Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Đánh giá post

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

===> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

SƠ LƯỢC QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Dân tộc là vấn đề rộng lớn, mang tính lịch sử, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.

  • Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học:
  • Hình thức cộng đồng tiền dân tộc: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.
  • Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của giai cấp công nhân về vấn đề dân tộc (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)
  • Lênin kế thừa và phát triển những quan điểm trên thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc, tạo cơ sở cho cương lĩnh, đường lối , chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
  • Sự thức tỉnh ý thức dân tộc, phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn đến hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
  • Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của Chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế – chính trị – xã hội . . .
  • Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
  • Các dân tộc có quyền tự quyết trong việc lựa chọn chế độ chính trị, xu hướng phát triển đi lên.
  • Đoàn kết giai cấp công nhân, những người lao động chính quốc và thuộc địa chống Chủ nghĩa đế quốc, khắc phục tâm lý dân tộc nước lớn, kỳ thị dân tộc, tự ti dân tộc.

TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Là dân nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức vấn đề dân tộc, nhận thức sâu sắc tình cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa, nung nấu ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc. Người tiếp thu và phát triển sáng tạo, độc đáo những quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin về vấn đề dân tộc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, thống nhất với nhau trong cách mạng vô sản.

Vấn đề dân tộc thuộc địa: (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:

Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc:

Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung.Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời đại, Người quan tâm đến các thuộc địa.

Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị xâm chiếm – thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.

Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài,giải phóng dân tộc,  giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.

Mục đích chính của công cuộc “khai hoá vǎn minh” mà bọn tư bản châu Âu tiến hành ở các thuộc địa là bóc lột về kinh tế, nô dịch về chính trị. Vì vậy, mục tiêu của những chính sách, những cải cách hay những luật lệ được ban hành ở thuộc địa chỉ là: Kìm hãm sự phát triển công nghiệp ở thuộc địa, hướng nó vào việc phục vụ nền kinh tế chính quốc vào quyền lợi của các công ty của bọn tư bản độc quyền. Với chính sách công nghiệp của chủ nghĩa thực dân. Những người nông dân, công nhân ở các thuộc địa bị bóc lột tận xương tuỷ và trở thành những người nô lệ mới.(Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Những vấn đề trên đây đã được Hồ Chí Minh vạch ra tìm thấy trong hàng loạt bài viết của Người. Người ký tên Nguyễn Ái Quốc đǎng trên các báo chí đầu những nǎm 20 như báo Le Paria, L’ Humanite, tập san Inprekorr,… trong các bài phát biểu trên nhiều diễn đàn quốc tế như Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Công hội đó… Đây là kết quả hơn chục nǎm lao động, khảo sát của Nguyễn Ái Quốc tại nhiều thuộc địa, ở nhiều châu lục. Trong các bài viết của mình, Người đưa ra nhiều con số, nhiều sự kiện, con người, địa danh do chính Người đã tiếp xúc, đã đi qua… Vì vậy, những nhận định đánh giá của Người mang tính khái quát cao, phản ánh trung thực sự kiện.

Có thể nói, nửa đầu những nǎm 20 Nguyễn Ái Quốc viết rất nhiều về chủ nghĩa thực dân, trong đó có nhiều bài về chính sách cai trị, bóc lột ở các thuộc Pháp. Đó là: Tội ác của chủ nghĩa thực dân (1921), Dưới cuộc khai hoá cao cả, Những kẻ khai hoá, Khai hoá hiện đại,… (1922), Chế độ thực dân, chính sách thực dân Anh… (1923), Công cuộc khai hoá giết người, Chủ nghĩa thực dân bị lên án, Tâm địa thực dân, chính sách ngu dân (1924), Bản án chế độ thực dân Pháp, Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông, Lối cai trị người Anh, Lênin và các dân tộc thuộc địa, Phong trào cách mạng ở Đông Dương (1925), Vǎn minh Pháp ở Đông Dương (1926), Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương, Đường cách mệnh (1927), Chủ nghĩa đế quốc, kẻ tiêu diệt người bản xứ (1928), v.v.. Đây là những bài viết vô cùng phong phú về nội dung cũng như cách thể hiện. Trong đó, Nguyễn Ái Quốc vừa lên án bọn thực dân mở rộng xâm chiếm thuộc địa vừa tố cáo những thủ đoạn bóc lột tàn bạo của chúng. Bằng số liệu thống kê, …. Người đã chỉ rõ: diện tích các thuộc địa Anh gấp 252 lần nước Anh và với Pháp là 19 lần. Số dân các thuộc địa Anh đông gấp 8 lần rưỡi dân số nước Anh, còn dân Pháp ít hơn dân thuộc địa của họ là 16.600 người. Nếu tính trên phạm vi thế giới, thì toàn bộ lãnh thổ các nước thuộc địa gấp 5 lần lãnh thổ chính quốc, còn dân số chính quốc lại chưa bằng 3/5 số dân thuộc địa

Qua những con số thống kê, so sánh ấy đã thể hiện một bức tranh tương phản, chứa đựng trong đó bạo nghịch lý, chất chồng mâu thuẫn giữa số ít tư bản châu Âu với hàng chục triệu nười dân châu á, châu Phi; và từ đó Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần thủ đoạn bóc lột rất tàn bạo của thực dân Anh cũng như thực dân Pháp đối với người bản xứ. Người nông dân ở ấn Độ trước sự xâm lấn của thực dân Anh cũng như người nông dân xứ Đông Dương ở châu á hay người xứ Đahômây ở Tây Phi trước sự “khai hoá vǎn minh” của người Pháp đều có chung một số phận: bị đuổi ra khỏi ruộng đất của mình để sau đó lại bị trói chặt vào ruộng đất đồn điền của ông chủ mới, hoặc bị đưa vào các trại lính rồi sau đó bị dồn sang châu Âu làm bia đỡ đạn cho các ông chủ. Tại diễn đàn Quốc tế Cộng sản (Đại hội V, phiên 22), Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo: “Bộ Thuộc địa đã đặt ra kế hoạch biến nhiều vùng ở châu Phi thành những vùng đồn điền rộng lớn của tư nhân, và biến dân bản xứ ở những nước này thành những dân nô lệ thật sự, bị trói buộc vào ruộng đất của những ông chủ mới…”. Còn “Chính quyền thực dân ở Đông Dương đã biến thành những kẻ buôn nô lệ và bán những người dân Bắc Kỳ cho các chủ đồn điền ở trên các đảo Thái Bình Dương; chúng kéo dài thời hạn đi lính của dân bản xứ từ 2 đến 4 nǎm” (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Số phận của những người nông dân ở đây khó khǎn hơn nhiều so với những nông dân ở Anh và nhiều nước khác trong thời kỳ tích luỹ tư bản nguyên thuỷ trước đây. Nếu như người nông dân ở nước Anh sau khi bị đuổi khỏi ruộng đất của mình do hậu quả của chính sách “Rào đất cướp ruộng” thì họ vẫn lại được thu nạp vào các nhà máy xí nghiệp ở các thành thị, các khu công nghiệp. Còn những người nông dân châu á, châu Phi, trước các chính sách của “các quan khai hoá” thì thân phận của họ lại tồi tệ hơn, bị bóc lột nhiều hơn.

Còn đối với nền công, thương nghiệp thuộc địa ở đây thì sao? Không phải chủ nghĩa thực dân bỏ rơi nó, cắt đứt quan hệ với họ. Chính sách của bọn thực dân là: Kìm hãm sự phát triển công nghiệp của bản địa, bắt nền công nghiệp bản địa phục vụ nền công nghiệp chính quốc, tǎng cường bóc lột công nhân thuộc địa.

Chính sách ấy chỉ có thể tạo ra một nền công nghiệp yếu ớt, phụ thuộc. Chính sách ấy cũng chỉ có thể sản sinh ra những nhà tư sản dân tộc yếu đuối, què quặt “tiên thiên bất túc”, phụ thuộc mà thôi. Còn số phận của những người công nhân thì ngày một khó khǎn thêm. Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá tổng quát: “Với sự giúp đỡ hào hiệp của chủ nghĩa đế quốc Pháp, ở Đông Dương thật ra là đã phục hồi chế độ nô lệ”. Vì vậy, kết cục là: “ở đây, nền vǎn minh đã bị tiêu tan”.

Những bài nói, bài viết của Nguyễn Ái Quốc về các thuộc địa (trong đó chủ yếu là các thuộc địa của Pháp) trước Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945 (chủ yếu trong nǎm 20) không chỉ là những lời tố cáo bản chất cướp bóc của chủ nghĩa thực dân mà còn là những luận điểm khoa học mang tính cách mạng sáng tạo lớn, ít thấy ở những tác giả cùng thời. Đó là sự đánh giá cao vai trò chủ động và cách mạng của thuộc địa và thường xuyên gắn bó những vấn đề kinh tế với những vấn đề chính trị – xã hội. Những quan điểm cách mạng trên đây được thể hiện nhất quán trong các bài viết cũng như các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh. Những nǎm 20 cũng như trong Chính cương vắn tắt, Chương trình Việt Minh, “Tuyên ngôn độc lập” trong những nǎm 30, 40 của Người.

Nếu như  C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và V.I. Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Lựa chọn chọn đường phát triển của dân tộc: (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội, vì thế Người đã tiến hành cuộc tìm tòi lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới để xem xét họ làm thế nào nhằm trở về “giúp đồng bào chúng ta“, mở rộng nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế đô thực dân” và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân : chủ nghĩa tư bản quốc tế”. Người nhận xét: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu áí vô sản”.

Từ nhận thức chung đó, Hồ Chí Minh coi vấn đề giải phóng dân tộc và con người không chỉ là vấn đề của dân tộc mình mà phải là vấn đề toàn cầu “Mặc dầu chúng ta là những người khác giống: khác nước, khác tôn giáo… chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta” và trong cuộc chiến đấu đó “chúng ta không đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ”. Có thể nói, hiểu biết của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và con người Việt Nam đã mở rộng ra tầm thế giới và nhân loại nó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Hồ Chí Minh trong sự lựa chon con đường cho cách mạng Việt Nam trước thời đại lịch sử mới: con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bị bóc lột trên toàn thế giới. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Như thế, từ và vì vấn đề dân tộc – con người của Việt Nam để đi ra thế giới, hòa nhập vào nhân loại và hướng theo dòng tiến hóa của thời đại quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc: giải phóng xã hội, giải phóng con người theo học thuyết cách mạng khoa học, bằng con đường cách mạng vô sản hướng tới CNXH với đầy đủ các yếu tố Dân tộc – Nhân loại – Thời đại. Sự thống nhất đó đã khẳng định ngay từ đầu những nhân tố cơ bản cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Như vậy, con đường của cách mạng hướng đến CNXH ở Việt Nam không phải là ý muốn chủ quan nào mà là đòi hỏi nội tại của dân tộc, phù hợp với hướng tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười, nó hội đủ các yếu tố thiên thời – địa lợi – nhân hòa. Điều đó giải thích tại sao trong khi các học thuyết khác không có cơ hội bám rễ ở Việt Nam thì chủ nghĩa Mác – Lênin: con đường cách mạng vô sản được Hồ Chí Minh truyền bá vào nước ta đã được tiếp nhận nhanh chóng, phát triển vững chắc và cuộc cách mạng ở Việt Nam luôn được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các dân tộc và nhân dân lao động toàn thế giới.

Vấn đề dân tộc trong thang giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam cùng với lý luận Mác – Lênin không chỉ là cơ sởtiêu chí quyết định con đường cách mạng hướng tới mục tiêu XHCN vì Dân tộc của Hồ Chí Minh mà còn giúp Người giải quyết một cách sáng tạo trong cách mạng nước ta, từ xây dựng lý luận cách mạng đến chỉ đạo hoạt động thực tiễn: từ việc xây dựng đường lối, hoạch định chính sách, tổ chức lực lượng, xác định phương pháp cách mạng đến bước đi của cách mạng Việt Nam, trong cả sự nghiệp giải phóng dân tộc và phục hưng đất nước, thích hợp với điều kiện trong nước và sự vận động của quan hệ quốc tế.

Sự sáng tạo được thể hiện ngay trong việc Hồ Chí Minh xây dựng, hình thành sự kết hợp các nhân tố dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào yêu nước và phong trào của giai cấp công nhân. Trong Chính cương Sách lược Điều lệ vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cuối cùng là xây dựng CNCS ở Việt Nam, đồng thời Người cũng cụ thể hóa mục tiêu là làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, giải phóng công nông khỏi áp bức của đế quốc và phong kiến, thiết lập nền dân chủ mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện giải phóng dân tộc giải phóng xã hội và giải phóng con người và tạo ra những điều kiện phát triển mới vì lợi ích dân tộc và con người Việt Nam.

Đi tới xã hội cộng sản”  là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến triệt để. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.

Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa:

Cách tiếp cận từ quyền con người:

Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyèn mưu cầu hạnh phúc. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được“.

Từ quyền con người, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.  Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.

Nội dung của độc lập dân tộc:

  • Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)
  • Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
    Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.”
  • Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
  • Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
  • Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
  • Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.

Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.

Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.

Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá.

  • Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
  • Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
  • Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú …
  • Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt

Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.

Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Đã là người Việt Nam, chắc chắn không ai có thể quên sự kiện lịch sử về lễ Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại quảng trường Ba Đình lịch sử mùa thu 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình của Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn thể quốc dân Việt Nam, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, khẳng định những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong bảo vệ những quyền thiêng liêng đó. Sự kiện đó đã đặt một mốc son lịch sử về sự bắt đầu của thời kỳ phát triển mới của dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới đã trở thành một di sản văn hoá bất hủ của dân tộc Việt Nam, đồng thời là văn bản pháp lý khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam đứng ngang hàng với các dân tộc trong thế giới đương đại. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Theo Hồ Chí Minh, trong một đất nước, quyền lợi của mỗi cá nhân bao giờ cũng gắn liền với quyền lợi của cả dân tộc, đất nước. Nước mất thì nhà tan, nước độc lập thì dân tộc mới độc lập, con người mới có tự do. Trích dẫn những tư tưởng bất hủ trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định một điều: tất cả những quyền mà hai bản tuyên ngôn tư sản đó nêu lên đã không tồn tại đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Hơn tám mươi năm bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước Việt Nam, áp bức dân tộc Việt Nam. Hành động đó là trái với đạo lý, cũng tức là trái với lẽ tự nhiên như tư tưởng của hai bản tuyên ngôn tư sản đã khẳng định. Vì lẽ đó, dân tộc Việt Nam phải đứng lên, quyết giành lấy những quyền thiêng liêng nhất của con người và của dân tộc và khi đã giành được thì quyết bảo vệ đến cùng. Sau này Người còn có dịp phát triển quyết tâm đó trong lời kêu gọi nhân dân cả nước nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân. . Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”.

Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước: (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước, khác với chủ nghĩa Xô-vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hũi của các nước tư bản. Do kinh tế chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, sự dấu tranh giai cấp không giống như ở Phương Tây, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Vì thế, trong bối cảnh này, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc,  mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Nguyễn Ái Quốc từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế cộng sản” … “Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.

Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”,” khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”.

Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

Về vấn đề giai cấp:

Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân.

Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã giải quyết triệt để vấn đề này: vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều mâu thuẫn .

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:

  • Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
  • Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
  • Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
  • Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân.
  • Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có giai cấp công  nhân mới có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp công nhân mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, giải phóng giai cấp công nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng, xã hội khỏi sự phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lậo dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX) , con đường cứu nước của HỒ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.

Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ”Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ”Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân – điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Tư tưởng Hồ Chí minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sư nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập một nhà nước kiểu mới, một nhà nước thực sự của dân do dân vì dân mới đảm bảo quyền làm chủ của người lao động. Do đó, giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội là “ làm sao cho dân giàu, nước mạnh”. Sự phát triển của đất nước theo con đường của chủ nghĩa  xã hội là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.

Người khẳng định: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình nỗi ngày một ấm no thêm,Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.

Như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng của lợi ích của dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định : quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc ,”dân tộc nào cũng có quyền sống ,quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.Ở Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:

Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ – nông dân, mâu thuẫn tư sản – vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ”Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. ”Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc”. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.

Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ”hai cánh của một con chim”, phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.

Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.

Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác

Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế không đối lập mà thống nhất với nhau. Vì thế:

Mỗi dân tộc phải đấu tranh giành và giữ độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc khác. Đây là sự gắn bó giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa vụ quốc tế. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Người nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”

– Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại: hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

– Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ, vì vậy mà đã tranh thủ được sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai nước có bất đồng sâu sắc, góp phần vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế.

– Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, “Phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta…, giúp bạn là tự giúp mình”.

Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức.

Sau cách mạng tháng 8, trả lời nhà báo Mỹ “Êly Mây si” về chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: . . .Việt nam không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, đồng thời kiên quyết chống lại mọi âm mưu, hành động xâm phạm quyền tự do, độc lập của Việt Nam,… (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Với những nước xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chủ động tìm biện pháp ngăn chặn, nếu chiến tranh xảy ra thì luôn tìm cách kết thúc chiến tranh có lợi cho 2 dân tộc như tạo dư luận, áp lực quốc tế, chỉ đường cho bọn xâm lược rút khỏi Việt Nam trước khi bị tiêu diệt,…

Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH gắn bó thống nhất với nhau, vì thế, mỗi Đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước dân tộc của mình, Cách mạng mỗi nước phải do người dân nước đó tự giành lấy.Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh vần không quên nghĩa vụ quốc tế của mình trong việc giúp đỡ thành lập các Đảng Cộng sản anh em ở một số nước Đông Nam Á vào đầu những năm 30 và đầu những năm 50 của thế kỷ 20. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải  bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ.

Trên con đường đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân dân và cách mạng thế giới.

Sau khi giành được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”; “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”.

Đối với nước Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Với các nhà tư bản, Người nói: Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam cương quyết cự tuyệt.

Hồ Chí Minh đã dành ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước Lào, Campuchia cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.

Đối với Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã bằng những hoạt động liên tục, không mệt mỏi để xây đắp mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.

Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Người đã đi thăm Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia, nhiều nước khác nhau, góp phần xây dựng và phát triển sự đoàn kết các nước thuộc thế giới thứ ba, nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm tin vào sức mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.

TỔNG KẾT (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn , vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc khác. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ăngghen : trong phong trào công nhân những tư tưởng dân tộc chân chính  đồng thời cũng luôn luôn là những tư tưởng quốc tế chân chính.

Vận dụng vấn đề dân tộc vào công cuộc đổi mới hiện nay:

1.Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2-Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp.

3-Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên, giành những thắng lợi mới.

Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh khởi xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc,tiếp thu một nền văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới,tiếp thu những hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó. Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất cả,“hy sinh tất cả”. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.

Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.. (Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc)

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993