Mục lục
Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và những định hướng phát triển du lịch, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.
Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.
===> Viết Thuê Tiểu Luận
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo luôn ảnh hưởng đến đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội và tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Trong đó có 6 tôn giáo lớn là Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành, Hồi giáo với hàng chục triệu tín đồ. Công giáo là một trong hai tôn giáo lớn nhất ở nước ta được du nhập từ ngoài vào, đã ít nhiều chịu ảnh hưởng phong tục, tập quán và bản sắc văn hoá Việt Nam. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Nghi lễ và lễ hội bao giờ cũng là những yếu tố quan trọng có tính phổ biến góp phần tạo thành một tôn giáo. Tôn giáo không chỉ là nơi lưu giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể mà còn làm cho văn hoá các dân tộc được bảo tồn. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người mà tín ngưỡng, lễ hội Công giáo đã tô đượm cho văn hoá dân tộc nhiều sắc màu. Các cơ sở thờ tự của Công giáo thường là nơi diễn ra nghi lễ của tín đồ Công giáo, đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá tâm linh. Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh, Người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo.Trong đó lễ hội Công giáo góp phần quan trọng giải yếu tố đơn nguyên văn hóa Công giáo mà các giáo sĩ ngoại quốc tìm mọi biện pháp duy trì. Nó làm cho tín đồ Công giáo người Việt Nam thực sự sống đạo bằng tâm linh, nếp nghĩ, lối ứng xử của mình. Lễ hội Công giáo đã góp phần mở rộng không gian, thời gian thực và ảo cho mỗi tín đồ, mỗi cộng đoàn tín đồ. Lễ hội Công giáo góp một phần quan trọng hun đúc đức tin người Công giáo , truyền tải nội dung Công giáo. Nó làm cho bộ phận cư dân Việt Nam- Công giáo không những được củng cố mà còn góp phần liên kết cộng đồng cư dân Việt Nam- Công giáo không còn là “ vật lạ” trong cộng đồng dân tộc.
Chính vì những lí do trên, em đã quyết định chọn để tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và những định hướng phát triển du lịch làm khóa luận tốt nghiệp. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu một số vấn đề về lễ hội Công giáo tại Việt Nam, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khai thác giá trị của văn hóa lễ hội Công giáo và những định hướng phát triển du lịch lễ hội Công giáo ở Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là một số vấn đề về lễ hội Công giáo, đặc biệt là những giá trị của văn hóa lễ hội Công giáo và những định hướng phát triển du lịch lễ hội Công giáo ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tại Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nêu bật những vấn đề lí luận, đồng thời sử dụng những kết quả từ việc khảo sát thực tế để chứng minh.
4. Bố cục Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo và kết luận, Bài khóa luận gồm 3 chương chính:
- Chương 1. Công giáo và văn hóa Việt Nam.
- Chương 2. Lễ hội Công giáo.
- Chương 3. Định hướng phát triển du lịch lễ hội Công giáo
CHƯƠNG 1 CÔNG GIÁO VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
1.Quá trình hội nhập văn hóa Kitô giáo với các nền văn hóa thế giới
Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa được gọi chung là Kitô giáo. nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích, phụng vụ .v.v Ki tô giáo bị phân chia thành 3 nhánh chính Công giáo, Chính Thống giáo và Tin lành. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Hội nhập văn hóa Ki Tô giáo chính là các hình thức truyền bá phúc âm, thực hiện nghi lễ và lối sống đạo sao cho phù hợp với đặc thù văn hóa một cộng đồng người, văn hóa một quốc gia, trên cơ sở đó mà sản sinh ra những giá trị văn hóa mới bồi trúc cho văn hóa cộng đồng người, văn hóa một quốc gia và cả văn hóa Ki Tô giáo, nhưng cả hai đều không mất đi căn tính của mình thì trong quá trình phát triển Ki Tô giáo đã có những lần hội nhập văn hóa để thích ứng ngay ở vùng đất mà Ki Tô giáo phát sinh, phát triển. Đồng thời trong quá trình truyền giáo qua các châu lục, quá trình hội nhập có diễn ra dù là mức độ có chật hẹp hoặc kết quả nhỏ bé.
Ki Tô giáo phát sinh từ miền đất Tiểu Á, từ Tiểu Á, Ki Tô giáo được truyền bá, phát triển ra các nước thuộc đế chế La Mã rộng hơn thời cổ đại.
Thời kỳ đầu Ki Tô giáo mang sắc thái văn hóa Châu Á (vì Tiểu Á thuộc về Châu Á) nên rất gần gũi với các tôn giáo châu Á dù tiểu Á thuộc sự cai trị của đế chế Rôma. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Việc truyền giáo của đạo Ki Tô ba thế kỷ đầu gặp nhiều khó khăn vì bị chính quyến cấm đoán và bách hại. Phải từ thế kỷ thứ IV về sau khi mà Constantinus I, Hoàng đế Rôma bỏ lệnh cấm đạo, lúc đó Ki Tô giáo mới có điều kiện phát triển. Nhưng ngay cả thời kỳ bị cấm đoán trong quá trình truyền giáo, phát triển đạo trong đế chế La Mã rộng lớn với một nền văn hóa phát triển rực rỡ, Ki Tô giáo đã được “ đắm mình” trong đó để “ chịu phép rửa” của nền văn hóa này.
Trong một công trình nghiên cứu có tựa đề: Thích ứng và hội nhập văn hóa trong truyền giáo, tác giả Nguyễn Chính Kết có dành một phần để trình bày việc hội nhập văn hóa tại Tây Phương.
Tìm danh từ để chỉ Thiên Chúa:
Để thích ứng với người Âu châu các giáo phụ đã không dùng những từ Do Thái như ELSHADDAI hay YAHVEH… để chỉ Thiên Chúa mà dùng các từ THEOS,DEUS hay DIEU vốn là chỉ các từ chỉ các vị thần người Âu châu ( Zeus, Jupiter, Hercule…). Các từ này vốn không có nghĩa là Thiên Chúa như chúng ta hiểu ngày nay. Đây chính là sự thích ứng và hội nhập.
Thích ứng ngày lễ giáng sinh: Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Ngày 25 tháng 12 là ngày người Âu châu thờ thần mặt trời, Ki Tô giáo chọn ngày này là ngày sinh của chúa Giêsu. Khi mọi người ăn mừng thần mặt trời thì người Ki Tô hữu ăn mừng chúa ra đời. Theo cách hội nhập như vậy, ngày đầu tuần người Âu châu kính thần Mặt Trời thì Ki Tô giáo gọi đó là Ngày của Chúa, Chúa Nhật.
Hội nhập văn hóa trong y phục:
phục mà hàng giáo phẩm mặc trong phụng vụ là mô phỏng y phục của người Rôma, loại y phục xuất phát từ nền văn hóa của dân chúng, để quen thuộc gần gũi với họ.
Như vậy, truyền giáo phát triển trong đế quốc La Mã, hội nhập với nền văn hóa này, Ki Tô giáo đã “ Bỏ bộ áo văn hóa Do Thái” – Từ của tác giả Nguyễn Chính Kết.
Tác giả Nguyễn Chính Kết cho rằng sau khi cởi bỏ bộ áo văn hóa Do Thái, Ki Tô giáo đã mặc lấy bộ áo văn hóa Âu châu. Một giai đoạn hội nhập khác của Ki Tô giáo, đó là hội nhập với văn hóa Âu châu, cụ thể hơn là Tây Âu. Nghi lễ Rôma được Công đồng Trentô (1945-1947) cho xuất bản có sự kế thừa những phụng vụ cổ kính như Milan, Lyon, Đa Minh…nhưng đặc biệt là kế thừa những nghi lễ của nước Pháp và Tây Ban Nha những quốc gia Tây Âu
2 Sự thích ứng văn hóa của một số giáo sĩ Công giáo tại một số nước Châu Á Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
2.1 Nobili ở Ấn Độ
Thừa sai Robert de Nobili (1577-1656), dòng tên đến Ấn Độ năm 1605 và Mandure (miền Nam). Hện diện ở Ấn Độ một thời gian dài, Nobili đã học tiếng Tamul và tiếng Phạn. Để hòa nhập với nền văn hóa bản địa, Nobili ăn mặc như một sa môn theo mẫu các nhà tu hành Ấn giáo. Nobili hòa mình vào lối sống của tín đồ Bà la môn giáo để giảng đạo cho họ. Phân biệt được những tập tục xã hội và tôn giáo,ngài cho các tân tòng được giữ thói tục xã hội của giai cấp như búi tóc (Kudumi), dây quàng… Trong nghi thức rửa tội, ngài bỏ bớt những gì người Ấn Độ khó chịu như thổi hơi, nước miếng. Nhiều thừa sai đã phản đối Nobili, tố cáo về Rôma, nhưng giáo hoàng Urbano VIII vẫn chấp nhận thích nghi của ngài. Tuy nhiên vấn đề hội nhập ở Ấn Độ kết quả đem lại không nhiều. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
2.2 Matteo Ricci ở Trung Hoa
Matteo Ricci (1552-1610) là linh mục dòng Tên, người Ý, một nhà truyền giáo nổi bật nhất ở Trung Hoa. Năm 1582 Ricci đến Áo môn. Năm 1589, ông đến Triều Châu truyền giáo, nghiên cứu Tứ thư, Ngũ kinh. Năm 1594, ông ăn mặc quần áo theo kiểu nhà Nho tự xưng là Tây Nho. Năm 1596, ông được cử giữ chức bề trên dòng Tên Trung Hoa. Năm 1598, ông đến Nam Xương qua Nam Kinh cùng Lễ Bộ Thượng thư Vương Trung Danh đến Bắc Kinh, sau đó ông còn trở đi trở lại Nam Kinh, Bắc Kinh hoạt động truyền giáo. Trước tác của ông đáng kể là Thiên học thực nghĩa, Càn khôn tập nghĩa, Quan vu Ki Tô hội đích tiến nhập Trung Quốc
Đáng kể nhất là cuốn Thiên học thực nghĩa cũng được gọi là Thiên Chúa thực nghĩa (Bắc Kinh 1603). Đây là một kiệt tác về sự thích ứng lẫn nhau giữa tư tưởng Đông và Tây. Trong tác phẩm của mình Ricci chứng minh sự tương đồng giữa Ki Tô giáo và Nho giáo.
Tác giả: Song yong pac (Hàn Quốc) trong bài Sự dung hợp và chỗ bất ổn của Thiên Chúa thực nghĩa của Matteo Ricci với Nho học viết: Bắt đầu từ sự giao lưu tư tưởng triết học Đông- Tây có thể nói rằng: “Thiên chúa thực nghĩa” của M. Ricci (1552-1610) có hai ý nghĩa sau đây:
- Nó là cuốn sách chuyên môn lần đầu tiên giới thiệu một cách có hệ thống tư tưởng triết học phương Tây trong thời đại Trung Quốc truyền thống. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
- Phương thức thuyết minh của nó hết sức phù hợp với quan niệm cơ bản của văn hóa Nho gia, đã phát huy dược sức ảnh hưởng trong phạm vi văn hóa Nho gia Đông Á, khiến người ta phải chú ý.
- một nước mà Nho, Phật, Đạo giáo phát triển, nhưng Ricci chọn Nho giáo vì thấy nhiều ý niệm của tông giáo này thích hợp để diễn tả sứ điệp Ki Tô giáo hơn. Trong “ Thiên Chúa thực nghĩa” Ricci chứng minh rằng: những văn bản nguyên thủy của Nho giáo chưa bị ảnh hưởng của Phật giáo có những ý niệm về trời, Thượng đế và cuộc sống sau khi chết rất gần gũi với ý niệm Thiên Chúa và đời sau của Ki Tô giáo.
Như vậy, đến truyền giáo ở Trung Hoa một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, nơi sản sinh ra những hệ tư tưởng và tôn giáo lớn như Nho học, Nho giáo, Đạo giáo, Ricci thấy nếu phủ nhận những hệ tư tưởng và tôn giáo đó chắc chắn hoạt động truyền giáo sẽ không đạt kết quả. Từ suy ngẫm như vậy, ông đã tìm cho mình một “ kênh” để hội nhập với nền văn hóa phát triển rực rỡ của nước này , đó là Nho giáo. Tầng lớp mà ông chú trọng đầu tiên là giới trí thức.
Song, đáng tiếc, trên địa bàn Trung Hoa lúc đó xuất hiện giáo sĩ truyền giáo Nicolo Longobardi với chủ trương truyền giáo vào đại chúng, vào giới bình dân. Hoạt động truyền giáo của Longobardi đi ngược lại Nho giáo, nhất là cấm thờ kính Khổng Tử và tổ tiên, một tín ngưỡng ăn sâu vào tập tục Trung Hoa.
Việc không hội nhập với văn hóa Trung Hoa cũng có nghĩa là việc truyền giáo, phát hiện đạo Ki Tô ở Trung Hoa vì vậy đã gặp khó khăn.
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI CÔNG GIÁO Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
1.1 Năm phụng vụ
Năm phụng vụ Công giáo được tính theo Tây lịch. Theo quan niệm Công giáo, trong chu kỳ một năm giáo hội diễn giải toàn bộ màu nhiệm chúa Ki Tô ( sinh, truyền đạo, lập giáo hội, chịu chết, phục sinh, trở về trời) và kính nhớ ngày sinh trên trời của các thánh. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Trong chu kỳ một năm giáo hội chia ra các mùa, mỗi mùa có những Chúa nhật là ngày phụng vụ.
Ngày phụng vụ.
Ngày phụng vụ được kéo dài từ nửa đêm hôm trước cho đến nửa đêm hôm sau. Nhưng việc cử hành ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng bắt đầu từ chiều ngày hôm trước Chúa (chủ) nhật.
Ngày đầu mỗi tuần, gọi là ngày của Chúa hay Chúa nhật. Ngày này giáo hội họp mừng mầu nhiệm vượt qua (hay là màu nhiệm phục sinh-sống lại). Vì thế, Chúa nhật được coi là ngày lễ quan trọng nhất. Vì vậy, Chúa nhật chỉ nhường chỗ cho các lễ trọng và các ngày lễ kính Chúa. Chúa nhật mùa vọng, mùa Chay, mùa phục sinh chiếm vị trí ưu tiên. Khi gặp các Chúa nhật này, các lễ trọng sẽ mừng vào ngày thứ hai, trừ khi các lễ đó trùng với Chúa nhật lễ Lá hay Chúa nhật Phục sinh. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Chúa nhật trong tuần Bát nhật giáng sinh, mừng lễ thánh gia thất. Chúa Nhật sau mồng 6 tháng giêng mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Chúa nhật sau lễ Thánh thần hiện xuống mừng lễ trọng kính Chúa Ba ngôi.
Chúa nhật cuối mùa thường niên, mừng lễ trọng kính Chúa Giêsu Ki Tô, Vua Vũ trụ.
Nơi nào các lễ Hiển linh, Thăng thiên, Mình và máu Thánh Chúa Ki Tô không còn là lễ buộc nữa sẽ mừng vào Chúa nhật như ngày riêng của các lễ đó như sau:
- Lễ Hiển linh mừng vào Chúa nhật từ mồng hai đến mồng tám tháng giêng.
- Lễ Thăng thiên mừng vào Chúa nhật VII phục sinh.
- Lễ trọng Kính Mình và Máu Thánh Chúa Ki Tô vào Chúa nhật sau lễ chúa Ba Ngôi.
1.2 Các lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ
1.2.1 Lễ trọng (lễ lớn)
Lễ trọng là lễ đặc biệt, được cử hành từ giờ kinh chiều ngày hôm trước. Có hai lễ trọng đặc biệt là lễ Phục sinh và Giáng sinh. Hai lễ này kéo dài tám ngày liên tục. Lễ trọng là lễ kỷ niệm những sự kiện lớn liên quan đến cuộc đời Chúa Giêsu. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
1.2.1.1 Lễ phục sinh
Lễ Phục sinh (Easter) được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Công giáo là lễ thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện Phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá, được người Kitô tin là xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm 30- 33 SCN. (Phục sinh cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ gọi là Mùa Phục sinh, kéo dài 50 ngày từ lễ Phục sinh đến Lễ Hiện xuống ).
Trong đạo Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo ngày lễ Phục sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa ngày 22 tháng 3 và ngày 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, thứ hai được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980. Lễ Phục sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch mặt trăng nhưng không giống hệt lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.
Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục sinh được quyết định tổ chức vào cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria (Ai Cập), một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục sinh vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo dùng cách riêng để tính ngày Phục sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julian bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo của nước Anh dùng phương pháp Rôma cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương (Công giáo, Tin lành, Anh giáo) hiện nay dùng lịch Gregorian để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julian, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Trong Công giáo, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và chấm dứt vào khuya Thứ bảy Tuần Thánh.
Tuần trước ngày Phục Sinh là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo gọi làTuần Thánh: Chủ nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, và ba ngày cuối cùng trước ngày Phụcsinh gọi là Tam Nhật Thánh, bao gồm: Thứ năm Tuần Thánh(Thứ năm Rửa Chân), Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành) và Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh). Chúa nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh tập chú và việc tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Thứ sáu Tuần Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh đôi khi được gọi là Tam Nhật Phục sinh (hay Tam Nhật vượt qua). Ở một số nước, lễ Phục sinh kéo dài 2 ngày, với ngày thứ hai gọi là “Thứ hai Phục sinh”. Nhiều giáo hội bắt đầu lễ Phục sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.
Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh và kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó.
Quan điểm Công giáo cho rằng Chúa Giêsu tự nguyện hiến mình như là một hành động tuân phục trọn vẹn để đền tội cho sự bất tuân của Adam, do đó ngài tẩy sạch nhân loại khỏi vết ố của nguyên tội (tội tổ tông). Sự hiến tế của Chúa Giêsu là hành động của tình yêu làm vui lòng Thiên Chúa, là lớn hơn tội lỗi loài người đã xúc phạm Thiên Chúa, vì vậy hễ ai tin Chúa Giêsu và tuân giữ mạng lịnh của ngài sẽ nhận lãnh sự cứu chuộc trong danh ngài.
Tín hữu Công giáo tin rằng một người có thể bị vuột mất ân điển nếu tiếp tục phạm tội sau khi được cứu rỗi. Một người có thể được phục hồi vào ân điển qua thánh lễ ăn năn và hoà giải (xưng tội). Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Khi nói đến phong tục lễ Phục sinh, không thể không nghĩ đến những quả trứng sặc sỡ với các nét vẽ trang trí, biểu tượng cho sức sống mới bừng dậy trong mùa xuân. Những quả trứng sôcôla hoặc trứng nhuộm không thể thiếu trên bàn tiệc Phục sinh.Trong những ngày trước lễ Phục Sinh, trong cửa hàng, ngoài chợ, nhiều người tìm mua những hộp thuốc màu để vẽ trứng. Ai nhiều thời gian và kiên nhẫn cũng có thể nhuộm trứng bằng các màu sắc của cây cỏ tự nhiên. Như màu xanh của lá rau, màu đỏ của trái dâu, màu vàng của phấn hoa. Lũ trẻ con lại thích nhất là vớ lấy những cây bút lông hoặc bút dạ. Những vỏ trứng đã rút ruột – tốt nhất là màu trắng – được tô vẽ một cách đầy trìu mến bằng màu nước hoặc bút dạ sẽ được tết thêm dải băng xinh để trang trí cho vòng hoa Phục sinh ở nhà.
1.2.1.2 Lễ giáng sinh
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, hay Noel (từ tiếng Pháp Noel, là viết tắt từ gốc Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta) là một ngày lễ quốc tế kỷ niệm ngày Chúa Giê-su sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc giáo. Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.
Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Tuy nhiên, những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Juliêng để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Nguyên thủy, lễ giáng sinh là của những người theo đạo Kitô giáo, nhằm kỷ niệm ngày sinh ra của người lãnh đạo tôn giáo mình, người mà họ cho là Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng dần dần, theo thời gian và qua các lễ hội của phương Tây, người ta tổ chức lễ Giáng sinh ngày càng linh đình. Kết quả là bây giờ, lễ Giáng sinh được xem là một ngày lễ quốc tế, với ông già Noel, cây Giáng sinh và cây thông noel.
Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chuá, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ : chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel… Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em : một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn. Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình : ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” : đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…
1.2.2 Lễ kính Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ kính là lễ mừng trong giới hạn một ngày. Trong chu kỳ một năm, Giáo hội có những lễ kính bà Maria ( mẹ Chúa Giêsu), kính các vị thánh, khoảng 80 vị thánh trên vài ngàn vị. Các địa phận hay giáo hội mỗi nước, hoặc dòng tu… lại đặt ra những lễ kính riêng.
1.2.3 Lễ nhớ
Lễ nhớ gồm lễ nhớ buộc và lễ nhớ không buộc. Những lễ nhớ buộc gặp ngày thường trong mùa chay thì chỉ có thể mừng như lễ nhớ không bắt buộc. Một ngày có nhiều lễ nhớ không bắt buộc thì chỉ mừng một lễ nhớ. Các ngày thứ 7 mùa thường niên không có lễ nhớ buộc, có thể mừng lễ nhớ không bắt buộc kính Đức Mẹ.
Những ngày trong tuần:
Là những ngày sau Chúa nhật mỗi tuần. Những ngày đó được cử hành khác nhau.
Ngày thứ Tư lễ Tro và các ngày trong Tuần Thánh từ thứ hai đến chiều thứ năm chiếm vị trí ưu tiên trên mọi cử hành khác.
Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 12, và mọi ngày trong tuần thuộc mùa Chay chiếm vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ bắt buộc.
Các ngày trong tuần thuộc các mùa khác sẽ nhường bước cho mọi lễ trọng, mọi lễ kính và sẽ dung hòa với các lễ nhớ.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH LỄ HỘI CÔNG GIÁO Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3.1 Thực tế khai thác các lễ hội Công giáo trên Thế giới và Việt Nam
3.1.1 Thực tế khai thác lễ hội Công giáo trên thế giới
Công giáo truyền vào các nước Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đã đọng lại ở Việt Nam và Philippin nhiều nhất. Đúng lúc này, công nghiệp cơ khí, chế tạo máy đã phát triển ở các nước phương Tây. Cách mạng tư sản đã nổ ra ở Anh, Pháp. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha giàu mạnh nhờ phát kiến địa lý và buôn bán đường biển. Công giáo đã thể chế hóa kinh sách nghi lễ. Hiến chế, sắc lệnh, tuyên ngôn đều đã tương đối hoàn chỉnh, nên lễ hội Công giáo ở khu vực chịu ảnh hưởng chặt chẽ trong khuôn khổ cho phép của giáo hội. Thánh Vinhsơn Phaolô (1581-1660) ở Pháp sau khi học khoa thần học ở Toulouse, bị bán làm nô lệ ở châu Phi, rồi lại trở về nước làm linh mục giáo xứ đã để xuất cách truyền giáo “đi từ làng này sang làng khác để khuyên bảo, giảng dạy kinh bổn cho dân quê”. Cách làm này đã được áp dụng triệt để bởi các linh mục truyền đạo ở Đông Nam Á . Có người còn hòa nhập vào cộng đồng, giả theo Ấn Độ giáo, Phật giáo bằng trang phục, sau khi làm quen môi trường sống, mới giảng giải Cựu ước, Tân ước và lôi kéo dân chúng theo Công giáo.
Tình hình đó khiến cho lễ hội Công giáo ở Đông Nam Á rập khuôn máy móc ở buổi ban đầu.
Được tổ chức bằng nghi thức Công giáo khá chặt chẽ, lễ hội Công giáo ở Philippin đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm lý cộng đồng dân tộc trong cả nước, cho dù họ không phải là giáo dân vẫn bị cuốn hút theo. Gần như quanh năm, không mấy lúc là các bài thánh ca bị nhãng quên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cách ngày lễ Giáng Sinh gần ba tháng, trên khắp đường phố, nẻo đường, giáo dân đã chằng đèn lồng, đèn mầu, kết hoa, treo băng biển chào mừng. Ngay cả các trường học, công sở, cây thông Noel đủ các cỡ to, nhỏ đã bày rực rỡ ở vị trí sang trọng. Tranh ảnh, phù điêu, mô hình chúa giáng sinh có những người chăn cừu và ba vị vua từ ba nước tới chúc mừng được trưng bày khắp nơi. Cả không gian tỏa sáng bởi giấy màu kim tuyến trên khung cửa, trước hiên nhà. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Nhộn nhịp nhất ở từng gia đình, ai cũng lo sắm sửa quần áo gọn gàng sạch sẽ, lo làm bánh thánh kính dâng lên Chúa và xin Chúa cho ăn trong lễ đón lúc giao thừa vào 0 giờ ngày 25. Sáng sớm ngày 25, ông già Noel hoặc người lớn trong nhà giáo dân đồng loạt cho quà con trẻ.
Cả ngày lễ hội, số các thầy cả vào lo công việc tại nhà thờ. Giáo dân ở đủ các tầng lớp lứa tuổi có thể tham dự các đám rước chiêng trống trước sân nhà thờ, rồi tụ tập vào trong nhà thờ cầu kinh. Mục Ai ca trong Kinh Thánh có dạy: “Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Vượt qua, Hội thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa giáng sinh và kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của người: đó là mùa Giáng Sinh . Và “Hôm nay các linh mục có thể cử hành hay đồng tế ba thánh lễ, miễn là vào giờ thích hợp cho mỗi thánh lễ.” Ngoài việc quy định đọc từng đoạn trích Kinh Thánh trong Sách lễ còn chỉ rõ “Chúa Giáng Sinh lễ trọng. Lễ buộc Lễ cầu cho giáo dân trong lễ đêm Noel, tòa thánh quy định cho giáo dân chỉ được đọc trích các kinh Ti-tô, kinh Lu-ca và kinh I-sai-a.
Trong vùng ấy có những người chăm chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần chúa đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa xung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân (…) người là đấng Ki-tô đức chúa”
Với tất cả những quy định chặt chẽ như trên, công việc phụng vụ có lịch cụ thể, lễ cầu kinh được chỉ dẫn mạch lạc, chi tiết nên hoạt động lễ hội mùa Giáng Sinh nặng hơn về phần lễ.
Âm thanh kèn, trống, não bạt và toàn dân giáo xứ kéo đến nhà thờ có trật tự, nền nếp cả ban đêm và ban ngày, tạo ra niềm vui cho cả cộng đồng.
Cách thức tổ chức lễ hội Giáng Sinh có thể coi là điển hình cho các lễ hội Công giáo khác ở Philippin. Lễ hội Mùa Chay là dịp giáo dân Công giáo tưởng niệm đến cái chết và sự phục sinh của chúa Giêsu . Lễ hội được sách Nghi thức giám mục đặt quy chế: “Trong mùa chay, không được chưng bông (bày hoa) trên bàn thờ và chỉ được dùng nhạc cụ để đệm hát mà thôi, trừ chúa nhật IV (chủ nhật thứ 4 trong tháng hai ) và các ngày lễ trọng cùng lễ kính, có thể dùng màu hồng” . Khi giáo dân đã lũ lượt đến lễ hội. Lễ Tro vào ngày thứ tư mở đầu lễ hội Mùa Chay. Linh mục xức dầu Tro lên trán, giáo dân tiếp tục làm dấu thánh. Dấu thánh là nước lá thơm có hòa tro lá để giành lại từ Mùa Chay năm trước. ở Philippin, giáo dân còn dựng lại tích chúa Giêsu bị hành hình và sau ba ngày Chúa sống lại gặp gỡ các tông đồ giống như những tiểu phẩm sân khấu hiện đại.
Lễ Lá diễn ra vào ngày chủ nhật trong lễ hội Mùa Chay là ngày trọng đại nhất. Nhiều cuộc diễu hành, diễn xướng không khác kịch nghệ là mấy, thể hiện chặng đường Chúa Giêsu đi đến Jerusalem. Tán, lọng che tượng trưng cho Chúa trên đường đi là do giáo dân làm bằng những tầu lá dừa to đẹp với rất nhiều hình dạng khác nhau. Trước khi đoàn diễu hành khởi sự, các vị linh mục đã làm thánh. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ và ban phép cho những chiếc tán, lọng làm bằng lá dừa, với những hình dáng khác nhau. Những tán, lọng bằng lá dừa sau ngày lễ hội, được giáo dân cất giữ để làm bùa chữa bệnh, bổ một ít vào nồi nước tắm, linh mục cũng giữ một phần để ban phúc thánh, hoặc đốt làm tro để làm lễ Tro năm sau.
Tuần Thánh trong lễ hội Mùa Chay là thời gian để các linh mục và toàn thể các giáo xứ tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Chúa. Giáo hội cử hành những mầu nhiệm cứu độ mà Chúa đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng ở trần thế; đến lúc Chúa đã vào thành Giêrusalem với tư cách là đấng Mêsia, đến cuộc Thương Khó, hồng phúc và Phục Sinh vinh quang. Tại nghi lễ Tuần Thánh linh mục ban phép cho giáo dân, trông coi lễ rước lá, kiệu Chúa đi trước về nhà nguyện làm lễ Tiệc Ly, lễ Vượt Qua tưởng niệm Chúa. Dưới sự lĩnh xướng của cha xứ hoặc họ đạo. Tuần Thánh trong lễ hội Mùa Chay hát thánh ca theo nghi thức, ca ngợi cuộc đời và phép màu nhiệm của Chúa. Người Philippin gọi lễ Lá là “pabasa”. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Có một số nam giáo dân sám hối, cởi bỏ áo, lấy dây da có gai tự đánh vào lưng mình đến mức xây xát, chảy máu để thể hiện ý chí thực hiện lời nguyện (panata) trung thành trước Chúa, cầu Chúa tha thứ những lỗi lầm. Có trường hợp sùng bái hơn, người ta còn lặp lại việc tự đóng đinh người lên cây thánh giá vào ngày thứ sáu, ngày Phúc Lành. Xế chiều, linh mục đọc lại bảy lời nói cuối cùng của Chúa trước đám đông giáo dân trong nhà thờ. Buổi tối; mô hình quan tài Chúa được rước quanh khu dân cư, qua các phố phường. Sáng hôm sau, ngày lễ Phục Sinh diễn ra tại nhà thờ. Làm lễ xong, đám rước lại chuẩn bị diễu hành trên đường phố. Thời xưa, hai kiệu gỗ, rước biểu tượng Chúa bị đóng đinh trên cây cây thánh giá và đức mẹ Maria Thương Khó (Mater Dolorasa). Ngày nay, ở Philippin đã cải tiến hình thức khiêng kiệu bằng hai cỗ xe nhỏ. Đám rước đi vòng quanh các nẻo đường, rồi đến một quảng trường nhỏ trong thành phố, nơi đã được coi như Galilea. Ở quảng trường có một sân khấu, đã có sẵn một đội quân nhỏ tuổi, mặc quần áo lễ, giống như những thiên thần tý hon đang múa hát đợi chờ sẵn chào đón đám rước đưa Chúa và đức mẹ Maria đến. Khi đám rước dừng lại ở sân khấu, những thiên thần tý hon, mở khăn trùm đầu đức mẹ cất đi. Sau ít phút ngưng nghỉ, mọi người làm dấu thánh, miệng lẩm nhẩm lời kinh, rồi tất cả những người lớn nhỏ ở quảng trường lại theo xe, rước Chúa và đức mẹ Maria trở lại nhà thờ. Nhà thờ rung chuông từng hồi dài, giục dã bước chân đám rước.
Ngoài các ngày lễ Công giáo ở Philippin có tính quốc gia kể trên, hầu như tháng nào cũng có những ngày lễ thánh, nhưng đó chỉ là ngày lễ có tính nghi thức bắt buộc theo giáo luật. Các linh mục, cha xứ thực hiện đều đặn với sự tham gia của số ít giáo dân có chức sắc trong giáo xứ.
Ở tất cả các làng bản (barangay) của Philippin đều có lễ hội các thánh đỡ đầu; nhưng chủ yếu cũng chỉ do các cha xứ và một số chức sắc lo liệu, chỉ có ở thủ đô Mamila, ngày lễ hội Nazarene thuộc quận Quiapo là được tổ chức trọng thể vào tháng 1, có ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của cả thành phố. Tượng thánh Nuestro Padre’ Senor Nazarene được đặt trong một cỗ xe do các tín đồ Công giáo nam giới (hijo) kéo dọc đường phố. Người đi lễ hội đông như nêm cối. Dân chúng liên tục chen chúc, xô đẩy để được đến gần kiệu thánh. Họ vẩy nước hoa thơm vào tường vào xe kiệu thánh. Thánh đã được tắm nước hoa đến mức ướt đẫm, đổi mầu toàn thân. Những chiếc khăn nhỏ để lau tượng thánh hoặc buộc trang trí trên xe kiệu, bị giáo dân cướp, xé lấy mảnh vải nhỏ để lau khắp người mình cầu mạnh, cầu phúc. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Về những vùng ven sông như thị trấn Gumaca ở Quezon, Naga ở Bicol… lễ hội thánh đỡ đầu đã kết hợp và nâng cấp các lễ hội dân gian cổ truyền thành lễ hội tôn giáo. Tượng một vị thánh cụ thể được giáo xứ đặt ở vị trí cao trên bề nổi hoặc con thuyền nhỏ, có trang trí rực rỡ. Giáo dân cử người lôi kéo, đẩy bè hoặc thuyền đi trên mặt nước. Tục té nước của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á được tái hiện làm tượng thánh thấm màu. Ở hai bờ sông, dọc theo tuyến đi của bè tượng thánh, dân chúng reo hò, vẫy cành lá xanh chào đón.
Cư dân miền núi Kalibo ở tỉnh Aklan có lễ hội Atiatihan cũng gắn với chúa hài đồng- lúc Chúa Jêsu mới ra đời- nhưng những nghi thức saman giáo cổ xưa còn đọng lại. Đến ngày lễ hội (tháng năm dương lịch) quanh ngôi nhà tụ hội của dân được kết hoa đủ sắc màu. Hàng trăm chiếc mũ lá dừa làm lễ vật dâng thần bản mệnh Isidro Labrador cũng được treo dán kín vách tường phía ngoài. Nam giới đội mũ thần mà lại có hình thánh ở trán; bôi nhọ nồi đầy mặt và cổ, đi theo kiệu thánh vòng vèo trên đường hẹp của bản làng. Họ vừa đi vừa đánh trống và hô vang những nhịp điệu: “Halabira”. Có những phụ nữ sùng tín đến bên kiệu, ôm ghì tượng hài đồng (dân xứ gọi là Santo Nino) vào ngực, chạm trán vào bất cứ vị trí nào trên thân tượng dường như xin chúa ban phúc. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3.1.2 Thực tế khai thác lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ hội văn hoá dân gian Việt Nam vốn đã rất đa dạng ở tất cả các vùng miền. Công giáo được truyền vào Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI và ngay từ buổi đầu tiếp xúc, lễ hội Công giáo đã sớm kết hợp với nghi thức giáo luật với phong tục lễ hội của cư dân bản địa. Lúc sơ giao, mục đích của các linh mục chỉ là sử dụng chính sách dân vận, lôi kéo quần chúng theo đạo mà lựa chiều các lễ hội, đưa nội dung giáo lý, phổ biến kiến thức Công giáo. Khi Công giáo Việt Nam trải qua những chặng đường lịch sử thì lễ hội Công giáo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong lễ hội Việt Nam. Ca dao Việt Nam có bài:
- Tháng Giêng ăn tết ở nhà
- Tháng hai ngắm đứng, tháng ba ra mùa
- Tháng tư tập trống rước hoa
- Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng năm
- Tháng sáu kiệu ảnh Lái Tim
- Tháng bảy chung tiền đi lễ Phú Nhai
- Tháng tám đọc ngắm Văn Côi
- Trở về tháng chín xem nơi chồng mồ
- Tháng mười mua giấy sao tua
- Tháng một, tháng Chạp sang mùa ăn chay
Đáng chú ý nhất trong lễ hội Công giáo Việt Nam là lễ hội đêm Noen (25 tháng 12 dương lịch). Từ trước đêm lễ hội hai ngày, khắp các xứ đạo, họ đạo và nhất là các nhà thờ lớn ở thành phố, giáo dân đã lo tu chỉnh, sắm sửa lễ vật chào đón ngày lễ hội. Cột cờ cao nhất được dựng lên ở sân nhà thờ. Các cờ nhỏ, hoa kết dây trang trí khắp nơi xung quanh nhà thờ. Giáo dân nô nức mau sắm lễ vật làm bánh thánh, trẻ em tưng bừng trong bộ quần áo mới, mũ cano là phẳng…đến nhà thờ xem những buổi tập dượt kèn, trống, não bạt, múa sinh tiền. Khác với lễ hội Noen ở Philippin, người Công giáo Việt Nam chỉ dựng cây thông Noen ở nhà thờ, không trang trí mang tính phổ biến ở các công sở nhà nước và đường phố. Lễ hội của bộ phận giáo dân ở các vùng có đạo, kể cả xứ toàn tòng thì cũng biểu hiện tính cá biệt giữa các cộng đồng cư dân theo Phật giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Trống hội, kèn tây cứ tự do âm vang, có khi kéo dài suốt đêm Noen hoặc cả ngày đêm 24,25 tự do thoải mái mà không hề có sự ngăn cấm của chính quyền sở tại. Tiếng cầu kinh và hát thánh ca đồng thanh vang ra từ nhà thờ xứ, họ… Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Từ quy định ngày giờ thực hành lễ hội,đến những nội dung giáo lý ít nhiều đã “nghệ thuật hoá” trong đời sống văn hoá xã hội được tinh lọc lại. Các cha xứ, linh mục đã hướng tâm mọi “ con chiên” của Chúa ở mỗi miền, đều theo một lề lối thống nhất. Đây cũng chính là nguyên nhân hạn chế sự phát triển đa diện, nhiều chiều của lễ hội Công giáo Việt Nam, mặc dù có một số linh mục truyền giáo đã lưu ý đến sự hoà nhập bản điạ từ rất sớm. Linh mục Trần Tam Tỉnh trong Thập giá và lưỡi gươm đã viết: “ Ngoại trừ các cụm nhà thành thị, dân chúng sống lẫn lộn. Người Công giáo thường tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi luỹ tre. Bị đóng và được đoàn ngũ hoá bởi hàng giáo sỹ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha sứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được giáo hội chính thức phê chuẩn”.
Lễ hội đón giao thừa trong Tết nguyên đán của người Việt, vốn cổ chỉ là một lễ trọng đón chào năm mới. Sau ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người Việt làm lễ cúng, tiễn Táo Công lên trời trình báo mọi sự việc của từng gia chủ trong năm. Táo Công sẽ ở lại Thiên Đình họp với Ngọc Hoàng trong bảy ngày cuối năm, rồi sẽ trở về trần gian vào đúng lúc giao thừa, lại trông coi một năm mới theo chu kỳ. Cùng với Táo Công, ở một số nơi còn quan niệm có một vị quan hành khiển. Có 12 vị quan hành khiển, mỗi vị đại diện là thần cho một năm theo hệ lịch can chi. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á, Công giáo lấy dương lịch làm mốc thời gian cho mọi sinh hoạt xã hội. Năm phụng vụ được tính theo chu kỳ từ 25 tháng 12 dương lịch là bắt đầu một năm mới. Tuy vậy, khi Công giáo hoà nhập với tâm linh người Việt thì Tết nguyên đán đã trở thành lễ hội của giáo dân. ở đây, nghi lễ đón năm mới là theo phong tục của người Việt, nhưng những thành tố cấu thành lễ hội được mở rộng; kết hợp chặt chẽ với các loại nhạc cụ, tụ tập đông người, hình ảnh của thần chủ truyền thống được thay thế là Chúa Jêsu. Bài văn tế Chúa trong lễ đón giao thừa có đoạn:
- Xin Chúa thương cách riêng đất nước Việt Nam con, tổ quốc quang vinh Toàn dân vui sống an bình
- Chung xây đất mẹ, thắm xinh tình người Cho bốn mùa ngát tươi lúa mạ
- Dẹp yên đi sóng cả, chông ba Đời này no ấm thái hoà
- Mai sau hưởng phúc hoan ca thiên đường
Mọi sự chuẩn bị lễ hội đón giao thừa đã chu tất. Trong những giờ phút thiêng liêng của năm cũ sắp hết, năm mới sẽ bắt đầu vào giây phút đầu tiên lúc 0 giờ ngày 1 tháng Giêng. Chuông đổ hồi giục giã. Lúc sau một hồi ba tiếng trống cái rung lên ầm ĩ ở nhà thờ; ban nhạc gồm chiêng, trống, sênh tiền tấu liên khúc ca mừng xuân mới. Đèn nến lung linh, rực rỡ nơi tôn nghiêm chúa ngự. Đoàn tế viên từ 15 người với trang phục chỉnh tề: áo thụng, mũ thánh tiến vào nhà thờ làm lễ tế. Mười hai tế viên, mặc áo mầu xanh, đội khăn xếp, xếp thành hai hàng sau chủ tế và hai bồi tế. Chủ tế và bồi tế để mặc áo màu đỏ, đội mũ cánh chuồn bước đến bên ban thờ Chúa thắp hương nến rồi quỳ phục bái lạy. Các tế viên làm theo răm rắp. Sau mỗi tuần tế, đội giáo nhạc lại tấu phối khí, nhạc cụ đàn, sáo, chiêng, trống và chuông rung. Mỗi tuần tế, chủ tế đọc một bài văn tế có nội dung khác nhau.
Ngoài sân nhà thờ, nhiều giáo dân cũng đến dự lễ đón giao thừa lấy lộc. Ở hầu hết các vùng đồng bằng Bắc Bộ, dường như tục xông nhà vào giờ phút đầu năm là rất thiêng liêng với tất cả cộng đồng. Giáo dân đã thực hành tính ngưỡng của tổ tiên trong lễ hội đón giao thừa. Khoảng nửa giờ sau, mọi người toả về nhà mình “xông nhà, xông đất”. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ hội dâng hoa ở các xứ đạo Công giáo Việt Nam được tổ chức khá công phu diễn ra vào cả bốn buổi chủ nhật của tháng năm dương lịch_còn gọi là tháng Đức Bà. Nội dung chính của lễ hội dâng hoa là rước kiệu mẹ Maria và dâng hoa lễ thánh. Đầu giờ chiều, tiếng chuông nhà thờ đổ hồi dài giục dã, đoàn người đi lễ hội đã tề tựu ở sân nhà thờ. Kiệu hoa được nâng lên vai. Đi trước kiệu là một thiếu niên mặc áo thụng, váy trắng và một người cầm nến. Một nhóm người già là nam giới đi ngay sau đó. Kiệu hoa tiếp theo. Sau kiệu hoa là linh mục có hai người giúp việc đi kèm. Hội ca công do nam nữ thanh niên đảm nhiệm vừa đi vừa hát thánh ca hoà nhịp với đội nhạc lễ. Số đông nam nữ thanh niên khác nối tiếp sau đội hát và đội nhac. Hội các bà, hội các ông lũ lượt nề nếp trong trang phục lễ hội. Các giáo dân khác nối dài đám rước kiệu. Đám rước từ thánh đường đi quanh sân nhà thờ, rồi lại về điểm xuất phát. Sau khi dừng kiệu, tượng hoặc ảnh của Maria được đưa vào ban thờ cũ. Lúc này lễ hát múa dâng hoa mới diễn Trống, phách giữ nhịp điều hoà các công đoạn. Mười hai nữ thanh niên được gọi là “con hoa” đồng phục áo dài trắng; múa điệu dâng hoa theo kịch bản của đạo diễn. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Nhiều bài hát dâng hoa được cải biến theo làn điệu dân ca nghi lễ của người Việt. Quan sát động tác múa khi uốn thân xoay người, chuyển thế đứng, nhún chân, quay khuỷu tay, đánh mặt…ta thấy rõ sự xen kẽ hay lấy lại tất cả các điệu múa nghi lễ trong lễ lên đồng, chạy đàn..v.v. sân nhà thờ, sau lễ dâng hoa là hội kết chữ, kết hình do nam nữ thanh niên mặc đồng phục thể hiện. Có thể nghe nhịp trống điều khiển, một hai nhóm người kết hình mặt trăng, ngôi sao . Chữ A và M in là chữ cái lấy từ nguyên gốc Ave Maria. Mọi nghi thức trong lễ hội dâng hoa đều tràn đầy ý nghĩa kinh dâng lên đức Maria lòng thành kính của giáo dân.
Từ chủ nhật Lễ Lá đến chủ nhất lễ Phục Sinh là khoảng thời gian các giáo dân thể hiện nghi lễ tưởng niệm Chúa Jêsu lâm nạn, bị chết, ba ngày sau thì sống lại.
Trong Tuần Thánh có những ngày lễ trọng. Lễ truyền phép Mình Thánh ngày thứ năm, còn được gọi là bữa tiệc ly, đây cũng gọi là ngày cuối cùng có bữa ăn của chúa Jêsu cùng các môn đệ. Đúng lúc kết thúc bữa ăn cuối cùng ở trần gian ấy, Chúa xác lập bí tích Mình Chúa. Ngày thứ sáu kỷ niệm sự kiện Chúa chịu chết, thứ bảy là lễ Vọng Sinh (chờ Chúa sống lại) và chủ nhật lễ trọng Phục Sinh. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Như vậy, Tuần Thánh trong mùa Giáng Sinh khiến cho tất cả mọi giáo dân đều bị cuốn hút vào không khí lễ hội. Tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế, mỗi xứ, mỗi họ đạo có thể tổ chức lễ hội theo cách của mình. Xứ đạo Trung Lao (nay thuộc xã Trung Đồng huyện Nam Ninh tỉnh Nam Định) đã từng tổ chức lễ hội Tuần Thánh rất quy mô vào những năm đầu thế kỷ XX.
Diễn lại cái chết của Chúa, chiều ngày thứ sáu, lễ hội Tuần Thánh bắt đầu. Đám rước có hai kiệu vàng, kiệu đi đầu có tượng đức mẹ Maria đứng, cầm khăn trắng nâng ngang tầm ngực, như sắp lau nước mắt. Ngay trước và sau kiệu đức mẹ, là một đội quân đồng phục cổ vũ cho các “chân kiệu” và quan quản, thày tớ cai đang chuyển động. Sau kiệu đức mẹ một đoạn; đến một đội quân, giả như sắp phải `thực thi việc hành hình Chúa. Trang phục binh sĩ, gươm giáo, lá chắn, súng ống…đều lăm lăm sẵn trên tay mà đi trong đám rước. Kiệu Chúa đi sau đội quân này. Sách Kỷ yếu Trung Lao đã miêu tả: “Tượng Chúa to lớn như cỡ người thật, mặt mũi máu me, tay chân gầy ốm, vác cây thập tự đứng trên chiếc kiệu lớn, ngoài có màn phủ, ai coi cũng phải ngậm ngùi thương xót.” Đám rước vòng quanh sân nhà thờ rồi hạ kiệu trước thánh đường, đưa tượng đức mẹ và Chúa vào cung thánh. Tượng Chúa Jêsu nằm trên cây thánh giá được dựng lên trong cung thánh lung linh đèn nến. Rèm che cung thánh khép lại. Phường nhạc lễ nổi lên khúc ca ai oán, trầm mặc. Con chiên áo thâm, khăn trắng lầm rầm cầu kinh làm lễ Ngắm trước bàn thờ. Cuộc lễ kéo dài đến 12 giờ đêm. Bấy giờ có ba vị tông đồ lấy thang, mang búa, trèo lên tháo xác Chúa xuống, đặt giữa ban thờ cho đức mẹ Maria ngắm con”. Lời kinh cầu vang lên những đoạn đời Chúa. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lúc sau, cuộc lễ táng tượng, xác được cử hành như thật. Mọi thành viên lớn, bé, trẻ, giá đều mặc trang phục mầu đen, đội khăn trắng, lắng nghe những khúc nhạc trống…đưa Chúa đi chôn. Cỗ đòn khiêng quan tài Chúa được trang trí đẹp. Bốn góc có bốn thiếu nhi đóng vai thiên thần, “chập chờn đôi cánh”.
Cuộc rước xác Chúa, đi quanh đường làng. Đi đầu đoàn là những người vác cờ tang, tiếp đến đội quân dữ, lính tráng, đại diện các hội đoàn, đến ban nhạc. Đòn khiêng quan tài Chúa ở đoạn sau ban nhạc, có một số tông đồ, thầy cả…đều mặc áo trắng, khăn tang. Gọi là cỗ đòn khiêng nhưng thực tế vẫn là bộ kiệu rước rực rỡ sắc mầu. Tiếp sau đòn khiêng quan tài Chúa là một đoàn thiếu nữ mặc đồng phục quần áo trắng, miệng đọc kinh tay vần tràng hạt. Sau đoàn thiếu nữ là đến kiệu thánh đức mẹ Maria. Trên kiệu đức mẹ còn có thánh Gioan và thánh nữ Madalenna, đã vì Chúa mà trở lại hoàn lương. Đoàn người đi sau cũng là các giáo dân bản xứ. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Đám rước đến chân núi giả ở gần hồ nước gần nhà thờ thì nghỉ dừng lại nghỉ. Các tín đồ đến bên đòn táng, đến bên kiệu đức mẹ, ngắm thánh, đọc kinh rồi chuẩn bị ra về. Các vị chức sắc, người được phân công phục vụ nhà thờ đưa kiệu rước, tượng Chúa, tượng đức mẹ, tượng thánh vào cung thờ.
Với tất cả các hình thức nghiêm nhặt, chặt chẽ; lễ hội Tuần Thánh diễn ra từ chiều đến khoảng quá nửa đêm ở Nam Định, trước năm 1945 là dấu ấn khó phai mà trong đời sống văn hoá Công giáo Việt Nam. Song, có lẽ vì cuộc sống khó khăn, chiến tranh loạn lạc nên lễ hội Tuần Thánh ở Trung Lao, nay cũng đơn giản hơn nhiều.
Mùa Giáng Sinh và Mùa Chay nối liền nhau trong tháng 12 và tháng 1 dương lịch, trùng với dịp chuẩn bị đón tết nguyên đán và hội xuân của người Việt; nên lễ hội Công giáo người Việt Nam đã dung nạp khá nhiều yếu tố văn hoá bản địa. Còn các dịp lễ thánh khác quanh năm, trong mùa phụng vụ Công giáo không cấu thành lễ hội.
Đối với các nước Đông Nam Á khác, do số lượng giáo dân hạn chế, các nghi thức lễ chỉ diễn ra trong khuôn viên nhà thờ và mang tính biệt lập là ngày lễ thánh, nên hầu như không có lễ hội.
3.2 Một số lễ hội Công giáo lớn trên thế giới Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3.2.1 Lễ Hội Thánh Mẫu lớn nhất thế giới ở Brazil
Lễ hội có tên chính thức “Cirio de Nazaré”, là sự kiện để người Công giáo trên khắp Brazil để thể hiện lòng sùng kính Đức Mẹ Nazareth. Khách hành hương tham dự cuộc rước kiệu vài giờ đồng hồ đi qua các đường phố của Belém, là tên của thành phố Bethlehem trong tiếng Bồ Đào Nha.
Trong một tuyên bố hồi đầu tuần này, các vị giám mục Brazil cho biết rằng việc tổ chức lễ hội Công giáo lớn nhất ở Brazil này đã mang đến cho họ niềm phấn khởi: “Cirio là Ngày Lễ của gia đình, của tình bằng hữu! Đây là nỗ lực tập thể tuyệt vời khi “đổ đầy các chum nước để Chúa Giêsu có thể biến nó thành rượu, rượu mới của công lý, hòa bình và cam kết sống theo mục tiêu của Tin Mừng”. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Vào hôm 5 Tháng Mười, hàng chục giáo xứ, phong trào giáo dân và các cơ quan mục vụ trong Tổng Giáo Phận Belém đã bắt đầu 48 giờ chầu Thánh Thể để chuẩn bị cho cuộc rước kiệu vào ngày Chúa Nhật 9 Tháng Mười. Cuộc rước sẽ khởi hành từ nhà thờ chính tòa Belém và sẽ đi qua một con đường dài 2 dặm để đến Đền Đức Mẹ Nazareth. Tại đền thờ, linh tượng của Đức Trinh Nữ Maria sẽ được trưng đặt để cho hàng ngàn tín hữu đến từ mọi nơi trên khắp Brazil bày tỏ lòng tôn kính và tạ ơn vì những ân sủng mà họ nhận được thông qua lời cầu bầu của Mẹ.
Cuộc rước kiệu dài nhất trong lịch sử của Lễ hội Cirio de Nazaré là hơn 9 giờ đồng hồ.
Lòng sùng kính Đức Mẹ Nazareth xuất phát ở Bồ Đào Nha. Những linh tượng ban đầu về Đức Mẹ thuộc Tu Viện Đức Trinh Nữ Maria thành Caulina (Tây Ban Nha). Người ta tin rằng, linh tượng này do chính Thánh Giuse chạm khắc ở Nazareth, sau đó được đưa sang Âu Châu.
Lịch sử của cuộc rước quay trở lại vào năm 1792, khi Vatican cho phép tổ chức một cuộc rước kiệu tôn vinh Đức Trinh Nữ Nazareth ở thành phố Belém tiểu bang Para. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3.2.2 Lễ hành hương tới Sydney
Sydney (Reuters) – Khoảng 150 ngàn thanh thiếu niên hành hương đã tham dự thánh lễ tại Cảng Sydney hôm nay thứ Ba để mở đầu cho lễ hội giới trẻ vĩ đại nhất của Giáo hội Công giáo, nhưng những người chống đối cũng dự trù một buổi tập trung phản đối Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI trưóc khi ngài cử hành thánh lễ ngoài trời vào ngày Chúa nhật sắp tới.
Trước thánh lễ, trong lời chào mừng khách hành hương, Thủ tướng Australia, ông Kevin Rudd, một người Công giáo ngoan đạo, phát biểu: “Trong lịch sử thế giới, rất thường khi người trẻ hành trình tới một nước khác trên thế giới với số lượng đông đảo là vì lý do chiến tranh, nhưng các bạn tới đây là những người hành hương để phục vụ hòa bình.”
“Một số người cho rằng không có chỗ cho đức tin ở thế kỷ 21 này, tôi xin nói là họ lầm. Các bạn là ánh sáng của thế giới giữa khi thế giới quá nhiều tối tăm.” Hơn 250 ngàn người trẻ từ 176 quốc gia đã tới Sydney để tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới từ 15 đến 20 tháng 7; họ không chỉ cầm thánh giá, tràng hạt mân côi và kinh thánh mà còn mang theo đàn ghita và choàng cờ nước mình trên vai. Giáo hội Công giáo hy vọng Ngày Giới Trẻ Thế Giới sẽ tạo nên một sinh khí mới nơi thanh thiếu niên Công giáo trên thế giới giữa lúc sự tôn thờ cá nhân và chủ nghĩa tiêu thụ đang trở thành những lôi kéo lớn trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Đức giáo hoàng đã gửi thông điệp thứ nhất trong số thông điệp ngài sẽ chuyển đi trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới: “Young friend, God and his people expect much from u because u have within you the Fathers supreme gift: the Spirit of Jesus – BXVI” (Hỡi bạn trẻ, Thiên Chúa và dân Người trông đợi nhiều nơi con bởi vì con có trong mình quà tặng cao nhất của Chúa Cha: đó là Thần linh của Đức Giêsu – Bênêđictô XVI). Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Đức giáo hoàng cho biết trong cuộc viếng thăm Australia ngài sẽ xin lỗi các nạn nhân bị lạm dụng tình dục trong giáo hội. Broken Rites, đại diện các nạn nhân, có trong tay một danh sách 107 vụ án lạm dụng trong giáo hội, nhưng cho biết có thể có thêm hàng ngàn nạn nhân khác.
Sydney có đôi khi được gọi là Thành phố Tội lỗi của Australia. Nơi đây có ngày mardi gras của giới đồng tính lớn nhất thế giới, cũng là nơi có khu đèn đỏ nổi tiếng nhất nước, đó là Kings Cross. Nhưng trong tuần lễ này Sydney đã tràn ngập một làn sóng thiện hảo và Kitô giáo.
Con đường George ở trung tâm thành phố thường ồn ào, kẹt xe và đông đúc vào giờ ăn trưa, nhưng hôm thứ Ba này đường phố bình yên, tràn đầy giọng hát thánh ca, chập chùng tiếng đàn ghita và bập bùng tiếng trống.
Hàng ngàn khách hành hương đi dọc theo đường George; đường này là một trong 300 con đường đóng không cho xe cộ qua lại và an ninh được bảo vệ theo kiểu tổ chức Thế vận hội. Giống như những fans hâm mộ các đội bóng, mỗi khi các nhóm người từ nhiều quốc gia gặp nhau họ cất tiếng hát lên để gọi nhau. Anh Rudimar Gouveia đến từ Brazil nói: “Chúng tôi hát lên để bày tỏ những gì cảm nghiệm trong tâm hồn. Chúng tôi gặp gỡ rất nhiều người và nói với nhau về chuyện Đức Giêsu có ý nghĩa thế nào trong cuộc đời chúng tôi.” Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Còn anh Nazareth Atielza người Australia thì nói rằng Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã biến đổi cả thành phố: “Không khí tích cực hơn trước rất nhiều. Vào ngày thường, mọi người bận rộn lo cho mình nhưng hôm nay đây ai gặp người lạ cũng cất tiếng chào.”
Phản ảnh mối cuồng nhiệt tôn giáo tại Sydney, người ta thấy dòng chữ “Ratzinger Thống Trị” được sơn lên ban đêm trên đài tưởng niệm chiến sĩ. Josef Ratzinger là tên của Đức giáo hoàng Bênêđictô. Nhưng mặc dầu có đông đảo người Công giáo hành hương, mặt trái đen tối của Sydney cũng vẫn còn hiện lên bề mặt thành phố. Một nhà chứa tại Sydney hoan nghênh khách hành hương, thúc giục “người có cơ hội phạm tội hãy phạm tội đi” trước khi giáo hoàng rời Australia, thậm chí còn quảng cáo bớt 10% cho khách có mang theo thẻ Ngày Giới Trẻ Thế Giới.
Australia là một xã hội thế tục, nơi giáo hội Công giáo đang cố gắng lôi kéo thêm số người đến thờ phượng tại nhà thờ. Chừng 5 triệu người Australia theo Công giáo, nhưng số người đi lễ ngày Chủ nhật chưa tới một triệu. Đức Hồng y Australia là George Pell nói với khách hành hương trong thánh lễ mở đầu Ngày Giới Trẻ Thế Giới: “Đừng tiêu phí cuộc đời bạn trong do dự…bởi vì chỉ có những cam kết dấn thân mới mang lại kết quả. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải có kỷ luật, nhất là kỷ luật với chính mình.”
Có những luật lệ áp đặt chống lại người biểu tình tuần này khi Đức giáo hoàng thăm viếng Sydney. Người biểu tình có thể bị bắt giữ khi phiền hà khách hành hương Công giáo.
KẾT LUẬN Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người mà tín ngưỡng, tôn giáo đã tô đượm cho văn hoá dân tộc nhiều sắc màu. Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi diễn ra nghi lễ, thờ phụng của tín đồ tôn giáo, đồng thời cũng là nơi lưu giữ văn hoá truyền thống làm cho văn hoá dân tộc có sức sống trường tồn.
Ngày nay, ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam rất rộng lớn. Sự du nhập và phát triển của văn hóa Công giáo hàng nghìn năm để lại cho đất nước ta một khối di sản to lớn đó là hệ thống nhà thờ có mặt khắp các làng xã, là các lễ hội Công giáo đặc sắc. Đây cũng là một kho tài nguyên vô giá để chúng ta định hướng phát triển du lịch. Bởi ai cũng biết, khi đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, xã hội càng hiện đại thì con người ta lại càng có nhu cầu nâng cao hơn nữa đời sống tinh thần. Cho nên sự phát triển của du lịch tâm linh trong tương lai không xa là nhu cầu tất yếu, nhất là đối với quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo như Việt Nam. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Du lịch tâm linh đến các thánh tích sẽ giúp con người tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, vun bồi tâm trí và tinh thần minh triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho tinh thần con người trong xã hội hiện đại. Nó bao hàm cả hành trình tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính mình. Làm trổi dậy đời sống giác ngộ của khách du lịch tại những địa danh tâm linh chính là mục tiêu của các tour du lịch tâm linh.
Việt Nam cũng chỉ mới để ý đến du lịch tín ngưỡng, một loại hình du lịch nhìn ngắm, thăm viếng. Du lịch tâm linh gần đây đã hình thành và đang phát triển ở những quốc gia châu Á, đặc biệt những quốc gia theo Phật giáo như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo Nhật Bản kết hợp với các công ty lữ hành tổ chức tour cho trên vài ngàn khách hành hương từ Nhật Bản đến các thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ. Thái Lan, Myanmar. Châu Âu hàng năm cũng đã tổ chức nhiều đoàn du khách tham gia các lễ hội tôn giáo, trong đó có những lễ hội Công giáo lớn.Các khóa tìm hiểu và nghiên cứu tôn giáo, Trong khi đó ở nước ta, trên bản đồ du lịch, trên các kênh quảng bá, xúc tiến, người ta vẫn chưa thấy nói đến những nơi này như là điểm đến của loại hình du lịch này. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch, xây dựng chiến lược, quản lý thực hiện quy hoạch phát triển du lịch của từng tỉnh và từng vùng để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, chuyên biệt, đồng thời tạo tinh liên kết cao trong phát triển.
Định hướng du lịch mà khách đến hành hương, chiêm ngưỡng trong sự tôn kính nghiêm trang, gìn giữ bản sắc hồn nhiên trong sự thực hành tín ngưỡng của dân bản xứ. Điều ấy đòi hỏi chính tổ chức du lịch phải vạch ra một mẫu mực được sự hưởng ứng của nhà chùa và dân bản xứ, không thể làm cẩu thả được. Làm cho du khách đến đó sẽ thấy nét đặc thù của bản địa, chứ không phải đứng xem những cảnh bát nháo, buôn bán hàng du lịch. Du khách không bao giờ đánh giá những ngụy trang tôn giáo, họ muốn đến để xem thật và… cảm nghiệm, chiêm ngưỡng cảnh thật. Và đối với họ đó là sự tiếp cận thực sự “tâm linh”, “linh hồn” Việt Nam. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Vì vậy, cần phải có một chiến lược cụ thể như: Phải xây dựng được những tour du lịch trọng điểm đến các thánh tích, lễ hội tôn giáo đặc sắc, đồng thời phải có sự liên kết giữa các tỉnh trong vùng.
Tuyên truyền, quảng bá là một biện pháp cực kỳ cần thiết. Tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư để nâng cao hiểu biết và trân trọng các di sản văn hóa, hiểu biết về lợi ích của phát triển du lịch và cả những mặt trái mà sự phát triển này có thể mang lại. Làm tốt công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch sẽ thu hút một lượng du khách không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Cần có nhiều ấn phẩm với nhiều hình thức quảng cáo được bán ở nhiều nơi công cộng và điểm du lịch.
Điều quan trọng là các quản lí du lịch cũng như các nhà đứng đầu của các tôn giáo cần nhìn thấy được tiềm năng vô cùng to lớn của chùa chiền, nhà thờ tôn giáo cũng như vai trò vị trí của nó trong đới sống tinh thần của mọi người dân Việt Nam. Đó không những là nơi sinh hoạt tâm linh mà còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa của cộng đồng làng xã. Một khi nhìn thấy được tầm quan trọng đó, chắc chắn những nhà lãnh đạo tôn giáo không thể nào không quan tâm đầu tư thích đáng cho các thánh tích, trong đó đầu tư phát triển du lịch là điều không thể bỏ qua. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Phối hợp quy hoạch du lịch với quy hoạch đô thị nhằm thống nhất các dự án xây dựng để không làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan. Quy hoạch các di tích danh thắng trên cơ sở quy hoạch du lịch sẽ đưa các di tích có giá trị trở thành các điểm tham quan du lịch đồng thời lồng ghép với kế hoạch tôn tạo và giữ gìn các di tích.
Cần có định hướng văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích, danh thắng nhằm tránh thương mại hóa các di tích văn hóa ngăn chặn các hiện tượng phi văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích.
Cần có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển du lịch trên địa bàn. Quán triệt phương châm lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại phát triển du lịch để bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa. Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam loại hình du lịch này mới chỉ manh nha và phát triển một cách tự phát. Điều ấy đòi hỏi chúng ta phải vừa có chiến lược ở tầm vĩ mô, vừa có các biện pháp cụ thể. Nếu có chiến lược khả thi và áp dụng triệt để, loại hình du lịch sẽ nhanh chóng phát huy thế mạnh trong phạm vi cả nước nói chung và vùng nói riêng. Cần phải triển khai đồng bộ các biện pháp để du khách khi đến các địa chỉ tôn giáo, tâm linh sẽ thấy nét đặc thù tôn giáo của bản địa, được xem, cảm nhận, chiêm nghiệm. Du lịch văn hóa tâm linh sẽ thực sự giúp du khách tiếp cận thực sự “tâm linh”, “linh hồn” Việt Nam.

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com