Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

===> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.

Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòà”. Bản chất nhân dân của Nhà nước ta – Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam – do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là thành quả của các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống phong kiến và ngoại xâm, là thành quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngay từ đầu và trong quá trình hiện diện của mình, Nhà nước không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà còn là đại biểu ý chí, tâm nguyện và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra”… (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Đã là nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân… làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước”. Chính quyền của nhân dân phải do nhân dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội sâu và rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là “Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ”. Phải chăng, phương châm chúng ta đang thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chính là thể hiện tư tưởng của Bác Hồ về dân chủ, thực hành dân chủ.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước phải căn cứ vào chỗ bộ máy nhà nước giải quyết những nhu cầu thiết yếu hằng ngày của dân chúng tốt hay chưa, có vì lợi ích của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân hay không. Trong điều kiện có chính quyền, Người đã tiên lượng: “Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Thực chất những căn bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là độc tố phản văn hoá đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” (*), còn phải là công việc thường xuyên, liên tục và được đông đảo quần chúng nhân dân cùng tham gia kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng tránh tha hóa quyền lực và chống giặc “nội xâm” đó có hiệu quả.

Để Nhà nước ta luôn trong sạch vững mạnh, điều không thể thiếu mà Bác Hồ luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn là những “công bộc” của nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân; “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Bởi xét tới cùng cán bộ luôn là cái gốc của mọi công việc. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, đặc biệt biết sử dụng nhân tài “vừa hồng vừa chuyên” là một khâu quan trọng để hoàn thiện bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN. Đảng phải có cơ chế, chính sách để sớm phát hiện và bồi dưỡng các tài năng giới thiệu vào các cơ quan nhà nước… Người yêu cầu : “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức để quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta vững tin trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN – một bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, “một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ ra sức làm việc” đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, nhằm thực hiện mục tiêu, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là tư tưởng và quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta

Suốt cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh mang trong mình hoài bão và chí hướng kiên định đấu tranh để Tổ quốc được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc. Từ lý tưởng cao cả đó mà người thanh niên Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Để tìm hiểu, học tập, nghiên cứu, Người đã đi đến nhiều nước có nền kinh tế, chính trị khác nhau, đã sống, làm việc, trực tiếp chứng kiến cuộc sống thực tế tại các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á… Trong suốt 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn, các triết gia lớn của nhân loại bằng chính ngôn ngữ của họ như: Tolstoy, Dostoevky, Huygô, Dickens…. Mang theo tấm lòng yêu nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc cùng với vốn hiểu biết về văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây để trở thành Người Cộng sản duy nhất ở một nước thuộc địa ngay tại chính quốc Pháp. Người đã nghiên cứu kỹ thể chế của các nước tư bản lớn như: Pháp, Mỹ và các thành quả cũng như mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười Nga. Từ đó Hồ Chí Minh đã chọn con đường của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và vận dụng sáng tạo những bài học của Cách mạng Tháng 10 Nga để lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng nền độc lập – tự do. Mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội là vì nhân dân “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là con đường cách mạng của cả dân tộc Việt Nam, là mục tiêu, là động lực của toàn Đảng, toàn dân. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Năm 1919, Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, (với tên gọi lúc đó là Nguyễn Ái Quốc) đã gửi đến Hội nghị hoà bình ở Véc – xây bản yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam. Năm 1941, tại Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương do Người chủ trì đã xác định Cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ là: Cách mạng dân tộc giải phóng, sau khi dành được độc lập tự do xây dựng nhà nước Việt Nam theo chế độ dân chủ cộng hoà. Nguyện vọng và tư tưởng cháy bỏng của Người đã trở thành nguyện vọng thiết tha của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam, là ngọn cờ hiệu triệu nhân dân đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng quang vinh làm nên Cách mạng tháng Tám, đánh đuổi chế độ thực dân Pháp và tay sai. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, uỷ ban dân tộc giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập chính thức tuyên bố với thế giới nền độc lập hoàn toàn của dân tộc Việt Nam. Khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó, quá trình xây dựng các thể chế Hiến pháp Nhà nước đã được khẳng định quyền độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ đất nước, xây dựng thể chế dân chủ cộng hoà đảm bảo quyền dân chủ, tự do của mọi công dân. Đây là Nhà nước đầu tiên liên minh công – nông – trí trong lịch sử đất nước.

Trong phiên họp đầu tiên (3/9/1945) của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ, chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ của dân, do dân và vì dân”. Quan điểm vì con người, do con người, vì nhân dân là mục tiêu, là động lực của cách mạng là đích hướng tới trong quá trình xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi xây dựng Hiến pháp đầu tiên năm 1946 Người đã chỉ rõ”…Bản Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bằng của các giai cấp”. Ngày nay, càng tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta càng tự hào về non sông, đất nước đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã tiếp thu và phấn đấu cả cuộc đời không mệt mỏi cho sự nghiệp đấu tranh để biến lý tưởng cách mạng thành hiện thực cuộc sống, ở Người giữa lời nói và việc làm luôn thống nhất trong một chỉnh thể. Có thể nói chính Người đã góp phần thiết lập một trật tự pháp lý mới xoá bỏ áp bức, bóc lột cho con người. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì lý tưởng nhân văn cao cả nhất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, với quan điểm phát triển và đổi mới vì con người, vì nhân dân lao động. Nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ thế giới mãi mãi nhớ ơn Người. Hàng năm đến ngày 19/5 khắp thế giới kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh – “Vị anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn” theo Nghị quyết của tổ chức Unessco nhằm truyền bá sự vĩ đại của những lý tưởng và sự đóng góp của Người đối với nhân loại. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Hiến pháp 1946 đã dành chương II gồm 18 điều nêu rõ: “Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” là sự phản ánh mối quan hệ dân chủ giữa Nhà nước và công dân, thể hiện kỷ cương pháp luật dân chủ của đất nước và xã hội. Đó là mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước – công dân – xã hội – là sự thể hiện đúng đắn quan hệ máu thịt về những lợi ích và trách nhiệm của công dân, trách nhiệm của Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc “quyền công dân không tách khỏi nghĩa vụ công dân”. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, là thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đó là quá trình Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta để tiến hành cuộc cách mạng không ngừng: Từ cách mạng dân tộc, dân chủ đi lên chủ nghĩa xã hội gắn liền với giải phóng con người. Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước đảm bảo các quyền của công dân. Công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội”. Xác định lực lượng cách mạng là đại đoàn kết toàn dân, “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, tôn giáo”. Nghĩa là, hễ là người Việt Nam đều có chung vinh dự huyết thống con Lạc, cháu Hồng ra tay giúp nước, xây dựng và bảo vệ nền độc lập chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Như vậy, việc công dân có quyền, có trách nhiệm tham gia vào các công việc của Nhà nước, tham gia vào xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật Nhà nước, thực thi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nghĩa vụ và quyền lợi thiêng liêng nhằm giúp cho các luật ngày càng đi sát với cuộc sống, các điều luật ngày càng cụ thể hơn, chi tiết hơn, đảm bảo tính khách quan, minh bạch cho quá trình thực thi pháp luật. Mặt khác, trong tình hình thực tế hiện nay khi hiểu biết và ý thức của không ít người dân còn hạn chế, trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, có nhiều vấn đề mới phát sinh nên cần phải xác định rõ quyền hạn của các tổ chức và địa phương trong việc xử lý vi phạm pháp luật để đảm bảo tính kịp thời và nghiêm minh của pháp luật.

Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng, là nguyên tắc của Đảng, Nhà nước ta. Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân là gốc của nước, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Điều đó đòi hỏi người dân phải không ngừng nâng cao dân trí về nhiều mặt, yêu cầu các cấp, các ngành phải tăng cường đổi mới công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật đến với nhân dân, để người dân nắm chắc, hiểu biết đúng, vận dụng đúng vào quá trình xây dựng cuộc sống, gắn bản thân, gia đình với sự phát triển của quê hương, đất nước. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong thực thi pháp luật và xây dựng pháp luật phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ giữa dân chủ hoá với giá trị đạo đức và là lẽ sống, là truyền thống dân tộc Việt Nam, là bản chất tư tưởng giai cấp công nhân gắn truyền thống dân tộc với tinh hoa của nhân loại. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay một mặt phải làm cho người cán bộ nhận thức đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm nhất quán của Đảng ta trong thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với xây dựng chế độ xã hội mới dân chủ nhân dân gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp quyền đi lên xã hội chủ nghĩa, nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã luôn nắm chắc lý luận, hiểu sâu thực tiễn, nhạy bén với nguyện vọng của nhân dân để đổi mới và phát triển không ngừng phù hợp với quy luật và sự vận động của cuộc sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lê nin kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá Việt Nam, tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây.

Ngày nay, chúng ta đang trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội dựa trên sự phát triển ưu tiên của khoa học và pháp luật, lấy cái đúng làm chuẩn giá trị nhằm đảm bảo cho sự ổn định để phát triển trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc truyền truyền pháp luật phải gắn liền với giáo dục, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và xử lý vi phạm pháp luật. Yêu cầu đó đòi hỏi các cơ sở phải xây dựng được các thiết chế để điều chỉnh các quan hệ nhân bản giữa con người với con người trong mối quan hệ công việc để mọi người được bình đẳng trước pháp luật, tôn trọng và bảo vệ pháp luật là điều kiện cho sự phát triển chung của xã hội và mỗi người. Muốn vậy, cán bộ phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, nắm chắc pháp luật, đặc biệt các luật liên quan để xử lý và giải quyết các vấn đề mau lẹ và đúng đắn, là gương tốt cho mọi người noi theo, là cơ sở tốt nhất để thực hiện: “Sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật “.

Chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Trong yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị quốc tế Vác Xây năm 1919, Hồ Chí Minh đã đòi phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, thay thế chế độ cai trị bằng sắc lệnh (hiện thân của nhà nước không dân chủ) bằng chế độ cai trị theo luật, người bản xứ cũng có quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu, xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt. Trong bức thư 8 điểm gửi hội nghị Vác Xây năm 1919, Hồ Chí Minh đã thể hiện tử tưởng nhà nước pháp quyền của mình trong câu thơ:

  • Bảy xin hiến pháp ban hành
  • Trăm điều phải có thần linh pháp quyền

Trong tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ cộng hoà năm 1945, Hồ Chí Minh đã trích tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Không dừng lại ở đó Người đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc. Người nói:

“Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Trong điều 7 Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh soạn thảo quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” “Pháp luật của ta là bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người, vì vậy không chỉ nhân dân mà các cơ quan nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng tính tôi cao của pháp luạt và phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội”

Mặc dù coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh không cho rằng pháp luật là độc tôn trong xã hội. Người nó rằng “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ và áp bức”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Hồ Chí Minh là lấy “nhân trị” kết hợp váo “pháp trị” kết với với “đức trị”

Tư tưởng nhà nước pháp quyền của HCM thể hiện trong tổ chức bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là nhà nước hợp hiến. Để đảm bảo tính hợp Hiến của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, trong phiên họp của chính phủ ngày 3/9/1945 HCM đã đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để nhân dân lập ra nhà nước của mình. Nhà nước Pháp quyền Việt Nam theo HCM là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong thư gửi Uỷ ban các Kỳ, Tỉnh, Huyện, Làng, tháng 10/1945 Người viết “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc tới các làng đều là công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho nhân dân, chứ không phải để đè đầu, cưỡi cổ nhân dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.

HCM còn làm rõ mối quan hệ giữa xã hội dân sự và xã hội chính trị (Tức nhà nước). Trong xã hội dân sự thì con người là chính, còn nhà nước phải phục tùng và phục vụ xã hội dân sự. Nhà nước không bao trùm toàn xã hội, nhà nước phải tạo ra khoản không gian rộng rãi cho sự phát triển và khẳng định cá nhân. Nhà nước một mặt coi trọng cộng đồng, mặt khác rất coi trọng cá nhân. Trong nhà nước pháp quyền của chúng ta chủ thể duy nhất của mọi quyền lực là nhân dân. Mọi quyền lực mà nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền.

Tóm lại, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là:

  • + Nhà nước do nhân dân lập ra và thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu.
  • + Quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân là thống nhất nhưng có sự phân công, phân cấp, và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận ở tất cả các cấp.
  • + Hệ thống chính quyền địa phương với tính độc lập của Hội đồng nhân dân trên cơ sở quản lý của Chính phủ.
  • + Một hệ thống tài chính mạnh mẽ, sáng suốt, và tập trung
  • + Một nền tư pháp với nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án.
  • + Một cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả do nhân dân thực hiện.
  • + Một nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân.

Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi “cho số đông người” và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:

Nhà nước của dân (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.

Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì Nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.

Nhà nước do dân (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

Nhà nước vì dân

Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người “chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”. Hồ Chí Minh viết: “khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó”.

Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui… Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước

Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì:

Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:

  • Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
  • Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp.Nói đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
  • Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
  • Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
  • Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.

Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc

Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp – dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:

  • Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc.Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ ngày 3-2-1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
  • Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản.Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)
  • Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ

Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây:

Xây dựng một Nhà nước hợp hiến (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới.

Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội. Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội Khóa I đã họp Phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.

Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống

Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề “thần linh pháp quyền” trong đời sống xã hội hiện đại. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

“Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ.

Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.

Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:

Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác.

Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công chức của chế độ cũ phục vụ cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ đã trở thành những người có công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, công chức mới. Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rõ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà nguồn ngân sách này do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền…đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước ta.

Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc”, làm “đày tớ” cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn “có chí tiến thủ”, luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh thường đề cập đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục: (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

– Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

– Tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến…Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử hình. Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt và chính bản thân Người là tấm gương sáng trong việc tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc, vì Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà còn có ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

– “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”. Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong chính quyền, còn chia rẽ, không biết cách làm cho mọi người hòa thuận với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”. Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi…Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.

Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng

Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã không “sẩy chân” phạm pháp hoặc không đi theo kẻ địch.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm tòi con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương sau khi Việt Nam giành được độc lập, chúng ta phải xây dựng một nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ở cả mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước đó phải được tổ chức một cách hợp hiến, hợp pháp; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị… Nó phải thực sự là công cụ quyền lực của nhân dân lao động; phản ánh, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Trong Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin coi nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, nhưng lại là vấn đề rất cơ bản và rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị mà giai cấp vô sản không thể không giải quyết trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thiết lập một chế độ xã hội mới về chất. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước; đồng thời, kế thừa và phát huy những giá trị nhân loại và truyền thống dân tộc về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những tư tưởng sâu sắc về xây dựng nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do vậy, có thể nói, việc trở lại nghiên cứu, làm rõ những giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của Người về nhà nước là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh Đảng và nhân dân ta đang đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi đó là một nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.

Chúng ta đều biết, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã duy trì bộ máy nhà nước phong kiến từ trung ương đến các làng xã. Sự cai trị hà khắc của nhà nước thực dân phong kiến theo kiểu chuyên chế, không có luật pháp dân chủ ở Đông Dương đã đặt nhân dân ta trước nỗi cơ cực vô bờ bến. Với tư cách đại diện, thay mặt cho nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pháp, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Việc xây năm 1919, Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ Pháp và các nước đồng minh phải tiến hành “cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam… Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”(1). Những tư tưởng này, một mặt, thể hiện sự đấu tranh của Hồ Chí Minh vì quyền lợi của nhân dân lao động; mặt khác, thể hiện những nhận thức sâu sắc, ngay từ rất sớm của Người về vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội khi mà sự nghiệp cách mạng còn chưa đi đến thành công. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Dưới chế độ thực dân, phong kiến quân chủ chuyên chế, nhân dân lao động không được hưởng một chút quyền lợi nào, dù chỉ là nhỏ nhất; ngược lại, họ bị vắt kiệt về sức lực và của cải, bị đè nén nặng nề cả về tinh thần lẫn thể xác trong cảnh “một cổ hai tròng”. Thay vì thực hiện những lý tưởng nhân đạo “tự do, bình đẳng, bác ái” mà chính cách mạng tư sản Pháp nêu ra, thực dân Pháp đã vi phạm nghiêm trọng nhân quyền, không cho những người dân thuộc địa được hưởng quyền tối thiểu về bảo đảm luật pháp. Do vậy, để thực sự giải phóng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương sau khi đất nước giành được nền độc lập, tự do, chúng ta phải thiết lập, xây dựng một nhà nước kiểu mới – nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân với nhiệm vụ trọng yếu nhất là đoàn kết toàn dân, lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động; làm cho trong xã hội không còn tình trạng người bóc lột người và quan hệ giữa người với người là quan hệ thân ái, bình đẳng…

Luôn có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có nhà nước do nhân dân bầu ra mới là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Bởi vậy, đối với Người, việc sớm xây dựng Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan trọng. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ; mục đích cao nhất mà hiến pháp đó hướng tới là “… bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng”.

Hiến pháp dân chủ đó không những là cơ sở pháp lý để xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mà còn là nền tảng để ban hành các đạo luật cụ thể nhằm thực hiện và bảo đảm bằng pháp luật các quyền dân chủ của nhân dân – điều không thể có được dưới chế độ thực dân, quân chủ chuyên chế trước đây. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Nhưng, để xây dựng được một hiến pháp như vậy, phải tiến hành Tổng tuyển cử trên toàn quốc, bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Ở đây, những chính sách về quyền bầu cử, ứng cử, về phương thức tổ chức bầu cử, ứng cử… là vấn đề cốt lõi, quyết định tính hợp hiến của bộ máy nhà nước. Coi nhân dân là những người chủ thực sự của đất nước, Người khẳng định rằng, mọi người dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, gái trai… đều có quyền bầu những người đại diện cho mình tham gia Quốc hội và có quyền ứng cử. Trong tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến quan hệ về trách nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Người cho rằng, nhân dân có quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi những đại biểu ấy không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; rằng, với tư cách người đại diện cho nhân dân, những đại biểu của cơ quan dân cử các cấp phải liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe ý kiến, nắm được yêu cầu và phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một Quốc hội được thành lập bằng phương thức tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là “chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Nhà nước đó được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật với mục tiêu bao trùm, xuyên suốt là “… làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc ý chí của đại đa số nhân dân, phản ánh lợi ích và là công cụ bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải là nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành xã hội bằng một hệ thống pháp luật; các quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá. Bởi vậy, việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật với những điều khoản, quy định cụ thể và rõ ràng là hết sức cần thiết; tinh thần và nội dung của những đạo luật ấy phải “… thể hiện chủ trương mở rộng dân chủ, tăng cường chuyên chính”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Mặt khác, thực tiễn cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng; những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng cũng thay đổi trong từng giai đoạn cụ thể. Do đó, thiết lập sự phù hợp của Hiến pháp, pháp luật với thực tiễn cuộc sống, với hoàn cảnh lịch sử cụ thể là một tiêu chí quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực tế cho thấy, để tăng cường cơ sở pháp lý (về mặt tổ chức và hoạt động) của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như để bảo đảm và thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện mới, việc tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, pháp luật cho phù hợp với yêu cầu mới là cần thiết và phải được coi trọng. Khi trực tiếp chủ trì và chỉ đạo việc sửa đổi Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, đó là bản “Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, thích hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đó. Nó đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”. Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh rằng, để Hiến pháp và pháp luật đảm bảo tính khách quan, phù hợp và phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân, Nhà nước phải thực hiện trưng cầu ý dân. Ý nghĩa của trưng cầu ý dân là ở chỗ, thứ nhất, biểu hiện tính dân chủ; thứ hai, thông qua đó, Nhà nước phát huy được trí tuệ của toàn dân tộc nhằm hoàn thiện Hiến pháp và pháp luật, làm cho Hiến pháp và pháp luật luôn thật sự là của nhân dân, của chế độ dân chủ mới.

Một vấn đề quan trọng khác của Nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính hiệu quả, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết, trong lịch sử, không ít trường hợp trong đó pháp luật đã được thiết lập nhưng xã hội vẫn trong trạng thái rối loạn, mất trật tự hoặc tiềm ẩn sự bất ổn do pháp luật không nghiêm, do có một bộ phận người tự cho mình “quyền” đứng trên pháp luật. Điều này có nghĩa là, sự hiện diện của pháp luật mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để bảo đảm ổn định xã hội. Một xã hội muốn ổn định và phát triển không những phải có hệ thống pháp luật của mình, mà còn phải có cơ chế thực hiện pháp luật bảo đảm tính nghiêm minh và công bằng. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật xã hội chủ nghĩa phải đủ mạnh, được thực hiện nghiêm minh, việc xét xử phải khách quan, công bằng, không thiên vị. Chúng ta đang phấn đấu đến một xã hội trong đó không có người bóc lột người, không có sự xâm phạm và làm hại đến lợi ích chính đáng của người khác, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật…; do vậy, đối với những kẻ bất liêm, theo quan điểm của Người, dù kẻ đó ở địa vị nào và làm nghề gì, pháp luật cũng phải thẳng tay trừng trị. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, pháp luật, xét đến cùng, đều là do con người và vì con người. Người luôn đề cao vai trò và tầm quan trọng của pháp luật, song không vì thế mà tuyệt đối hoá pháp luật hoặc coi đó là biện pháp duy nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Khác với thuyết “Pháp trị” trong các xã hội phong kiến coi pháp luật là công cụ bảo vệ lợi ích của thiểu số cầm quyền, hệ thống quan điểm pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn xoay quanh một “trục” là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đồng thời hình thành pháp luật phục vụ cho quyền lợi của nhân dân. Đó thực sự là một giá trị thấm đượm tính nhân văn sâu sắc. Ý nghĩa nhân văn trong triết lý pháp luật của Hồ Chí Minh là ở chỗ, đối với Người, tất cả mọi quyền lực nhà nước đều phải thuộc về nhân dân; nhân dân vừa là mục đích mà nhà nước hướng tới phục vụ, vừa là chủ thể của nhà nước. Có thể khẳng định rằng, sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa các yếu tố “lý” và “tình”, giữa đạo đức và pháp luật là nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà Người nhấn mạnh rằng, trong vấn đề ở đời và làm người, điều căn bản, cốt lõi nhất là con người ta cần phải sống với nhau sao cho có tình, có nghĩa. Ở đây, cùng với việc đề ra những chuẩn mực đạo đức cách mạng, Người đã xây dựng được một hệ thống quan điểm pháp luật phù hợp với quan điểm đạo đức mới, đảm bảo cho việc thực thi những hành vi đạo đức cách mạng. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội, điều chỉnh và định hướng hành vi của mỗi người theo hướng ngày càng tốt hơn, ngày càng vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng những yêu cầu, những tiêu chí mới về đạo đức của xã hội. Giá trị to lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa các yếu tố đó chính là ở chỗ, nó chỉ ra triết lý phát triển xã hội hiện đại không phải chỉ dựa vào một yếu tố thuần tuý – hoặc đạo đức, hoặc pháp luật, mà chính là ở mối quan hệ mật thiết và biện chứng giữa đạo đức và pháp luật. Do đó, thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm về sự kết hợp đạo đức cách mạng với pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở đảm bảo cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà chúng ta đang tiến hành hiện nay. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện cả ở mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Đối với các cán bộ và cơ quan nhà nước, Người đòi hỏi không những phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn phải đặc biệt “gương mẫu trong việc thi hành Hiến pháp và các luật lệ”. Có thể khẳng định rằng, đây là một tư tưởng cực kỳ sáng suốt và quan trọng của Hồ Chí Minh. Trong chế độ xã hội mới, Hiến pháp và pháp luật biểu hiện ý chí, quyền lực và bảo vệ lợi ích của toàn dân; do vậy, tất cả mọi người đều có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh. Ngay cả hoạt động của các cơ quan nhà nước, của các cán bộ trong bộ máy nhà nước cũng không được vượt ra ngoài, mà phải nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tôn trọng và thực hiện nghiêm túc yêu cầu mang tính nguyên tắc này cũng có nghĩa là sẽ ngăn chặn được nguy cơ lạm dụng, làm “tha hoá” quyền lực nhà nước, hoặc khuynh hướng coi quyền lực nhà nước là thứ quyền năng vô hạn, tuyệt đối và tách rời khỏi nhân dân.

Tựu trung lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trước hết là công cụ quyền lực của nhân dân lao động, phản ánh và bảo vệ lợi ích của nhân dân; nó được tổ chức trên cơ sở pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi Nhà nước phải có sự đổi mới về phương pháp và tăng cường hiệu quả quản lý xã hội, không thể chỉ bằng những chỉ thị, mệnh lệnh, mà quan trọng và căn bản hơn, phải bằng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Điều đó quy định tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Mới đây, tại Đại hội lần thứ X, khi khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Đảng ta nhấn mạnh: “Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân… Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Như vậy, có thể nói, với những giá trị khoa học to lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà giờ đây, Đảng ta xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Cách đây 62 năm, ngày 6/1/1946 đã diễn ra cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó đến nay, Quốc hội đã luôn thực thi sứ mệnh cao cả của mình. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước đang đi vào chiều sâu, khi kỳ vọng của nhân dân ngày càng lớn được đặt ra với Quốc hội; khi toàn Đảng toàn dân đang tiếp túc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân chính là kim chỉ nam cho việc xây dựng Quốc Hội vững mạnh. Ban biên tập trích đăng một số nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước để chúng ta nghiên cứu và học tập.

Người đặt nền móng xây dựng “Nhà nước pháp quyền” ở Việt Nam.

“Có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống của con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, về hướng đi của thời đại”, Hồ Chí Minh hiểu rõ mục tiêu của từng chặng đường trên con đường dẫn đến lý tưởng đúc kết khát vọng của cả loài người “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” mà “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” thế kỷ XIX đã nêu lên.

Người không lẫn lộn mục tiêu cụ thể và trực tiếp của từng chặng với cái đích ở phía chân trời để tránh ảo tưởng duy ý chí, dẫn đến hành động nôn nóng “đốt cháy giai đoạn”, gây hậu quả ngược lại với mục tiêu. Xác định được như vậy vì, Hồ Chí Minh “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”, Người đòi hỏi không được sao chép nguyên văn những gì có sẵn, điều cốt yếu là hiểu đúng tinh thần và biết vận dụng các nguyên lý sát với tình hình cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Hồ Chí Minh đứng vượt hẳn lên những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện chứng. Bôn ba khắp biển, hiểu rõ ngọn ngành những tinh hoa cũng như những khiếm khuyết mà phong trào cách mạng đã trải qua để khi về tới tổ quốc hôn nắm đất quê hương đang đói nghèo, đau khổ. Người hiểu rõ cần phải làm gì cho nhân dân mình tiếp nhận tinh hoa của nền văn minh phương Tây mà Người đã có nhiều năm chiêm nghiệm, học hỏi, để rồi gắn kết với bản lĩnh và tri thức cách mạng, Hồ Chí Minh thấy được những vấn đề mà có thể những người khác chưa thấy hoặc thấy chưa rõ.

Bằng chứng là mãi gần 60 năm sau tuyên ngôn độc lập và tổng tuyển cử (6/1/1946) lập ra Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ra đời hiến pháp năm 1946 vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn còn gặp không ít trở ngại do sự áp đặt máy móc và giáo điều của mô hình “chuyên chính vô sản” trong tư duy về nhà nước. Có thấm thía chuyện này mới hiểu sâu ý nghĩa của việc Hồ Chí Minh đặt viên gạch đầu tiên cho nền móng của một nhà nước pháp quyền.

Về “dân chủ đại diện” và “dân chủ trực tiếp”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Qua tổ chức Tổng tuyển cử 6.1.1946 bầu ra Quốc hội đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có thể thấy rõ bản lĩnh của Hồ Chí Minh trong cách mạng vận dụng, cách thức thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Khi dùng dân chủ đại diện, Hồ Chí Minh đã không hoàn toàn theo chỉ dẫn của C.Mác cũng như không theo Lê Nin về mô hình dân chủ hội đồng, tức là dân chủ Xô Viết.

…Ở đây thể hiện rõ những yếu tố pháp quyền nổi lên trên nguyên tắc quyền lực và tổ chức quyền lực trong nội dung của Hiến pháp, nét nổi bật là việc kiểm soát quyền lực nhà nước chứa đựng tinh thần khoan dung của truyền thống. Ngay tại điều 1 của Hiến pháp đã nổi rõ lên tinh thần ấy “Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà là một nước dân chủ, tất cả các quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Những điểm khác như Hội đồng nhân dân cũng được xác định như một cơ quan “tự quản” của nhân dân địa phương, quyết định các vấn đề của địa phương, do nhân dân địa phương bầu chọn và chịu trách nhiệm trước họ. ở đây đã thấp thoát bóng dáng những đường nét tư duy về cái mà ngày nay ta gọi là “xã hội dân sự”. Ngay cả định chế luật sư cũng đã được đề từ những vấn đề vừa trình bày. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Hiện nay, tính đại diện của Quốc hội ta cũng đang có những vấn đề phải suy nghĩ. Chẳng hạn như, các đơn vị bầu cử chỉ được hình thành trong thời gian bầu cử mà không tồn tại song song với các đơn vị chính trị của đất nước. Như vậy sự gắn bó thường xuyên của đại biểu Quốc hội với cử tri bầu mình sẽ không chặt chẽ… Còn về dân chủ trực tiếp, với Hồ Chí Minh đó là vai trò chủ động của dân tộc, của nhân dân trong nhà nước, thể hiện rõ nhất là vai trò chủ động và tự nguyện của mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo, đàn ông, đàn bà, từ thanh niên cho đến các cháu thiếu niên nhi đồng đều tuỳ sức mình mà tham gia kháng chiến. Hồ Chí Minh chỉ rõ, nguồn trí tuệ của nhà nước là dân: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra.Đoàn thể từ trung ương đến xã dân tổ chức nên…”. Nhà nước biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và sự phê bình của dân về chủ trương, chính sách và phương pháp làm việc cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ, viên chức để từ đó mà làm thành luật lệ và chính sách của mình, củng cố và hoàn thiện dần bộ máy quản lý và nhân sự của Nhà nước, đó chính là cách thực hành dân chủ trực tiếp một cách thiết thực và sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhà nước là công bộc của dân.

Ở một đất nước mà Nhà nước xuất hiện từ rất sớm và mang nặng “truyền thống” quan liêu, Hồ Chí Minh đã đòi hỏi xây dựng một “Nhà nước đày tớ của dân”. Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc cảnh báo ngay từ ngày chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân”. Dân chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực thống nhất ở nhân dân chứ không ở bất cứ tổ chức đại diện nào khác. Chẳng hạn, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, chứ không phải là cơ quan được trao tất cả quyền lực của nhân dân bộ quyền lực chỉ ở nhân dân mà thôi. Trong các Hiến pháp của ta, Quốc hội được trao một số quyền, Chủ tịch một số quyền, Chính phủ được trao một số quyền, Toà án, Viện kiểm sát được trao một số quyền, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được trao một số quyền. Tất cả đều là quyền của dân, và dân trao quyền đó. Hồ Chí Minh ngay từ ngày đầu thành lập chính quyền Nhà nước đã khẳng định “Nhà nước là công bộc của dân”. Đây chính là vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm xây dựng Nhà nước của cổ kim Đông Tây vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam.

Cùng với cách xác định nói trên, cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nước được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946 móng cho một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đó các quyền tự do, bình đẳng về chính trị và xã hội của người công dân được công nhận và được bảo đảm bằng luật pháp.

Cần phải hiểu rằng, phải trải qua mấy thế kỷ của nền dân chủ phương Tây mới đến được chỗ nhìn nhận toàn bộ các quyền mà Nhà nước phải bảo đảm cho công dân có ba loại quyền: Quyền chính trị, quyền kinh tế và quyền xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự do kinh tế là có công ăn việc làm, có mức sống xứng đáng với con người theo khả năng kinh tế của đất nước, trước nhất là quyền tự do của số đông người chứ không chỉ là quyền tự do của giới kinh doanh, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng quyền tự do của giới kinh doanh, điều đó đã được pháp 1946. Như vậy là cùng với các quyền chính trị, Hồ Chí Minh đã đặt những quyền kinh tế và xã hội rất quan trọng ngay từ đầu, đặt ra một cách thiết thực và cố gắng thực hiện từng phần. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Hơn sáu mươi năm của hành trình dân tộc, những nền móng ban đầu của “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” củng cố và xây đắp thành hình hài ngày một rõ nét mà lại dần dà bị chìm đi bởi sự áp đặt của mô hình “chuyên chính vô sản”. Thế nhưng, sự vận động của thực tiễn đã trả về cho cái nền tảng ban đầu ấy sức thuyết phục và ý nghĩa sâu sắc tầm cao trí tuệ và bề dày văn hoá trong tư duy về Nhà nước của Hồ Chí Minh, nói rõ hơn, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Khi Đại hội X của Đảng, phát triển những thành tựu của nhận thức về Nhà nước của các Đại hội 7, 8, 9 để khẳng định rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân…”, thì đó chính là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.

Phải bằng một chặng đường hơn nửa thế kỷ, tư duy về Nhà nước pháp quyền mới được chính thức trở thành tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng Nhà nước. Hành trình gian truân của hơn nửa thế kỷ xây dựng một Nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân như Hồ Chí Minh đã đặt nền móng chưa thể nói là đã hoàn thành thuận buồn xuôi gió. Điều này không có gì khó hiểu. Tính ngoan cố của tập quán, nhất lại là tập quán đã được “thần thánh hoá” sẽ là sức trì kéo ghê gớm.

Thế nhưng, sự vận động của lịch sử đã chứng minh, cuộc sống sẽ tự mở lấy đường đi cho nó bất chấp mọi trở lực, không phải là không có lý khi người ta cho rằng: thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp với một thế giới phi tuyến. Không có một bản đồ vạch sẵn cho con đường phía trước. Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Vì thế, sáng tạo và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động phải là phẩm chất hàng đầu của con người Việt Nam đang sống trong thế kỷ XXI…”.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Tô Huy Rứa 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ “chế độ pháp trị”. Tiếp xúc với nền văn minh Âu – Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.

Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.

Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là:

“Bảy xin hiến pháp ban hành,

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(1)

“Trăm điều” là một đại lượng được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập một cái chung, bao quát. Còn “thần linh pháp quyền” là một cách nói theo ngôn ngữ ngày nay, là ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước; môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới – Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó.

Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật “gốc” – Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.

Ngoài hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ.

Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, pháp luật dân chủ ở Hồ Chí Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ hết sức đặc trưng:

– Trong quan niệm về thực chất của dân chủ: “Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy” (2). (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

– Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân.

– Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt không nghiêm minh thì người cúc cung tận tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ luật sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Muốn pháp luật nghiêm minh, phát huy hiệu lực, cần có các điều kiện:

Trước hết, pháp luật đó phải đúng và phải đủ. Pháp luật đúng là pháp luật phản ánh trung thành bản chất các quan hệ xã hội khách quan, tiếp cận đến chân lý, mà chân lý là tất cả những gì phù hợp với lợi ích của nhân dân. Còn pháp luật đủ là phải có tính đồng bộ, bao quát được các mặt, các loại quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân, “đi vào giữa dân gian”. Để pháp luật được thực thi trong đời sống xã hội phải chú trọng giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho mọi đối tượng dân cư, làm cho họ biết, hiểu và thực hiện đúng. Trong điều kiện dân trí còn thấp, học vấn hạn chế, văn hóa dân chủ chưa cao, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật càng trở nên cần thiết.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một “công đoạn” trong toàn bộ quy trình xây dựng – thông qua, ban hành – thực hiện, giám sát – sửa đổi, điều chỉnh pháp luật. Tại Hội nghị thảo luận Luật Hôn nhân và Gia đình, vấn đề này đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”(3). Muốn dân hiểu, dân nhớ để làm theo, trong tuyên truyền phải biết cách diễn đạt đơn giản, ngắn gọn, nhưng tuyệt đối chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách, văn hóa của các đối tượng dân cư từng khu vực, từng miền trên đất nước. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Thứ ba, cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm minh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”. Người nhiều lần phê phán những cán bộ, đảng viên không chấp hành pháp luật của Nhà nước, cá nhân chủ nghĩa sinh ra tự do chủ nghĩa, không tôn trọng pháp luật và thể lệ nhà nước, làm gương xấu cho quần chúng nhân dân.

Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân công lý”. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tòa án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch.

Đối với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc xử lý không đúng, không nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử lý kịp thời…, như vậy là kỷ luật chưa nghiêm. Người yêu cầu kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của công dân, làm cho nhân dân bất bình, oan ức.

Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa – một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.

Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tồn tại hai phương thức trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần đề cập đến chế độ pháp trị: … Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Pháp luật góp phần hoàn thiện nhân cách làm người, còn đạo đức làm cho người ta thực hiện luật pháp một cách tự giác. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở để xây dựng, thực hiện pháp luật. Nền pháp quyền của ta là một nền pháp quyền hợp đạo đức, có nhân tính. Hồ Chí Minh lý giải: nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc “có lý”,”có tình” chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Trong việc thực thi pháp luật cũng phải bảo đảm tính hài hòa giữa các mặt tưởng chừng như đối lập nhau. Phương châm của Hồ Chí Minh là: không xử phạt là không đúng; song, cái gì cũng trừng phạt cả cũng là không đúng, nên phải tránh lạm dụng pháp luật. Tính nghiêm minh và hiệu lực của luật pháp không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn của pháp luật mà trong quan hệ thực tế còn phụ thuộc vào cả cái tâm của chính người đại diện cho pháp luật.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng thể lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ dùng các khái niệm “Nhà nước chuyên chính vô sản”, “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, khái niệm “nhà nước pháp quyền” đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận thức rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân loại; xét về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy nhất; mà dựa trên cơ sở kinh tế – xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

Nhận thức này ngày càng thống nhất trong toàn Đảng và được khẳng định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4-2001): Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Trong Dự thảo Đề cương các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định thành một vấn đề có tính nguyên tắc với các nội dung: nghiên cứu, thể chế hóa và xây dựng cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, đồng thời định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.

Thực hiện nguyên tắc này, trên thực tế là tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong những điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Cụ thể là: (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

– Cần phải nhận thức đúng đắn vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm để pháp luật trở thành phương tiện cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.

– Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tốt và kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

– Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan làm luật, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ phẩm chất và năng lực.

– Đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, coi trọng tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ tư vấn pháp luật, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; giáo dục pháp luật phải gắn liền với giáo dục đạo đức cách mạng.

– Pháp luật phải được thực thi nghiêm chỉnh từ cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đến các tổ chức xã hội và công dân; mọi hành động vi phạm pháp luật phải được xử lý đúng, kịp thời, không để sót người, sót tội, không gây oan ức cho người vô tội… (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân)

– Tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, nhất là nâng cao tầm trí tuệ và tư duy lý luận của Đảng trong chỉ đạo định hướng xây dựng hệ thống pháp luật.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993