Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát về vị trí địa lý, dân số, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và giáo dục của thị xã Dĩ An

2.1.1. Vị trí địa lý, dân số Thị xã Dĩ An

Dĩ An là một thị xã thuộc phía Nam của tỉnh Bình Dương, tiếp giáp với hai thành phố là Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng là cửa ngõ quan trọng để đi các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc Việt Nam.

Thị xã Dĩ An có tổng diện tích đất tự nhiên là 60,1km2, chiếm 2,2% diện tích tự nhiên của tỉnh Bình Dương và có tọa độ địa lý 10o54’58’ vĩ độ Bắc và 106o 47’11’’ kinh độ Đông, có vị trí giáp giới như sau:

  • Phía Đông giáp quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
  • Phía Tây giáp thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
  • Phía Nam giáp quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
  • Phía Bắc giáp thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Thị xã Dĩ An nằm ở trung tâm khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp 2 thành phố công nghiệp lớn là thành phố Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh, gần sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và cụm cảng Sài Gòn nên có đủ các điều kiện để phát triển kinh tế – xã hội. Thị xã Dĩ An có 7 đơn vị hành chính, với dân số 355.370 người, mật độ dân số: 5.928 người/km2.

Với lợi thế về vị trí địa lý, thị xã Dĩ An có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Đây cũng là lợi thế thu hút các nhà đầu tư, dân cư, lao động đến làm ăn, sinh sống. Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế, thị xã Dĩ An thu hút rất nhiều lao động ngoại tỉnh đến làm việc và sinh sống lâu dài khiến cho quy mô dân số ngày càng tăng và phần lớn là do gia tăng cơ học. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị và văn hóa – xã hội thị xã Dĩ An

Thị xã Dĩ An là nơi có nhiều khu công nghiệp thu hút người lao động từ nơi khác đến khá đông, với tinh thần lao động cần cù, sáng tạo người dân Dĩ An đã chủ động phát triển kinh tế và đón nhận, hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tạo nên một nền kinh tế năng động và phát triển. Bên cạnh đó thị xã cũng chú trọng phát triển các làng nghề truyền thống.

2.1.2.1. Tình hình kinh tế

Năm 2018, thị xã Dĩ An đạt được kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá với giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 89 ngàn 100 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2017; giá trị thương mại – dịch vụ đạt 67 ngàn 700 tỷ đồng, tăng 35% so với cùng kỳ; thu ngân sách đạt 3 ngàn 598 tỷ đồng – trong đó, có 4/11 khoản thu đạt và vượt dự toán từ 58% đến 125%. (Hồng Nguyên – Tuấn Anh, 2018)

Trong năm, thị xã đã khởi công mới 23 công trình và đang triển khai 7 công trình chuyển tiếp; nghiệm thu hoàn thành 5 công trình – với tổng giá trị giải ngân 415 tỷ đồng. Thị xã tập trung công tác quy hoạch, quản lý xây dựng và đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Đã xử lý 6/11 điểm ngập nặng; 10/25 vị trí ngập nhẹ; lắp đặt 3 chốt đèn giao thông và hơn 800 trụ – biển cấm đỗ xe trên 50 tuyến đường của thị xã. Trên lĩnh vực xây dựng, thị xã đã cấp 4 ngàn giấy phép tăng 88 giấy so với năm 2017. Các mặt công tác trên lĩnh vực vệ sinh môi trường, phòng chống ngộ độc thực phẩm, chăm lo cho gia đình chính sách, hộ nghèo được quan tâm thực hiện. Tình hình An ninh chính trị – Trật tự an toàn xã hội được giữ vững (Hồng Nguyên – Tuấn Anh, 2018).

Năm 2019, thị xã tiếp tục tập trung các giải pháp xử lý hiệu quả những hạn chế, đồng thời, khai thác và phát huy hiệu quả các tiềm lực phục vụ quá trình xây dựng và phát triển đô thị địa phương. Với 4 nhóm giải pháp tập trung trên các lĩnh vực KT – XH – QPAN. Trước mắt từ nay đến tết Nguyên Đán 2019, thực hiện tốt công tác chăm lo tết hộ nghèo – khó khăn, đối tượng chính sách; công nhân lao động; bình ổn thị trường hàng hóa; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa – văn nghệ phục vụ nhân dân vui xuân, đón tết an toàn lành mạnh (Hồng Nguyên – Tuấn Anh, 2018).

2.1.2.1. Tình hình chính trị và văn hóa xã hội Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định, công tác an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời và chu đáo, phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các tuyến được bảo đảm. Hoạt động khoa học công nghệ có chuyển biến, chú trọng củng cố và tăng cường năng lực quản lý công nghệ, sở hữu trí tuệ, đo lường và kiểm định chất lượng…Ngành GD – ĐT tiếp tục được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị theo hướng chuẩn hóa.

Tóm lại kinh tế phát triển, tăng trưởng hợp lý, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng. Công tác quản lý và phát triển đô thị chuyển biến tích cực, công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường. Văn hóa xã hội, giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực, chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được cải thiện. Kinh tế phát triển, tình hình chính trị ổn định, đời sống nhân dân được nâng cao đã tạo điều kiện và thúc đẩy giáo dục của thị xã phát triển.

2.1.2. Tình hình giáo dục tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An

Giáo dục và Đào tạo thị xã Dĩ An luôn được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Dương, Thị ủy, Ủy ban nhân nhân thị xã Dĩ An, cùng sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các Ban, Ngành, Đoàn thể, Hội cựu giáo chức, Hội khuyến học nên thị xã phát triển đa dạng về loại hình trường và cấp học. Mạng lưới trường lớp trong địa bàn thị xã được huy hoạch phù hợp với tình hình phát triển của địa phương, toàn thị xã có 100% trường được xây dựng kiên cố, trong đó có 37/42 trường được lầu hóa, đạt tỉ lệ 88,09% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2017 – 2018 của Phòng GD – ĐT Thị xã Dĩ An).

Đội ngũ cán bộ quản lý và GV đạt chuẩn trình độ, năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với nghề và được bổ sung đầy đủ để thực hiện tốt công tác quản lý và giảng dạy.

Trên địa bàn thị xã ngày càng có nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp, hỗ trợ kinh phí, giúp đỡ các trường và con em HS có hoàn cảnh khó khăn, con em gia đình chính sách, cấp học bổng cho học sinh nghèo hiếu học, HS giỏi để các em học tập tốt.

Trong năm qua, Thị xã Dĩ An luôn quan tâm đến giáo dục tại địa phương đặc biệt là giáo dục tiểu học được thể hiện ở các mặt sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

  • Về quy mô trường lớp

Tính đến năm học 2017 – 2018 toàn thị xã có 23 trường tiểu học (trong đó có 20 trường công lập và 3 trường tư thục) cụ thể như sau: 20 trường tiểu học công lập là trường TH Dĩ An, TH Dĩ An B, trường TH Dĩ An C, trường TH Lê Quý Đôn, trường TH Lý Thường Kiệt, trường TH Tân Đông Hiệp, trường TH Tân Đông Hiệp B, trường TH Tân Bình, trường TH Bùi Thị Xuân, trường TH Đông Hòa, trường TH Đông Hòa B, trường TH Bình An, trường TH An Bình, trường TH An Bình B, trường TH Nguyễn Khuyến, trường TH Kim Đồng, trường TH Đông An, trường TH Đoàn Thị Điểm, trường TH Nguyễn Bỉnh Khiêm, trường TH Nhị Đồng và 3 trường tư thục là Trường Trung – Tiểu Học Việt Anh 2, trường Trung – Tiểu Học Phan Chu Trinh, MN – TH Quê Hương với lớp/34.204 học sinh. Trong năm 2017 – 2018 có 18/20 trường tổ chức dạy 2 buổi/ngày và bán trú (trường TH Bùi Thị Xuân và TH Tân Đông Hiệp dạy 1 buổi/ngày). Tỷ lệ bán trú đạt 67.7% Số học sinh bỏ học là 15 em (15/34.219 – tỉ lệ 0,04%). Nguyên nhân bỏ học là do một số học sinh theo gia đình chuyển đi nơi khác, một số ít còn lại do học lực yếu, còn mặc cảm với bạn bè hoặc do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phụ huynh thiếu quan tâm nên đã bỏ học. Số trường đạt chuẩn quốc gia là 12/20 trường (tỉ lệ 60%). Hầu hết các trường còn lại không đạt chuẩn là do số lượng lớp học (trường TH Tân Bình có tới 75 lớp) và số học sinh trên 1 lớp quá đông (trên 50 em/1 lớp) (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2017 – 2018 của Phòng GD – ĐT Thị xã Dĩ An).

  • Về chất lượng giáo dục

Ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng, đổi mới công tác quản lý chỉ đạo nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục; củng cố kết quả chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.

Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”, 100% trẻ 6 tuổi được huy động vào lớp 1 (8.644/8644 trẻ), 100% HS hoàn thành chương trình bậc tiểu học ở các trường tiểu học đều được tuyển vào học lớp 6 của các trường THCS trên địa bàn.

Các trường đều thực hiện chương trình thay sách theo quy định, tổ chức cho GV học theo chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học. Việc đánh giá, xếp loại HS được thực hiện nghiêm túc theo. Thông tư số 22/2016/TT – BGDĐT về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá HS tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chất lượng dạy và học của GV và HS được ổn định, tiết học nhẹ nhàng, sinh động. Tất cả các trường đều dạy đủ các môn học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các môn Thể dục, Hát nhạc, Mĩ thuật, Tin học, Tiếng Anh đều có đủ giáo viên chuyên trách giảng dạy và dạy chất lượng.

Các trường có tổ chức cho học sinh học 2 buổi/ngày (có bán trú) đã bố trí GVCN là những GV có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề – mến trẻ và có nhiều kinh nghiệm.

Việc giảng dạy 2 buổi/ngày có hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh được đa số phụ huynh đồng thuận và hưởng ứng tích cực. Các buổi dạy thứ 2 (buổi chiều) được GV thực hiện để ôn luyện giúp HS được nâng dần kiến thức, tăng cường các hoạt động giáo dục kỹ năng sống và trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường. Bên cạnh đó, việc tổ chức học 2 buổi/ngày (hoặc bán trú) đã góp phần hạn chế tối đa việc dạy thêm học thêm tràn lan không đúng quy định. Các trường đã tổ chức cho HS học linh hoạt, bồi khá, phụ kém nên chất lượng học tập, giáo dục ngày càng được nâng lên.

Cuối năm học có 5.875/5875 HS được công nhận hoàn thành chương trình bậc tiểu học (tỉ lệ 100%). Bảng 2.1 và 2.2 sau đây trình bày kết quả xếp loại giáo dục và năng lực phẩm chất năm học 2017 -2018.

Bảng 2.1 Kết quả xếp loại giáo dục cuối năm học 2017 – 2018

Bảng 2.2 Kết quả xếp loại năng lực và phẩm chất Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Kết quả xếp loại năng lực và phẩm chất năm học 2017 – 2018 của thị xã Dĩ An cho thấy chất lượng giáo dục và đào tạo cấp tiểu học ngày càng được nâng cao. Cụ thể là xếp loại tốt ở năng lực và phẩm chất từ 69,3% đến 80,5%. Điều đó chứng tỏ các trường tiểu học trên địa bàn đã rất quan tâm đến việc trau dồi phẩm chất và năng lực cho HS.

  • Về tham dự các kì thi của học sinh cấp tỉnh và cấp quốc gia

Trong năm học, HS các trường tiểu học tham dự các kì thi dành cho HS cấp tỉnh, cấp quốc gia đạt các thành tích nổi bật như sau:

  • Tham gia hội khỏe phù đổng cấp tỉnh đạt giải II toàn đoàn.
  • Tham dự Hội thi Tin học trẻ cấp tỉnh đạt 1 giải I, 1 giải II và 1 giải KK.

Tổ chức Hội thi giao lưu tìm hiểu kĩ năng tham gia giao thông an toàn cấp tiểu học cấp thị xã năm học 2017 – 2018. Cử đội tuyển tham gia Hội thi thi giao lưu tìm hiểu kĩ năng tham gia giao thông an toàn cấp tiểu học cấp tỉnh đạt thành tích rất cao: Phần thi tuyên truyền giao thông qua việc đặt lời mới cho thơ, ca, hò, vè đạt giải II, Vẽ tranh tuyên truyền đạt giải III, Phần thi kiến thức an toàn giao thông đạt giải KK. Kết quả chung Phòng Giáo dục và Đào tạo đạt giải III toàn đoàn.

Năm học 2017 – 2018 Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã đã tổ chức thi giáo viên dạy giỏi “Giải thưởng Võ Minh Đức” cấp thị xã tổng cộng công nhận 316 GV đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi “Giải thưởng Võ Minh Đức” cấp thị xã.

Thi giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh giải thưởng Võ Minh Đức: Phòng GD và ĐT thị xã Dĩ An đạt kết quả như sau: 01 giải khuyến khích (TH Đông Hòa) và 6 giáo viên được công nhận cấp tỉnh (TH Tân Bình, TH Đoàn Thị Điểm, TH Đông Hòa B đạt 2 giáo viên, TH An Bình B, TH Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Tham dự Hội thi “Sưu tầm và sử dụng bộ đồ dùng dạy học điện tử” cấp tiểu học vòng tỉnh năm học 2017 – 2018 đạt kết quả: 1 giải I (TH Tân Đông Hiệp) và giải III toàn đoàn.

Kết quả xếp loại bồi dưỡng thường xuyên (BDTX): Tổng số 1.108 cán bộ quản lý và giáo viên tham gia đầy đủ Chương trình Bồi dưỡng thường xuyên trong năm học và được đánh giá hoàn thành chương trình, trong đó xếp loại giỏi: 865, khá: 241, trung bình: 2, không xếp loại: 18. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Đánh giá chung

  • Thuận lợi

Được sự quan tâm chỉ đạo của Thị ủy, UBND thị xã Dĩ An, Đảng ủy cơ quan khối Văn hóa – Xã hội và sự phối hợp của các Ban ngành đoàn thể thị xã, cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi và tác động tích cực đến các mặt hoạt động văn hóa – xã hội tại địa phương, trong đó có lĩnh vực GD – ĐT.

Lãnh đạo Phòng GD – ĐT tổ chức họp triển khai nhiệm vụ công tác cụ thể hàng năm, xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục về mạng lưới trường, lớp, HS, CSVC, trang thiết bị cho toàn ngành giáo dục để tham mưu UBND thành phố phê duyệt thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Đồng thời chỉ đạo việc thực hiện đổi mới công tác QL và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, tạo điều kiện cho đội ngũ CBQL và GV nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục trong tình hình hiện nay.

Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục để huy động nhiều nguồn lực cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục địa phương.

Hoạt động quản lý và triển khai nhiệm vụ đảm bảo nề nếp, kỉ cương, việc phân công, phân nhiệm khá cụ thể, chặt chẽ theo nguyên tắc đảm bảo sự điều hành kiểm tra đánh giá từ Phòng đến trường đồng thời được gắn với việc thực hiện dân chủ cơ sở. Đội ngũ cán bộ viên chức có tinh thần trách nhiệm cao, đoàn kết, gắn bó, sâu sát cơ sở để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Phong trào “Hai tốt” được nhân rộng và ngày càng nâng cao về chất và lượng. Hoạt động quản lý được cải thiện đáng kể. Công tác xã hội hóa giáo dục thực hiện khá tốt. Các chỉ tiêu chuyên môn và mục tiêu phổ cập giáo dục do Sở Giáo dục – Đào tạo đề ra được hoàn thành đúng thời hạn.

Việc đầu tư cơ sở vật chất được quan tâm, từng bước vươn lên chuẩn hóa. Cảnh quan môi trường được cải thiện đáng kể, đảm bảo điều kiện tối thiểu theo qui chuẩn.

  • Khó khăn Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Công tác quy hoạch phát triển mạng lưới trường lớp đôi lúc bất cập, chưa phù hợp với việc gia tăng dân số cơ học trên địa bàn mặc dù trong các năm học qua đã xây dựng xong và đưa vào sử dụng nhiều trường nhưng tốc độ phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu, dẫn đến áp lực học sinh tăng nhanh ngoài dự kiến gây khó khăn trong xử lý chuyên môn và nâng cao hiệu quả đào tạo.

Năng lực của CBQL ở một số đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, chưa thực sự phát huy được tính chủ động, sáng tạo.

Việc quản lý và sử dụng các trang thiết bị dạy học được cấp tại một số đơn vị chưa thật sự đạt hiệu quả.

Tay nghề của một số GV chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới PPDH và ứng dụng CNTT (nhất là GV lớn tuổi, GV mới tuyển dụng)…nên gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của thị xã.

Những khó khăn trên đã ảnh hưởng đến sự phát triển và chất lượng giáo dục tiểu học của thị xã Dĩ An. Vì vậy cần có những biện pháp đầu tư mạnh, mang tính đột phá để giải quyết những vướng mắc, khó khăn trên.

2.2. Tổ chức khảo sát thực trạng

2.2.1. Nội dung khảo sát

Để thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát một số nội dung cụ thể sau:

  • Nhận thức về vai trò và mục tiêu của giáo dục lao động trong việc giáo dục đạo đức, nh n HS: Chúng tôi đã tìm hiểu nhận thức của CB – GV và CMHS các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương về vai trò và mục tiêu của giáo dục lao động trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách HS hiện nay.
  • Thực trạng mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động và công tác giáo dục lao động cho học sinh tại các trường T công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương: Thông qua khảo sát, phỏng vấn ý kiến CBQL chúng tôi tìm hiểu về mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động, thực trạng hoạt động giáo dục lao động của các trường tiểu học công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An về việc thực hiện và kết quả thực hiện giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng và phương pháp giáo dục lao động cho HS tại các trường hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.
  • Thực trạng công tác giáo dục lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương: Thông qua khảo sát CBQL, GV chúng tôi tìm hiểu việc thực hiện thực trạng hoạt động giáo dục lao động ở các trường công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An về các mặt: Thực trạng việc thực hiện và kết quả thực hiện giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng và phương pháp giáo dục lao động.
  • Nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động tại các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương: Thông qua khảo sát, chúng tôi tìm hiểu nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động HS tại các trường TH thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương hiện nay.
  • Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương: Thông qua khảo sát, phỏng vấn ý kiến CBQL, GV chúng tôi tìm hiểu thực trạng việc lập kế hoạch lao động; công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động; công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục lao động; công tác kiểm tra các hoạt động giáo dục lao động. Ngoài ra Chúng tôi cũng tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác QL hoạt động giáo dục lao động tại các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2.2.2. Công cụ điều tra, khảo sát thực trạng

Chúng tôi đã sử dụng 3 mẫu khảo sát, cụ thể như sau:

  1. Mẫu 1: Khảo sát về thực trạng hoạt động giáo dục lao động và QL hoạt động giáo dục lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương (phụ lục 1- Mẫu dành cho CBQL và GV).
  2. Mẫu 2: Khảo sát về thực trạng hoạt động giáo dục lao động ở trường tiểu học thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (phụ lục 2 – Mẫu dành cho CMHS TH).
  3. Mẫu 3: Khảo sát về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục lao động ở trường TH thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (phụ lục 3 – Phiếu phỏng vấn dành cho Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên môn, GVCN , CMHS)

Ngoài phiếu khảo sát và phiếu phỏng vấn, tác giả còn nghiên cứu các văn bản pháp lý, hồ sơ liên quan đến công tác QL hoạt động giáo dục lao động của các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An như kế hoạch năm học của trường, của tổ chuyên môn, sổ nghị quyết của tổ chuyên môn năm học 2017 – 2018 và 2018 – 2019; Báo cáo tổng kết năm học của 6 trường; Báo cáo tổng kết của phòng GD – ĐT năm học 2017-2018.

  • Xử lý số liệu thu thập được

Sử dụng phần mềm thống kê toán học SPSS 20.0 để xử lý các dữ kiện thu được phục vụ cho việc phân tích số liệu trong quá trình nghiên cứu.

  • Thống kê mô tả: tính tổng, trị số trung bình, tần số, tỷ lệ phần trăm…
  • So sánh kết quả giữa các nhóm khách thể, các mặt khác nhau trong cùng một chỉ báo nghiên cứu.

2.2.3. Kiểm tra độ tin cậy của thang đo Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Để kiểm tra độ tin cậy của thang đo làm cơ sở đánh giá kết quả nghiên cứu, tác giả đã tiến hành đo hệ số Cronbach’s Alpha của bộ câu hỏi được biên soạn. Kết quả thu được thể hiện tại bảng 2.3 như sau:

Bảng 2.3.  Hệ số tin cậy của thang đo

Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.3 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha là 0,86 > 0,8 điều này cho phép đi đến kết luận thang đo lường được sử dụng rất tốt. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét đánh giá độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày dưới đây.

2.2.4. Tổ chức điều tra, khảo sát

Mẫu 1: Đối tượng khảo sát chính của đề tài bao gồm 121 CBQL và 172 GVCN và giáo viên bộ môn của 6 trường TH công lập ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Trong đó, HT là 6 (2%); phó hiệu trưởng là 17 (5,8%); tổ trưởng, tổ phó chuyên môn là 98 (33,4%); GV chủ nhiệm là 114 (38,9%) và 58 GV bộ môn (19,9%). Tất cả các phiếu phát ra đều thu về đủ. Như vậy, chúng tôi đã thu thập được ý kiến của toàn bộ đối tượng khảo sát. Đặc điểm của đối tượng khảo sát cụ thể như sau:

Bảng 2.4. Khái quát về đối tượng khảo sát chính

Về giới tính, do đặc trưng của hội đồng sư phạm của các trường học ở nước ta nói chung, tỉnh Bình Dương nói riêng là nam CB, GV ít hơn nữ CB, GV nên đối tượng nghiên cứu hơi lệch về phía nữ CB, GV. Nhưng lý do này xuất phát từ tính khách quan nên vẫn đảm bảo đầy đủ nguyên tắc nghiên cứu khoa học. Cụ thể, nữ chiếm 86% và nam 14%.

Về thâm niên công tác trong ngành giáo dục: CB, GV thời gian công tác dưới 5 năm là 147 (50,2%), từ 5 đến dưới 10 năm chiếm 73 (24,9%), từ 10 đến dưới 20 năm là 48 (16,4%), từ 20 đến dưới 30 năm là 18 (6,1%) và từ 30 năm trở lên là 7 (2,4%). Điều này đảm bảo độ tin cậy và khách quan của mẫu nghiên cứu.

Về thâm niên làm công tác quản lý: CB, GV có thời gian tham gia công tác quản lý dưới 5 năm là 60 (chiếm 49,6%), từ 5 đến dưới 10 năm là 42 người (chiếm 34,7%). Có 15 CB, GV có kinh nghiệm quản lý từ 10 đến dưới 20 năm, chiếm 12,4%. Kinh nghiệm quản lý 20 năm trở lên có 4 người chiếm 3,3%. Tỷ lệ này đảm bảo các nguyên tắc chọn mẫu trong nghiên cứu khoa học.

Về trình độ chuyên môn: CB, GV có trình độ trung cấp là 5 (chiếm 1,7%), cao đẳng là 44 (15%), có 244 người có trình độ đại học (83,3%). Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Về kinh nghiệm làm công tác QL: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 121 CBQL thì có 23 người làm công tác QL (chiếm 20,7%) nhưng đến 98 người chưa có kinh nghiệm làm công tác quản lý (chiếm 79,3%). Trong đó người tham gia lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý là 21 (chiếm 91,4%), người có trình độ đại học quản lý là 1 (chiếm 4,3%), người có trình độ thạc sĩ quản lý là 1 (chiếm 4,3%).

Về đơn vị công tác, có 241 người (chiếm 82,3%) đang công tác tại trường chưa đạt chuẩn quốc gia, 52 (chiếm 17,7%) người công tác tại trường đạt chuẩn quốc gia.

  • Mẫu 2: Khảo sát 204 CMHS ở năm khối 1,2,3,4,5 của 01 trường đạt chuẩn quốc gia, 02 trường chưa đạt chuẩn quốc gia.
  • Mẫu 3: Phiếu phỏng vấn được thực hiện với các đối tượng là CBQL các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An gồm: 6 HT được mã hóa bằng ký hiệu QLT1, QLT2, QLT3, …QLT6 và 12 GV được mã hóa bằng ký hiệu GVT1, GVT2, GVT3,…GVT12.

Qua phân tích các đối tượng khảo sát trình bày ở trên cho thấy, đối tượng khảo sát bao gồm cả HT, PHT, tổ trưởng/tổ phó chuyên môn, GVCN, GV bộ môn, CMHS với đặc điểm nhân khẩu đa dạng, phong phú. Điều đó, cho phép đề tài thu được các thông tin toàn diện về thực trạng hoạt động giáo dục lao động và quản lý hoạt động giáo dục lao động tại các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2.2.5. Qui ước thang đo

Thang đo sử dụng trong các phiếu khảo sát là thang đo định danh để xác định tên gọi, giới tính và một số đặc điểm của đối tượng khảo sát; thang đo thứ bậc và thang đo khoảng để tính các tham số trong thống kê mô tả như giá trị trung bình, tỉ lệ phần trăm.

Dựa vào giá trị trung bình trong thang đo Likert 5 với mức giá trị khoảng cách = (Maximum – Minimum)/n = (5-1)/5 = 0.8. Tất cả các câu hỏi ở phần nội dung đều thuộc dạng câu hỏi đánh giá trên 5 mức độ được gợi ý sẵn. Câu trả lời thấp nhất được cho 1 và cao nhất được 5 điểm. Trên cơ sở này, điểm trung bình được quy ra thành các mức độ thể hiện ở bảng 2.5 như sau:

Bảng 2.5. Quy ước xử lý thông tin trong phiếu khảo sát

2.3. Thực trạng hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

2.3.1. Nhận thức của CBQL và GV về vai trò và mục tiêu giáo dục lao động cho học sinh Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Để tìm hiểu nhận thức của CB-GV về vai trò, mục tiêu của giáo dục lao động, mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động, chúng tôi đã khảo sát ý kiến của CB, GV thông qua bảng hỏi. Kết quả thu được thể hiện ở biểu đồ 2.1.

Biểu đồ 2.1. Nhận thức của CB, GV về tầm quan trọng của giáo dục lao động trong việc giáo dục đạo đức, nh n cách học sinh

Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 2.1 cho thấy, vai trò của giáo dục lao động được các CB, GV đánh giá khá cao, có đến 88,39% số người được hỏi ý kiến đều nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục lao động cụ thể là có đến 70,31% mức độ “rất đồng ý” và 18,09 % ở mức độ “đồng ý”; 11,6 % ở mức độ một phần đồng ý, không có CB, GV nào đánh giá ở mức độ “không đồng ý” và “rất không đồng ý”. Kết hợp cả hai số liệu này, cho phép chúng tôi đi tới kết luận: CB, GV đánh giá rất cao vai trò của giáo dục lao động trong quá trình giáo dục đạo đức, nhân cách ở trường TH. Giáo dục lao động không chỉ trang bị cho HS có được ý thức, kỹ năng và thái độ lao động cần thiết, mà còn góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách, giúp học sinh sẵn sàng tham gia vào quá trình lao động, biết quý trọng kết quả lao động của mình và người khác, từ đó hình thành những phẩm chất cơ bản của người công dân toàn cầu. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn của các trường, tác giả nhận thấy hầu hết kế hoạch đều không thể hiện rõ nội dung chú trọng về giáo dục lao động, chỉ có một bản kế hoạch ghi: Tổ chức cho học sinh tham gia tổng vệ sinh sẵn trường.

Khi phỏng vấn CBQL về vấn đề này, QLT1 chia sẻ: Một số CB, GV chưa nhận thức được vai trò của giáo dục lao động trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách HS. Bên cạnh đó còn có GV, CMHS coi đây là việc làm không cần thiết bởi vì họ cho rằng đây là những hoạt động mất nhiều thời gian và ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em. Mặt khác, những công việc lao động này đã có nhân viên phục vụ của nhà trường làm nên học sinh không cần phải tham gia. Như vậy, có thể thấy tuy đa số CB, GV có ý kiến cho rằng giáo dục lao động có vai trò quan trọng nhưng lại không được thực hiện một cách thường xuyên trong trường. Đây là điều mà các CBQL cần lưu tâm, không chỉ nhận thức đúng mà nhà trường cần biến nhận thức đó thành hành động cụ thể và làm cho CB, GV và CMHS thực sự chú trọng đến việc giáo dục lao động, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS trong trường TH.

Ngoài ra muốn CB, GV thực sự quan tâm đến giáo dục lao động thì cần phải xác định đúng mục tiêu giáo dục lao động. Chỉ khi xác định đúng mục tiêu thì việc thực hiện giáo dục lao động mới có hiệu quả. Kết quả khảo sát về nhận thức của CB, GV về mục tiêu giáo dục lao động được thể hiện qua bảng 2.6 như sau:

Bảng 2.6. Nhận thức của CB, GV về mục tiêu giáo dục lao động ở bậc tiểu học

Nhìn vào bảng 2.6, chúng ta thấy có 54,3% CBQL và GV nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mục tiêu giáo dục lao động là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đây là điều đáng mừng khi giáo dục lao động cho học sinh đang bị “dịch vụ hóa” và dường như bị lãng quên trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên cũng có những CB, GV nhận thức chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về mục tiêu của giáo dục lao động, khi cho rằng: Để HS không tham gia vào các trò chơi không lành mạnh (6,1%); Nâng cao ý thức của HS trong việc hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường (9,6 %); Giúp HS có ý thức giữ gìn vệ sinh trường, lớp sạch sẽ (12,6 %); Hoàn thành các kĩ năng lao động để có thể tham gia vào hoạt động giáo dục lao động tại trường (17,4%). Như vậy vẫn còn một số CB, GV cho rằng giáo dục lao động cho các em chỉ để hoàn thành nhiệm vụ học tập tại trường, thực hiện tốt nội quy nhà trường, giáo dục lao động chỉ để HS biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ lớp học, trường học. Những nhận thức trên là chưa đầy đủ. Bởi vì giáo dục lao động là một trong những biện pháp hữu hiệu để giáo dục đạo đức, nhân cách HS và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong trường tiểu học. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

2.3.2. Thực trạng mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động tại các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Giáo dục lao động cho học sinh tiểu học phải đảm bảo các yêu cầu: tính giáo dục, tính khoa học, phù hợp với lứa tuổi và gắn với điều kiện, khả năng của nhà trường. Chúng tôi đã khảo sát mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động tại các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An và thu được kết quả, thể hiện ở bảng 2.7 như sau:

Bảng 2.7. Ý kiến của CB, về mức độ thực hiện yêu cầu giáo dục lao động

Kết quả cho thấy, nội dung “Đảm bảo phù hợp lứa tuổi, gắn với điều kiện, khả năng của nhà trường” được đánh giá ở mức độ tốt (60,8%); có 51,9%, CB, GV cho rằng yêu cầu giáo dục lao động cần phải đảm bảo tính giáo dục, rèn luyện HS còn nội dung “Đảm bảo tính khoa học” chỉ có 32,1% CB, GV đánh giá mức độ tốt. Như vậy yêu cầu giáo dục lao động ngoài việc phải đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục và rèn luyện HS thì việc quan trọng nhất là phải đảm bảo phù hợp với lứa tuổi, gắn với điều kiện, khả năng của trường. Tức là chúng ta không thể giáo dục một cách rập khuôn, máy móc mà tùy điều kiện thực tế của trường mà chúng ta tiến hành các biện pháp giáo dục sao cho đạt kết quả tốt nhất.

2.3.3. Thực trạng nội dung giáo dục lao động cho học sinh ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An

Khi khảo sát thực trạng nội dung giáo dục lao động, chúng tôi đã tiến hành khảo sát về mức độ thường xuyên và kết quả thực hiện giáo dục ý thức, kĩ năng và thái độ lao động cho HS. HS tiểu học là lứa tuổi đang phát triển về mặt thể chất, tinh thần và các mối quan hệ xã hội. Ở lứa tuổi này, trí nhớ các em đang phát triển, các em còn mau quên những gì thầy cô dạy. Do đó, muốn đạt kết quả tốt trong giáo dục lao động thì cần phải giáo dục thường xuyên, liên tục và lâu dài về ý thức, thái độ và kĩ năng lao động cho các em HS.

2.3.3.1. Mức độ thực hiện và kết quả thực hiện giáo dục ý thức lao động cho học sinh ở các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát mức độ thường xuyên về thực hiện giáo dục ý thức lao động cho HS ở 6 trường TH, kết quả thu được ở bảng 2.8 như sau:

Bảng 2.8. Mức độ thực hiện giáo dục ý thức lao động cho học sinh

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 4/8 nội dung trong việc thực hiện giáo dục ý thức lao động của HS các trường TH ở thị xã Dĩ An được CB, GV đánh giá ở mức độ “rất thường xuyên” có ĐTB từ 4,26 đến 4,60, xếp thứ tự từ 1 đến 4 là “Ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, tự phục vụ” (ĐTB: 4,6); “Ý thức giữ gìn vệ sinh lớp học, khuôn viên trường học (ĐTB: 4,3); “Ý thức chăm sóc, giữ gìn cây xanh trong lớp, trường” (ĐTB: 4,27) và “Ý thức tự thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp cũng như ở nhà” (ĐTB: 4,26). Đây là những kết quả đáng mừng, chứng tỏ các trường tiểu học thị xã Dĩ An đã chú trọng giáo dục các nội dung trên.

Bốn nội dung được xếp ở vị trí cuối cùng, ĐTB nằm trong khoảng đánh giá ở mức “thỉnh thoảng”, tỉ lệ lựa chọn mức độ từ ít khi đến không khi nào vẫn còn khá cao, cụ thể: nội dung “Ý thức bảo vệ của công, tiết kiệm thời gian và vật liệu” ở mức “rất thường xuyên” là 33,4%; nội dung “Ý thức tự giác tham gia các hoạt động của Đội TNTPHCM” ở mức “rất thường xuyên” là 14,7%; nội dung “Ý thức tổ chức, kỷ luật trong lao động” ở mức “rất thường xuyên” là 13,7% và nội dung “Ý thức sẵn sàng lao động (tự giác, tích cực), không ỷ lại vào người lớn” là 7,8%. Đây thực sự là những con số đáng lo ngại. Phải chăng các em chưa có ý thức lao động hay do chúng ta chưa tạo điều kiện cho các em được tham gia lao động? So sánh với kết quả khảo sát 204 CMHS cũng thấy rõ điều này: Nội dung “Ý thức sẵn sàng lao động (tự giác, tích cực), không ỷ lại vào người lớn” được CMHS đánh giá ở mức độ thấp nhất với ĐTB = 2,25, có tới 68.6 % ý kiến CMHS đánh giá ở mức độ từ “không khi nào” đến “ít khi”. Kết quả này có thể lý giải xuất phát từ nguyên nhân CMHS chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục ý thức lao động cho HS. Với câu hỏi: “Quý anh/chị có đồng ý cho học sinh trực nhật lớp theo sự phân công không?” thì có 128/204 CMHS được hỏi ý kiến (62,74%) trả lời không, chỉ có 63/204 CMHS (37,26%) trả lời là có. Đây là kết quả rất đáng xem xét, cho chúng ta thấy bức tranh về giáo dục lao động của HS tiểu học hiện nay. Vậy khi giáo dục ý thức lao động, các trường đã đạt kết quả như thế nào? Chúng tôi đã khảo sát ý kiến của CB, GV về kết quả giáo dục ý thức lao động cho HS, thông tin thu được thể hiện ở bảng 2.9 sau đây:

Bảng 2.9. Kết quả thực hiện giáo dục ý thức lao động cho học sinh

Nhìn vào bảng 2.9 chúng ta thấy, chỉ có 4/8 nội dung giáo dục ý thức lao động đạt kết quả “tốt” có ĐTB từ 4,26 đến 4,66, xếp thứ tự từ 1 đến 4. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

So sánh ở 2 bảng 2.8 và 2.9, chúng ta thấy thứ tự xếp hạng các nội dung giáo dục ý thức lao động là hoàn toàn giống nhau. Như vậy, có thể nói nếu nhà trường thường xuyên giáo dục ý thức lao động cho HS thì kết quả giáo dục ý thức lao động sẽ được nâng lên. Ngoài ra, chúng tôi dùng kiểm nghiệm Anova để xem có sự khác biệt ý kiến về giáo dục ý thức lao động giữa CBQL, GV và CMHS hay không? Kết quả kiểm nghiệm Anova thể hiện ở bảng 2.10.

Bảng 2.10. So sánh kết quả thực hiện giáo dục ý thức lao động giữa CB, GV và CMHS

Kiểm nghiệm Anova giữa CBQL, GV và CMHS về giáo dục ý thức tổ chức trong lao động cho kết quả trị số P= 0.582> 0.05 chứng tỏ không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa ý kiến của CB, GV và CMHS về kết quả thực hiện giáo dục ý thức tổ chức, kỷ luật trong lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, mặc dù ý kiến của CMHS có điểm trung bình thấp hơn (ĐTB: 2,67).

Ở nội dung “Ý thức sẵn sàng lao động (tự giác, tích cực), không ỷ lại vào người lớn” đạt mức “tốt” là thấp nhất (7,8%). Vậy việc HS thực hiện ý thức lao động ở 4 nội dung thứ hạng thứ 5 đến thứ 7 chỉ đạt ở mức trung bình. Nội dung xếp thứ 8 chỉ ở mức “yếu”. Vậy kết quả đó là trách nhiệm của ai? Chúng tôi cùng nhau kiểm nghiệm Anova với kết quả thực hiện ở CMHS. Kết quả cho trị số P = 0,109 >0,05 chứng tỏ không có sự khác biệt ý nghĩa giữa ý kiến của CB, GV và CMHS về kết quả thực hiện giáo dục ý thức sẵn sàng lao động (tự giác, tích cực), không ỷ lại vào người lớn.

Kết quả so sánh này cho thấy hoàn toàn không có sự khác biệt nào giữa CB, GV và CMHS về việc thực hiện giáo dục ý thức lao động cho HS, cả hai đều chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục ý thức lao động cho HS. Đây là một vấn đề đáng lo ngại về trách nhiệm trong việc giáo dục ý thức lao động cho HS của CB, GV và CMHS ở các trường trên địa bàn thị xã Dĩ An hiện nay.

2.3.3.2. Mức độ thực hiện và kết quả thực hiện giáo dục thái độ lao động cho học sinh ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An

Ngoài việc tiến hành khảo sát về ý thức lao động, chúng tôi còn tiến hành khảo sát mức độ và kết quả thực hiện giáo dục thái độ lao động đối với CB, GV. Kết quả thu được như sau:

Bảng 2.11. Ý kiến của CB, GV về mức độ thực hiện giáo dục thái độ lao động cho học sinh

Nhìn vào bảng 2.11 ta thấy, chỉ có 1/6 nội dung trong việc thực hiện giáo dục thái độ lao động của HS các trường TH ở thị xã Dĩ An được CB, GV đánh giá ở mức độ “rất thường xuyên” có ĐTB là 4,40 xếp thứ tự là 1. Đây là điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Các nội dung xếp thứ tự từ 1 đến 3 là những nội dung được nhà trường quan tâm giáo dục các em chỉ thiên về nội quy, nề nếp của nhà trường như: Tự thực hiện nhiệm vụ ở lớp cũng như ở nhà; biết giữ gìn đồ dùng học tập, tài sản nhà trường; biết kính trọng, lễ phép với nhân viên phục vụ trong trường. Còn các nội dung xếp từ thứ hạng số 2 đến số 5 chỉ được thực hiện ở mức độ “Thường xuyên”, và thấp nhất là nội dung “Tự giác tham gia các hoạt động của lớp, trường” có ĐTB là 3,29 đạt mức độ “thỉnh thoảng”. Trong khi đó thái độ lao động quan trọng hơn trình độ: “Một người dù có tài năng đến đâu nếu không có thái độ lao động tốt, sớm muộn gì cũng “trượt” chân khỏi đường ray (Dung Mai, 2017). Chỉ khi các em có thái độ lao động tốt thì mới lao động một cách tích cực và hiệu quả. Khi khảo sát ở 204 CMHS, chúng tôi đạt được kết quả ở bảng 2.12 như sau:

Bảng 2.12. Ý kiến của CMHS về mức độ thực hiện giáo dục thái độ lao động cho học sinh Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

So sánh bảng 2.11 và 2.12, chúng ta thấy thứ tự các nội dung giáo dục thái độ lao động từ thứ 1 đến thứ 4 không thay đổi. Chỉ có khác nhau ở vị trí số 5 và số 6 giữa ý kiến của CB, GV và CMHS. Vậy có sự khác biệt nào về mặt ý nghĩa không? Chúng tôi sử dụng Kiểm nghiệm Anova để xem xét có sự khác biệt ý kiến giữa CB, GV và CMHS hay không. Kết quả như sau:

Bảng 2.13. So sánh ý kiến về mức độ thực hiện giáo dục thái độ lao động giữa CB, GV và CMHS

Nhìn vào bảng 2.13, ta thấy khi kiểm nghiệm Anova về mức độ thực hiện giáo dục thái độ lao động về “Tính tự giác tham gia các hoạt động ở lớp, trường” cho kết quả trị số P= 0.975> 0.05 và thái độ “Có ý thức tự giác trách nhiệm trong lao động vệ sinh lớp, trường (tự giác, tích cực), không ỷ lại vào người lớn” cho kết quả trị số P = 0.075 > 0.05 chứng tỏ không có sự khác biệt giữa mức độ thực hiện giáo dục ý thức lao động ở hai nội dung trên. Điều này cho thấy cả CB, GV và CMHS cũng chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục thái độ lao động cho HS. Qua trao đổi, GVT1 đã chia sẻ: “Trong công tác chủ nhiệm, đa số các em chưa tự giác tham gia lao động vệ sinh lớp. Khi được phân công thì các em làm cho có để xong nhiệm vụ chứ chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm”. Như vậy để giáo dục thái độ lao động thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa GV và CMHS. Khi mức độ giáo dục chưa tốt thì kết quả giáo dục lao động như thế nào? Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và kết quả thể hiện ở bảng 2.14 như sau:

Bảng 2.14.  Ý kiến của CBGV và CMHS về kết quả thực hiện giáo dục thái độ lao động cho học sinh

Giáo dục thái độ lao động giữ vai trò quan trọng quyết định đến hiệu quả lao động. Tuy nhiên, qua bảng 2.14 cho ta thấy, cả CB, GV và CMHS đều cho rằng kết quả giáo dục thái độ lao động trong việc “tự thực hiện nhiệm vụ học tập được giao ở lớp cũng như ở nhà” là tốt (ĐTB: 4,40 và 4,71). Các nội dung thái độ lao động: nội dung thứ 4 và thứ 5 được đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3,65 và 3,13); Bảng 2.14 cho thấy, cũng chưa có sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc giáo dục thái độ lao động nên kết quả đạt được chỉ ở mức “trung bình” (ĐTB: 2,96). Thứ hạng các nội dung của CB, GV và CMHS đều giống nhau. Kết quả đánh giá của CB, GV có ĐTB từ 3,29 đến 4,40. Kết quả đánh giá của CMHS có ĐTB từ 2,96 đến 4,71. Điều này chứng tỏ cả CB, GV và CMHS đều đánh giá mức độ thực hiện giáo dục thái độ lao động của các trường xếp từ thứ hạng từ 1 đến 3 như: thực hiện nhiệm vụ học tập được giao ở lớp cũng như ở nhà, giữ gìn đồ dùng học tập, tài sản của nhà trường và kính trọng, lễ phép với nhân viên phục vụ trong trường hơn là rèn luyện cho các em làm quen với những lao động đơn giản trong trường. Theo GVT2 chia sẻ: “Là GVCN nhiều năm, tôi thấy chỉ khi nào GV giám sát việc thực hiện lao động vệ sinh khi được phân công thì các em mới có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và làm việc đến nơi đến chốn, rất ít trường hợp các em tự giác tham gia làm vệ sinh lớp”. Như vậy, có thể nói việc giáo dục thái độ lao động cho HS ở một số trường chưa thực sự hiệu quả. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các kĩ năng lao động cho các em. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

2.3.3.3. Mức độ thực hiện và kết quả thực hiện giáo dục kĩ năng lao động cho học sinh các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An

Chúng tôi tiến hành khảo sát mức độ thường xuyên về giáo dục kĩ năng lao động thu được kết quả ở bảng 2.15 như sau:

Bảng 2.15. Ý kiến của CBGV về mức độ thực hiện giáo dục kĩ năng lao động cho học sinh

Nhìn vào bảng 2.15 ta thấy, chỉ có 1/5 nội dung trong việc thực hiện giáo dục kĩ năng lao động của HS các trường TH ở thị xã Dĩ An được CB, GV đánh giá ở mức độ “rất thường xuyên” có ĐTB là 4,40 xếp thứ tự là 1 tức là đạt kết quả “rất thường xuyên”. Nội dung xếp hạng thứ hai có ĐTB là 3,79 tức là đạt kết quả “thường xuyên” còn các nội dung xếp thứ hạng từ 3 đến 6 nằm trong khoảng đánh giá “thỉnh thoảng”. GVT3 chia sẻ: “Hầu như GV là người trồng và chăm sóc cây xanh trong lớp. Vì khi yêu cầu các em làm thì hay bị bị đổ và chết cây”. Đây là điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Vậy kết quả giáo dục kĩ năng lao động như thế nào? Chúng ta cùng xem kết quả trong bảng sau:

Bảng 2.16. Ý kiến của CB, GV về kết quả thực hiện giáo dục kĩ năng lao động cho học sinh

Như chúng ta đã biết kĩ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết nhằm tạo ra kết quả mong đợi. Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.16 cho thấy nội dung 1 được đánh giá ở mức tốt (ĐTB: 4,34); nội dung 2 được đánh giá ở khá (ĐTB: 3,80). Tuy nhiên cũng có 3 nội dung được đánh giá ở mức trung bình là số thứ tự 3,4,5 (ĐTB từ 2,82 đến 2,92). Như vậy, việc giáo dục kĩ năng lao động cho HS chưa thực hiện tốt. Hầu hết các trường chỉ chú trọng đến việc rèn cho HS thói quen sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, sử dụng tiết kiệm các đồ dùng học tập.

So sánh bảng 2.15 và 2.16 ta thấy thứ tự các nội dung giáo dục kỹ năng lao động đều giống nhau. Tuy nhiên kết quả thực hiện nội dung “Thói quen sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, sử dụng tiết kiệm các đồ dùng học tập” đạt ĐTB là 4,34 tức là đạt kết quả tốt. Còn nội dung xếp thứ hạng thứ 2 thì nằm trong khoảng “khá” và 3 nội dung cuối cùng chỉ đạt trong khoảng “ trung bình” mà thôi. Điều này cho thấy hầu như các em rất ít thậm chí chưa bao giờ tham gia vào công việc lao động vệ sinh lớp, trồng và chăm sóc cây xanh nên các em không biết cách làm. Do đó các em chưa có những kĩ năng lao động cơ bản. Trong giai đoạn hiện nay, hầu như các gia đình đều có một đến hai con, đời sống ngày càng được nâng cao nên hầu hết các bậc CMHS thường làm thay các em. Thậm chí CMHS còn mạnh dạn đề nghị nhà trường thuê thêm phục vụ để làm thay các em như GVT5 đã chia sẻ: “Một lần, một em trong lớp tôi chủ nhiệm, có một em vi phạm nội quy nhà trường, tôi yêu cầu cho em đó trực nhật lớp sau khi tan học. CMHS đến lớp đón, nhìn thấy con mình đang lau lớp, CMHS liền vào làm thay các em và sau đó trong cuộc họp CMHS cuối HKI, CMHS đã đề nghị nhà trường thuê thêm phục vụ để lau dọn lớp với lý do các em chiều về còn đi học ở những trung tâm nên không có thời gian làm việc đó”. Chính vì những nhận thức đó mà hầu như học sinh tiểu học hiện nay không được tham gia lao động. Các em đều cho rằng việc lao động vệ sinh lớp, trường đã có phục vụ làm và các em không cần làm nữa. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì chúng ta sẽ đào tạo ra thế hệ trẻ như những “chú gà công nghiệp” và không thể trở thành “công dân toàn cầu” theo xu hướng phát triển của thế giới. Chúng ta cùng xem kết quả khảo sát 204 CMHS ở bảng 2.17 như sau:

Bảng 2.17. Kết quả thực hiện giáo dục kĩ năng lao động cho học sinh của cha mẹ học sinh

Nhìn vào thứ hạng xếp các nội dung ở bảng 2.16 và 2.17 đều giống nhau. Xếp thứ hạng thứ 5 là trồng và chăm sóc cây xanh được CMHS đánh giá là “yếu” với ĐTB là 2,24. Có phải là do hiện nay, đất đai hạn hẹp nên CMHS không có điều kiện để giáo dục kĩ năng lao động cho học sinh hay là CMHS chưa quan tâm đến việc giáo dục những kĩ năng cơ bản này. Một CMHS đã chia sẻ: “Thời gian học tập của các bé khá nhiều, tuổi của các bé là phải học mới có tương lai. Còn việc lao động thì khi lớn lên các bé sẽ tự biết mình cần phải làm gì?”. Đây cũng là suy nghĩ hiện nay của nhiều CMHS. Nhưng tại sao chúng ta không rèn cho các em những kĩ năng lao động cơ bản để giáo dục nhân cách cho các em? Đây là vấn đề mà nhà trường, xã hội cần phải quan tâm nhiều hơn nữa. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

2.3.4. Thực trạng mức độ và kết quả thực hiện phương pháp giáo dục lao động cho học sinh ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An

Nghiên cứu về thực trạng mức độ thực hiện và kết quả thực hiện phương pháp giáo dục lao động ở các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An, chúng tôi tiến hành khảo sát ý kiến CBQL, GVCN và GV bộ môn kết quả thu được thể hiện trong bảng 2.18 như sau:

Bảng 2.18. Kết quả thực hiện phương pháp giáo dục lao động cho học sinh của CB, GV

Muốn giáo dục ý thức, kĩ năng, thái độ lao động cho học sinh đạt kết quả thì phương pháp để giáo dục lao động đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên khi khảo sát CB, GV về 5 phương pháp thường dùng để giáo dục lao động thì chỉ có phương pháp “Thực hiện giáo dục lao động qua việc yêu cầu học sinh chấp hành nội quy lớp, trường” được đánh giá rất tốt (65,5%) với ĐTB là 4,65 và nội dung “Kết hợp với Đội TNTP HCM tổ chức các hội thi” cũng được đánh giá ở mức tốt (58,4%) với ĐTB là 4,14. Điều này chứng tỏ cả 6 trường được khảo sát đều chú trọng đến việc rèn luyện cho học sinh chấp hành tốt nội quy trường lớp và tổ chức các hội thi để các em tham gia. Tuy nhiên khi tham gia các hội thi thì chỉ có một số em tham gia (những em có năng khiếu). Thậm chí có những hội thi GVCN và CMHS lại làm thay các em như: Hội thi “Lễ hội trăng rằm” (làm lồng đèn trung thu), hội thi “Thời trang giấy” chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam…Do đó các hội thi này chưa rèn được kĩ năng lao động cho các em. Nội dung “Thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt chủ nhiệm” chỉ được đánh giá ở mức “khá” với ĐTB là 3,38. Bởi vì hầu hết GVCN chỉ sử dụng các tiết NGLL và SHCN để nhắc nhở về việc chấp hành nội quy, phổ biến kế hoạch tham gia các hội thi, phong trào của nhà trường chứ GV hầu như chưa sử dụng các tiết này để giáo dục lao động cho các em. Thậm chí nhiều GV còn sử dụng các tiết này để ôn Toán, Tiếng Việt nhất là sắp đến các kì thi. Còn phương pháp “Tích hợp, lồng ghép các môn học” chỉ đạt mức “trung bình” (13,3%). Bởi vì muốn tích hợp lồng ghép thì phải có chương trình tích hợp cụ thể. Tuy nhiên giáo dục lao động cho HS chưa được quy định phải tích hợp vào các môn học nên hầu như trong tiết dạy các môn, GV chỉ có giáo dục HS những điều đơn giản như GVT8 chia sẻ: “Tôi dạy môn Mĩ thuật nhiều năm, trong mỗi tiết dạy tôi chỉ nhắc nhở các em làm bài sạch sẽ, sử dụng tiết kiệm giấy, sử dụng đồ dùng học tập cẩn thận, tránh làm hư hỏng chứ tôi cũng không biết giáo dục thêm gì nữa”. Nội dung được đánh giá ở thứ hạng thấp nhất là “Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm” (3,8%) chỉ đạt mức “yếu” mà thôi. Ở nội dung này, hầu như các trường đều ít tổ chức cho các em. Có chăng chỉ mỗi năm cho các em tham gia hoạt động ngoại khóa là đi tham quan các di tích kết hợp cho các em vui chơi giải trí mà thôi. Hầu như chưa một hoạt động trải nghiệm được tổ chức cho các em tham gia tại đơn vị. Còn kết quả thực hiện của CMHS như thế nào? Chúng ta cùng xem bảng 2.19 dưới đây: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Bảng 2.19. Kết quả thực hiện phương pháp giáo dục lao động cho HS của CMHS

Nhìn vào bảng 2.19 cho thấy, thứ hạng các phương pháp thực hiện mà CMHS đánh giá cũng giống như CB, GV đã đánh giá ở bảng 2.18. Như vậy chúng ta thấy cả nhà trường và CMHS cần phải quan tâm hơn nữa đến việc thực hiện các biện pháp giáo dục lao động cho học sinh.

2.4. Kết quả khảo sát thực trạng về quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Từ thực trạng hoạt động giáo dục lao động ở trường tiểu học, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng về quản lý hoạt động giáo dục lao động. Chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

2.4.1 Nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Để tìm hiểu nhận thức của CB, GV về tầm quan trọng của quản lý giáo dục lao động, chúng tôi đã khảo sát ý kiến của 293 CB, GV thông qua bảng hỏi. Kết quả thu được thể hiện trong bảng 2.20 dưới đây:

Bảng 2.20. Nhận thức của CB, GV về tầm quan trọng của giáo dục lao động cho học sinh

Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.20 cho thấy có đến 84,3 % CB, GV ở các trường TH ở thị xã Dĩ An cho rằng việc quản lý hoạt động giáo dục lao động là “Giúp học sinh tự giác lao động, hiểu được giá trị của lao động, biết quý trọng các thành quả lao động và lao động một cách tự giác và sáng tạo” đạt mức hoàn toàn đồng ý chiếm 15,7% (ĐTB: 4,84). Không có CB, GV nào đánh giá việc quản lý hoạt động giáo dục lao động ở mức “một phần đồng ý”,“không đồng ý”, và “hoàn toàn không đồng ý”. Ở nội dung “Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS trong nhà trường” (ĐTB: 4,73) đạt ở mức “hoàn toàn đồng ý” (73,4%), “đồng ý” (26,6%), không có CB, GV nào đánh giá ở mức “không đồng ý”. Nội dung còn lại “Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự phối hợp giữa các thành viên trong nhà trường cũng như CMHS trong giáo dục ý thức, kĩ năng, thái độ và phương pháp lao động cho HS” (62,5%) với ĐTB = 4,62 và không có CB, GV nào đánh giá ở mức “Không đồng ý”.

Điều đó chứng tỏ đa số CB, GV ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động. Kết quả phỏng vấn QLT3 cho biết: “Việc quản lý ở trong nhà trường là rất quan trọng. Người quản lý cũng như đầu tàu để định hướng, điều chỉnh giúp cho công việc được đi đúng hướng, thống nhất, đồng bộ với nhau”. QLT4 cũng đồng ý với ý kiến đánh giá này: “Tất cả mọi cơ quan, tổ chức, nhà trường nào khi hoạt động thì đều cần đến công tác quản lý để đảm bảo các hoạt động diễn ra đồng nhất với nhau, phối hợp nhịp nhàng để đem lại hiệu quả cao nhất”. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Chúng tôi cũng tiến hành kiểm nghiệm T và Anova để so sánh sự khác biệt về nhận thức đối với tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động giữa các nhóm khách thể xét trên các bình diện khác nhau: độ tuổi, giới tính, thâm niên giảng dạy, trình độ chuyên môn, chức vụ, thâm niên quản lý và đơn vị công tác, kết quả thể hiện trong bảng 2.21 như sau:

Bảng 2.21. So sánh nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động theo các nhóm khách thể

Kết quả ở bảng 2.21 cho thấy, có 1 nhóm khách thể có sự khác biệt trong nhận thức, cụ thể:

Xét theo giới tính: Khi dùng kiểm nghiệm T với độ tin cậy 95% (mức xác xuất 0.05) để so sánh thì cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động giữa hai nhóm khách thể này (P= 0,008<0,05, T=7,225).

Xét theo thâm niên quản lý: Kết quả kiểm nghiệm Anova cho ra trị số P= 0,311>0,05 cho phép kết luận không có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động ở những nhóm khách thể có kinh nghiệm trong công tác quản lý khác nhau. Nhận thức cao nhất (ĐTB: 4,75) thuộc về nhóm khách thể có thâm niên quản lý từ 10 đến 20 năm, tiếp theo (ĐTB: 4,70) thuộc về nhóm khách thể có thâm niên 5 đến 10 năm, tiếp đến là nhóm khách thể có thâm niên từ 20 năm trở lên (ĐTB: 4,66), thấp nhất là nhóm khách thể có thâm niên dưới 5 năm (ĐTB: 4,63).

Xét theo chức vụ: Kết quả kiểm nghiệm Anova cho ra trị số P=0,010<0,05 cho phép kết luận có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động ở những nhóm khách thể có chức vụ khác nhau. Nhận thức cao nhất (ĐTB: 4,77) thuộc về 3 nhóm khách thể có chức vụ là HT, GVCN và giáo viên bộ môn, tiếp theo (ĐTB = 4,68) thuộc về nhóm khách thể có chức vụ là phó hiệu trưởng, thấp nhất là nhóm khách thể có chức vụ là tổ trưởng/tổ phó chuyên môn (ĐTB = 4,66).

Ở các bình diện còn lại (độ tuổi, thâm niên giảng dạy, trình độ chuyên môn, và đơn vị công tác) tất cả trị số P >0,05 (xem phụ lục 8) chứng tỏ không có sự khác biệt ý nghĩa diễn ra ở đây. Như vậy, CBQL, GV cho dù họ ở độ tuổi nào, trình độ chuyên môn hay đơn vị công tác như thế nào đều không ảnh hưởng đến nhận thức của họ đối với tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường.

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho phép chúng tôi kết luận rằng các CB, GV đều nhận thức được tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động trong trường TH, đây là điều rất quan trọng để đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường. Chúng tôi còn tiến hành khảo sát CMHS về tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động và kết quả đạt được thể hiện ở bảng 2.22 như sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Bảng 2.22. Nhận thức của cha mẹ học sinh về tầm quan trọng của giáo dục lao động trong trường TH

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số CMHS đều đánh giá cao tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục lao động, ở cả ba nội dung đều được đánh giá ở mức đồng ý và hoàn toàn đồng ý, không có ý kiến nào đánh giá ở mức “hoàn toàn không đồng ý”, “không đồng ý” và “một phần đồng ý”.

2.4.2. Thực trạng việc lập kế hoạch giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Có thể nói khâu “Lập kế hoạch” là khâu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý của bất kỳ một cán bộ quản lý nào. Do đó lập kế hoạch trong quản lý hoạt động giáo dục lao động đảm bảo cho các hoạt động giáo dục lao động được thực hiện thường xuyên, liên tục, đồng bộ và thống nhất, đồng thời công tác kiểm tra, giám sát cũng diễn ra thuận lợi hơn. Xử lý phiếu khảo sát ý kiến chúng tôi thu được kết quả như sau:

Căn cứ biểu đồ 2.2 có thể nhận thấy, có 8 nội dung về việc lập kế hoạch giáo dục lao động ở 6 trường TH công lập ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đây đều là những nội dung cơ bản trong công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động của các nhà quản lý giáo dục. Tuy nhiên, cũng cần phải bàn thêm, các cán bộ quản lý đã thực hiện những nội dung này như thế nào? Ở nội dung “Phân tích được thực trạng giáo dục lao động của nhà trường” mức độ thực hiện tốt (tỉ lệ 7,2%) CBQL và GV được hỏi cho rằng, các trường chưa phân tích được thực trạng về hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường. Nội dung “Rà soát lại CSVC cần thiết phục vụ cho hoạt động giáo dục lao động trong năm ở mức độ tốt (tỉ lệ 10,2%). Từ đó, có kế hoạch mua sắm các dụng cụ lao động vệ sinh trong lớp, vệ sinh toàn trường”. Như vậy hầu hết các trường đều có dự trù mua sắm các dụng cụ lao động để phục vụ cho việc lao động vệ sinh lớp, trường nhưng mức độ thực hiện cũng chỉ ở khoảng “trung bình”. Còn các nội dung xếp ở các thứ hạng 3,4,5,6 chỉ được đánh giá ở mức độ “trung bình” (tỉ lệ tốt từ 2,7% đến 6,8%). Thấp nhất là nội dung “Lập kế hoạch tổ chức tọa đàm, trao đổi cho GV, CNV hiểu rõ về tầm quan trọng của việc giáo dục lao động trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh” (tỉ lệ tốt 6,5%) và “Lập kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng GV về nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục lao động cho HS tiểu học” (tỉ lệ tốt 1,0 %). Kết quả này cho chúng ta thấy rằng các trường tiểu học chưa có đưa vào kế hoạch về việc tọa đàm hay tập huấn để GV biết nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục lao động cho HS. Nguyên nhân của thực trạng này có thể xuất phát từ việc một số cán bộ quản lý còn chưa đi sâu đi sát với thực tiễn hoạt động giáo dục lao động tại đơn vị. QLT7 chi sẻ: “Khi lập kế hoạch năm học, nhà trường thường căn cứ vào kế hoạch chung của phòng Giáo dục thị xã Dĩ An. Trong kế hoạch của phòng Giáo dục không có nội dung giáo dục lao động nên chúng tôi không dám đưa vào một cách cụ thể mà chỉ nhắc nhở trong các cuộc họp hội đồng hoặc chuyên môn mà thôi”. Trong khi đó, muốn bất kỳ một hoạt động giáo dục nào thực hiện có hiệu quả thì việc lập kế hoạch là một bước quan trọng quyết định thành công của hoạt động giáo dục đó. Thực trạng này cho thấy cần có sự thống nhất từ trên xuống về việc quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Chúng tôi cũng tiến hành kiểm nghiệm T và Anova để so sánh sự khác biệt về việc lập kế hoạch giáo dục lao động giữa các nhóm khách thể kết quả thể hiện trong bảng 2.23 như sau:

Xét theo giới tính: Khi dùng kiểm nghiệm T với độ tin cậy 95% (mức xác xuất 0.05) để so sánh thì cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ nhận thức về việc lập kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục lao động giữa hai nhóm khách thể này (P= 0,332>0,05, T= 0,944). Trong đó, nhóm khách thể nam (ĐTB: 2,61) có nhận thức cao hơn so với nhóm khách thể nữ (ĐTB: 2,55).

Xét theo thâm niên quản lý: Kết quả kiểm nghiệm Anova cho ra trị số P= 0,395>0,05 cho phép kết luận không có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ nhận thức về tầm quan trọng của việc lập kế hoạch giáo dục lao động ở những nhóm khách thể có kinh nghiệm trong công tác quản lý khác nhau. Nhận thức cao nhất (ĐTB: 2,71) thuộc về nhóm khách thể có thâm niên quản lý từ từ 20 năm trở lên, tiếp theo (ĐTB: 2,65) thuộc về nhóm khách thể có thâm niên 5 đến 10 năm, tiếp đến là nhóm khách thể có thâm niên từ 10 năm đến 20 năm (ĐTB: 2,61), thấp nhất là nhóm khách thể có thâm niên dưới 5 năm (ĐTB: 2,52).

Ở các bình diện còn lại (độ tuổi, thâm niên giảng dạy, trình độ chuyên môn và đơn vị công tác) tất cả trị số P >0,05 chứng tỏ không có sự khác biệt ý nghĩa nào diễn ra ở đây. Như vậy, CBQL, GV cho dù họ ở độ tuổi nào, trình độ chuyên môn hay đơn vị công tác như thế nào đều không ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường.

Khi nghiên cứu các kế hoạch chiến lược của các trường, tôi nhận thấy chưa có một kế hoạch nào thể hiện nội dung quản lý hoạt động giáo dục lao động. Cụ thể như các vấn đề ưu tiên trong kế hoạch chiến lược của trường tiểu học Tân Bình chỉ có các nội dung sau:

  • Đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi học sinh.
  • Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên.
  • Tăng cường công tác tham mưu đầu tư cơ sở vật chất.
  • Thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục.
  • Ứng dụng CNTT trong dạy – học và công tác quản lý.

Tóm lại, Từ kết quả nghiên cứu các bản kế hoạch và xử lý số liệu thống kê cho phép chúng tôi kết luận rằng các CB, GV đều chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch giáo dục lao động trong việc thực hiện giáo dục lao động trong trường tiểu học. Đa số CB, GV đều chỉ quan tâm đến việc tham gia giữ gìn vệ sinh trường lớp, tổ chức các hội thi, đầu tư cơ sở vật chất để phục vụ công tác dạy và học chứ chưa đi sâu công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động trong trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An như hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

2.4.3. Thực trạng công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Để tìm hiểu thực trạng công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 121 CBQL và GV các trường tiểu học thị xã Dĩ An, kết quả thu được thể hiện ở bảng 2.24 như sau:

Bảng 2.24. Mức độ thực hiện công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động cho học sinh của CB, GV

Học sinh tiểu học là lứa tuổi đang phát triển cả thể chất và tinh thần. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao. Vậy giáo dục lao động là một trong những nội dung giáo dục quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục ở bậc tiểu học. Do đó công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động cần phải đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nhằm thu hút HS tham gia. Nếu không tổ chức tốt thì có thể sẽ gây ra hiệu quả ngược lại. Trong đó, CBQL đóng vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức hoạt động giáo dục lao động. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường chưa thực sự quan tâm đến việc tổ chức hoạt động giáo dục lao động cho HS. Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.24 cho thấy nội dung “Kết hợp với tổ chức đoàn thể trong trường tổ chức các hội thi” xếp thứ hạng thứ nhất (ĐTB: 4,08) tức là mức độ thực hiện “tốt”. Nội dung thực hiện ở mức độ “khá” (ĐTB: 3,93) là “Kết hợp với Đội TNTP HCM đưa nội dung giữ gìn vệ sinh lớp học, trường học vào thi đua hàng tuần giữa các lớp”. Các nội dung thực hiện ở mức độ “yếu” như “Tăng cường công tác chủ nhiệm, nhắc nhở giáo viên theo dõi, quan sát thái độ của HS trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân, giữ gìn đồ dùng học tập, tinh thần tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao” (ĐTB: 2,44), “Trang bị đầy đủ các tiết thực hành, thí nghiệm tại lớp. Đối với các môn thực hành như thủ công, kĩ thuật, khoa học, cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ thực hành để đảm bảo tất cả các em được thực hành và tự thể hiện sự sáng tạo” (ĐTB: 2,42) ;“Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các hoạt động ngoài giờ lên lớp để các em được tham gia các hoạt động lao động đơn giản” (ĐTB: 2,39); “Thành lập đội sao đỏ theo dõi ý thức lao động của các em HS nhằm phát hiện những em tự giác giữ gìn vệ sinh chung để nêu gương trong giờ sinh hoạt đầu tuần” (ĐTB: 2,10) và mức độ thực hiện thấp nhất là “Tham mưu với địa phương tổ chức phong trào chủ nhật xanh, ngày thứ bảy tình nguyện chăm sóc di tích lịch sử tại địa phương, vệ sinh đường phố.”(ĐTB: 2,08). Như vậy kết quả này cho thấy, đa số CB, GV chưa tổ chức tốt các hoạt động giáo dục lao động cho HS, chủ yếu là tổ chức các hội thi theo chủ điểm các ngày lễ lớn trong năm. Tuy nhiên việc tổ chức các hội thi chỉ có một số em tham gia thì cũng chưa thể rèn được ý thức, thái độ, kĩ năng lao động cho các em. Như chúng ta đã biết biện pháp giáo dục hiệu quả nhất là “nêu gương”, tuy nhiên nội dung này chỉ xếp thứ hạng thứ 6 trong 7 nội dung tổ chức hoạt động giáo dục lao động cho các em. Một trong những nội dung giáo dục lao động cho HS ở bậc tiểu học là lao động công ích. Tuy nhiên nội dung này chỉ được xếp ở thứ hạng cuối cùng và thực hiện ở mức độ “yếu” (ĐTB:2,08). Điều này chứng tỏ mức độ tổ chức các hoạt động giáo dục lao động chưa được quan tâm đúng mức và đây là điều đáng kể cho CB, GV phải suy nghĩ.

Chúng tôi cũng tiến hành kiểm nghiệm T và Anova để so sánh sự khác biệt về công tác tổ chức hoạt động giáo dục lao động giữa các nhóm khách thể khác nhau được kết quả như sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Bảng 2.25. So sánh nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục lao động theo các nhóm khách thể

Kết quả bảng 2.25 cho thấy xét trên các bình diện khác nhau: độ tuổi, giới tính, thâm niên giảng dạy, trình độ CM, chức vụ, thâm niên quản lý và đơn vị công tác cho thấy, tất cả trị số P > 0,05 chứng tỏ không có sự khác biệt ý nghĩa diễn ra ở đây. Như vậy, CBQL, GV cho dù họ ở giới tính nào, độ tuổi bao nhiêu, trình độ hay thâm niên công tác đều không ảnh hưởng đến mức độ tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục lao động cho HS tiểu học.

2.4.4. Thực trạng công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Chỉ đạo là một trong những chức năng quan trọng của quản lý. Muốn hoạt động giáo dục lao động đạt hiệu quả thì công tác chỉ đạo của CBQL trong trường đóng vai trò rất quan trọng. Qua tiếp xúc và phỏng vấn CBQL các trường TH, chúng tôi ghi nhận một số ý kiến về thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục lao động như sau: QLT1 có ý kiến: “Chúng tôi thường căn cứ vào những hoạt động, phong trào và nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường để chỉ đạo và tạo điều kiện GV và HS tham gia chứ không chú trọng vào những nội dung chưa được cấp trên yêu cầu thực hiện”. QLT3 cho biết: “Ở bậc tiểu học thì các em chỉ cần biết giữ gìn vệ sinh trường lớp, hoàn thành nhiệm vụ học tập trên lớp và ở nhà là tốt rồi, không cần cho các em tham gia lao động. Bởi vì những việc đó khi lớn lên các em sẽ tự biết mà làm…”. QLT4 có ý kiến: “Nhà trường tạo điều kiện cho GV tự tổ chức các hoạt động lao động tại lớp, trong sân trường…nhưng do kiến thức phải cung cấp cho các em quá nhiều nên GV cũng chỉ cho các em vệ sinh lớp, thỉnh thoảng vệ sinh sân trường khi cần thiết”.

Nhìn chung, các ý kiến đều cho thấy CBQL tại các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An đã bắt đầu quan tâm đến giáo dục lao động. Tuy nhiên mức độ chỉ đạo hoạt động giáo dục lao động còn nhiều hạn chế.

Để tìm hiểu rõ những hạn chế trong công tác chỉ đạo thực hiện giáo dục lao động của CBQL, Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục lao động của CBQL, GV của 6 trường công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An và đạt được kết quả thể hiện ở bảng 2.26 như sau:

Bảng 2.26. Mức độ thực hiện công tác chỉ đạo hoạt động giáo dục lao động cho học sinh của CB, GV

Qua bảng 2.26 cho thấy cả 11 nội dung chỉ đạo quản lý hoạt động giáo dục lao động nhưng chỉ có 4 nội dung là được CBQL và GV đánh giá là được thực hiện ở mức độ “tốt”. Cụ thể như sau: Nội dung “Tạo điều kiện tham gia cho HS tham gia hội thi “Sáng tạo trẻ” dành cho thiếu niên và nhi đồng hàng năm do Hội đồng Đội Trung Ương tổ chức” (ĐTB: 4,37); “Động viên, khích lệ GV nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nề nếp dạy học, thực hiện nội quy trường lớp, chú trọng rèn kĩ năng sống cho HS” (ĐTB: 4,32); “Thường xuyên chỉ đạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo HS. Từ đó, nâng cao ý thức tự thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp cũng như ở nhà” (ĐTB: 4,32) ; “Thường xuyên chỉ đạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục HS. Từ đó, nâng cao ý thức tự thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp cũng như ở nhà” (ĐTB: 4,11).

Ở nội dung xếp thứ hạng thứ 5 là “Chỉ đạo GV lồng ghép, tích hợp giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng lao động và phương pháp lao động qua các môn học như: Đạo đức, Kĩ thuật, Khoa học,…” được đánh giá ở mức độ “yếu” với ĐTB: 2,67. Tuy nhiên ở nội dung xếp thứ hạng thứ 5 chỉ có 14,3% CB, GV đánh giá ở mức tốt. Các nội dung được xếp thứ hạng 6,7,8,9,10 chỉ được thực hiện ở mức độ “yếu” với ĐTB từ 2,05 đến 2,26. Trong đó có 3 nội dung là “Chỉ đạo quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục lao động.”; “Chỉ đạo GV coi trọng công tác đảm bảo an toàn lao động cho các em khi tham gia các hoạt động lao động”; “Chỉ đạo cho GVCN đưa nội dung giáo dục lao động trong các cuộc họp CMHS để tranh thủ sự đồng thuận của CMHS trong việc giáo dục cho các em tại nhà từ những việc nhỏ nhất” và “Chỉ đạo GV giáo dục cho HS hiểu giá trị của lao động thông qua hoạt động trồng cây, tạo mảng xanh trong lớp, thành lập các phòng thí nghiệm để các em tự tay làm nên những sản phẩm phục vụ nhiệm vụ học tập” không có một CB, GV nào đánh giá mức độ thực hiện là “tốt”. Từ kết quả trên cho thấy CB, GV chưa quan tâm đến việc chỉ đạo thực hiện các nội dung giáo dục lao động cho các em HS. Đây là vấn đề đáng để chúng ta suy nghĩ.

2.4.5. Thực trạng công tác kiểm tra các hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Kiểm tra, đánh giá là một trong những chức năng quan trọng của công tác quản lý. Muốn các hoạt động giáo dục nói chung và hoạt động giáo dục lao động nói riêng đạt được hiệu quả thì công tác kiểm tra đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì có kiểm tra, đánh giá, khen thưởng kịp thời thì các CB, GV mới thực hiện công việc một cách nghiêm túc và hiệu quả. Chúng ta đã tiến hành khảo sát mức độ thực hiện công tác kiểm tra hoạt động giáo dục lao động và thu được kết quả thể hiện ở biểu đồ 2.4 như sau:

Biểu đồ 2.4. Mức độ thực hiện công tác kiểm tra hoạt động giáo dục lao động cho học sinh của CB, GV

Kết quả của biểu đồ 2.4 cho thấy, hầu như các trường chưa quan tâm đến việc kiểm tra mức độ thực hiện giáo dục lao động. Cụ thể như ở nội dung “Kiểm tra việc tích hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục lao động qua các môn học, hoạt động dự giờ, thao giảng”; “Kiểm tra đánh giá việc giáo dục lao động cho HS qua các phong trào, các hoạt động trải nghiệm”; “Xây dựng và ban hành các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu trong giáo dục lao động cho HS”; “Tuyên dương, khen thưởng những GV thực hiện tốt giáo dục lao động cho HS” không có CB, GV nào đánh giá ở mức “khá” và “tốt”. Còn 2 nội dung còn lại có đánh giá ở mức độ khá, tốt nhưng rất ít, cụ thể như sau:” Tuyên dương, khen thưởng các HS, nhóm HS, lớp HS thực hiện tốt phong trào thi đua, hoạt động học tập, hoạt động trải nghiệm… nêu gương điển hình các cá nhân (HS) tiêu biểu có ý thức tự giác trong lao động để các em noi theo” (khá: 2%, tốt: 3,1%); “Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện kế hoạch giáo dục lao động của nhà trường, tổ chuyên môn và GV” (khá: 4,1%, tốt: 4,8). Hai nội dung này được thực hiện lồng ghép trong tiết sinh hoạt dưới cờ hàng tuần của tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh chứ chưa có một buổi tổng kết, đánh giá hay tuyên dương khen thưởng về hoạt động giáo dục lao động cho HS. Khi thực hiện tính ĐTB, chúng tôi thấy, hầu như các nội dung đều được thực hiện ở mức độ khoảng trung bình, yếu thể hiện ở bảng 2.27 như sau:

Bảng 2.27. Mức độ thực hiện công tác kiểm tra hoạt động giáo dục lao động cho học sinh của CB, GV

Kết quả thể hiện ở bảng 2.27 cho thấy có 6 nội dung kiểm tra hoạt động giáo dục lao động nhưng trong đó chỉ có 4 nội dung xếp thứ hạng từ 1 đến 4 có ĐTB từ 1,94 đến 2,19 tức là mức độ thực hiện chỉ ở mức “yếu” còn 2 nội dung xếp thứ hạng từ 5 đến 6 có ĐTB từ 1,62 đến 1,80 tức là mức độ thực hiện chỉ ở mức “kém”. Trong khi đó công tác kiểm tra đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động. Trong đó có đến 4 nội dung xếp thứ hạng 1,2,3,6 không có một CB, GV nào đánh giá mức độ thực hiện khá và tốt. Đây là vấn đề ảnh hưởng lớn đến chất lượng các hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường hiện nay. Bất kỳ hoạt động nào khi thực hiện cũng cần phải sơ kết, tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm. Từ đó đề ra các biện pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Thậm chí trong quá trình thực hiện cũng cần phải kiểm tra đột xuất nhằm phát hiện những thiếu sót và điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó công tác khen thưởng cho CB, GV và HS có thành tích tốt trong các hoạt động là một việc làm không thể thiếu nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc. Tuy nhiên những việc này chỉ được đánh giá ở mức kém như: Nội dung “Tuyên dương, khen thưởng các HS, nhóm HS, lớp HS thực hiện tốt phong trào thi đua, hoạt động học tập, hoạt động trải nghiệm… nêu gương điển hình các cá nhân (HS) tiêu biểu có ý thức tự giác trong lao động để các em noi theo” (ĐTB = 1,94), chỉ có 3,1% CB, GV đánh giá ở mức “tốt” còn nội dung “Tuyên dương, khen thưởng những GV thực hiện tốt giáo dục lao động cho HS”(ĐTB = 1,62), không có 1 CB, GV nào đánh giá mức độ thực hiện ở mức độ khá, tốt. Những con số này làm cho chúng ta thật sự lo lắng về việc thực hiện giáo dục lao động trong trường tiểu học hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Thực trạng này cho thấy, cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường có như vậy mới có thể làm cho hoạt động giáo dục lao động thực hiện thường xuyên và hiệu quả.

2.5. Thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh ở trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

2.5.1. Yếu tố thuận lợi

Khi thực hiện bất kỳ việc gì thì cũng có những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục lao động. Chúng ta đã tiến hành khảo sát những yếu tố thuận lợi và đã thu được kết quả thể hiện ở bảng 2.28 như sau:

Bảng 2.28. Ý kiến của CB, GV về các yếu tố thuận lợi ảnh hưởng đến quản lí hoạt động giáo dục lao động cho học sinh

Trong số 12 yếu tố thuận lợi trong công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động ở trường TH công lập tại thị xã Dĩ An, có 5 yếu tố khách quan và 7 yếu tố chủ quan.

Về yếu tố khách quan: Qua kết quả khảo sát chúng ta thấy cả 5 yếu tố ảnh hưởng đều được đánh giá ở mức độ “kém” với ĐTB từ 1,75 đến 1,94. Điều này chứng tỏ rằng hoạt động giáo dục lao động chưa được sự quan tâm, chỉ đạo của cấp trên, sự sâu sát của Ban giám hiệu, sự đồng thuận của CMHS. Trong các yếu tố khách quan, yếu tố được đánh giá không thuận lợi nhiều nhất đó là “Có đầy đủ các văn bản hướng dẫn về giáo dục lao động” (51,5%), thứ hai là “Sự quan tâm của cơ quan quản lý giáo dục cấp trên đối với hoạt động giáo dục lao động” (36,9%). Điều này chứng tỏ hoạt động giáo dục lao động chưa có một văn bản chỉ đạo cụ thể nào. Chính vì vậy mà Phòng Giáo dục và Đào tạo nói chung, các trường tiểu học nói riêng chưa mạnh dạn đưa nội dung giáo dục lao động vào chương trình giáo dục chung của nhà trường. Ngoài ra còn có những yếu tố ảnh hưởng không thuận lợi như “Sự cộng tác và phối hợp của CMHS đối với hoạt động giáo dục lao động”(ĐTB: 1,92). Đây là một yếu tố quan trọng xếp thứ hạng thứ 2 trong các yếu tố ảnh hưởng không thuận lợi. Yếu tố này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động giáo dục lao động. Ở nội dung “Sự quan tâm của CMHS đối với hoạt động giáo dục lao động” (ĐTB: 1,82), “Sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của HT nhà trường đối với hoạt động giáo dục lao động”(ĐTB: 1,94). Như vậy, hầu hết các yếu tố chủ quan đều ảnh hưởng không thuận lợi đến hoạt động giáo dục lao động. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Trong các yếu tố ảnh hưởng không thuận lợi chúng ta cần quan tâm đến sự phối hợp giữa CMHS và nhà trường trong việc giáo dục lao động cho các em. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 204 CMHS về sự phối hợp này và kết quả thu được ở biểu đồ 2.5 như sau:

Biểu đồ 2.5. Ý kiến của CMHS về sự phối hợp giữa nhà trường và CMHS trong việc thực hiện giáo dục lao động cho học sinh

Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 2.5 cho thấy, sự phối hợp giữa nhà trường và CMHS trong việc thực hiện giáo dục lao động cho HS của CMHS chưa tốt. Ở số liệu lựa chọn các mức độ thường xuyên cũng cho thấy, có đến 37,7% ở mức độ “không khi nào”; 28,4% ở mức độ “ít khi”, 14,7 % ở mức độ “thỉnh thoảng”, 13,2% đánh giá ở mức độ “thường xuyên” và chỉ có 5,9% đánh giá ở mức độ “rất thường xuyên”. Số liệu này cho thấy nhà trường và CMHS chưa phối hợp thường xuyên trong việc giáo dục lao động cho HS. Như chúng ta đã biết giáo dục học sinh cần phải có sự phối hợp cả 3 môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội và hoạt động giáo dục lao động cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên kết quả này cũng là một yếu tố gây khó khăn không nhỏ đến chất lượng hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường.

Về yếu tố chủ quan: Kết quả khảo sát ở bảng 2.28, chúng ta thấy các yếu tố thuận lợi đều được đánh giá ở mức “tốt” có ĐTB từ 4,12 đến 4,77. Thuận lợi nhất là “HT nhà trường có năng lực và phẩm chất tốt” (ĐTB: 4,77). Ngoài ra còn nhiều yếu tố thuận lợi như chiến lược phát triển nhà trường đúng đắn; CB, GV có phẩm chất đạo đức tốt, học sinh chăm ngoan,…Tuy nhiên yếu tố không thuận lợi nhất là “Có sự cộng tác và phối hợp tốt của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường trong giáo dục lao động cho HS”( ĐTB: 1,75). Người ta thường nói “không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh tập thể”. Bất kỳ một hoạt động nào, muốn thành công thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các đoàn thể trong nhà trường. Với yếu tố không thuận lợi này đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động giáo dục lao động cho HS ở các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2.5.2. Yếu tố khó khăn

Khi thực hiện hoạt động giáo dục lao động bên cạnh những thuận lợi thì cũng còn không ít những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý hoạt động giáo dục lao động. Chúng tôi đã tiến hành hỏi ý kiến của 204 CB, GV về những yếu tố khó khăn và kết quả thể hiện ở bảng 2.29 như sau:

Bảng 2.29. Ý kiến của CB, GV về các yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến quản lí hoạt động giáo dục lao động cho HS

Khi khảo sát về 14 yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động giáo dục lao động, chúng tôi đã liệt kê ra những khó khăn thuộc về yếu tố khách quan và những khó khăn thuộc về yếu tố chủ quan và kết quả đạt được như sau:

  • Về yếu tố khách quan: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Yếu tố khó khăn đầu tiên phải kể đến là” CMHS không muốn cho HS tham gia các hoạt động giáo dục lao động vì sợ ảnh hưởng đến việc học của các em” (ĐTB: 4,53) được xếp ở vị trí đầu tiên và được đánh giá là ảnh hưởng “rất nhiều” đến công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động ở trường TH. Là một hoạt động được các CB, GV đánh giá là không thể thiếu trong quá trình dạy học ở trường nhằm hình thành và phát triển nhân cách HS nhưng thực tế những năm vừa qua, hoạt động này không nhận được nhiều sự quan tâm của CMHS. Rất nhiều HS và CMHS cho rằng ở trường cần chú trọng cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết của lớp học không cần cho các em tham gia vào hoạt động giáo dục lao động. Thậm chí nhiều CMHS còn đề nghị đóng thêm tiền để thuê phục vụ làm vệ sinh lớp, trường. vì khi cho các em làm thì sợ ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em. Chính vì vậy sự quan tâm đến việc giáo dục lao động cho các em ở trường cũng bị bỏ ngỏ. Cùng với việc tham gia hoạt động giáo dục lao động cũng không nằm trong nội dung đánh giá việc lên lớp hay ở lại lớp của các em.

Còn yếu tố “Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giáo dục lao động còn hạn chế” (ĐTB: 2,17) chỉ được đánh giá ở mức độ “yếu”. Các yếu tố còn lại chỉ được đánh giá ở mức độ “yếu” có ĐTB từ 1,81 đến 1,90. Điều này chứng tỏ các yếu tố này không ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoạt động giáo dục lao động cho học sinh tiểu học.

Đồng thời, chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát về mức độ đồng ý của cha mẹ học sinh về việc tham gia lao động của các em tại trường và thu được kết quả thể hiện ở bảng 2.30 như sau:

Bảng 2.30. Mức độ đồng ý của cha mẹ học sinh về việc tham gia các hoạt động lao động của học sinh tại trường.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết cha mẹ học sinh đánh giá mức độ “rất đồng ý” ở nội dung “Học sinh tự hoàn thành các sản phẩm thủ công, kĩ thuật..”(ĐTB: 4,21). Điều đáng quan tâm là các nội dung được xếp thứ hạng từ 2 đến 6 được đánh giá ở khoảng “yếu” với ĐTB từ 2,03 đến 2,51. Trong đó, không có CMHS nào đồng ý cho học sinh tham gia nội dung “Tham gia hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm do nhà trường tổ chức”. Đây là vấn đề gây khó khăn rất lớn đến việc tổ chức các hoạt động giáo dục lao động tại trường mà HT cần quan tâm.

  • Về yếu tố chủ quan:

Yếu tố khó khăn đầu tiên phải kể đến là “Thiếu chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất về giáo dục lao động từ trên xuống”(ĐTB: 4,47), được xếp ở vị trí đầu tiên và được đánh giá là ảnh hưởng “rất nhiều” đến công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động ở nhà trường TH. Thứ hạng thứ 2,3 được đánh giá ở mức ảnh hưởng “rất nhiều”, có ĐTB từ 3,71 đến 4,29. Tóm lại 3 yếu tố xếp thứ hạng 1,2,3 ảnh hưởng rất nhiều đến việc quản lý hoạt động giáo dục lao động. Bởi vì khi thực hiện bất kì một nội dung giáo dục nào cũng cần có sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống. Thông thường những qui định của Phòng, Sở, Bộ thì các thành viên trong nhà sẽ thống nhất và thực hiện theo. Đa số CB, GV chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục lao động là yếu tố khó khăn xếp hạng thứ với ĐTB = 4,29. Yếu tố khó khăn xếp thứ hạng thứ 3 là “CBQL chưa kiểm tra thường xuyên hoạt động giáo dục lao động” (ĐTB: 3,21) tức là ở mức độ “khó khăn”. Đánh giá ở mức độ “bình thường là yếu tố “Ý thức lao động vệ sinh trường, lớp của học sinh chưa cao” (ĐTB: 2,86). Còn các yếu tố xếp thứ hạng từ 5 đến 9 với ĐTB từ 1,47 đến 1,69, chứng tỏ rằng các yếu tố này không ảnh hưởng nhiều đến quản lý hoạt động giáo dục ở trường tiểu học. Như vậy trong những yếu tố khó khăn chủ quan chúng ta cần phải khắc phục là cần phải có sự chỉ đạo thống nhất về hoạt động giáo dục lao động trong trường tiểu học, CBQL cần phải nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm của giáo viên, kiểm tra thường xuyên hoạt động giáo dục lao động nhằm nâng cao hiệu quả của việc tổ chức hoạt động giáo dục lao động góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

2.6. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục lao động của hiệu trưởng các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương

2.6.1. Ưu điểm

Qua khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, chúng tôi rút ra một số nhận định sau đây:

CB-GV nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng của hoạt động giáo dục lao động cũng như công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường.

Đa số CB- GV có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, mến trẻ, trách nhiệm trong công việc và thực hiện tốt nề nếp lớp học, tích cực giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh trường, lớp sạch sẽ.

Trong quá trình quản lý và chỉ đạo hoạt động giáo dục lao động, các HT đã nhận thức đúng đắn về yêu cầu, mục tiêu và tầm quan trọng của giáo dục lao động trong trường tiểu học.

Các trường đã quản lý tốt việc thực hiện nề nếp của HS trong quá trình học tập nói chung và tham gia các phong trào, các hội thi, kết hợp với tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh đưa nội dung giáo dục lao động vào nội dung thi đua giữa các lớp hàng tuần. Phần lớn HS ngoan ngoãn, chấp hành tốt nội quy của nhà trường trong quá trình học tập.

HT luôn tạo điều kiện cho GV học tập, nâng cao trình độ, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng rèn luyện ý thức tự học và hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện của học sinh.

Tích cực rà soát lại cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động giáo dục lao động.

2.6.2. Hạn chế Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn về việc tổ chức hoạt động giáo dục lao động cho học sinh tiểu học, lãnh đạo cấp trên chưa thực sự quan tâm về các hoạt động giáo dục lao động và chưa qui định lồng ghép các nội dung giáo dục lao động vào các môn học.

Các trường chưa thực sự chú trọng đến giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng và phương pháp giáo dục lao động nên kết quả thực hiện còn thấp.

Hiệu trưởng chưa đưa nội dung giáo dục lao động vào kế hoạch chiến lược, kế hoạch năm học mà chủ yếu chỉ nhắc nhở giáo viên giáo dục học sinh về việc giữ gìn vệ sinh trường lớp, cơ sở vật chất của nhà trường.

Việc tổ chức các hoạt động giáo dục lao động còn sơ sài, chủ yếu là tổ chức các hội thi nhân kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm, chưa có sự chỉ đạo cụ thể về việc giáo dục lao động cho học sinh.

Một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục lao động đối với sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh nên chưa chú trọng đến việc rèn ý thức, kĩ năng, thái độ và phương pháp lao động cho học sinh.

HT chưa có kiểm tra, đánh giá, khen thưởng kịp thời những GV, HS thực hiện tốt hoạt động giáo dục lao động nên chưa phát huy được tính tự giác của các em trong việc thực hiện lao động trong lớp, trường.

Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục lao động cho các em.

Hoạt động giáo dục lao động cộng đồng chưa được lãnh đạo các cấp quan tâm và tổ chức thực hiện như vệ sinh đường phố, chăm sóc di tích lịch sử cách mạng tại địa phương, ngày thứ 7 tình nguyện, chủ nhật xanh,..

Hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm hầu như chưa được tổ chức mà hầu hết mỗi năm chỉ cho các em tham quan du lịch 1 lần. Hoạt động này chỉ nhằm mục đích vui chơi giải trí chứ chưa mang tính rèn luyện các kĩ năng lao động cho các em.

Cha mẹ học sinh chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục lao động cho học sinh thậm chí nhiều cha mẹ học sinh còn tỏ thái độ phản đối khi học sinh tham gia các hoạt động giáo dục lao động do nhà trường tổ chức.

  • Nguyên nhân khách quan: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Hầu hết các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An chưa được chỉ đạo cụ thể về hoạt động giáo dục lao động. Tình hình kinh tế của tỉnh phát triển và đang hội nhập, đa số cha mẹ học sinh đều có rất ít con nên có sự kì vọng rất nhiều vào con cái mình nên muốn các em tập trung vào các môn học Toán, Tiếng việt và Ngoại ngữ nên cha mẹ không cho các em tham gia các hoạt động lao động của nhà trường.

Hoạt động giáo dục hiện nay chưa có một qui định nào là bắt buộc các trường thực hiện nên hầu hết các trường đều chưa quan tâm nhiều đến việc này.

  • Nguyên nhân chủ quan:

Hầu hết CB-GV nhà trường nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục lao động nhưng chưa được chỉ đạo cũng như hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường.

Hiệu trưởng chưa quan tâm nhiều đến việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục lao động trong nhà trường, chưa có sự đồng thuận của các đoàn thể nhà trường trong việc giáo dục lao động cho các em.

Tiểu kết chương 2

Kết quả nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục lao động và quản lý hoạt động giáo dục lao động ở các trường TH trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cho thấy:

Hầu hết CB-GV đều chưa thực hiện tốt việc giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng và phương pháp giáo dục lao động cho học sinh. Kết quả thực hiện giáo dục lao động được đánh giá ở mức độ “tốt” chỉ thuộc về các nội dung như: Giữ gìn vệ sinh cá nhân, trường lớp; biết kính trọng, lễ phép với nhân viên phục vụ, có thói quen sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, sử dụng tiết kiệm các đồ dùng học tập, còn các nội dung còn lại chỉ được đánh giá ở mức độ “trung bình”, “khá”, thậm chí có nội dung còn được đánh giá ở mức độ “yếu” như “Ý thức tự giác tham gia các hoạt động của Đội TNTPHCM; có ý thức tổ chức, kỷ luật, sẵn sàng lao động”…

Nội dung giáo dục thái độ lao động hầu hết được các trường đánh giá ở mức độ “tốt”. Nhưng cũng có một nội dung đánh giá ở mức độ “yếu” như: “Tự giác tham gia các hoạt động của lớp, trường”.

Hầu hết các nội dung giáo dục kĩ năng lao động đều được GB, GV đánh giá ở mức độ “yếu”, chỉ có một nội dung giáo dục kĩ năng lao động được đánh giá ở mức độ tốt như “Thói quen sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, sử dụng tiết kiệm các đồ dùng học tập”. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

Về nội dung phương pháp giáo dục lao động: Có 5 nội dung trong đó có 3 nội dung được đánh giá ở mức “tốt” là “ thực hiện giáo dục lao động qua việc yêu cầu học sinh chấp hành nội quy lớp, trường”, “Kết hợp với Đội TNTP HCM tổ chức các hội thi”; “Thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt chủ nhiệm”. Tuy nhiên vần còn có nội dung “Tích hợp, lồng ghép các môn học” (chỉ có 13,3% CB, GV chọn ở mức độ “ tốt”). Nội dung “Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm” (chỉ có 3,8% CB-GV chọn ở mức độ “tốt”). Ông bà ta thường nói “Trăm hay không bằng tay quen”, có nghĩa là biện pháp giáo dục lao động hiệu quả nhất là phải tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục lao động để các em được trải nghiệm. Tuy nhiên mức độ đánh giá phương pháp khá thấp. Đây là một vấn đề mà GB, GV cần phải quan tâm nhiều hơn để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục lao động.

Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục lao động cho học sinh được thực hiện “tốt”, nhất là: Kết hợp với tổ chức đoàn thể trong trường tổ chức các hội thi; Tạo điều kiện tham gia cho học sinh tham gia hội thi “Sáng tạo trẻ” dành cho thiếu niên và nhi đồng hàng năm do Hội đồng Đội Trung Ương tổ chức; Động viên, khích lệ giáo viên nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nề nếp dạy học, thực hiện nội quy trường lớp, chú trọng rèn kĩ năng sống cho học sinh”; “Thường xuyên chỉ đạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục học sinh. Từ đó, nâng cao ý thức tự thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp cũng như nhà”, còn hầu hết các nội dung còn lại thì được đánh giá ở mức độ trung bình thậm chí có nội dung còn đánh giá ở mức độ “ yếu” như “Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện kế hoạch giáo dục lao động của nhà trường, tổ chuyên môn và giáo viên” và “Tuyên dương, khen thưởng những giáo viên thực hiện tốt giáo dục lao động cho học sinh”.

Các yếu tố thuận lợi ảnh hưởng nhiều đến công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động gồm: Hiệu trưởng nhà trường và đội ngũ giáo viên có năng lực và phẩm chất tốt; GVCN tận tâm với công việc, yêu nghề, mến trẻ; Hiệu trưởng luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác; Định hướng, mục tiêu và chiến lược phát triển của nhà trường đúng đắn; Học sinh chăm ngoan, chấp hành tốt nội quy trường lớp. Có 5 yếu tố khách quan và 1 yếu tố chủ quan ảnh hưởng không thuận lợi đến hoạt động giáo dục lao động cho học sinh.

Các yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động là “Phụ huynh học sinh không muốn cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục lao động vì sợ ảnh hưởng đến việc học của các em”; “Thiếu chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất về giáo dục lao động từ trên xuống”; “Các thành viên nhà trường nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục lao động trong trường học”; “CBQL chưa kiểm tra thường xuyên hoạt động giáo dục lao động”.

Nhìn chung, công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động trong các trường TH công lập trên địa bàn thị xã Dĩ An đã được thực hiện chưa tốt ở nhiều mặt. Theo kết quả khảo sát hoạt động giáo dục lao động và công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động còn nhiều hạn chế. Từ đó cho thấy sự cần thiết phải có những biện pháp hữu hiệu, đồng bộ để hoàn thiện hơn nữa trong công tác quản lý hoạt động giáo dục lao động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lao động nói riêng và hiệu quả giáo dục nhà trường nói chung. Những biện pháp đề xuất sẽ được trình bày cụ thể trong chương 3 của luận văn. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục lao động cho học sinh.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục lao động ở trường tiểu học

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993