Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát chung về Thành phố Hà Nội và đánh giá sự tác động đến thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập tên địa bàn

2.1.1. Khái quát chung về thành phố Hà Nội

Thủ đô Hà Nội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời. Hà Nội đã chứng kiến sự thăng trầm của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam từ Lý- Trần – Lê – Mạc – Nguyễn… kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc.

Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, toàn bộ hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô  bao gồm: Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành, 577 xã, phường, thị trấn [34]. Tính đến năm 2018, dân số Hà Nội là 8.215.000 người, 55  dân số (tức 4,5 triệu người) sống ở thành thị, 3,7 triệu sống ở nông thôn (chiếm 45 ). Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Kinh tế – xã hội Hà Nội năm 2018 đạt nhiều kết quả nổi bật, tất cả 20 chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch, trong đó, 8 chỉ tiêu vượt kế hoạch: Kim ngạch xuất khẩu tăng 21,6  (kế hoạch 7,5-8 ); tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch đạt 55,5  (kế hoạch 55 ); số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới tăng thêm 30 xã (kế hoạch 26 xã); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 86,5  (kế hoạch 83,5 );… Kinh tế Thủ đô năm 2018 tiếp tục phát triển toàn diện, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 8,65  (theo cách tính mới là 7,37 ) và duy trì năm sau tăng hơn năm trước (năm 2016 tăng 8,2 ; năm 2017 tăng 8,48 ). GRDP bình quân đầu người năm 2018 đạt 4.080USD/người, gấp 1,12 lần năm 2015. Tổng thu ngân sách của thành phố năm 2018 ước đạt 238,8 nghìn tỷ đồng, bằng 100,2  dự toán (tăng 12,6  so với cùng kỳ). Chi ngân sách được thực hiện đúng quy định, tiếp tục tái cơ cấu các khoản chi theo hướng tiết kiệm chi thường xuyên để dành nguồn cho đầu tư phát triển. Năm 2018, tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn 50,8 .

Về giáo dục, từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XV cho tới cuối thế kỷ XIX, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Một thời kì trường thi Hà Nội bị nhập vào với trường Nam Định gọi là trường Hà Nam thi tại Nam Định (1884 đến 1915). Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương, Trường Bách nghệ Hà Nội là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.

Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm 2017, Hà Nội có 719 trường tiểu học, 609 trường trung học cơ sở và 208 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 1.814 nghìn học sinh [27]. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một số trường có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như Trung học Chuyên Hà Nội – Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công. Ngoài ra trên địa bàn Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của các địa phương trong cả nước [27, tr.62].

Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều trường đại học công lập và tư thục đào tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Sau hơn 30 năm đổi mới, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công cuộc xây dựng, phát triển Thủ đô đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng của Thủ đô. Còn nhiều vấn đề bất cập trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội chưa được giải quyết có hiệu quả như công tác quy hoạch, quản lý đô thị; tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh, trong khi cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập; tình trạng ô nhiễm môi trường; nạn ách tắc giao thông; sự xuống cấp của cảnh quan đô thị; tình trạng tăng dân cư tự phát đã gây sức ép lớn đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở khu vực nội thành. Giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều bất cập. Khuôn viên có tính truyền thống, phong cách sư phạm và có hồn văn hóa của những trường lập ra từ xưa nay bị xẻ thịt thành nhà ở, nhà hàng, nhà băng, … Đại học Bách Khoa,  bị cắt bởi đường phố, và còn lập ra cả phường như phường Bách Khoa quận Hai Bà Trưng. Khuôn viên cổ kính của Viện Đại học Đông Dương thì chen vào nhà hàng 23 Lê Thánh Tông phục vụ dân nhậu. Các ký túc xá cũ lẫn mới thường được tạo điều kiện để sinh viên không ở được, như cho hộ gia đình thuê trọ, mở nhà hàng,… để sinh viên tự tìm chỗ ở yên tĩnh mà học tập, từ đó chuyển đổi sử dụng ký túc.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công

2.1.2. Ảnh hưởng các điều kiện kinh tế – văn hoá- chính trị- giáo dục của thành phố Hà Nội đến thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập

Với đặc trưng của thành phố Hà Nội ảnh hưởng không nhỏ khi xây dựng và thực thi thể chế nói chung và thể chế quản lý nhà nước đối với các các trường đại học công lập:

Với vị thế là trung tâm chính trị – văn hoá – kinh tế – xã hội – giáo dục của cả nước đòi hỏi Hà Nội phải không ngừng phát triển trên các lĩnh vực, giáo dục cũng không nằm ngoài hệ thống đó. Mặt khác trong xu thế toàn cầu, hội nhập hiện nay đòi hỏi giáo dục đại học của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung phải không ngừng vươn lên, sánh ngang với các nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó, hoàn thiện thể chê Quản lý Nhà nước đối với các trường Đại học công lập là yêu cầu tiên quyết.

Mặt khác với ưu thế so với các tỉnh, thành phố khác trên cả nước, nên việc đầu tư cho giáo dục trên địa bàn Hà Nội được chú trọng và ưu tiên hơn cả. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng góp phần hoàn thiện thể chế QLNN đối với trường Đại học công lập

Trên địa bàn Hà Nôi có lượng dân đông, trình độ dân trí cao yêu cầu, nắm bắt thông tin nhanh nhạy với mọi cải cách trong lĩnh vực giáo dục. Vì vậy, đòi hỏi cao với sự hoàn thiện về nội dung, hình thức cũng như kỹ thuật lập pháp của thể chế Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập.

2.2. Thực trạng thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hà Nội Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

2.2.1. Thực trạng quy định pháp luật quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội

Các trường đại học công lập đóng trên địa bàn Hà Nội  bao gồm ba nhóm:

  • Trường trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo ( Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Bách Khoa);
  • Trường trực thuộc các Bộ chủ quản khác ( Đại học Luật Hà Nội thuộc Bộ Tư pháp, Học viện Hành chính Quốc gia thuộc Bộ Nội vụ).
  • Trường thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quản lý như: Đại học Thủ đô.

Ngoài ra còn các trường thuộc khối quân đội và công an có cơ chế quản lý rất đặc thù như Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát, Đại học phòng cháy chữa cháy…

Việt Nam là một quốc gia đơn nhất, một hệ thống văn bản pháp luật. Vì thế, thể chế Quản lý Nhà nước đối với các trường Đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội trước hết chịu sự điều chỉnh chung của các văn bản pháp luật của cơ quan trung ương như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học; Quyết định 64/2013/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành điều kiện và thủ tục thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học, học viện; Nghị định 127/2018/ NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2018 Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục; Nghị định 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ về việc tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục; Nghị định 138/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 về quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021;Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học; Nghị định 27/2015/NĐ-CP ngày 10/3/2015 của Chính phủ về việc quy định về xét tặng danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú”; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;  Quyết định 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020; Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ trường đại học; Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Bên cạnh đó, với đặc thù là thủ đô Hà Nội; vì vậy ngày 21/11/2012, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật Thủ đô.  Luật Thủ đô chỉ quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm xây dựng, phát triển Thủ đô – đơn vị hành chính đặc biệt, duy nhất của cả nước, còn những vấn đề gì Luật không quy định thì đương nhiên Hà Nội vẫn phải thực hiện quy định chung của hệ thống pháp luật giống như các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác. Trong lĩnh vực giáo dục tại  Điều 12 Luật Thủ đô quy định về phát triển giáo dục và đào tạo . Theo đó, một trong những mục tiêu ưu tiên của Thủ đô là phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục và đào tạo để trở thành trung tâm hàng đầu của cả nước, có uy tín ở khu vực và quốc tế trong tương lai . Muốn đạt được mục tiêu này thì trước hết phải thực hiện phổ cập và phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông đạt chuẩn quốc gia; xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề trên địa bàn Thủ đô theo hướng tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô và đất nước.

(1). Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh bộ máy Quản lý Nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

Căn cứ vào quy định pháp luật, bộ máy Quản lý Nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội đứng đầu là Chính phủ, sau đó đến Bộ Giáo dục và đào tạo, các Bộ ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Cụ thể   việc Quản lý Nhà nước đối với hệ thống giáo dục SĐH đã được thiết lập như sau:

Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm quản lý nhà nước chung về hoạt động giáo dục của các trường đại học công lập và quản lý trực tiếp một số cơ sở đào tạo đại học công lập. Tại các cơ sở thuộc sự quản lý trực tiếp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp ngân sách và quyết định trực tiếp đến nhân sự và chức năng, nhiệm vụ của các trường này.

Các Bộ khác có trường đại học trực thuộc sẽ chịu trách nhiệm phối hợp Bộ Giáo dục và đào tạo Quản lý Nhà nước theo thẩm quyền. Ví dụ: chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ trong việc bảo đảm các điều kiện về thành lập trường, hoạt động giáo dục, mở ngành đào tạo…; Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc quy định cụ thể việc đào tạo…

Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quản lý hành chính theo lãnh thổ các trường đại học công lập trực thuộc các Bộ đóng trên địa bàn; quản lý các trường đại học công lập trực thuộc thành phố theo điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường do cấp có thẩm quyền ban hành và các quy định của pháp luật. Cụ thể căn cứ theo Nghị định 127/2018/ NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2018 Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục: Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Đối với các trường Đại học công lập trưc thuộc các bộ, Uỷ ban nhân dân chấp thuận việc thành lập cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu cơ sở giáo dục đại học; cấp giấy c hứng nhận đăng ký đầu tư cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài; cấp giấy chứng nhận đầu tư và phê duyệt quy hoạch xây dựng trường,; tham gia thẩm định thực tế đề án thành lập cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn; kiểm tra và xác nhận các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo để Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động giáo dục đối với các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn theo quy định.

Đối với các trường Đại học công lập trực thuộc tỉnh, Uỷ ban nhân dân quản lý các trường đại học công lập trực thuộc tỉnh, trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn, tham mưu giúp việc cho UBND thành phố trong lĩnh vực giáo dục.

(2) Quy định về tổ chức, bộ máy các trường Đại học công lập

Các nội dung này được xác định cụ thể trong Chương II Luật Giáo dục đại học 2012 ( sửa đổi, bổ sung 2018) gồm 14 điều từ Điều 14 đến Điều 27 quy định về cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học nói chung cũng như Đại học công lập nói riêng; thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học; ng đào tạo; sáp nhập, chia tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học).

Căn cứ  Quyết định số 64/2013/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng chính phủ ban hành điều kiện và thủ tục thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học, học viện . Theo quy định tại Quyết định này, trường đại học được phép hoạt động đào tạo khi đáp ứng đủ các điều kiện như: Có quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập trường đại học của Thủ tướng Chính phủ; có đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị, ký túc xá sinh viên, cơ sở phục vụ giáo dục thể chất đáp ứng yêu cầu hoạt động đào tạo theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo; địa điểm xây dựng trường phải đảm bảo về môi trường giáo dục, an toàn cho người dạy, người học và những người lao động theo nội dung Đề án thành lập trường đã cam kết; có chương trình đào tạo và giáo trình, tài liệu giảng dạy, học tập theo quy định; có đủ nguồn lực tài chính để bảo đảm hoạt động của trường đại học; có đội ngũ giảng viên cơ hữu và cán bộ quản lý đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, phù hợp với ngành nghề đào tạo…Hồ sơ đề nghị cho phép hoạt động đào tạo bao gồm: Tờ trình đề nghị cho phép hoạt động đào tạo; báo cáo tình hình thực hiện cam kết theo Đề án thành lập trường; chương trình đào tạo; thuyết minh các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo; dự kiến chỉ tiêu và kế hoạch tuyển sinh. Trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định cho phép trường đại học hoạt động đào tạo. Sau 03 năm kể từ ngày quyết định có hiệu lực, trường đại học vẫn không triển khai hoạt động đào tạo thì quyết định cho phép hoạt động đào tạo này chính thức hết hiệu lực. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Về tổ chức, bộ máy, theo Nghị định 127/2018/ NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2018 Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục,  Chủ tịch UBND thành phố quyết định thành lập hội đồng trường, công nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch hội đồng trường, bổ sung, thay thế thành viên Hội đồng trường; công nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, khen thưởng, kỷ luật đối với hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường đại học công lập trực thuộc tỉnh theo tiêu chuẩn chức danh và thủ tục do pháp luật quy định.

Đối với các trường Đại học công lập trực thuộc Bộ thì thẩm quyền này thuộc về Bộ trưởng bộ “chủ quản”.

Hệ thống các quy định pháp luật về hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học ở trường Đại học công lập.

Hoạt động đào tạo được quy định tại Chương IV Luật Giáo dục đại học, gồm 6 điều (từ Điều 33 đến Điều 38) quy định về mở ngành, chuyên ngành đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh và tổ chức tuyển sinh; chương trình, giáo trình giáo dục đại học; tổ chức và quản lý đào tạo; văn bằng giáo dục đại học.

Cụ thể hoá hơn, ví dụ về chỉ tiêu tuyển sinh, căn cứ quy định của thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT ngày 02/12/2011 quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, Thông tư số 20/2012/TT-BGDĐT ngày 12/6/2012 sửa đổi điều 6 của Thông tư số 57 và Thông tư số 32/2015/TT-BGDĐT ngày 16/12/2015 quy định xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục đại học, các trường Đại học công lập được tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh và đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo theo năm tài chính,. Theo đó, chỉ tiêu tuyển sinh của các trường được xác định chủ yếu dựa trên số lượng đội ngủ giảng viên cơ hữu của trường và diện tích sàn xây dựng phục vụ nhu cầu học tập, thực hành và giải trí của sinh viên. Các chỉ tiêu này có sự khác nhau ở các nhóm ngành cũng như ở các nhóm trường, ví dụ các trường đào tạo nhóm ngành nghệ thuật, nhóm ngành khoa học y học thì tỷ lệ này thường cao hơn các nhóm ngành khoa học xã hội hoặc kinh tế.

Về hoạt động khoa học công nghệ, Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) dành hẳn một chương để quy định về hoạt động khoa học và công nghệ (Chương V), gồm 4 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về mục tiêu hoạt động khoa học và công nghệ; nội dung hoạt động khoa học và công nghệ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động khoa học và công nghệ; trách nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Hệ thống các quy định pháp luật về cơ sở vật chất và chế độ chính sách.

Nội dung này quy định trong Luật giáo dục đại học tại Chương X gồm 4 điều từ Điều 64 đến Điều 67 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy định về nguồn tài chính của cơ sở giáo dục đại học; học phí, lệ phí tuyển sinh; quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học; quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở giáo dục đại học.  Ngoài ra còn được thể chế hóa trong các văn bản hướng dẫn như: Nghị định 86/2015/NĐ-CP Quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021.

Về nguyên tắc xác định học phí của các cơ sở giáo dục đại học tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư theo quy định của Chính phủ được xác định trên cơ sở định mức kinh tế – kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Học phí của các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư theo quy định của Chính phủ được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ của Nhà nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà nước. Trên cơ sở thu việc sử dụng học phí được quy định như sau: “ Cơ sở giáo dục công lập sử dụng học phí theo quy định của Chính phủ về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ sở giáo dục ngoài công lập sử dụng học phí theo quy định của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường” (Điều 14 Nghị định 86/2015/NĐ-CP).

Để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học huy động ngày càng nhiều các nguồn lực đầu tư cho các điều kiện bảo đảm chất lượng, cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, khoản 6 Điều 65 Luật giáo dục đại học quy định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương tr nh đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo”.

Hệ thống các quy định pháp luật về giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo

Chương VIII Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy định chung về giảng viên, gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58): tiêu chuẩn giảng viên; nhiệm vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên không được làm.

Hệ thống các quy định pháp luật về giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục ngoài quy định trong Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) , Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012 còn được điều chỉnh cụ thể trong các văn bản như: Nghị định 24/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục, Thông tư 32/2014/TT-BGDĐT ngày 25/9/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cộng tác viên thanh tra giáo dục, Thông tư 39/2013 hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành giáo dục. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Các văn bản trên đã xác định rõ đối tượng thanh tra chuyên ngành nói chung là các cá nhân, tổ chức trong xã hội tham gia hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực. Trong dó Thanh tra Bộ tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với các trường Đại học công lập đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thanh tra Sở thanh tra chuyên ngành đối với trường Đại học công lập trực thuộc thành phố .

Nội dung thanh tra  trong lĩnh vực giáo dục bao gồm: Xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục; biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu; sản xuất, quản lý, sử dụng thiết bị giáo dục; Thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục; tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục; hoạt động chuyên ngành giáo dục của cơ quan quản lý giáo dục; Thực hiện quy chế chuyên môn; mở ngành đào tạo; quy chế đào tạo; quy chế thi cử; thực hiện nội dung, phương pháp giáo dục; in, quản lý, cấp phát văn bằng, chứng chỉ; Thực hiện quy chế tuyển sinh, quản lý, giáo dục người học và các chế độ chính sách đối với người học; Các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện phổ cập giáo dục; Thực hiện quy định về thu, quản lý, sử dụng học phí, các nguồn lực tài chính khác; Tổ chức quản lý, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ; Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục; Thực hiện các quy định khác của pháp luật về giáo dục.

2.2.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội

Thứ nhất, thực hiện quy định pháp luật điều chỉnh bộ máy quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

Như vậy, các trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) có những mô hình quản lý sau:

Thứ nhất, trường đại học công lập trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ Giáo dục và đào tạo. Theo Quyết định  Quyết định số 1325/QĐ-TTg ngày 27/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (Quyết định 91670/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung) số đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay giảm từ 50 xuống còn 49 đơn vị, bao gồm các trường đại học, viện đại học, trường cao đẳng và một số trung tâm đào tạo, viện nghiên cứu. Trong đó số trường Đại học công lập đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội bao gồm 16 trường: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; Trường Đại học Xây dựng;Trường Đại học Kinh tế quốc dân;Trường Đại học Hà Nội;Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2;Trường Đại học Ngoại thương;Trường Đại học Thương mại;Trường Đại học Giao thông Vận tải;Trường Đại học Mỏ – Địa chất;Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp;Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương;Viện Đại học Mở Hà Nội; Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội;Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội; Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Thứ hai, các trường đại học công lập trực thuộc “kép” của hai bộ: vừa chịu sự quản lý nhà nước về chuyên môn giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo,vừa chịu sự quản lý của Bộ chủ quản. Ví dụ như Đại học Luật Hà Nội thuộc Bộ Tư pháp, Học viện Hành chính Quốc gia thuộc Bộ Nội vụ.

Thứ ba, các trường đại học công lập trực thuộc “kép” Bộ Giáo dục và đào tạo và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội: Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.

Trong cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp tham mưu, giúp Chính phủ Quản lý Nhà nước về giáo dục nói chung và trường Đại học công lập nói riêng là Bộ Giáo dục và đào tạo.

Trong Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ Giáo dục Đại học là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Quản lý Nhà nước về giáo dục đại học. Bên cạnh đó là sự phối hợp với các đơn vị khác như: Vụ Tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, Cục Đào tạo với nước ngoài, Cục khảo thí và kiểm định chất lượng và các đơn vị có liên quan… Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ các đơn vị trên sẽ giúp Vụ Giáo dục đại học tham mưu Bộ trưởng Quản lý Nhà nước. Ví dụ như Cục khảo thí và kiểm định chất lượng sẽ tham mưu về tiêu chuẩn kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục.

Về nhân sự của Vụ Giáo dục Đại học, Bộ trưởng phân công một Thứ trưởng phụ trách chỉ đạo Vụ  thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đại học nói chung trong có có giáo dục SĐH.  Tổng số biên chế của Vụ là 29 người. Lãnh đạo Vụ: 03 người (01 Vụ trưởng và 02 Phó Vụ trưởng). Vụ Giáo dục Đại học không tổ chức thành các các phòng ban, đầu mối công việc trực tiếp là các chuyên viên tiến hành.(tổng số 26 chuyên viên). Về trình độ chuyên môn: số lượng công chức có học hàm, học vị Tiến sĩ, PGS, GS là 12 người số còn lại là Thạc sĩ . Lãnh đạo và chuyên viên Vụ Giáo dục đại học thực hiện quản lý giáo dục đại học và sau đại học theo nguyên tắc: tất cả cán bộ, công chức của Vụ cũng tham gia quản lý, không hình thành các nhóm chuyên trách. Như vậy, trực tiếp giúp việc cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập  sẽ do tất cả 29 thành viên của Vụ Giáo dục Đại học đảm nhận [14].

Thứ hai, về quy mô hệ thống trường Đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

Năm 1987 cả nước có 101 trường đại học và cao đẳng (63 trường đại học, chiếm 62 ; 38 trường cao đẳng, chiếm 38 ). Năm học 2009 – 2010 cả nước có 376 trường đại học và cao đẳng, tăng gấp 3,7 lần (150 trường đại học, chiếm 40 , gấp 2,4 lần).Trong số  đó, về cơ sở đào tạo sau đại học (bao gồm các trường đại học và viện nghiên cứu), tính đến tháng 9/2009, cả nước có 159 cơ sở đào tạo sau đại học (71 viện nghiên cứu, chiếm 44,7  và 88 trường đại học, chiếm 55,3 ), trong đó có 121 cơ sở đào tạo tiến sĩ và 100 cơ sở đào tạo thạc sĩ (trong đó có 4 trường đại học ngoài công lập được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ)

Đến năm học 2010 – 2011, tổng số trường đại học và học viện là 188. Trong số đó, cả nước có 127 cơ sở đào tạo thạc sĩ, đang triển khai đào tạo 64.116 học viên cao học ở 970 chuyên ngành; 150 cơ sở đào tạo tiến sĩ (77 cơ sở đào tạo là trường đại học, 73 là viện nghiên cứu), đang triển khai đào tạo 5.584 nghiên cứu sinh ở 1.056 chuyên ngành. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Đến đầu năm 2014, cả nước có hơn 130 cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ và hơn 150 cơ sở đào tạo trình độ thạc sĩ. Không chỉ các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học công lập được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học, mà cả các trường đại học ngoài công lập nếu đủ điều kiện bảo đảm chất lượng cũng được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.

Như vậy với sự phát triển của thể chế Quản lý Nhà nước đối với giáo dục SĐH, số lượng các cơ sở giáo dục SĐH đã tăng trưởng nhanh chóng. Bên cạnh sự phát triển về số lượng, quy mô các cơ sở đào tạo SĐH, cần xem xét về chất lượng của các cơ sở này. Báo cáo về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam mới công bố của Bộ Giáo dục Đào tạo cho biết: Giáo dục đại học Việt Nam chưa có vị trí trong bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, kết quả xếp hạng “100 trường đại học hàng đầu khu vực Đông Nam Á” của Webometrics năm 2007 cho thấy: Thái Lan có 41 trường, Myanmar có 18 trường, Indonesia có 14 trường, Philippines có 13 trường, Singapore và Việt Nam: 7 trường. Còn nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì Webometrics chỉ công nhận 7 trường đại học của Việt Nam với các vị trí xếp hạng như sau: Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM: Xếp thứ 28 trong ASEAN và thứ 1.920 thế giới; Đại học Công nghệ TPHCM với vị trí tương ứng là: 36 và 2.190; Đại học Cần Thơ: 47 và 2.532; Đại học Quốc gia Hà Nội: 54 và 2.850; Đại học Bách khoa Hà Nội: 62 và 3.156; Đại học Công nghệ: 90 và 4.217; Đại học Quốc gia TPHCM: 96 và 4.462.

Những hạn chế trên, cần phải xem xét thông qua những bất cập về thể chế Quản lý Nhà nước đối với giáo dục SĐH ở tiết 3.2.

  • Theo Website: Tuyensinhso cập nhật năm 2019, Các trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội bao gồm
  • Hai là, số lượng các giảng viên trong các cơ sở đào tạo SĐH
  • Về số lượng các giảng viên tham gia đào tạo SĐH có thể xem qua biểu đồ sau:

Bảng 3.1: Số liệu giảng viên tham gia giảng dạy trong các trường Đại học công lập

Thành viên tham gia giảng dạy các học phần lý thuyết chương trình đào tạo thạc sĩ phải có học vị tiến sĩ hoặc có chức danh giáo sư, phó giáo sư; giảng viên giảng dạy học phần ngoại ngữ cho các chuyên ngành không chuyên ngôn ngữ nước ngoài, giảng viên giảng dạy học phần triết học hoặc người hướng dẫn thực hành, thực tập phải có  học vị thạc sĩ trở lên (Điều 35 Thông tư 15 /2014/TT-BGDĐT Quy chế đào tạo thạc sỹ). Như vậy lực lượng chính tham gia giảng dạy trình độ SĐH chủ yếu phải là từ tiến sỹ trở lên. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Ba là, quy mô đào tạo sau đại học

Từ năm 2000 đến nay, các cơ sở đào trung bình mỗi năm đào tạo 650 tiến sĩ trong nước. Trong giai đoạn 2000 – 2005, số học viên cao học tăng 51,9 /năm, số nghiên cứu sinh tăng 61,1 /năm. Năm 2005 có 34.789 người được đào tạo sau đại học (tăng 3,1  so với năm trước). So sánh với giai đoạn 1996 – 2000 có số lượng thạc sĩ được đào tạo tăng 10,5 /năm và tiến sĩ tăng

6,2 /năm thì trong những năm gần đây, quy mô đào tạo sau đại học tăng quá. Năm 2008 các cơ sở đào tạo sau đại học đã tuyển được 1.805 nghiên cứu sinh và 22.885 học viên cao học. Năm 2009, các cơ sở đào tạo sau đại học trong nước đã đăng ký 2.504 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ và 30.638 chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ. So với chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài, năm 2009, số lượng nghiên cứu sinh trong nước cao hơn 3,57 lần, học viên cao học gấp 15,3 lần. Từ năm 2009 đến nay có thể xem xét cụ thể trong bảng thống kê sau:

2.2.3. Đánh giá chung về thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Thứ nhất, về kết quả đạt được 

Hệ thống văn bản pháp luật Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay có những ưu điểm nội trội sau: 

Hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục nói chung và pháp luật về giáo dục đại học nói riêng đã từng bước được hình thành và không ngừng phát triển bước đầu đã thu được những thành quả quan trọng về việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Các văn bản pháp luật của Quốc hội về công tác giáo dục; các nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư của Chính phủ, của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục được ban hành ngày càng nhiều điều chỉnh từng nội dung công việc cụ thể như: việc tổ chức, điều hành hoạt động nhà trường, quản lý tài chính, tài sản, quản lý đối với giáo viên, chế độ đối với sinh viên, các quy định đối với nhà trường trong các bậc học, chế độ thu chi tài chính của nhà trường…. Chúng ta đã xây dựng được bộ máy quản lý nhà nước đối với các trường Đại học công lập tương đối hoàn chỉnh từ trung ương tới địa phương. Ở Bộ Giáo dục và Đào tạo có Vụ chuyên trách quản lý giáo dục đại học là Vụ Giáo dục đại học; ở Vụ Đào tạo của các Bộ, ngành và ở các Sở giáo dục đào tạo của thành phố đều có cán bộ theo dõi các trường đại học. Trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành có trường và với Ủy ban nhân dân tỉnh đã được điều chỉnh cụ thể trong các văn bản pháp lý.

Nhìn chung các quy định pháp luật đã tạo hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các trường Đại học công lập trên địa bàn thành phố. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Thứ hai, nguyên nhân của kết quả đạt được

Trước hết là do sự quan tâm mạnh mẽ, liên tục của Đảng, Quốc hội và Chính phủ,  Uỷ ban nhân dân thành phố và toàn thể cơ quan ban ngành, các đoàn thể xã hội cho sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Vì vậy nhà quản lý đã có những nhận thức tương đối toàn diện về sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập. Trên cơ sở đó Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các đơn vị có liên quan đã tích cực ban hành, triển khai các văn bản pháp luật, các qui hoạch phát triển các trường Đại học công lập dài hạn, các chương trình mục tiêu, quyết định các chương trình đề án lớn, có tác dụng lâu dài đáp ứng yêu cầu thực tiễn.Đội ngũ nhà giáo tận tâm với nghề, nhân dân có truyền thống chăm lo cho giáo dục. Cán bộ quản lí giáo dục ở cơ sở và Bộ Giáo dục và Đào tạo nỗ lực khắc phục khó khăn, sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ thực tế đặt ra.

2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, hạn chế

Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 do Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà  xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê duyệt đã từng khẳng định rằng: “Quản  lý là một  khâu yếu và là nguyên nhân của những yếu kém khác trong giáo dục nước ta”. Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 chỉ rõ: “Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa ngành giáo dục và các bộ, ngành, địa phương chưa chặt  chẽ. Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao. Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên; phần chi cho hoạt động chuyên môn còn thấp. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục chưa được quy  định đầy đủ, sát thực”. 

Từ nhận thức chung đó có thể chỉ ra một số hạn chế trong thể chế Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập như sau:

Một là, hạn chế trong các quy định và triển khai thực hiện các quy định về mô h nh bộ máy Quản lý Nhà nước các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Có thể nói, hiện nay UBND thành phố Hà Nội trực tiếp quản lý một trường đại học trực thuộc là Đại học Thủ đô, còn lại các trường Đại học công lập khác trên địa bàn đều trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các bộ chuyên ngành khác. Việc hình thành mô hình quản lý nhà nước như trên dẫn đến một số bất cập như sau:

Chồng chéo về chức năng quản lý nhà nước. Cụ thể là chồng chéo trong chức năng Quản lý Nhà nước của chính Bộ Giáo dục và đào tạo cũng như các bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Bộ Giáo dục và đào cũng như các bộ ngành khác thực hiện hai chức năng: quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và cung cấp các dịch vụ công thiết yếu (trong đó có dịch vụ giáo dục đào tạo). Việc chưa tách bạch được chức năng quản lý nhà nước về vĩ mô và chức năng cung cấp dịch vụ công đã làm cho các bộ “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, cơ quan nhà nước vừa cung cấp dịch vụ vừa Quản lý Nhà nước về lĩnh vực đó. Bản thân các trường Đại học công lập cũng được áp dụng cơ chế quản lý tương tự như cơ quan hành chính, chỉ đạo, điều hành từ các Bộ chủ quản nên có tên chung là đơn vị hành chính sự nghiệp. Mặc dù Luật Giáo dục đại học đã có quy định về thành lập Hội đồng trường để điều hành, quản lý hoạt động các trường Đại học công lập. Tuy nhiên số lượng các trường Đại học công lập thành lập được Hội đồng trường còn rất khiêm tốn. Có ý kiến cho rằng; các cơ quan chủ quản cũng chưa muốn “buông” các trường đại học, vẫn muốn “quản”, vì thế việc vừa có Hội đồng trường, vừa có cơ quan chủ quản là không cần thiết.. Sự duy trì quá lâu cơ chế Bộ chủ quản trong khi quy định thành lập hội đồng trường chưa được thực hiện nghiêm trong khi khả năng tự chủ còn hạn chế dẫn đến càng làm gia tăng sự lệ thuộc của trường Đại học công lập vào cơ quan chủ quản. Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân thành phố quản lý trực tiếp và tham gia quyết định hầu hết các công việc then chốt của trường đại học trực thuộc từ nhân tự, tài chính, thậm chí chuyên môn nghiệp vụ và đồng nhất quyền can thiệp này với quyền quản lý vĩ mô.

Chồng chéo trong chức năng Quản lý Nhà nước đối với các trường Đại học công lập giữa Bộ Giáo dục và đào tạo với các bộ, ngành có trường và với UBND thành phố Hà Nội; việc phân công, phân cấp về quản lý nhà nước trong giáo dục đại học dục không rõ ràng. Rõ ràng các trường Đại học công lập chịu sự chi phối chủ yểu của bộ chủ quản về nhân sự, tài chính; chuyên môn nghiệp vụ thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo dục và Đào tạo. UBND thành phố Hà Nội quản lý theo lãnh thổ nhưng đa phần vai trò thể hiện lúc thẩm định thàh lập, giải thể trường Đại học công lập hoặc mở mã ngành đào tạo. Như vậy, Nhiều bộ ngành, địa phương  cùng tham gia quản lý một lĩnh vực dẫn đến việc xác định tính chịu trách nhiệm không được rõ ràng dẫn đến  không kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn nặng tính sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động của các cơ sở giáo dục. Việc tách rời quản lý nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục và làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới.

Hạn chế trong thẩm quyền quản lý của UBND thành phố Hà Nội Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Mặc dù thành phố Hà Nội có một luật chuyên biệt là Luật Thủ đô. Tuy nhiên trong văn bản pháp luật này chủ yếu mang tính nguyên tắc định hướng.Đôi với các trường Đại học công lập thì UBND thành phố Hà Nội có thẩm quyền: “ Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề trên địa bàn Thủ đô do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo nguyên tắc tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô và cả nước”.  Như vậy trừ trường Đại học công lập trực thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của UBND thành phố, còn lại các trường Đại học công lập khác đóng trên địa bàn thì thẩm quyền quản lý của UBND thành phố rất hạn chế. Các trường phụ thuộc phần lớn về nhân sự, tài chính, chuyên môn của các Bộ chủ quản. Chính vì thế định hướng phát triển, quy hoạch phát triển các cơ sở Đại học công lập trên địa bàn chưa được rõ nét.

Hạn chế về kỹ thuật lập pháp, lập quy

Bản thân các văn bản pháp luật do Bộ Giáo dục đào tạo ban hành trực tiếp điều chỉnh hoạt động Quản lý Nhà nước đối với trường Đại học công lập. Nhiều quy phạm thiếu tính cụ thể, thiếu tính khả thi nên vùa ban hành đã phải sửa đổi. ví dụ như:  Quyết định số 47/2001/QĐ – TTg ngày 04/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 – 2010 và Quyết định số 121/2007/QĐ – TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020 đều chưa cụ thể, còn mang tính định hướng, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn (cơ cấu nguồn nhân lực của từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ; quy mô đào tạo cụ thể của từng cấp, bậc học cho từng giai đoạn). Bản thân Luật Thủ đô cũng mang tính luật khung, luật ống, định hướng mà thôi, chưa xác định những quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Ba là, hạn chế trong nội dung các quy định pháp luật 

Cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trỉnh còn nhiều bất cập. Nghị định 43/2006 và nay là Nghị định 16/2015/NĐ-CP bước đầu trao nhiều quyền tự chủ cho các trường Đại học công lập nhưng chưa đủ mạnh để các trường có khả năng chủ động tự điều chỉnh chính sách của mình nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển và sự biến động nhanh chóng của thực tiễn quản lý. Về phía cơ quan quản lý nhà nước còn e ngại chưa dứt khoát trao quyền tự chụ  cho các trường đại học. Đến năm 2018, cả nước chỉ có 23 trường Đại học công lập được trao quyền tự chủ về tài chính; trong đó trên địa bàn Hà Nội có một số trường như: Đại học kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương…

Quy định về công tác quản lý tài chính, kinh phí đào tạo chưa phù hợp với thực tiễn.

Tài chính của hệ thống các trường đại học công lập nhận nguồn kinh phí từ các cơ quan chủ quản cộng với nguồn thu của các đơn vị (học phí, tài trợ..). Bản thân nguồn kinh phí từ cơ quan chủ quản hoàn toàn phụ thuộc vào khâu lập dự toán ngân sách chứ không dựa trên hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn ngân sách. Vì vậy phương thức phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục không phải là động lực trực tiếp để khuyến khích các cơ sở giáo dục đổi mới chất lượng. Như vậy, xét về tổng thể nguồn vốn cho giáo dục đại học bị phân tán, dàn trải cho các bộ ngành. Và về các cơ sở giáo dục nguồn vốn được cấp lại bị phân tán, dàn trải cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Kinh phí dành cho giáo dục ít được coi là trọng điểm, trọng tâm. Có thể nói, nhìn chung nhà nước và các cơ sở giáo dục đã thiếu một chiến lược quản trị tài chính cho giáo dục nói chung và giáo dục SĐH nói riêng. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Có thể nói, hình thức bao cấp kinh phí đào tạo của nhà nước và số học phí ít ỏi mà người học nộp cho mỗi chương trình học ở bậc sau đại học chắc chắn không khuyến khích việc nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học.

Bất cập trong các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm

Ở đâu có quản lý, thì ở đó phải có công tác thanh tra phục vụ cho công tác quản lý. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật, thanh tra chuyên ngành giáo dục chỉ tổ chức ở cấp Bộ, Sở, Theo Nghị định  07/2012/NĐ-CP quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Bộ Giáo dục và đào tạo là một trong sáu bộ không có cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Mặt khác, Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong ba Bộ có bộ máy tổ chức là cán bộ, công chức, viên chức làm việc, công tác ở xã, phường (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Thông tin truyền thông). Ở mỗi xã, phường có 1 Trạm y tế, có 1 Bưu điện nhưng có từ 1 đến nhiều trường Trung học cơ sở, nhiều trường Tiểu học và nhiều trường Mầm non. Do đó số lượng cán bộ, giáo viên, nhân viên ở mỗi xã, phường có tới hàng trăm người. Điều này dẫn đến việc số đơn vị, trường học và cán bộ, giáo viên, nhân viên do Phòng Giáo dục và đào tạo quản lý rất đông. Thực tế, nhiều địa phương có Phòng Giáo dục và đào tạo quản lý hàng trăm đơn vị, trường học và hàng nghìn cán bộ, giáo viên, nhân viên; phòng quản lý ít thì cũng hàng chục đơn vị, trường học và hàng trăm cán bộ, giáo viên, nhân viên.

Như vậy, với khối lượng đồ sộ các cơ sở giáo dục trên cả nước mà chỉ có tổ chức thanh tra Bộ và tổ chức thanh tra Sở đảm nhiệm chức năng thanh tra nên không đảm nhận hết được yêu cầu của thực tế. Mặc dù tại các cơ sở giáo dục có thiết lập tổ chức thanh tra nhân dân. Tuy nhiên đây là một hình thức giám sát của cơ sở, quyền năng hạn chế, đồng thời chịu sự chi phối khá lớn của thủ trưởng đơn vị đào tạo.Vì thế nên rất khó để phát hiện và xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Bất cập trong các quy định về kiểm định chất lượng

Mặc dù đã có một loạt văn bản pháp luật về kiểm định chất lượng nhưng chủ yếu tập trung về tiêu chí đánh giá, quy trình và chu trình kiểm định. Hiện nay chưa ban hành văn bản Quy định về điều kiện thành lập chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổ kiểm định chất lượng giáo dục độc lập  chưa có cơ sở pháp lý thành lập các cơ quan kiểm định độc lập. Và trên thực tế Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng cùng 3 trung tâm kiểm định tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đều là trung tâm kiểm định của nhà nước, chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục và đào tạo. Chính vì chưa có cơ quan, tổ chức làm việc độc lập với cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đạo tạo nên các ý kiến phản biện mang tính khoa học để tư vấn, khuyến nghị chưa nhiều. Trong khi đó, các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của các nước trên thế giới khá đa dạng về mặt sở hữu (của Nhà nước, của các hiệp hội hay các tổ chức, cá nhân khác) về tính phụ thuộc hay độc lập với Nhà nước (độc lập hoàn toàn với Nhà nước, độc lập trong việc đưa ra các quyết định chuyên môn nhưng vẫn nhận kinh phí của Nhà nước hay phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà nước),… Ở Hoa Kỳ, tất cả các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đều không thuộc Nhà nước.  Một số nước có những tổ chức kiểm định của các hiệp hội, tổ chức chuyên môn hoạt động bên cạnh các tổ chức quốc gia kiểm định chất lượng giáo dục nhưng với quy mô nhỏ (ví dụ : Thái Lan).

Khi chưa xác định được thể chế hoàn thiện cho việc kiểm định chất lượng giáo dục nói chung cũng như giáo dục SĐH nói riêng sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục SĐH.

Nguyên nhân của bất cập có thể xác định như sau:

Thể chế Quản lý Nhà nước đối với các trường Đại học công lập đang trong giai đoạn chuyển mình từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới dẫn đến phát sinh nhiều quan hệ xã hội chưa kịp thời điều chỉnh. Bộ máy Quản lý Nhà nước, tư duy Quản lý Nhà nước chưa theo kịp với những biến động của giáo dục cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội

Hệ thống giáo dục bị chi phối cùng lúc bởi nhiều loại quy luật: quy luật sư phạm, quy luật quản lý hệ thống, quy luật kinh tế và quy luật xã hội. Các cán bộ quản lý giáo dục SĐH, nhất là ở cấp quốc gia không được quy hoạch và đào tạo có hệ thống, để có thể nắm vững các loại quy luật trên, vận dụng sáng tạo trong công tác, dẫn đến những hạn chế trong hoạt động Quản lý Nhà nước.

Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về  phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Chủ trương, quan điểm của Đảng và các quy định pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục công lập khi triển khai còn mang tính hình thức. Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ ràng. Nhiều khi cơ quan nhà nước lại “lấn sân” sang hoạt động quản trị trong cơ sở giáo dục. Thể chế Quản lý Nhà nước đối với giáo dục SĐH vẫn còn ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý quan liên bao cấp, vì vậy nặng chiều chỉ đạo từ trên xuống, xin từ dưới lên. Tư tưởng ”bộ chủ quản” còn khá nặng nề vì thế nhà nước đang ”ôm” quá nhiều lĩnh vực chưa tạo điều kiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn cho các cơ sở giáo dục. Đồng thời, chính tư duy bao cấp còn nặng đã làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.

Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức dẫn đến các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chậm được phát hiện. Đa phần khi có phản ánh dư luận hay có thông tin báo chí thì cơ quan nhà nước mới tiến hành thanh tra, kiểm tra. Luận văn: Thực trạng thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học.

Ngoài ra một lý do khách quan, do sự vận động thay đổi mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta trong những năm gần đây (đặc biệt là từ khi có đường lối đổi mới 1986) dẫn đến thể chế Quản lý Nhà nước đối với giáo dục SĐH chưa kịp chuyển biến kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu đòi hỏi của xã hội.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp thể chế quản lý nhà nước tại trường đại học

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993