuộc trấn Nam Sơn, năm Minh Trị 10 đổi là tỉnh Hà Nội.

Từ thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 tổng Vân La là một đơn vị hành chính của nước đương thời, cho đến năm 1947 tổng Vân La không còn nữa , 2 tổng Vân La và tổng Xâm hợp lại thành xã Hồng Vân – huyện Thường Tín (như ngày nay).

Tên gọi địa danh di tích đều gắn bó với nhau từ dấu tích, văn bia, sắc phong, truyền thuyết và huyền thoại đến nay được gọi là làng Vân La Thượng.

  • Chùa làng là chùa làng Thượng

Nói về chữ Vân La trong tổng Vân La: chữ Vân La theo Hán tự là Võng Mây, đây chắc chắn là một vị cao minh Nho Giáo. Lúc đầu theo truyền thuyết kể lại trên đền ảnh lúc đầu thờ Thành Hoàng chỉ có một bát phù hương ngoài trời.

  • Võng mây còn là huyền thoại, một truyền thuyết văn hóa và lịch sử.

Nói về hai chữ làng Thượng. Còn dấu tích khu Đệ Tam là một giếng nước, khi có lũ về chẩy qua chùa làng Thượng và cũng qua nền ảnh thờ Thành Hoàng và chảy dọc đến Chương Dương rồi lại chảy ra Cổng Cái. Chứng tỏ ngôi chùa làng Thượng và Đình làng thượng nằm trên đầu con sông nên gọi đó là làng Thượng. Nên các vị cao minh nho giáo đặt tên làng theo dấu tích này.

2.3.8. Hiệu quả kinh tế đạt được từ các hoạt động du lịch Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Sản xuất nông cơ bản từ bỏ quảng canh, đi vào thâm canh, coi trọng hiệu quả kinh tế/đơn vị diện tích. Đã có những chính sách hợp lý để khuyến khích việc khai hoang cải tạo đất chưa sử dụng để mở rộng diện tích đất sản xuất công nghiệp – dịch vụ; bảo vệ và phát triển việc trồng cây xanh tạo cảnh quan và cải thiện môi trường sinh thái.

Thực hiện giao đất sản xuất nông nghiệp ổn định cùng với các chính sách đẩy mạnh sản xuất hàng hoá đã làm cho nông dân năng động hơn, bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển nhiều vườn cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tăng đáng kể, đưa sản lượng lương thực có hạt bình quân mỗi năm tăng 6.000 – 7.000 tấn, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu lương thực tại chỗ cho nhân dân.

Việc bố trí quỹ đất đáp ứng nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, chỉnh trang và xây dựng mới các khu dân cư đô thị, nông thôn, quản lý chặt chẽ việc chuyển đất sản xuất nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp… đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 10 – 12%/năm.

Trong lĩnh vực nông nghiệp: Đã cơ bản ổn định việc sử dụng đất cho nông hộ. Sản xuất nông nghiệp đang dần đi vào chiều sâu thông qua các giải pháp tích cực để tăng vụ sản xuất, tăng lượng nông sản hàng hoá phục vụ xuất khẩu. Cải tạo triệt để đất chưa sử dụng để làm tăng hiệu quả sử dụng đất, tạo nguồn bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp bị chu chuyển trong kỳ.

Trong lĩnh vực phi nông nghiệp: Đất phi nông nghiệp chiếm chỉ 8,26% diện tích tự nhiên nhưng giá trị sản xuất chiếm đến gần 80% trong cơ cấu kinh tế cho thấy tỉnh đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy quỹ đất phi nông nghiệp tăng chậm nhưng trong lĩnh vực công nghiệp đã hình thành các khu công nghiệp quy mô vừa và nhỏ (tổng cộng gần 200 ha), phát triển quỹ đất để đầu tư các mô hình và phát triển du lịch, do vậy tốc độ tăng trưởng các khu vực công nghiệp luôn ở mức trên 30% và thương mại dịch vụ luôn đạt trên 45% trong suốt giai đoạn qua; Cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông từng bước được sửa chữa, nâng cấp và mở mới qua các năm.

2.4. Các yếu tố tác động đến hoạt động du lịch làng nghề tại xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, Hà Nội Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

2.4.1. Quản lý và quy hoạch

Hệ thống lưu trú – Có 3 hình thức lưu trú chính tại địa phương:

Các nhà vườn, xây dựng kiến trúc nhà lá, nhà cổ của người Việt để du khách có thể cảm nhận, trải nghiệm những nét kiến trúc cổ xưa.

Homestay: Giai đoạn từ 2020 – 2025 cơ bản cơ sở vật chất của nhà dân tại địa phương đạt tiêu chuẩn làm cơ sở lưu trú cho khách du lịch.

Nhà nghỉ, khách sạn: Giai đoạn từ 2020 – 2025 triển khai các dự án đầu tư xây dựng Khách sạn, nhà hàng…. Năng lực phục vụ được xác định trên cơ sở phân loại số sao tại 3 khu vực chính: đường 427, ngã tư Xâm Xuyên và khu trung tâm xã.

Hệ thống các cơ sở thương mại – dịch vụ: Giai đoạn từ 2020 – 2025 Hồng Vân cần tập trung đầu tư nâng cấp và từng bước xây dựng hệ thống các cơ sở vật chất phục vụ mục đích du lịch và thương mại như: Chợ các loại; Công trình phục vụ hội chợ triển lãm v.v…

Xây dựng hệ thống chuẩn cung cấp các dịch vụ thương mại đồng bộ phục vụ cho khách du lịch và người dân bản địa như: Dịch vụ bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ quy đổi tiền tệ, dịch vụ giao nhận vận tải v.v…

Đầu tư xây dựng trung tâm điều hành, hướng dẫn du lịch tại Hồng Vân

Đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử – văn hoá trong huyện tạo thêm nhiều điểm tham quan cho khách du lịch. Duy trì, bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể.

Đầu tư chỉnh trang một số bản văn hoá dân tộc điển hình thu hút khách du lịch bằng các sản phẩm du lịch văn hoá đặc thù.

Giai đoạn từ 2020 – 2025 cần quan tâm đầu tư xây dựng các trung tâm hội nghị hội thảo, trung tâm triển lãm hội chợ có quy mô lớn và hiện đại mang tầm cỡ đủ khả năng tổ chức các sự kiện chính trị, văn hoá, kinh tế – xã hội trọng đại.

Đầu tư xây dựng hệ thống bến xe, bãi đỗ xe tĩnh tại khu vực trung tâm du lịch chính và các trung tâm du lịch phụ trợ. Đầu tư hệ thống bến bãi đỗ xe tại các điểm du lịch, đáp ứng công suất phục vụ từ 200 – 500 khách/ ngày, đêm.

Xây dựng quy chế quản lý và phân loại chất thải trong các vùng du lịch, xây dựng hệ thống thu gom rác thải, đặt các hệ thống thùng rác công cộng trên các trục đường của xã.

2.4.2. Nguồn nhân lực, chuyên môn nghiệp vụ Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Để phát triển du lịch tại một địa phương thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Họ bao gồm điều hành viên, hướng dẫn viên, tài xế, nhân viên phục vụ và người dân địa phương. Ngoài số lượng đảm bảo đủ phục vụ thì năng lực chuyên môn lại vô cùng quan trọng. Sự chuyên nghiệp không phải thể hiện qua tài nguyên mà nó được thể hiện qua chính nhân sự hoạt động phục vụ du lịch. Đây chính là khó khăn lớn thứ hai sau khó khăn về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật.

Hiện nay xã Hồng Vân, chưa có hướng dẫn viên điểm được đào tạo chuyên môn để đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu sâu và kĩ lưỡng của du khách. Đội ngũ nhân viên chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ chính quy. Phần lớn đội ngũ nhân viên hiện nay là con em của các chủ mô hình, nhà vườn. Họ chưa được đào tạo bài bản, chỉ được tập huấn sơ sài, nên độ chuyên nghiệp trong phục vụ là chưa cao.

Để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và thu hút khách du lịch thì yếu tố đào tạo nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng.

2.4.3. Cơ sở vật chất hạ tầng

2.4.3.1. Hệ thống giao thông

Các tuyến đường giao thông tới xã Hồng Vân rất thuận tiện cho việc đi lại của khách du lịch. Nằm phía Đông huyện Thường Tín; Có tuyến TL 427 kết nối xã với TTr. Thường Tín và TP. Hà Nội; Có tuyến đường Đê (H.Lộ 6) kết nối huyện Thanh Trì phía Bắc và Ninh Bình phía Nam. Đầu mối vận tải hàng hóa quan trọng (cảng Hồng Vân; Bến xe tải chuyên chở hàng hóa 4ha).… Với vị trí địa lý và giao thông thuận tiện như vậy là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch đến với điểm du lịch Hồng Vân.

2.4.3.2. Thông tin liên lạc

Với hệ thống thông tin liên lạc rộng khắp địa bàn xã Hồng Vân là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Và cũng là điều kiện tốt cho người dân địa phương và khách du lịch tại đây. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

2.4.3.3. Hệ thống nước sinh hoạt

Hiện nay 100% hộ gia đình trên địa bàn xã Hồng Vân. Sử dụng nguồn nước sạch cho hoạt động sinh hoạt hàng ngày, trong đó có 60% sử dụng nguồn nước máy. Hệ thống nước máy tại xã đã góp phần rất lớn đảm bảo nhu cầu sử dụng nước sạch của nhân dân trong vùng, đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Hơn thế nữa, việc sử dụng nước đã qua sử lý còn liên quan trực tiếp đến tình trạng sức khỏe của khách trong thời gian lưu trú tại khu du lịch. Vì vậy đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.

2.4.3.4. Các công trình khác

Hiện nay trên địa bàn có đã có đầy đủ các công trình nhà văn hóa, trạm y tế…. phục vụ nhu cầu của nhân dân và du khách.

2.4.5. Hiện trạng môi trường

Xã Hồng Vân là nơi có môi trường trong sạch, Môi trường không khí thoáng đãng do nằm trong khu vực có nhiều cây xanh, hơn thế nữa nơi đây có hồ Hồng Vân với diện tích mặt nước rộng tạo được không khí trong lành quanh năm rất phù hợp cho việc phát triển DLST.

Các cấp chính quyền xã Hồng Vân sẽ có một số biện pháp xử lý rác thải: Có các thùng rác tại các điểm du lịch để du khách để rác, ngoài ra ở khu du lịch còn treo các biển nhắc nhở về việc bảo vệ môi trường của du khách. Điều này rất có ích trong việc bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường ở khu du lịch sinh thái Hồng Vân nói riêng.

Và đã có các biện pháp hữu hiệu hơn trong việc bảo vệ môi trường như: tằng cường các hoạt động tuyên truyền về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường của khách du lịch, đầu tư thêm các thùng rác nhỏ tại các điểm du lịch của xã, xây thêm một số nhà vệ sinh để phục vụ nhu cầu của du khách…Ngoài ra cần phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với khách du lịch khi không thực hiện đúng các biện pháp bảo vệ môi trường tại khu du lịch.

2.4.6. Chuỗi liên kết du lịch Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Tuyến 1: Nông trại giáo dục – Khu sản xuất chuyên canh rau mầu tập trung – Khu trung tâm văn hóa thể thao của xã – Cụm điểm các Trường học đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn (thời gian trải nghiệm trong ngày).

Tuyến 2: Làng nghề Sinh vật cảnh Cơ Giáo, Xâm Xuyên – Cơ sở sản xuất đồ đá mĩ nghệ – Điểm trưng bày đồ cổ – Thăm vườn cây ăn quả, Khu ẩm thực đồng quê – Sân vận động trung tâm, bể bơi và trải nghiệm chụp ảnh ở đầm sen và một số vườn hoa (1 ngày 1 đêm).

Tuyến 3: Cơ sở sản xuất trà Chùm ngây Hồng Vân và các sản phẩm thảo mộc – Mô hình nhân giống và bảo tồn các giống hoa Hồng quý – Nơi trưng bày và giới thiệu sản phẩm làng nghề – Bia Tiến sĩ Nguyễn Ý, Đình làng Vân La và chợ Mới ông già (trong ngày).

Tuyến 4: Hồng Vân và liên kết các điểm du lịch trong huyện:

Hồng Vân – Chùa Đậu Nguyễn Trãi – Làng thêu xã Quất Động, xã Thắng Lợi – Trung tâm chính trị, văn hoá huyện Thường Tín – Đền thờ Nguyễn Trãi và làng nghề tiện gỗ Nhị Khê – Tranh sơn mài Duyên Thái – Mây tre đan, Đền Lộ, Đền thờ Cha Thánh Tùy xã Ninh Sở –  Đền mẫu thoải, mẫu địa Xâm Thị – Đền thờ Chử Đồng Tử (1 ngày 1 đêm).

2.5. Đánh giá về các hoạt động du lịch tại địa phương

2.5.1. Thuận lợi

Tài nguyên và điểm thu hút du lịch:

Tài nguyên du lịch của xã Hồng Vân bao gồm: cảnh quan thiên nhiên, các loại cây cảnh, cây thuốc, hệ thống tâm linh, các mô hình nhà vườn… Các điểm hút khách du lịch của xã bao gồm:

  • Điểm tâm linh: Đền thờ Mẫu Thoải – Mẫu Địa
  • Điểm du lịch làng nghề: Làng nghề sinh vật cảnh Cơ Giáo, làng nghề sinh vật cảnh Xâm Xuyên.
  • Điểm du lịch trải nghiệm: Nông trại giáo dục, HTX
  • Điểm du lịch tham quan nông nghiệp: Các nhà vườn trồng rau, hoa….

Năng lực cộng đồng:

Phần lớn các hộ dân trong xã đều có quan hệ họ hàng với nhau. Tổ chức cộng đồng khá chặt chẽ. Người dân thân thiện và có kỹ năng giao tiếp tốt, có truyền thống ca hát, yêu văn nghệ, giỏi nấu ăn. Điều này rất thuận lợi cho phát triển du lịch.

Các hạn chế cơ bản của người dân là chưa có kinh nghiệm hoạt động kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là làm du lịch nên thiếu kinh nghiệm về tổ chức và hạch toán kinh doanh. Ý thức về điều kiện vệ sinh chung trong thôn bản còn hạn chế.

Tiềm năng thị trường: Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Hiện tại Hồng Vân cũng đã đón được những đợt khách nhất định (khoảng 50 nghìn lượt khách trên 1 năm).

2.5.2. Khó khăn

Mặc dù nguồn tài nguyên du lịch của nơi đây rất đa dạng, độc đáo và giữ một tiềm năng lớn so với các khu vực khác tuy nhiên ngành du lịch nơi đây vẫn gặp phải một số khó khăn sau:

Về cơ sở vật chất:

  • Các khu vui chơi giải trí phục vụ nhu cầu của du khách còn ít, chưa phát triển.
  • Hồ Hồng Vân cũng là một điểm hấp dẫn với hoạt động câu cá, thư giãn.

Nguồn nhân lực:

Chưa có hướng dẫn viên điểm được đào tạo chuyên môn để đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu sâu và kĩ lưỡng của du khách. Đây chính là khó khăn lớn thứ hai sau khó khăn về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật. Hai vấn đề này cần được đẩy mạnh quan tâm để có những giải pháp kịp thời nhằm khai thác để phát triển du lịch có hiệu quả.

 Về hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch:

Hoạt động này giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch. Bởi đây là một hoạt động Marketing rất hữu hiệu trong việc quảng bá, giới thiệu về một địa danh, một tài nguyên du lịch nào đó…Tuy nhiên tại khu du lịch Hồng Vân hoạt động này diễn ra quá ít dẫn đến việc rất ít du khách biết đến khu du lịch này.

Những khó khăn trên chính là những nguyên nhân khiến cho hoạt động du lịch chưa được khai thác tương ứng với tiềm năng du lịch của nó. Trước tình hình này, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền liên quan cần cần phải có những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi để khắc phục những vấn đề này.

2.5.3. Hướng phát triển Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

2.5.3.1. Các chiến lược marketing

Thị trường mục tiêu được coi như là một sản phẩm du lịch của quốc gia và được xác định thị trường như sau:

  • Khách quốc tế chủ yếu là châu Á và thị trường khách nội địa.
  • Thị trường các nhà đầu tư: các nhà đầu tư trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch cộng đồng, thể thao.
  • Chiến lược phát triển sản phẩm: Với thị trường xác định và có mục tiêu thì sản phẩm cần hướng tới là:
  • Phát triển du lịch sinh thái gắn với thiên nhiên, cộng đồng dân cư, nghỉ dưỡng hướng tới thị trường khách du lịch thông thường;
  • Du lịch văn hoá – tín ngưỡng, hướng đến nhu cầu giao lưu và tìm hiểu văn hoá địa phương.
  • Phát triển du lịch gắn với thương mại và nông nghiệp.
  • Du lịch tham quan nông nghiệp, mục tiêu hướng tới thị trương khách có nhu cầu giao lưu, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp.
  • Du lịch thương mại, hướng tới khách du lịch có nhu cầu trao đổi và hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
  • “Du lịch MICE, gắn với các sự kiện như hội nghị hội thảo, tập huấn, các hội chợ triển lãm và các sự kiện văn hoá xã hội khác.
  • (MICE – viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event)”.
  • Du lịch gắn với sự kiện: văn hoá, xã hội và thể dục thể thao…

2.5.3.2. Về tô chức không gian:

  • Phát triển cụm du lịch 

Cụm du lịch tại xã Hồng Vân

Đây là điểm du lịch trung tâm của huyện Thường Tín. Sản phẩm du lịch bao gồm: Du lịch sinh thái – làng nghề; Du lịch trải nghiệm; Du lịch hội nghị, hội thảo, hội chợ, tổ chức các sự kiện; Du lịch hợp tác thương mại; Du lịch tham quan nông nghiệp; Du lịch văn hoá – tín ngưỡng.

Cụm du lịch phía đông huyện Thường Tín

Bao gồm các xã: Tự Nhiên, Ninh Sở, Nguyễn Trãi, Quất Động, Duyên Thái, Nhị Khê, Thắng Lợi, Quán Gánh. Sản phẩm du lịch bao gồm: Du lịch văn hóa – tâm linh, du lịch trải nghiệm, du lịch thương mại.

  • Phát triển tuyến du lịch Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Tuyến 1: Nông trại giáo dục – Khu sản xuất chuyên canh rau mầu tập trung – Khu trung tâm văn hóa thể thao của xã – Cụm điểm các Trường học đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn (thời gian trải nghiệm trong ngày).

Tuyến 2: Làng nghề Sinh vật cảnh Cơ Giáo, Xâm Xuyên – Cơ sở sản xuất đồ đá mĩ nghệ – Điểm trưng bày đồ cổ – Thăm vườn cây ăn quả, Khu ẩm thực đồng quê – Sân vận động trung tâm, bể bơi và trải nghiệm chụp ảnh ở đầm sen và một số vườn hoa (1 ngày 1 đêm).

Tuyến 3: Cơ sở sản xuất trà Chùm ngây Hồng Vân và các sản phẩm thảo mộc – Mô hình nhân giống và bảo tồn các giống hoa Hồng quý – Nơi trưng bày và giới thiệu sản phẩm làng nghề – Bia Tiến sĩ Nguyễn Ý, Đình làng Vân La và chợ Mới ông già (trong ngày).

Tuyến 4: Hồng Vân và liên kết các điểm du lịch trong huyện:

Hồng Vân – Chùa Đậu Nguyễn Trãi – Làng thêu xã Quất Động, xã Thắng Lợi – Trung tâm chính trị, văn hoá huyện Thường Tín – Đền thờ Nguyễn Trãi và làng nghề tiện gỗ Nhị Khê – Tranh sơn mài Duyên Thái – Mây tre đan, Đền Lộ, Đền thờ Cha Thánh Tùy xã Ninh Sở –  Đền mẫu thoải, mẫu địa Xâm Thị – Đền thờ Chử Đồng Tử (1 ngày 1 đêm).

  • Phát triển điểm du lịch:

Nông trại giáo dục – HTX sản xuất Hoa cây cảnh và dịch vụ Tùng Anh

  • Điểm “Trồng, trưng bày, giới thiệu và bán các sản phẩm hoa, cây cảnh nghệ thuật”Mô hình của ông Nguyễn Văn Chí, Mai Văn Tám, Đỗ Đình Tuy.
  • Điểm “Trồng, bảo quản, tiêu thụ rau an toàn” – Mô hình của ông Ngô Đình Giang, Đỗ Bá Tuấn và vùng phụ cận.
  • Mô hình liên kết sản xuất trà trùm ngây và các loại sản phẩm thảo mộc khác từ nông nghiệp của HTX Hoa, cây cảnh và dịch vụ Hồng Vân.
  • Điểm “Nuôi trồng và giới thiệu các giống thuỷ sản, cá cảnh” – của Tổ hợp tác chăn nuôi thuỷ sản Hồng Vân.
  • Điểm “Trưng bày đồ đá, mỹ nghệ, các món đồ cổ” của ông Ngô Xuân Giang, Nguyễn Ngọc Tuấn.
  • Mô hình “Ẩm thực đồng quê” của bà Mai Thị Quý và vùng phụ cận.

Khuôn viên trạm ý tế cũ của xã (Giao HTX nông nghiệp tiếp quản, cải tạo, nâng cấp khi trạm y tế chuyển về vị trí mới làm nơi khai thác dịch vụ nông nghiệp và dịch vụ du lịch.

2.5.3.3. Tổ chức quản lý Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Thành lập Ban quản lý điểm du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Ngoài yếu tố tài nguyên, giá trị nổi trội của điểm thu hút du lịch, và thị trường, một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của du lịch là cơ chế tổ chức, quản lý để thúc đẩy phát triển sản phẩm, dịch vụ và chia sẻ lợi ích, trách nhiệm minh bạch và công bằng trong cộng đồng.

Du lịch sinh thái làng nghề đòi hỏi sự năng động và tích cực của cộng đồng, và sự tham gia tích cực của các bên có liên quan. Trong giai đoạn đầu, cần thiết phải xây dựng một cơ chế quản lý đơn giản để tiết kiệm chi phí và có thể ra quyết định nhanh mà vẫn đảm bảo sự chính xác. Điều này rất quan trọng bởi vì cộng đồng phải hợp tác với doanh nghiệp để đón khách vì thế cộng đồng phải có tổ chức và năng lực để phối hợp có hiệu quả.

Theo quy định của luật pháp Việt Nam, mô hình kinh doanh du lịch có thể áp dụng các hình thức như sau:

  1. Doanh nghiệp Kinh doanh theo hộ gia đình: Mô hình này được phát triển dựa trên luật doanh nghiệp 2005 ; Nghị quyết 88/2006/ND-CP ngày 28/8/2006 của chính phủ về việc đăng ký kinh doanh; Thông tư 03/2006/TT-BKH ngày 19/10/2006 của Bộ kế hoạch và đầu tư về nội dung đăng ký kinh doanh và các bước thủ tục. Mô hình này áp dụng cho tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đăng ký theo hộ gia đình hoặc nhóm người làm chung.
  2. Tổ hợp tác/tổ dịch vụ: Nghị định số 151/2007/ND-CP ngày 10/10/2007 về tổ chức và hoạt động của nhóm dịch vụ. Trong đó tổ hợp tác có 3 người trở lên được UBND xã/phương chứng nhận. Các thành viên trong nhóm đóng góp tài sản vốn để cùng sản xuất kinh doanh và có cơ chế chia sẻ lợi ích và trách nhiệm
  3. Ban Quản Lý: Là mô hình hợp tác đơn giản của tổ chức cộng đồng, hoặc đồng trên cơ sở có sự tham gia, tự nguyện, minh bạch. BQL được thành lập dựa trên sự bầu chọn của cộng đồng và có quyết định của chính quyền địa phương. Ban có chức năng nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể được cộng đồng xây dựng, thống nhất và được thông qua bởi chính quyền địa phương. Tuy nhiên quyền hạn của BQL thường không có giá trị pháp lý cao. BQL thường hay bị ảnh hưởng bởi quyết định của chính quyền, nếu BQL không thực sự mạnh.
  4. Hợp tác xã: “Là mô hình tổ chức kinh tế hoạt động theo Luật Hợp Tác Xã số 18/2003/QH11; Quyết định số 177/2004/ND-CP chi tiết luật và nghị định số 87/2005/ND-CP và thông tư 05/2005/TT-BKH về đăng ký thành lập hợp tác xã. Là một tổ chức kinh tế, hợp tác xã có nguồn tài chính, tài sản riêng được đóng góp bởi các thành viên. Hợp tác xã thường có điều lệ, quy định làm việc, tên, logo và tự hạch toán tài chính giống như 1 doanh nghiệp”.
  5. Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: Dựa trên luật doanh nghiệp 2005, Nghị quyết 88/2006/ND-CP ngày 29/9/2006 về đăng ký kinh doanh; thông tu 03 / 2006/TT-BKH ngày 19/10/2006 của bộ KHĐT.

Đặc biệt cần phải quan tâm các yếu tố sau:

  • Trình độ văn hóa của địa phương, phần lớn là thấp, rất ít người có trình độ văn bậc phổ thông trung học và cơ sở;
  • Người dân phần lớn làm nông nghiệp, không có kinh nghiệm kinh doanh và tổ chức dịch vụ. Phần lớn chưa hề biết về du lịch và kinh doanh du lịch Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.
  • Tính cộng đồng, bình đẳng khá cao, người dân thường tin tưởng và những người có uy tín và có khả năng vận động, thuyết phục.

2.5.3.4. Phát triển nguồn nhân lực:

Đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch, đáp ứng được yêu cầu cầu các hoạt động du lịch, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quản lý cho đội ngũ lao động trong ngành du lịch hiện có, tạo lực lượng nòng cốt cho ngành du lịch.

2.5.3.5. Định hướng phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ du lịch:

  • Phát triển hệ thống cơ sở lưu trú: Có 3 hình thức lưu trú chính tại địa phương:

Các nhà vườn, xây dựng kiến trúc nhà lá, nhà cổ của người Việt để du khách có thể cảm nhận, trải nghiệm những nét kiến trúc cổ xưa.

Homestay: Giai đoạn từ nay – 2020 cơ bản cơ sở vật chất của nhà dân tại địa phương đạt tiêu chuẩn làm cơ sở lưu trú cho khách du lịch.

Nhà nghỉ, khách sạn: Giai đoạn từ nay – 2020 triển khai các dự án đầu tư xây dựng Khách sạn, nhà hàng…. Năng lực phục vụ được xác định trên cơ sở phân loại số sao tại 3 khu vực chính: đường 427, ngã tư Xâm Xuyên và khu trung tâm xã.

  • Phát triển cơ sở vui chơi giải trí, thể thao:

Giai đoạn từ nay – 2020 chú trọng phát triển các điểm công viên vui chơi giải trí hiện đại và có chất lượng tốt, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch trên địa bàn, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

  • Phát triển hệ thống cơ sở dịch vụ ăn uống :

Đầu tư phát triển hệ thống nhà hàng với mục tiêu khai thác có hiệu quả các sản vật của địa phương, thoả mãn nhu cầu ẩm thực của du khách. Đầu tư để nâng cao chất lượng các món ăn Âu, Á phục vụ nhu cầu rất đa dạng của khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế và khách du lịch công vụ tham dự các hội nghị, hội thảo lớn. Phối hợp ký kết hợp tác đầu tư với các tập đoàn hoặc hệ thống kinh doanh ăn uống đã khẳng định được thương hiệu đầu tư xây dựng hệ thống kinh doanh dịch vụ ăn uống đạt tiêu chuẩn cao.

  • Phát triển hệ thống các cơ sở thương mại – dịch vụ:

Giai đoạn từ nay – 2020 khi du lịch đạt mức tăng trưởng ổn định, Hồng Vân cần tập trung đầu tư nâng cấp và từng bước xây dựng hệ thống các cơ sở vật chất phục vụ mục đích du lịch và thương mại như: Chợ các loại; Công trình phục vụ hội chợ triển lãm v.v… Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Xây dựng hệ thống chuẩn cung cấp các dịch vụ thương mại đồng bộ phục vụ cho khách du lịch và người dân bản địa như: Dịch vụ bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ quy đổi tiền tệ, dịch vụ giao nhận vận tải v.v…

  • Phát triển hệ thống cơ sở phục vụ hội nghị hội thảo, các cơ sở dịch vụ bổ trợ du lịch:

Đầu tư xây dựng trung tâm điều hành, hướng dẫn du lịch tại Hồng Vân

Đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử – văn hoá trong huyện tạo thêm nhiều điểm tham quan cho khách du lịch. Duy trì, bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể.

Đầu tư chỉnh trang một số bản văn hoá dân tộc điển hình thu hút khách du lịch bằng các sản phẩm du lịch văn hoá đặc thù.

Giai đoạn từ nay – 2020 cần quan tâm đầu tư xây dựng các trung tâm hội nghị hội thảo, trung tâm triển lãm hội chợ có quy mô lớn và hiện đại mang tầm cỡ đủ khả năng tổ chức các sự kiện chính trị, văn hoá, kinh tế – xã hội trọng đại.

2.5.3.6. Định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng:

  • Phát triển giao thông: * Về giao thông đường bộ:

Đầu tư xây dựng hệ thống bến xe, bãi đỗ xe tĩnh tại khu vực trung tâm du lịch chính và các trung tâm du lịch phụ trợ.

Giai đoạn từ nay – 2020 hoàn chỉnh mạng giao thông trong xã tạo thuận lợi cho du lịch phát triển rộng khắp các thôn xóm, đảm bảo tiêu chuẩn đường đạt cấp 5, ôtô đi lại thuận tiện. Đầu tư hệ thống bến bãi đỗ xe tại các điểm du lịch, đáp ứng công suất phục vụ từ 200 – 500 khách/ ngày, đêm.

  • Về cấp điện và cấp nước:

Đến năm 2020 tất cả các hộ dân trên địa bàn, các cơ sở kinh doanh dịch vụ – lưu trú 100% sử dụng nước sạch.

  • Công tác vệ sinh môi trường và xử lý chất thải:

Xây dựng quy chế quản lý và phân loại chất thải trong các vùng du lịch, xây dựng hệ thống thu gom nước thải tại khu du lịch gắn liền với mạng thu gom và xử lý nước và chất thải rắn của đô thị trước khi được xử lý tại điểm xử lý tập trung.

Xây dựng nhà máy chế biến rác thải nhằm phân loại và chế biến, tái sử dụng các chất thải vô cơ và hữu cơ cho các mục địch sử dụng khác nhau, nhằm tiết kiệm nguồn năng lượng và tài nguyên tự nhiên.

Khuyến khích khách du lịch và người dân sử dụng các sản phẩm có tính chất thân thiện với môi trường, khả năng tái chế, tái sử dụng cao.

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

Chương 2 đã giới thiệu về vị thế vai trò của du lịch làng nghề xã Hồng Vân đối với du lịch của huyện Thường Tín và thành phố Hà Nội cũng như tầm quan trọng của việc phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân trong bản đồ quy hoạch du lịch huyện Thường Tín. Từ việc phân tích này sẽ dễ dàng đưa ra được những định hướng và giải pháp hợp lý. Từ những phân tích về tài nguyên du tự nhiên và tài nguyên nhân văn của xã Hồng vân, có thể thấy hệ thống các tài nguyên tại xã Hồng vân có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy nhiên thực trạng khai thác tiềm năng tự nhiên và nhân văn phục vụ cho hoạt động du lịch mang lại lợi ích cho người dân địa phương chưa tương xứng với tiềm năng.

Chương 2 cũng phân tích về nguồn lực về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cũng như nhân sự hoạt động trong ngành du lịch, nhằm đưa ra những định hướng về việc nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như  đa dạng hoá các loại hình phục vụ, đa dạng hoá thị trường khách du lịch. Hướng tới khách hàng mục tiêu là những khách hàng có thời gian rỗi nhiều và khả năng chi trả cao.

Từ những việc phân tích các yếu tố nền tảng trên nhằm tạo ra những cơ sở vững chắc để đưa ra những định hướng mang tính thực tế hơn và đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế như chưa có sợi dây liên kết giữa những yếu tố tài nguyên, giải quyêt được những vấn đề chưa đồng bộ và thương mại hoá bản sắc địa phương. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp cho phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề xã Hồng Vân […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993