Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ bài Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục Và Ý Nghĩa Của Tư Tưởng Vào Việc Xây Dựng Nền Giáo Dục Việt Nam Hiện Nay. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Hỗ Trợ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục Và Ý Nghĩa Của Tư Tưởng Vào Việc Xây Dựng Nền Giáo Dục Việt Nam Hiện Nay. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay cần thực hiện các giải pháp như thế nào? để nhận thức và đấu tranh để chống lại các quan điểm xuyên tạc của kẻ thù, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Hỗ Trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Hỗ Trợ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

Phần A : MỞ ĐẦU (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hoá của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc và sáng tạo. Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người thì tư tưởng về văn hoá chiếm một vị trí quan trọng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học và cách mạng về văn hoá và xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Nó chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, trong đó cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -Lênin với tinh hoa và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và cơ sở hạ tầng, văn hoá với kinh tế -chính trị, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển, có thực mới vực được đạo, xã hội thế nào thì văn hoá thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hoá là động lực của sự phát triển xã hội và “văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Đối với nước ta hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân,song đó phải là sự phát triển bền vững, hài hoà giữa kinh tế và văn hoá. Vì vậy, chúng ta không chỉ xây dựng nền kinh tế mới mà còn phải xây dựng nền văn hoá “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

Năm 1945, cùng với thắng lợi chính trị, nhân dân ta đã xóa đi một nên giáo dục đồi bại, xảo trá của thực dân Pháp: Chỉ dạy cho nhân dân sùng bái những kẻ mạnh hơn mình; dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình; dạy cho thanh niên khinh rẻ nguồn gốc, dòng giống mình…Đó là một nền giáo dục nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Chế độ mới ra đời, cùng với việc thiết lập nền cộng hòa dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải quyết nạn dốt là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Bởi vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Yếu thì dại, dại thì hèn”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là phải làm cho nhân dân biết đọc, biết viết, từng bước nâng cao dân trí. Bởi vì nước ta là một nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Công việc kháng chiến kiến quốc, đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chúng ta phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân. Muốn làm được điều đó, cần phải có giáo dục và giáo dục lại nhân dân.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng em đã chọn đề tài : “Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và ý nghĩa của quan điểm đó trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục nước ta hiện nay” làm đề tài thảo luận của nhóm 8 môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

2.1 Mục đích

Làm rõ quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục qua đó thấy được ý nghĩa của quan điểm đó trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục Việt Nam hiện nay.

2.2 Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nêu trên, bài thảo luận cần tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:

  • Trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
  • Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục.
  • Nêu ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục Việt Nam hiện nay.

2.3. Phạm vi nghiên cứu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá có phạm vi rất rộng, trong bài thảo luận này, chúng em chủ yếu tập trung nghiên cứu : Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và ý nghĩa của văn hóa giáo dục trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay.

PHẦN B: KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

1. Định nghĩa về văn hóa (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Trước năm 1945, Hồ Chí Minh định nghĩa văn hóa ở phạm vi rộng: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản

sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự tồn tại”.

Sau CMT8 Hồ Chí Minh quan điểm văn hóa ở phạm vi hẹp: Văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Bốn vấn đề đó có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động lẫn nhau.

Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc mới là: (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

  • +Xây dựng tâm lý: là xây dựng tinh thần độc lập tự cường.
  • +Xây dựng luận lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
  • +Xây dựng xã hội :mọi sự nghiệp phải liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
  • +Xây dựng chính trị: dân quyền.
  • +Xây dựng kinh tế: phát triển kinh tế để đảm bảo đời sống cho nhân dân, xây dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.

2. Vị trí và vai trò của văn hóa

Thứ nhất : Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Thứ hai : văn hóa không thể đứng ngoài mà đứng trong kinh tế và chính trị.

3. Tính chất của nền văn hóa

  • Tính dân tộc : là cốt cách dân tộc làm nên bản chất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc.
  • Tính khoa học : nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
  • Tính đại chúng: nền văn hóa phụ thuộc nhân dân do nhân dân xây dựng nên.

4. Chức năng của văn hóa 

Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.

Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.

Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh, hướng con người đến chân thiện mỹ để hoàn thiện bản thân.

I: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, trong đó có tư tưởng về văn hóa giáo dục – bộ phận quan trọng trong vấn đề xây dựng nhân tố con người.

Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều công sức phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị tư tưởng cho việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này.

Hồ Chí Minh đã phê phán gay gắt nền giáo dục phong kiến: tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ….; và nền giáo dục thực dân: ngu dốt, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả là sự dốt nát.

Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập được Hồ Chí Minh chuẩn bị từ những lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng trong những năm của thế kí XX, thực sự ra đời sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam mới phải được coi là một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “… làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng vs nước Việt Nam độc lập”.

Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và toàn diện, định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục

Để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục là : Giáo dục để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân; Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục để đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm chủ để đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Giáo dục còn là để “cải tạo trí thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực hiện “công nông tri thức hóa”, xây dựng đổi ngũ tri thức ngày càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao. Nền văn hóa giáo dục còn phải đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy chính sách ngu dân hết sức thâm độc của thực dân Pháp. Người cũng sớm có thực tế cụ thể và nhận thức sâu sắc về loại trường tiểu học Pháp – Việt do thực dân Pháp mở nhỏ giọt từ năm 1905 ở các thành phố và tỉnh lớn nhằm đào tạo “những tay hợp tác, những công dân bản xứ trả lương ít tốn hơn cho ngân sách thuộc địa…, huấn luyện quen việc các nhà cầm quyền bản xứ”. Vì vậy, ngay trong những năm đầu hoạt động ở nước ngoài, Người đã lên án mạnh mẽ chính sách đó của thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho dân tộc mình. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Năm 1919, trong bản Yêu sách mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây có điều khoản 6 đòi hỏi: “Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh”. Đến năm 1920, tại Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã không quên lưu ý tình trạng: “Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm, vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”. Đặc biệt trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để vạch trần chính sách ngu dân, một tội ác ngang với sự áp bức chính trị và bóc lột kinh tế tàn khốc, ngang với sự đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện đối với nhân dân Việt Nam của thực dân Pháp.

Trong sự nghiệp cách mạng thì việc “xây dựng con người” là một chiến lược quyết định; trong sự nghiệp “xây dựng con người” thì chiến lược giáo dục đứng ở vị trí hàng đầu; trung tâm chiến lược giáo dục là xây dựng và hoàn thiện con người. Sự phát triển phồn vinh của đất nước, sự thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH là tiền đồ của dân tộc đòi hỏi phải xây dựng một nền giáo dục có chất lượng và đạt hiệu quả cao. Hồ Chí Minh sáng lập nền giáo dục mới nhằm đào tạo các em trở thành những công dân hữu ích cho đất nước Việt Nam, và làm phát triển năng lưc sẵn có của các em, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đảm nhiệm tốt trọng trách, nhiệm vụ của mỗi công dân, người cán bộ, chiến sĩ trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, coi trọng, đề cao dân trí với mong muốn tột bậc “nhân dân ai cũng được học hành” và quyết tâm xây dựng một nền giáo dục mới, hướng tới con người, vì con người là một trong những mục tiêu cách mạng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nền giáo dục mới, nền giáo dục nhân dân: Khoa học, dân tộc và đại chúng… Trong bối cảnh vận mệnh quốc gia, dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định vị trí, vai trò của nền giáo dục. Ngay trong khoá họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Người đã nêu lên nhiệm vụ diệt “giặc dốt”, “giặc đói”, giặc ngoại xâm”, Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đồng ý mở chiến dịch chống nạn mù chữ”. Tư tưởng đó đã trở thành một phong trào sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển trong nhân dân. Phong trào Bình dân học vụ mở đầu cho việc xây dựng và hoàn thiện con người mới.

Mục tiêu đó đã được Người xác định trong lưu bút ở trang đầu cuốn sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc tháng 9 năm 1940 là: “Học để Làm việc – Làm người – Làm cán bộ”. Học để phụng sự đoàn thể – Phụng sự giai cấp công nhân và nhân dân – Phụng sự giai cấp và nhân loại”.

Năm 1952, trong “Thư gửi giáo sư và sinh viên trường dự bị đại học ở Thanh Hóa, Bác Hồ đã nêu rõ mục đích của giáo dục. Với phong cách ngắn gọn, ngay sau lời cảm ơn và thăm hỏi thân mật, Bác đã viết: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.Các cháu (học sinh) thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân”.

Toàn bộ mục đích này gói gọn trong 6 chữ. Hai hoạt động cơ bản và bao trùm của thầy là dạy và của trò là học đều hướng vào cùng mục đích, đồng thời cũng là mục đích chung của ngành Giáo dục. Mục đích gồm sáu chữ này nhấn mạnh yêu cầu làm việc trung thực và tận tụy, hết lòng hết sức để cống hiến hết mình, tất cả vì dân, cho dân. Sản phẩm đào tạo theo Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh sẽ phải đạt được yêu cầu như vậy. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Năm 1955, khi viết “Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng” nhân dịp năm học mới, Bác Hồ đã căn dặn: “Trường của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà…Và cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Dù ngôn từ dài ngắn có khác nhau nhưng nội dung cơ bản vẫn thống nhất về mục đích chung của giáo dục.

Tới năm 1959, khi căn dặn giáo viên mẫu giáo, Bác Hồ lại viết: “Công tác giáo viên và mẫu giáo có khác nhau, nhưng cùng chung mục đích đào tạo những công dân tốt, cán bộ tốt, cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội”.

Nhiệm vụ của ngành giáo dục rất quan trọng và vẻ vang nhằm xây dựng và hoàn thiện con người mới, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hồ Chí Minh từng căn dặn cán bộ: Ta xây dựng con người phải có ý định rõ ràng như kiến trúc sư định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi, cát mà xây dựng lên. Con người mới mà nền giáo dục Việt Nam cần xây dựng theo Người là những công dân “vừa hồng, vừa chuyên”. Hồ Chí Minh coi trọng cả tài lẫn đức, tài đức kết hợp chặt chẽ với nhau trong một con người và phải lấy đức làm gốc. Đức ở đây không phải là đạo đức nói chung chung, không phải là đạo đức, lễ giáo phong kiến mà là đạo đức cách mạng, đã được Người mở rộng, nâng lên một tầm cao mới với những chuẩn mực cao đẹp: “Trung với nước, hiếu với dân, cần – kiệm – liêm – chính – chí công vô tư”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Mối quan hệ chặt chẽ giữa tài và đức, vị trí, vai trò của mỗi mặt đức, tài được Người chỉ rõ: “Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”, “Có tài phải có đức, có tài mà không có đức thì tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức mà không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp được ai”. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức…”. Đó chính là cái gốc của con người mới mà nhờ đó con người mới phát triển, hoàn thiện mình. Sự trưởng thành, phát triển của con người” phần nhiều do giáo dục mà nên”.

Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh – mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu – là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” trong thời đại mới. Và như vậy, “con người xã hội chủ nghĩa”, con người toàn diện, “nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác – Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Xây dựng và hoàn thiện con người mới phát triển toàn diện thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục đã vạch ra phương hướng cơ bản của chiến lược con người, chiến lược giáo dục ở nước ta. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, về mục tiêu giáo dục nói riêng là tài sản vô giá được Đảng và Nhà nước ta kế thừa, vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong quá trình xây dựng, phát triển nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay.

Văn kiện Hội nghị lần thứ Hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định quan điểm của Đảng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư có hiệu quả nhất, qua đó đã đề ra mục tiêu cơ bản của giáo dục là: “Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc Việt Nam, có thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa, xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” và “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.

2. Nội dung giáo dục (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Muốn đạt được mục tiêu đó thì nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề ngiệp, các nghành nghề liên quan trực tiếp tới công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo luôn thể hiện yêu cầu nội dung giáo dục toàn diện, đào tạo con người vừa có tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học kỹ thuật lại vừa có đức; trong đó, Người coi đức là gốc của con người, của cách mạng, của công việc . Đây là tư tưởng then chốt của Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo. Chính vì vậy mà trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp người thừa kế vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Người nhấn mạnh nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng là: “Phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống nhân dân”. Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khỏe để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, “những người kế thừa xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội vừa hồng vừa chuyên”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc.Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường đầu tiên của nước

Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho học sinh, một bức thư đầy tình cảm và tâm huyết: “Các em hoc sinh! Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tôi đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi…Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút này trở đi, các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”. Nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam ấy, theo Bác là: “Một nền giáo dục của một nước Độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” .

Theo quan điểm của Người, các nội dung giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có trình độ học vấn thì không học tập được kĩ thuật, không học được kĩ thuật thì không theo kịp thời đại mà cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, và như vậy ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước, không khoa học – kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà, học tập khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển như vũ bão, và Bác viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Ngày 4 tháng 10 năm 1945, trên Báo Cứu quốc, Bác lại viết: “Muốn giữ vững nền độc lập. Muốn làm cho dân mạnh, nước giàu. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Một điều quan trọng trong nội dung giáo dục đó là phải học tập chính trị. Bởi nếu chỉ học tập văn hóa, kĩ thụât, chuyên môn mà không chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. Giáo dục chính trị là nền tảng, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn.

Học chính trị là học chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Học để nắm vững quan điểm, lập trường, có tính nguyên tắc của Đảng, thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Học chính trị không phải là thuộc sách Mác-Lênin làu làu, không phải học một cách giáo điều, mà là “Học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình”. . là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta” .

Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ nên Người cho rằng phải tiến hành cải cách giáo dục, nhằm xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học thật khoa học, hợp lý,đáp ứng đòi hỏi của cách mạng.

Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với chương trình, nội dung dạy và học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng

3. Phương châm, phương pháp giáo dục (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

3.1 Phương châm giáo dục

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể và khoa học. Như chúng ta đã biết, cách mạng tháng Tám thành công; chỉ sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập một ngày, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngay trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, mặc dù bộn bề biết bao công việc, giữa lúc kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Bác đã kêu gọi toàn dân đoàn kết chống: “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” và ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để thực hiện chống mù chữ. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biến một đất nước dốt nát thành một nước có nền văn hóa cao, khoa học phát triển”. Người cho rằng: “học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.

Trong thư gửi các học sinh Trường sư phạm miền núi Trung ương nhân dip trường khai giảng ( ngày 13 tháng 3 năm 1955), vì đây là đối tượng đặc biệt nên được Bác quan tâm căn dặn: “ Ngày nay, các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà”; đồng thời Bác cũng giao nhiêm vụ: “Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần cho việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”. Bác cũng đã chỉ ra phương châm giáo dục hết sức khoa học: “giáo dục phải phục vụ đường lối của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tế”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, phải coi giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của quần chúng, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục (ngày 15.10.1968) Bác chỉ rõ: “ Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó…Các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”. Trong công tác quản lý giáo dục, Người đã chỉ thị: “phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; kết hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương”.Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, điển hình như phong trào thi đua “Hai tốt”được phát động bắt đầu từ tiếng trống khai trường của trường cấp II Bắc Lý năm 1961, phong trào “kế hoạch nhỏ”, công tác Trần Quốc Toản…cho thiếu niên, nhi đồng nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Đúc kết lại, phương châm giáo dục của tư tưởng Hồ Chí Minh là học đi đôi với hành, lí luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động, phải kết hợp thật chặt chẽ 3 khâu: gia đình, nhà trường và xã hội. Thực hiện dân chủ bình đẳng trong giáo dục.Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người, học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.

3.2. Phương pháp giáo dục

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người vạch đường, chỉ lối, người tổ chức, lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thầy giáo với ý nghĩa đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng nên bao thế hệ cán bộ của cách mạng Việt Nam.

Mục đích giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc dạy tri thức nâng cao trình độ học vấn, mà hơn thế giáo dục nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện về nhân cách, vừa đủ đức, đủ tài. Vì vậy, trong quá trình giáo dục, Bác đặc biệt quan tâm đến phương pháp giáo dục, giáo dục phải làm sao cho khoa học, phong phú, đa dạng và mẫu mực.

Bác luôn luôn căn dặn: “Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm vội cũng không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba mới đến bước thứ ba. Vội thì ngã. Phải làm có kế hoạch, có từng bước” (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Phương pháp giáo dục được sử dụng trong giảng dạy phải dựa vào nhu cầu của người học. Giáo dục phải căn cứ vào “trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng” . Trong giáo dục, phải tạo được môi trường dân chủ, thẳng thắn và đối thoại. Hồ Chí Minh chỉ rõ: mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. Từ đó Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.

Theo Bác, phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh, phải dung biện pháp nêu gương gắn liền với phong trào thi đua… Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Phương pháp nêu gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy “mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt tinh thần, vật chất và văn hoá” . Nêu gương là một phương pháp giáo dục quan trọng. Người dạy: những gương người tốt, việc tốt muôn hình, muôn vẻ, là vật liệu quý để xây dựng con người, lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất.

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết “giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” . (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Một lần nữa phải khẳng định rằng muốn có một nền giáo dục tốt thì phải có phương pháp giáo dục tốt.

4. Đội ngũ giáo viên

Trong di sản để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, coi trọng vị trí nhà giáo, Người nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế – văn hóa”. Người khẳng định: “Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những anh hùng vô danh. Ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa”. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, Bác đòi hỏi “thầy giáo xứng đáng là thầy giáo”, xứng đáng với danh hiệu “Người kỹ sư tâm hồn”.

Để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo phát triển, để đào tạo nên những lớp người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của người thầy giáo; Bác chỉ rõ vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo người làm công tác giáo dục thực sự yêu người, yêu nghề, hết lòng chăm sóc giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Theo Hồ Chí Minh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, thầy cô giáo là những người đi khai sáng trí tuệ, mở mang tri thức, thắp sáng ngọn lửa tâm hồn cho học sinh

Đến nói chuyện với lớp học chính trị của giáo viên năm 1959, Bác nói: “Các cô, các chú đều biết , giáo viên ngày nay không phải là “Gõ đầu trẻ kiếm cơm”, mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho dân tộc. Nhiệm vụ ấy là rất vẻ vang. Các cô, các chú phải ngày càng tiến bộ, để dạy cho con em ngày càng tiến bộ”. Người còn nói: “Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, cho nên phải chú ý giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về tư tưởng. Người còn nhấn mạnh: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu…Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…cho nên thầy (cô) phải gương mẫu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt người thầy giáo ở vị trí cao quý, nhưng Người cũng luôn đòi hỏi ở các thầy, cô giáo một trách nhiệm nặng nề. Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (tháng 3/1965), Người chỉ rõ: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người dạy học là: Chăm lo dạy dỗ con em nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Người cho rằng sự nghiệp “trồng người” là rất lâu dài, khó khăn và rất quan trọng; do đó, trong một lần đến thăm lớp bồi dưỡng chính trị cho giáo viên toàn miền Bắc (tháng 9/1958), Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Trong bức thư cuối cùng gửi cho các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp khai giảng năm học mới 1968-1969 mà ngành giáo dục coi như một Di chúc của Bác, Người dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”.

Tóm lại, đội ngũ giáo viên cần phải quan tâm xây dựng bồi dưỡng được đội ngũ giáo viên có đạo đức cách mạng, yêu nghề, yên tâm công tác đoàn kết và hợp tác với đồng nghiệp , giỏi về chuyên môn thuần thục về phương pháp. Mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng về đạo đức về học tập “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Để xứng đáng là “người thầy” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi thầy giáo, cô giáo cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn những lời dạy quý báu của Người: “Người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình…”.

II: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc vận dụng sang tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đổi mới tư tưởng trong thời đại mới

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới, Đảng ta đề ra mục tiêu của giáo dục là “… Xây dựng cho được một độ ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế đông đảo vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội, có năng lực tổ chức và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế do thực tế nước ta đề ra và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.” ;

Mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới:( theo nghị quyết hội nghị TW 8 khóa XI)

  • Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)
  • Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
  • Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
  • Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực

2. Những thành tựu đã đạt được của giáo dục

Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động.

Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2004 – 2005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục – đào tạo. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, lao động nông thôn, đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn. Bình đẳng giới trong giáo dục được bảo đảm.

-Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh.

-Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong thập niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc gia đề ra là đạt 97% vào năm 2005). Nếu như năm học 1997-1998, tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc tiểu học đạt 68% thì đến năm học 2004-2005, tỷ lệ này đã đạt từ 99%-100% ở các vùng miền và tăng nhanh ở khu vực Tây Nguyên.

Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học sinh, sinh viên Việt Nam đạt kết quả cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực. Nhân lực nước ta đã làm chủ được một số công nghệ hiện đại.

-Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng giáo dục tinh hoa.

-Năm 2012, Việt Nam cử 7 đoàn gồm 34 học sinh tham dự các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế các môn: Vật lý, Hóa học, Toán học, Sinh học, Tin học và Hội thi Nghiên cứu khoa học-kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF).

-Trong số các em tham dự các môn thi, đội tuyển Việt Nam đã giành được 8 Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc và 11 Huy chương Đồng.Lần đầu tiên trong lịch sử dự thi Olympic khu vực và quốc tế các môn văn hóa dành cho học sinh THPT, cả 31 học sinh của tất cả các đội tuyển đều đoạt huy chương, trong đó có 5 HCV; 11 HCĐ. Đây cũng là lần đầu tiên, một nhóm 3 học sinh đoạt giải, và là giải Nhất Hội thi Intel ISEF. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

  1. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực.
  2. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.

Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên nói chung được chú trọng đặc biệt. Mạng lưới trường sư phạm rộng khắp cả nước với 10 trường đại học sư phạm, 11 trường đại học đa ngành được nâng cấp từ cao đẳng sư phạm (trong đó chủ yếu là đào tạo sư phạm), trên 80 trường cao đẳng tham gia đào tạo giáo viên.

  1. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng cường và từng bước hiện đại hóa.

Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương đương với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.

  1. Xã hội hóa giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng.

3. Những hạnh chế, yếu kém (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

  1. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, nhất là ở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục còn nặng bệnh thành tích; đánh giá kết quả ở nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu thực chất.

Và mới đây tại diễn đàn của kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI, nhiều vị đại biểu Quốc hội đã bày tỏ bức xúc trước yếu kém này của ngành Giáo dục. Còn nhớ, trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2003, có tới 5.700 thí sinh có cả ba môn thi bị điểm không; 86% số thí sinh có ba môn dưới 15 điểm. Kết quả này được công bố đã gây “sốc” cho các vị quản lý ngành Giáo dục. Người ta đã hoài nghi: phải chăng có sự sai lệch trong quá trình chấm thi của các trường. Và thanh tra Bộ Giáo dục – Đào tạo đã chọn 1.297 bài bị điểm không để chấm lại, kết quả chỉ có 2 bài được nâng điểm, còn 1.295 bài vẫn giữ nguyên điểm không như kết quả chấm ban đầu. Theo đoàn thanh tra, các bài bị điểm không là do thí sinh hổng kiến thức cơ bản, và họ đã kết luận: trình độ của thí sinh yếu kém thật sự.

  1. Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất cập. Thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh.
  2. Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Chưa gắn kết đào tạo với sử dụng và nhu cầu của thị trường lao động.

Số sinh viên sau khi ra trường chưa tìm kiếm được việc làm hay làm trái ngành là một con số không nhỏ.Trong khi đó các công ty,các nhà tuyển dụng khá dè dặt trong việc tuyển dụng các sinh viên mới ra trường do đa phần cách dạy và học hiện nay nên sinh viên thiếu những kiến thức và kỹ năng thực tiễn. Và nếu có tuyển dụng thì họ thường phải mất một khoảng thời gian và tiền bạc để đào tạo số nhân viên mới này. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Một số hiện tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, chậm được khắc phục, có việc còn trầm trọng hơn, gây bức xúc xã hội. Chưa coi trọng đúng mức đánh giá hiệu quả quản lý và hiệu quả đầu tư cho giáo dục.

Có thể thấy rằng, tình trạng giáo dục thiên về “dạy chữ” lơi lỏng về “dạy người” vẫn còn phổ biến. Bàn về công tác đào tạo, gần đây, tại diễn đàn Hội nghị giáo dục, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét: chất lượng đào tạo của ta còn yếu, đào tạo ít gắn với sản xuất và đời sống, với nghiên cứu khoa học. “Giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa…” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh giờ đây đã trở thành xa vời đối với nhiều trường phổ thông, thay vào đó là “dạy chay”, “học chay”, dạy thêm, học thêm tràn lan, làm cho học sinh không còn thời gian để nghỉ ngơi, giải trí. Nhu cầu học thêm bị lợi dụng bởi một bộ phận giáo viên với động cơ không trong sáng. Nhiều giáo viên dạy không sâu sát chương trình, thậm chí theo như lời của một cán bộ lâu năm trong ngành Giáo dục thì cách dạy quá hời hợt, cứ y như “chuồn chuồn đạp nước” nhằm ép học sinh đi học thêm, bắt học sinh học thêm để thu tiền thông qua nhu cầu học thêm giả tạo, dưới hình thức “tự nguyện” (?!).

  1. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; thiếu động lực tự học và đổi mới; chưa bắt kịp yêu cầu của đổi mới giáo dục.
  2. Nhiều chính sách và cơ chế tài chính lạc hậu, phân bổ tài chính mang tính bình quân, dàn trải. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu và lạc hậu, chưa đạt chuẩn quy định, thiếu quỹ đất dành cho phát triển giáo dục.

Cơ sở hạ tầng giáo dục hiện này còn thiếu thốn nhiều. Trường học phòng ốc đã thiếu còn cũ kỹ mục nát. Hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm hầu như chưa có cơ sở nào đạt chuẩn quốc tế . Các giáo cụ, tài liệu học tập cũng còn rất hạn chế. Hiện nay, cả nước vẫn còn 170.000 phòng học có nhu cầu để xây dựng, sửa chữa đòi hỏi chi phí hơn 25.000 tỷ đồng. Cùng đó, nhà ở công vụ cho giáo viên ở các vùng núi, vùng khó khăn còn thiếu gần 65.000 căn, trị giá xây dựng là 3.370 tỷ đồng…

4. Nguyên nhân (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

  • Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
  • Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp… chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
  • Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.

5. Giải pháp

a.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.

Đảng luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng nền giáo dục của quốc gia. Giống như người cầm lái để đưa con thuyền giáo dục đi đúng hướng và cập bến.

b Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

  1. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.
  2. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
  3. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
  4. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
  5. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
  6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
  7. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.

PHẦN C: KẾT LUẬN 

1. KẾT LUẬN (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.

Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.

2. HỌC SINH, SINH VIÊN ĐỐI VỚI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC

Qua tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục, mỗi người trong chúng ta cần có ý thức trách nhiệm với nền giáo dục nước nhà hiện nay. Thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của bản thân, có ý thức tự giác, tinh thần vượt khó vươn lên trong học tập và đời sống để xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước, làm theo lời dạy của Bác, đưa đất nước lên một vị thế mới trên trường quốc tế sánh ngang với các cường quốc năm châu, trở thành con rồng không chỉ của châu Á mà của cả thế giới. (Tiểu Luận Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Văn Hóa Giáo Dục)

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993