Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục luôn là lĩnh vực đứng hàng đầu trong mối quan tâm của mỗi quốc gia.
Theo báo cáo của UNESCO về định hướng giáo dục cho thế kỷ 21 đã nhấn mạnh vào 4 trụ cột của giáo dục là: Học để biết (To learn) – Học để làm (To do) – Học để tồn tại (To be) – Học để chung sống (To live together). Và một trong những hướng tiếp cận hữu ích nhất chính là du lịch kết hợp học tập với các hoạt động: bước ra thế giới – trải nghiệm – học tập từ xã hội – tích lũy kỹ năng – giao lưu văn hóa.Và việc tạo ra môi trường học tập đó với Việt Nam ngày nay là điều không khó khi mà Du lịch Việt Nam trong những năm qua đang vươn lên mạnh mẽ, hội nhập với trào lưu chung trên thế giới.
Hải Phòng là một thành phố có tiềm năng du lịch vô cùng to lớn với đầy đủ địa thế, tài nguyên du lịch, nhân lực trong vấn đề phục vụ du lịch. Là một vùng đất có truyền thống hiếu học khi mà nơi đây có đến 3 vị Trạng nguyên. Chính vì lẽ đó mà Hải Phòng luôn được xem là một trong những thành phố luôn đặt vấn đề giáo dục song song với tình hình phát triển kinh tế của thành phố. Tuy nhiên du lịch kết hợp với trải nghiệm, học tập chưa thực sự được chú trọng và quan tâm.
Là một người con sinh và lớn lên trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này, nhận thấy Hải Phòng có một tiềm năng vô cùng to lớn để phát triển du lịch học tập. Do vậy, bản thân người viết muốn tìm hiểu, giới thiệu và đề xuất những biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả du lịch kết hợp với học tập, Xuất phát từ lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài: “ Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các Trạng nguyên tên địa bàn thành phố Hải Phòng” làm nhiệm vụ khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
- Các điều kiện để xây dựng các chương trình du lịch học tập cho các em học sinh trên địa bàn thành phố Hải Phòng
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng khai thác các di tích các đền Trạng nguyên tại Hải Phòng để phục vụ du lịch
- Đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khai thác có hiệu quả các đền Trạng nguyên tại Hải Phòng để phục vụ du lịch
3. Đối tượng nghiên cứu
Cuộc đời và sự nghiệp, khu di tích Đền của các Trạng nguyên Lê Ích Mộc, Trần Tất Văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm
4. Phạm vi nghiên cứu
Đền Trạng nguyên Lê Ích Mộc ở xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đền Trạng nguyên Trần Tất Văn ở xã Thái Sơn, huyện An Lão, Hải Phòng
Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận sử dụng các phương pháp :
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: nghiên cứu các tài liệu, thu thập các thông tin cần thiết có liên quan đến ba ngôi Đền để phục vụ cho quá trình nghiên cứu
- Phương pháp điền dã (khảo sát, chụp ảnh..): đến tận nơi để khảo sát tình hình thực tế ở các di tích. Chụp ảnh để lấy dữ liệu và kết hợp với việc trò chuyện với ban quản lý di tích để có những thông tin thật chính xác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh : Từ những thông tin thu thập được trong quá trình điền dã , người viết phân tích các thông tin, có sự so sánh và đối chiếu một số dữ liệu trong quá trình nghiên cứu, triển khai vấn đề, từ đó, người viết tổng hợp các thông tin và sắp xếp theo một trình tự cụ thể.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, bố cục đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Các điều kiện để xây dựng các chương trình du lịch học tập cho học sinh Hải Phòng
- Chương 2: Thực trạng về việc khai thác các di tích của ba Trạng nguyên ở Hải Phòng phục vụ du lịch
- Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả ba Đền Trạng nguyên trên địa bàn Hải Phòng
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
CHƯƠNG 1: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ XÂY DỰNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH DU LỊCH HỌC TẬP CHO HỌC SINH HẢI PHÒNG
1.1. Khái quát chung về hoạt động du lịch tại Hải Phòng
Hải phòng được biết đến là thành phố Cảng hay với tên gọi thân thương hơn là thành phố Hoa Phượng Đỏ. Là một trong những thành phố trọng điểm của cả nước về mặt kinh tế, trong đó ngành du lịch góp phần không nhỏ. Đến với Hải Phòng bạn như đắm chìm vào không gian cuộc sống nhộn nhịp cùng với người dân nơi đây. Hàng năm, Hải Phòng là một trong những địa diểm thu hút hàng ngàn lượt khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng ở những khu du lịch nổi tiếng như Cát Bà, Đồ Sơn, vịnh Bái Tử Long…Du lịch Hải Phòng còn được du khách biết đến bởi những lễ hội lớn nổi tiếng khắp cả nước như lễ hội chọi trâu một lễ hội độc đáo, nổi tiếng của Đồ Sơn. Và các khu di tích lịch sử văn hóa như chùa Dư Hàng, đình Hàng Kênh, đền Nghè, đền thờ bà Lê Chân… Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Với vị trí địa lý nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình ở Hải Phòng rơi vào khoảng 23 – 40 độ C. Là tỉnh có khí hậu nóng ẩm, mang đậm tính đặc trưng của kiểu thời tiết miền Bắc nên Hải Phòng cũng sẽ có đủ 4 mùa trong một năm.Thời điểm đẹp nhất để du khách đặt tour du lịch trong nước để đến với Hải Phòng thường sẽ rơi vào mùa hè, đây là khoảng thời gian ít mưa, nắng ráo, khí hậu ấm áp thích hợp để du khách có thể tham gia các hoạt động trên biển cũng như là dành thời gian để khám phá thành phố xinh đẹp này với những hàng hoa phượng đỏ rực rỡ trong nắng.
Hải Phòng có một nền ẩm thực vô cùng phong phú và đa dạng để du khách có thể lựa chọn sao cho phù hợp với khẩu vị của mình. Đặc biệt, du khách cũng đừng quên thưởng thức những món ăn đặc trưng của vùng đất này như : bánh mì cay (bánh mì Hải Phòng), các loại ốc, món ăn hải sản, bánh đa cua, nem cua bể, sủi dìn, cơm cháy hải sản, lẩu cua đồng, miến trộn,..
Du lịch Hải Phòng những năm gần đây cũng có những biến chuyển mới. Năm 2019, Hải Phòng đón và phục vụ 9.078.200 lượt khách, tăng hơn 16,3% so với cùng kỳ 2018 với doanh thu đạt 3.500 tỷ đồng. Trong đó, lượng khách quốc tế đạt 930.000 lượt, tăng 8,25% so với cùng kỳ 2018.
Hải Phòng hiện có 490 cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 5 sao, với 11.074 phòng lưu trú, trong đó có 56 tàu thủy lưu trú du lịch với 375 phòng; 66 đơn vị hoạt động kinh doanh lữ hành, trong đó có 34 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, 25 doanh nghiệp lữ hành nội địa, 7 chi nhánh, đại lý nội địa.
Theo số liệu thống kê năm 2018, Hải Phòng có 610 hướng dẫn viên có thẻ hướng dẫn viên du lịch, trong đó có 268 thẻ hướng dẫn viên quốc tế, 342 thẻ hướng dẫn viên nội địa. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Trong năm 2019, công tác quy hoạch, xây dựng đề án và phát triển sản phẩm du lịch cũng như công tác quảng bá, xúc tiến và hợp tác phát triển du lịch đã có chuyển biến tích cực. Công tác quản lý hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch và vận chuyển khách du lịch, quản lý hoạt động lưu trú du lịch được đặc biệt chú trọng.
1.2. Công tác tổ chức thi tuyển chọn người tài của triều đình phong kiến Việt Nam và cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc, Trần Tất Văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.1.Công tác tổ chức thi cử tuyển chọn người tài của triều đình phong kiến Việt Nam
1.2.1.1. Chế độ khoa cử
Khoa cử là chế độ tuyển chọn người để cất nhắc vào đội ngũ quan lại thông qua các kỳ thi do Nhà nước tổ chức.
Thi tuyển quan văn: Là hình thức khoa cử sớm nhất, phổ biến nhất thời kỳ phong kiến, được áp dụng lần đầu tiên dưới thời nhà Lý, năm 1075.Thời nhà Trần, khoa cử đi vào nề nếp hơn. Nhưng phải từ thời Lê sơ chế độ khoa cử mới được hoàn thiện và việc tuyển lựa quan lại dựa trên kết quả khoa cử mới trở thành phương thức chủ yếu trong quan chế của Nhà nước. Bất kỳ ai, dù là con quan đại thần hay thứ dân, dù học ở trường tư nơi làng, xã hay trường công nơi phủ lộ, kinh thành như Quốc Tử Giám, nếu có đủ tư cách đạo đức, đều có quyền dự thi để làm quan. Chế độ thi cử trong nhiều triều đại phong kiến có tiếng là nghiêm túc và công bằng, đặc biệt là ở các thời có minh quân trị nước. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Năm 1075, nhà Lý tổ chức kỳ thi đầu tiên. Sau đó, khoảng cách giữa những khoa thi thường là 12 năm, rồi đổi thành 7 năm. Đến năm 1435, vua Lê Thái Tông sửa lại là 6 năm một kỳ. Nhưng đến năm 1466, Lê Thái Tông đổi lại là 3 năm một kỳ. Lệ thi này sau đó kéo dài tới cuối thời Nguyễn. Riêng năm 1404 nhà Hồ còn tổ chức thêm kỳ thi thứ 5 là thi toán và viết chữ.
Quy chế khoa cử thời phong kiến bao gồm 3 kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Trong đó, quan trọng nhất là 2 kỳ thi Hương và thi Hội.
Thi Hương
Thi Hương được tổ chức quy mô một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi Hội, thi Đình. Thể lệ thi Hương được ổn định từ thời Lê Thánh Tông, bắt đầu mở trường thi ở các địa phương.
Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ của nhà Nguyễn, kỳ thi Hương có ba vòng (tam trường) hoặc bốn vòng (tứ trường).
Vòng đầu thi kinh nghĩa, gồm các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo. Vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ…). Vòng ba thi sáng tác thơ phú theo chủ đề. Vòng bốn thi văn sách để viết các bài tự luận.
Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài.
Dễ làm nhưng khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay (mỗi người một cảm nhận, đánh giá nên rất khó).
Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, sĩ tử không những phải thông làu kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực hư thiên văn, địa lý, bói toán, y học…, đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi sĩ tử phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!
Thi Hội và thi Đình
Thi Hội và thi Đình được mệnh danh là kỳ thi Đại Tỷ (thi lớn, thường được gọi là Đại khoa, gồm hai giai đoạn).
Thi Hội là kỳ thi quốc gia dành cho những người đã qua thi Hương, có bằng cử nhân và các Giám sinh đã mãn khóa Quốc Tử Giám. Những người đỗ đạt trong các kỳ đại khoa như thế đều có danh hiệu, tùy thuộc các thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội cũng có 4 kỳ. Kỳ một thi kinh nghĩa, thư nghĩa, kỳ hai thi chiếu, chế, biểu, kỳ ba thi thơ phú và kỳ bốn thi văn sách.
Thi Đình còn gọi là Điện thí, được tổ chức ngay tại sân điện, do đích thân vua ra đề và chấm thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi Đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Đây cũng là kỳ thi cuối cùng để xếp loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội trước đó. Sau khi vua chấm bài, học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng.
Những vi phạm, can tội trong chế độ khoa cử và hình thức xử phạt
Những vi phạm như: mang sách vào trường thi, sang lều người khác hỏi chữ, thi hộ… đều bị xem như là tội đồ và tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà có các hình thức phạt như: đóng gông đuổi ra khỏi trường thi, đánh 100 trượng, xoá tên trong sổ không cho đi thi vĩnh viễn, hoặc bị giam cầm… Những người vi phạm tội nặng như phạm húy, bất túc…đều phải bị nêu tên lên bảng con- tức là một tấm bảng ngang dài độ 3 thước, ngang khoảng 3 gang làm bằng phên tre, trét vôi trắng dùng để ghi tên những người can tội nặng.Sau đây là những can tội thường được nhắc đến:
Phạm húy: Trước ngày thi có bảng nêm yết ở cửa những chữ húy mà ai cũng phải tránh kể cả các khảo quan. “ Tuyệt bút” là cấm ngặt không được dùng, lúc đọc phải tránh âm, lúc viết phải sửa đổi hay dùng những chữ cận âm hay cận nghĩa thay thế. Ví dụ như tránh dùng các tên vua nhà Nguyễn: Miên, Hồng, Đởm… nếu gặp thì phải dùng từ khác cận nghĩa hay cận âm.
Khiếm trung: Là bên chữ “vua” không được viết thêm những chữ “ hôn”, “sát”… Khiến hiểu lầm nhà vua u mê, hung dữ, hay bị giết…
Cấm tì ố: Quyển thi phải giữ sạch sẽ không được có vết mực hay hoen ố, công dụng của các ống quyển mà các sĩ tử trân trọng đeo trước ngực là để che chở cho các quyển văn khỏi bị mồ hôi hay nước mưa làm hoen ố.
“ Bất túc” và “ Bất cập”: Là viết không đủ quyển, không thành bài, viết chỉ vài dòng. tội này nặng vì chứng tỏ thí sinh không đủ sức đi thi mà khảo quan duyệt hạch không kỹ hoặc cố tình nâng đỡ. trường hợp này cả Khảo quan và thầy học cùng bị phạt.
Ngoại hàm: Tất cả những quyển thi bị nộp trễ sau khi đã khoá hòm đựng quyển thi bị gọi là”Ngoại hàm”. Dù bài không được chấm nhưng cũng được đọc kỹ xem có bị phạm trường quy hay không. “ Ngoại hàm” là tội nặng, cũng bị nêu tên lên bảng con.
1.2.1.2. Các cấp bậc đánh giá sĩ tử Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Những người đỗ trong các kỳ thi Hương chia ra làm 2 loại. Loại một (từ thời Lê về trước) có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống (gọi theo học vị là Cử nhân). Cách gọi này có ý nghĩa là các địa phương cống lên, tiến cử lên để triều đình tuyển chọn nhân tài. Những ông cử này sẽ được dự kỳ thi Hội. Loại Hai không được thi Hội gọi là Sinh đồ. Thời nhà Nguyễn quy định thi Hương đỗ tam trường (ba vòng đầu), đạt học vị Tú tài; đỗ tứ trường đạt học vị Hương cống (về sau gọi là cử nhân); đỗ thủ khoa đạt Giải nguyên.
Kỳ thi Hội chọn ra các Tiến sĩ. Thi Hội đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi Đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị Phó bảng; đỗ thủ khoa đạt Hội nguyên.
Đỗ thi Đình đạt học vị chung là Tiến sĩ; đỗ thủ khoa đạt Đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8 đến 10 điểm được xếp bậc Đệ nhất giáp; 10 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), 9 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn, 8 điểm đạt Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.
Ba chức danh cao nhất của chế độ khoa cử là Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dành cho những người đạt điểm cao nhất của kỳ thi Đình với các ứng viên là Tiến sĩ. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, thăm hoa ở vườn ngự uyển, cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Lịch sử khoa bảng Việt Nam kéo dài 744 năm, từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919. Theo số liệu thống kê được, có 2.898 người đỗ đại khoa (từ Tiến sĩ trở lên, trong đó 50 Trạng nguyên, song không có phụ nữ). Số không thống kê được có tới hàng vạn người đỗ các mức thấp hơn (Cử nhân trở xuống). Phần lớn những người đỗ đạt đều tham gia vào bộ máy quản lý đất nước và có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.2.2. Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc, Trần Tất Văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.2.1. Trạng nguyên Lê Ích Mộc
Giới thiệu chung
Lê Ích Mộc (chữ Hán: 黎益沭, 2 tháng 2 năm 1458 – 15 tháng 2 năm 1538), người làng Quảng Cư, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn (nay thuộc huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng), đỗ đầu đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên) khoa tháng hai, Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), đời Lê Hiến Tông.Lê Ích Mộc làm quan tới Tả thị lang.
Lê Ích Mộc là vị Trạng nguyên đầu tiên của thành phố Hải Phòng, am hiểu kinh Phật, tinh thông Nho giáo, tỏ tưởng sâu trình các phép thần thông huyền bí của đạo giáo Lão Trung kết hợp với sự am hiểu sâu sắc về y học thiên văn, chiêm tinh, lí số.
Ông nguyên là đạo sĩ, đến khi đỗ, vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà không biết.
Khi ông chết, nhân dân địa phương lập miếu thờ và tạc tượng ông thờ ở cạnh chùạ Diên Phúc.
Cuộc đời và sự nghiệp Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Lê ích Mộc sinh ngày 02 tháng 02 năm 1458 tại làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, bậc khởi tổ là cụ Lê Văn Hợi từ đất Tây Kinh Thanh Hoá đến đây sinh cơ lập nghiệp. Đến đời thứ 3 kết quả mối tình giữa cụ Lê Văn Quang và bà Nguyễn Thị Lệ sinh thành ra Lê ích Mộc. Theo sinh đồ Lê Tuấn Mậu trong : “ Tiểu sử tiền sư chùa Thanh Lãng” soạn năm 1597 cho biết : Dưới Triều Lê Thánh Tông, ở làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, Trấn Hải Dương, có một người nối nghiệp nho, tư gia hiếu thảo, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lệ, cửa nhà thanh bần, kính sư sùng phật, hay gíup đỡ người nghèo khó. Một đêm kia, vợ chồng nằm chiêm bao thấy quan âm bồ tát cho một đoá hoa sen và một bài thơ:
- “Phật cho Lê Thị một bông sen
- Hiển thách nghìn thu dậy tiếng khen
- Đích xác sang năm sinh quý tử
- Danh lừng tam giáo gội ơn trên.”
Hôm sau vợ chồng nói chuyện lấy làm vui mừng. Từ ngày ấy, bà Lệ có mang và sinh hạ được một người con trai mặt vuông, tai lớn, đặt tên là Lê Ích Mộc.
Tục truyền rằng, thuở nhỏ Lê Ích Mộc là cậu bé thông minh, ham học và ngoan ngoãn được bà con làng trên xóm dưới yêu quý. Hàng ngày, sau những buổi phụ giúp cha mẹ, cậu bé Mộc thường hay tới chùa Ráng giúp đỡ các vị tăng ni quét dọn nhà cửa, xới đất trồng cây và chăm chỉ học hành, nghe nhờ văn sách. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học, nhà chùa đã nhận Lê Ích Mộc vào làm đệ tử, kèm cập thêm kinh sử. Ngày ngày ăn chay niệm phật. Lê Ích Mộc vẫn dành thời gian cho đèn sách. Đêm đêm , dưới ánh sáng lập loè của đom đóm hay dưới ánh sáng mờ nhạt của ánh trăng khuya, ông lấy mâm cát làm sách học, Lê Ích Mộc chăm chỉ dùi mài kinh sử. Ông lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết chữ lên đó để học, ghi nhớ rồi xoá đi. Đó là cách học “Nhập tâm” giúp người ta nhớ lâu, hiểu kĩ . Lê Ích Mộc cho rằng: “Việc học là việc khó nhưng không vì thế mà không học. Mỗi người hãy tuỳ theo khả năng của mình mà chọn học”. Bởi thế mà ông đã lừng danh trong vùng là người nhớ lâu, hiểu kỹ. Bài học của ông, sách Đại Việt đỉnh nguyên có ghi: “ Tam công túc học đáo kim can ” tức là sau 3 năm đã thông hiểu đầy đủ giáo lý, giáo pháp của bộ kinh kim cương. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Một hôm, Ích Mộc đang đi ở ngoài đường, gặp một vị sư già, một vị cao tăng trụ trì tại chùa Yên Lãng ( Tức chùa Ráng), nhà sư thấy Lê Ích Mộc có tướng và cơ duyên của một vị cao tăng nên theo Lê Ích Mộc về nhà. Ông Lê thấy khách quý lại chơi, xiết bao mừng rỡ , ân cần mời làm thượng khách. Nhà sư chỉ Lê Ích Mộc nói rằng: Ông là người từ thiện nên cậu bé này có quý tướng làm lên sự nghiệp lớn, rạng danh gia phong. Nếu cho cậu ấy xuất gia đầu phật, tương lai phong đỗ cao làm vinh hiển gia đình, tiền đồ không thể hạn lượng được. Ông Lê Văn Quang bèn hỏi: ý kiến con thế nào ?. Lê Ích Mộc nhận lời. Từ đó Lê Ích Mộc xuất gia học đạo gánh sách theo thầy đến ở chốn xa. Khoảng 5 năm, Lê Ích Mộc đủ thông hiểu các pho kinh phật tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp làng.
Ngày ngày ăn chay niệm phật, chăm chỉ sách đèn, ông gần gũi dân làng chỉ bảo họ cách làm ăn, làm thuốc chữa bệnh cho dân, hướng dẫn từ công việc cấy cày đồng áng đến cắm đăng đan lưới cho dân bắt tôm, cá. Sau những kỳ đi giảng kinh ở những vùng xa trở về, ông thường đem về những giống cây lạ phân phát cho dân làng rồng. Đặc biệt là giống Lim ông mang về được dân làng trồng, đã cung cấp nguồn gỗ chủ yếu để dựng chùa , làm nhà cửa. Sống nơi cửa thiền đất phật, Lê Ích Mộc luôn thông cảm sâu sắc với những khó khăn của dân làng, ông khuyên mọi người hướng về cửa phật với lòng thành tâm của chính mình chứ không phải bằng những nghi lễ tốn kém. Không chỉ là một vị tăng sư chuyên tâm hằng dương phật pháp, mà ông còn là một người am hiểu sâu sắc giáo lý Khổng tử, Mạnh tử, tỏ tường sâu trình các phép thần thông huyền bí của Đạo giáo, Lão, Trung. Ông kế thừa được truyền thống “ nhập thế gia trụ phật pháp” của các thiền sư nổi tiếng như: Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Minh Không… chính nhờ các phương thuật huyền bí kết hợp với sự am hiểu về y học, thiên văn, chiêm tinh, lý số… của Lê Ích Mộc mà ngôi chùa Ráng đã trở thành một sơn môn lừng lẫy. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Dưới Triều Lê Thánh Tông, ông đi thi mấy lần mà không đỗ. Ông trở về quê nhà trụ trì tại chùa Ráng chuyên nghiên cứu kinh tam tạng nhà phật. Sách “ Đại việt sử ký toàn thư “ chép : “Mùa xuân tháng 2 năm Nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 ( 1502 ) đời Lê Hiến Tông, Triều đình mở hội thi kén người tài, một lần nữa, Lê Ích Mộc quyết tâm dùi mài kinh sử, ứng thi những mong đem trí tài giúp nước. Khoa thi năm ấy sĩ tử đi ứng thi có tới mấy mươi ngàn người, triều đình chọn lấy đỗ 61 người có bài thi xuất sắc nhất, trong đó Lê Ích Mộc người làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh ( Trạng nguyên ). Khi duyệt bài văn của Lê ích Mộc, nhà vua vô cùng sửng sốt, khen ngợi và mến phục tài văn chương của ông bèn sai ông đọc bài “ Chế thư ” của mình trước các ông nghè tân khoa, hai tay Lê Ích Mộc nâng lư hương đang bốc cháy rừng rực làm bỏng rộp hết cả da tay mà không biết.
Sách “ Công dư tiệp ký ” của Vũ Phương đề chép: Lê Ích Mộc tuổi đã cao mà chưa đỗ đạt gì thì tâm trạng cũng buồn, ông thường đến chùa Diên Phúc theo học thầy chùa và kinh phật. Kỳ thi Đình năm ấy, tự tay vua Hiến Tông ra đề thi hỏi về đạo trị nước của bậc Đế Vương với đề bài ra 9 dòng chữ. Thật là duyên kỳ phúc đã đến,bằng những hiểu biết sâu sắc của gần 30 năm đèn sách Lê Ích Mộc trình bày một cách mạch lạc, trôi chảy trên 25 trang giấy về niềm khát vọng trấn hưng phật giáo, hiến nhiều kế sách về đạo trị nước của các bậc Đế Vương qua thực tế các triều đại. Văn ông ý tứ dồi dào, đầy ký ức, không bỏ sót ý nào, khi duyệt bài của ông, vua Hiến Tông, một ông vua có phong cách thi nhân thanh tao của thời Lê, vô cùng sửng sốt mà thốt nên rằng: “ Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa, Trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng bậc khôi nguyên”. Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên năm 44 tuổi. Từ khoa thi này, Triều đình có lệ treo Bảng Vàng ghi tên người đỗ ở cửa nhà Thái học càng thêm phần vinh hiển, ông là Trạng nguyên của Tam giáo, tinh thông Nho lão, am tường kinh Phật. Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên vào cái thời mà Phật giáo không còn là quốc giáo như những triều đại Lý – Trần trước đây. Lúc này, Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo tiến lên hàng chính thống. Bấy lâu, các triều đại phong kiến đã dựa vào chính khoa cử Nho giáo để tuyển chọn nhân tài, lấy người ra làm quan, bổ sung đội ngũ quan lại từ trung ương xuống tới các địa phương huyện, tổng. Bởi thế mà có nhiều người lao vào con đường cử nghiệp để tiến thân. Trên con đường hoan lỗ của các sĩ phu, cũng có nhiều người hanh thông hiển đạt, nhưng cũng không ít người bị trắc trở gian nan, mà thường là những người gặp trắc trở thì hay tìm đến triết lý và sự an ủi của Lão và Phật. Vậy nên, đường đời của các sĩ phu xưa thường là Nho, Phật, Lão. Con đường của Lê Ích Mộc thì lại khác, trước khi đỗ Trạng nguyên, ông đã là đạo sĩ, là sãi chùa. Đó là nét riêng biệt, độc đáo của ông. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Lê ích Mộc bước vào cuộc đời làm quan trong giai đoạn thịnh trị của triều Lê sơ không còn nữa. Từ sau đời Lê Hiến Tông ngắn ngủi, các vua chúa cháu chắt của nhà Lê từ Uy Mục, Tương Dực trở đi đều biến ngai vàng thành cỗ xe hưởng lạc, tiến vào con đường xa hoa, thoái hoá cực độ trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của nhân dân lao động. Mâu thuẫn trong xã hội trở nên sâu sắc. Lê ích Mộc sinh ra và lớn lên ở vùng đất lam lũ, sống trong sự đùm bọc của bà con lao động nên ông rất hiểu và thông cảm sâu sắc với đời sống nhân dân nơi thôn dã; đồng thời chịu ảnh hưởng của thuyết “ từ bi hỷ xả ”, “lý vô chấp ”, “lẽ vô thường ”, “vô ngã” của nhà Phật. Ông thường hay giúp đỡ người nghèo, khuyên mọi người làm việc thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Năm 1527, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Mạc Đăng Dung xưng vương. Trong giai đoạn đầu, Vương triều mới có nhiều cải cách tiến bộ, được đông đảo nhân dân ủng hộ. Đông các đại học sỹ triều Lê là thám hoa Nguyễn Văn Thái, bạn đồng khoa với Trạng nguyên Lê Ích Mộc là một trong số cựu thần trí thức đầu tiên ủng hộ Mạc Đăng Dung và tiến cử Lê Ích Mộc với Đăng Dung. Ông bỏ tài trí, hiểu biết ra giúp triều đại mới với mong ước thực hiện ý nguyện của mình. Nhưng chỉ sau khi Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh qua đời, mâu thuẫn trong nội bộ vương triều Mạc trở lên gay gắt, tình hình có lúc nguy cấp, một số cựu thần có uy tín như cha con Lê Bá Lý, Nguyễn Thuyến đã bỏ nhà Mạc theo nhà Lê, dân tình hoang mang không biết theo ai, nên mặc dù làm quan đến chức Tả Thị Lang, đứng hàng thứ ba sau Thượng thư, Tham tri nhưng Trạng nguyên cảm thấy chán ngán, đã “ treo ấn từ quan ” về trí sĩ tại quê nhà. Nhớ thuở hàn vi, Lê Ích Mộc bỏ tiền ra tu sửa, mở mang chùa Ráng, lấy tên chữ là Diên Phúc tự và mở trường dạy học, đào tạo nhân tài cho quê hương, đất nước. Với tên chùa Diên Phúc, phải chăng ông muốn ghi nhớ về nhân duyên phúc trạch mà Trời, Phật ban cho ông trong nghiệp đời thi cử hay là lời cầu mong duyên Trời, phúc Phật đến với mọi người, mọi nhà, với làng quê yêu dấu? Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Là người có học vấn sâu rộng, có đạo đức mẫu mực, Lê Ích Mộc còn là một thầy giáo tận tuỵ với nghề nghiệp, yêu thương học trò. Không chỉ luyện rèn học trò ông thường khuyên dạy dân làng cách sống, cách cư xử sao cho hoà thuận ấm êm. Ngôi chùa Diên Phúc và từ chỉ Thanh Lãng nhờ có Lê Ích Mộc mà trở thành trung tâm đào tạo nhân tài và giáo hoá của cả một vùng rộng lớn. Không ỷ lại là một nhà sư, một trí sĩ, ông đã tích cực cùng với nhân dân làng Ráng khai phá vùng đầm lầy ven sông, trồng cây gây rừng. Lê Ích Mộc đích thân trồng một rừng Lim xanh tốt, nhân dân địa phương được hưởng lợi hết đời này qua đời khác. Vết tích rừng lim “quan Trạng ” xưa nay còn đó… Nhờ có rừng lim này mà nhân dân địa phương có nguyên liệu tại chỗ để trùng tu Diên Phúc tự, xây đền Diên Thọ, mở rộng từ văn, xây đình Hoàng Giáp, chùa Lốt, chùa Vang…
Ngày 15 tháng 02 năm 1538, Lê Ích Mộc qua đời tại quê nhà, hưởng thọ 80 tuổi. Mộ phần của ông ngự tại rừng lim quan Trạng thuộc xóm Sỏi, thôn Thanh Lãng.
Lăng mộ quan Trạng đã trải qua hàng trăm năm trường tồn. Rừng lim quan Trạng trồng xưa đã hoá thân vào các công trình công cộng của làng của xã và thay thế vào đó là rừng bạch đàn xanh tốt đêm ngày rì rào tiếng reo vui.
Trải qua hàng trăm năm trường tồn và luôn được tôn tạo, bảo vệ, lăng mộ quan Trạng và khu lưu niệm Trạng nguyên Lê Ích Mộc đã trở thành một di sản văn hoá vượt khuôn khổ làng xã trở thành di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993. Ngày nay, khu lưu niệm Trạng nguyên Lê Ích Mộc gồm nhiều di tích lịch sử có liên quan đến Trạng nguyên Lê Ích Mộc như đình Thanh Lãng, lăng mộ Trạng nguyên Lê Ích Mộc, Chùa Đông Linh Tự, Từ đường quan Trạng,… không chỉ là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống của người con quê hương mà còn là điểm đến của du khách thập phương đặc biệt trong mỗi dịp Tết đến, xuân về.
1.2.2.2. Trạng nguyên Trần Tất Văn Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Giới thiệu chung
Trần Tất Văn (chữ Hán: 陳必聞, 1428-1527), người làng Nguyệt Áng, tổng Đại Hoàng, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng) thi đỗ Đình nguyên, Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526) đời vua Lê Cung Hoàng. Ông là tác giả bài biểu Lui vạn binh nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên…Trần Tất Văn sau ra làm quan cho nhà Mạc tới thượng thư, tước Hàn Xuyên bá, từng đi sứ nhà Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp
Trạng nguyên Trần Tất Văn sinh ra trong một gia đình họ Trần – dòng dõi nhà nho ở thời hậu Lê. Do xuất thân là dòng dõi quý tộc, được thừa hưởng tư chất thông minh và được học hành đầy đủ nên ngay từ nhỏ Trần Tất Văn đã nổi tiếng về hiếu học, chăm ngoan. Qua nhiều năm miệt mài đèn sách ông đã vượt qua kỳ thi Hương (đỗ Giải nguyên), thi Hội (đỗ Hội nguyên), thi Đình (đỗ Trạng nguyên) – học vị cao nhất tại kỳ thi năm Bính Tuất niên hiệu Thống nguyên (1526) đời Lê Cung Hoàng. Ông là Trạng nguyên duy nhất của huyện An Lão dưới thời phong kiến, đồng thời đứng thứ 30 trong tổng số 47 Trạng nguyên của cả nước. Ngày Trần Tất Văn được vua ban cờ, biển cho về lễ tạ tổ tiên và các thầy học cũ, dân làng nô nức đón rước người ham học, đỗ cao, làm vẻ vang cho quê hương, dòng họ. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Sau đỗ đạt, ông làm quan cho triều Mạc, đến chức Thượng thư, tước Hàn Xuyên bá. Dưới thời Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, ông được giao trông coi việc từ hàn, những văn thư trao đổi giữa nhà Minh, nhà Mạc ông đều tham gia.
Trạng nguyên Trần Tất Văn được người đời tôn vinh, nể trọng chủ yếu do đức độ, dốc lòng làm việc thiện “khuyến học, lo đời”, sống thanh bạch, không màng công danh, phú quý. Đặc biệt, người đương thời rất khâm phục bài biểu của vương triều Mạc (1527 – 1592) do ông trực tiếp soạn gửi nhà Minh. Ngày ấy, nhân lúc Mạc Đăng Dung mới khai lập nên vương triều Mạc lòng người còn chưa yên, nhà Minh giở chiêu bài “Phù Lê” nhăm nhe xâm lược nước ta, sai viên tướng có tiếng là thao lược Mao Bá Ôn đem đại quân áp sát biên giới gây áp lực, đòi cống nạp, cướp đất, đòi nộp con tin, đòi cống thợ giỏi, đòi tìm con cháu nhà Lê lập ngôi vua… Biết được nhân cách, tài năng và tư tưởng tiến bộ của Trạng nguyên Trần Tất Văn, Mạc Đăng Dung đã giao cho ông, một mệnh quan của triều đình cũ, chuyên lo việc bang giao với nhà Minh, tìm mọi cách để đất nước tránh được cuộc can qua binh lửa. Đó chính là bối cảnh mà Trạng nguyên Trần Tất Văn đã dốc hết tâm lực, trí tuệ, sự hiểu biết, tài ngoại giao ứng đối của mình cho việc soạn bài biểu nhân danh “Sơn hà xã tắc” gửi triều đình nhà Minh. Sách “Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề chép lại bài biểu này với cái tên “Một bài biểu lui vạn binh”, trong đó có câu rất nổi tiếng như:
- “Vị tiểu quốc bất học vô nhân, lễ nghĩa hà túc thâm trách
- Mẫn An Nam vô cô xích tử, phong nhận nhẫn sử hoành la”
Có nghĩa là: Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
- “Cho nước tôi là vô nhân ít học thì lễ nghĩa sao đáng trách móc?
- Bảo thương dân An Nam vô tội, nỡ nào đem gươm giáo đâm chém?”
- Tương truyền, Mao Bá Ôn đọc biểu rơi nước mắt rồi quyết định lui quân.
Trong lịch sử bang giao thời quốc gia Đại Việt, lời lẽ và sức mạnh của bài biểu “Lui vạn binh” của Trạng nguyên Trần Tất Văn có thể được sánh ngang với lời đối đanh thép “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” của sứ thần Giang Văn Minh.
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, trong số 47 trạng nguyên của nước nhà, Trần Tất Văn là trạng nguyên thứ 30 của các triều đại Lý – Trần – Hậu Lê và là trạng nguyên thứ 21 cũng là trạng nguyên cuối cùng của nhà Hậu Lê nổi tiếng trong lịch sử phát triển giáo dục, đào tạo hiền tài của nước ta thời Trung Đại. Khoa thi Đình năm Thống Nguyên thứ 5 (1526) này, do tình hình loạn lạc nên không dựng bia tiến sỹ ở Văn Miếu Thăng Long, nhưng tên Trạng nguyên Trần Tất Văn được ghi ở tất cả các sách Đăng khoa lục. Tất cả các sách Đăng khoa lục đều ghi rõ Trần Tất Văn người làng Nguyệt Áng, huyện An Lão đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ nhất danh khoa Bính Tuất niên hiệu Thống Nguyên 5, làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư, tước Hàn Xuyên Bá, từng được cử đi sứ nhà Minh. Con ông là Trần Tảo đỗ đồng tiến sỹ khoa Ất Sửu niên hiệu Thuần Phúc 4 triều Mạc, làm quan đến chức Thừa chánh sứ. Trong lịch sử khoa bảng nước ta thời quân chủ chuyên chế, gia đình có cha đỗ Trạng, con đỗ Nghè chỉ có 7 gia đình mà thôi, trong đó có gia đình Trạng nguyên Trần Tất Văn.
Khi làm quan dưới triều nhà Mạc, thấu hiểu được tấm lòng và tình cảm của người dân quê hương, ông đã bỏ tiền hưng công xây dựng trên mảnh đất hương hoả của gia đình ông một ngôi chùa để người dân ở đây có điều kiện sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, tu thiện, tích đức. Người dân làng Nguyệt Áng truyền tụng rằng chùa quan Trạng tên chữ là Vĩnh Khoái Tự có quy mô rất rộng rãi, khang trang nằm trên một gò đất cao ráo, rộng tới 1/2 mẫu Bắc bộ. Ngoài việc xây chùa, Trạng nguyên Trần Tất Văn thấu hiểu nỗi cực nhọc của nhân dân địa phương khi phải lội qua nhánh sông nhỏ mùa hè cũng như mùa đông giá lạnh. Ông đã bỏ tiền làm một cây cầu đá xanh 3 nhịp dài 6-7mét, hiện nay chiếc cầu đã bị đổ, nhân dân địa phương còn lưu giữ được nhiều cấu kiện của chiếc cầu là những khối đá xanh hiện còn trong di tích. Cho đến nay, người dân Nguyệt Áng vẫn còn lưu truyền được bài thơ quan trạng về làng xây cầu đá: Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
- “Hôm qua còn lội qua đầm
- Hôm nay thanh thản qua cầu đá xanh
- Cầu này cầu ái cầu ân
- Công ơn quan Trạng có tâm với làng”
Di sản
Đời truyền rằng, năm nào ông cũng dành phần lớn bổng lộc vua ban để gây quỹ khuyến học giúp đỡ các học trò nghèo ở quê hương, chăm ngoan học giỏi… Nhưng tiếc thay, những di sản văn hoá mà Trạng nguyên Trần Tất Văn để lại cho quê hương, đất nước đã bị mai một, thất lạc, mất mát gần hết. Một phần lớn là do khi nhà Lê Trung Hưng giành được ngôi báu, với chính sách trả thù tàn khốc, toàn bộ “Trần Gia Trang” ở làng Nguyệt Áng bị san thành bình địa, những công trình kiến trúc – nghệ thuật gắn với công tích Trần Văn Tất, Trần Tảo đều bị phá huỷ, gia tộc họ Trần làng Nguyệt Áng, người bị giết, bị đi đày hay phải trốn tránh khắp nơi, gia phả dòng tộc bị thất truyền. Theo Lê triều thông sử, ngày 14-1 năm Quý Mùi (1593), con trai Quan Trạng là Thừa chính sứ Trần Tảo bị quân Lê – Trịnh bắt cùng với nhiều quan lại cao cấp khác của nhà Mạc. Tục truyền, cả gia đình Trạng nguyên Trần Tất Văn bị tàn sát ở bến Thanh Lâm (Cẩm Giàng, Hải Dương). Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Sau khi quan Trạng qua đời, nhân dân địa phương đã dựng ngôi đền để thờ phụng tưởng nhớ ơn đức của Quan Trạng. Đền được xây dựng nằm gần sát toà phật điện. Đền quay cùng hướng với ngôi chùa nhìn về phía Tây Bắc, cách nơi linh địa này không xa phía trước là dòng sông Đa Độ uốn khúc chảy qua và đằng sau là dãy núi sừng sững trụ vững với thời gian.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1948), các công trình kiến trúc đền, chùa Quan Trạng cũng như các công trình văn hoá tín ngưỡng khác của địa phương Nguyệt Áng đã phải tiêu thổ kháng chiến. Mặc dù ở Nguyệt Áng đã trải qua bao lần san lấp mặt bằng để phục vụ sản xuất nông nghiệp, song đến nay, khu đất linh địa, đất xây đền, chùa quan Trạng ngày xưa vẫn còn gần như nguyên vẹn.Tất cả các công trình này đều nằm trên khu đất thuộc “Trần Gia Trang” thuở trước và đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia.
Để tôn vinh và nối dài công tích và đức độ của Trạng nguyên Trần Tất Văn, UBND TP đã phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo và phục dựng khu di tích tưởng niệm Quan Trạng Áng; đồng thời mở đợt phát hành xổ số từ ngày 1-10 đến 7-11-2007 nhằm huy động từ những tấm lòng “hằng tâm, hằng sản” của người Hải Phòng, của dân đất gạch, giọt đồng, giúp nhân dân Nguyệt Áng, Thái Sơn hoàn thành tâm nguyện tri ân Trạng nguyên Trần Tất Văn.
Hiện nay, tên của ông được đặt một con đường tại quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
1.2.2.3. Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Giới thiệu chung
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu Sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.
Cuộc đời và sự nghiệp
- Gia thế và những năm thơ ấu
Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6 tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (13 tháng 5 1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.
Thời niên thiếu và những năm biến loạn cuối đời Lê sơ
Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ Thanh để tầm sư học đạo.
Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Thi cử và làm quan dưới triều Mạc
Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.
Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc”. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà. Trạng nguyên Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như “Lực phù nhật cốc trụ kình thiên” (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt” (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).
Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông). Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Những năm tháng cuối đời
Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: “… Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng”. Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là “Mạc Triều Trạng nguyên Tể Tướng Từ”.
Chính vì tư tưởng và nhân cách nhân cách cao quý như thế nên ngay cả khi ông đã mất đi vẫn được con dân hết mực yêu quý và kính trọng. Bên cạnh đó, ngưỡng mộ sự học rộng hiểu sâu nên du khách muốn đến đây để cầu mong Người có thể linh ứng cho mình trên con đường công danh, học tập, mong có thể thành tài.
Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.
Những đóng góp cho Phật giáo Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc “Pháp Bảo đàn kinh” (tác giả từng viết “Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy”, “Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm” – “Du Nam Hoa tự”); Nguyễn Du sau này đã viết “Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh” (Tụng đọc “Kinh Kim Cương” hơn nghìn vạn lần) (“Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài”) thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài “Độc Phật kinh hữu cảm“. Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thế rất sâu sắc, độc đáo. Ông học được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng (thuộc phái Tượng số học của Tống Nho). Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử– một bậc chân nho.
Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độ như không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: “Nho quan tự tín đa thân ngộ” (Tự biết “cái mũ nhà nho” đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – “Ngụ hứng, 3”, “Bạch Vân am thi tập”). Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên). Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh (ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: “Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại” (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) “Du Phổ Minh tự“). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng “Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp” ở “Kinh Kim Cang” . Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:”Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu khổ oan” (“Trung nguyên tiết xá tội” – Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc kinh Phật (“Độc Phật kinh hữu cảm“). Ông tâm đắc triết lý sắc không: “Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc” (“Tân quán ngụ hứng). Đây là tư tưởng “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” nổi bật của “Kinh Bát nhã” Tư tưởng Thiền có lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: “Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn lai ky (cơ)” (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ – “Tân quán ngụ hứng). Tư tưởng này được tìm thấy ở “Kinh Kim Cang”. Khi Phật nói với Tu – bồ – đề: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp)”. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở “Pháp Bảo Đàn kinh“. Tác giả nói “Bổn lai cơ” trong trường hợp này không ngoài mệnh đề “Bổn lai vô nhất vật” (“Pháp Bảo Đàn kinh”). Khái niệm “cơ” cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học – vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tác phẩm Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri…Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng 1000 bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: “… Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” (Bạch Vân am thi tập tiền tự). Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị… như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy”. Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”.
Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam. Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉ là số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn. Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là “thơ ngôn chí”, nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của thơ và ngay các nhà thơ cổ cũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách “triệt để” và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ về Văn học Mạc”, thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là “trữ tình lý trí”. Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó (điển hình là thời của Lê Thánh Tông) mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người tiếp nối cho sự phát triển và hoàn thiện của nền thơ ca dân tộc kể từ sau Nguyễn Trãi, đồng thời bổ sung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) và PGS.TS. Trần Nguyên Việt (Viện Triết học) có chung quan điểm khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.
Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký,Tam giáo tượng bi minh… Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa). Những văn bia đó không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong số đó, có giá trị nhất là bài văn bia tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với nội dung như sau: “… Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí Thiện… Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài.
Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn” (Bản dịch của nhà sử học Ngô Đăng Lợi). Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó là một ông vua, mà là trung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Sự linh ứng của “Sấm Trạng Trình” – những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm ký Trạng Trình là một đề tài mà từ hàng thế kỉ nay đã trở thành một bức màn thần bí bao phủ lên cả cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Yếu tố thực hư vẫn còn là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên lạ kỳ là đã có không ít sự kiện lịch sử Việt Nam và thế giới đã xảy ra trong suốt 500 qua đã “ứng” vào các câu ghi trong “Sấm Trạng Trình”.Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã.
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, với tài lý số của mình, không thể phủ nhận được rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo ra được những kỳ tích cũng như những ẩn số về tài danh của một kỳ nhân mà đến nay hậu thế cũng chưa giải mã hết được.
Một trong số đó có thể kể tới chính là lời sấm về cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 được tiên tri trong câu:
“Đầu Thu gà gáy xôn xao
Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”
- câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.
- câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội. Quả nhiên, mọi việc đã diễn ra y như Trạng Trình đã tiên đoán.
Ngay tới cả sự kiện trọng đại – thành công của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng được Trạng “nhìn” thấy từ hàng trăm năm trước: Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
- “Cửu cửu càn khôn dĩ định
- Thanh minh thời tiết hoa tàn
- Trực đáo dương đầu mã vĩ
- Hồ binh bát vạn nhập Tràng An”.
Lời sấm này có nghĩa là đất nước ta phải qua 81 năm mới thoát khỏi ách nô lệ, sau đó phải qua 9 năm nữa mới được yên, thể hiện bằng câu “Thanh minh thời tiết hoa tàn”. Đó chính là trận Điện Biên Phủ lẫy lừng ngày 13/2/1954 đúng vào tiết thanh minh. “Thời tiết hoa tàn” tức là ở thời điểm thanh minh đó có một sự tàn lụi, thì chính là sự tàn lụi của ách cai trị của thực dân Pháp. “Trực đáo dương đầu mã vĩ” tức là cuối năm Ngọ, đầu năm Mùi thì mới có sự thành công. Đó chính là sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 3/1954, đến 10/10/1954 mới giải phóng Thủ đô và ngày 1/1/1955 Chính phủ mới về tiếp quản Thủ đô. Lời sấm “Hồ binh bát vạn nhập Tràng An” nghĩa là có lính tám Sư đoàn của vị lãnh tụ tài ba tiến vào Tràng An.”
Trải qua không ít thực tế, chúng ta càng thấy những câu thơ sấm truyền của cụ Trạng ngày càng linh ứng và mang tính thời sự thức thời đối với người Việt. Sự ứng nghiệm này lại càng làm cho người ta tin tưởng vào sự linh thiêng, tài đức của cụ. Tài năng của Trạng Trình mãi là niềm tự hào cho nhân dân Vĩnh Bảo nói riêng và của Hải Phòng nói chung. Đến với khu di tích, người dân sẽ có dịp chiêm nghiệm những lời sấm đó và bày tỏ lòng biết ơn đối với Trạng đã một đời lo cho nước cho dân.
Nguyễn Bỉnh Khiêm và quốc hiệu Việt Nam Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Nam thông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam(Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Ghi nhận
Năm 1985, tại Thành phố Hải Phòng, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng phối hợp với Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học về Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông. Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã đánh giá, khẳng định về tầm vóc của Trạng Trình và ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm với thời đại ông sống cũng như với lịch sử dân tộc.
Năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Sở Văn hoá Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm với chủ đề “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự phát triển văn hoá dân tộc”.
Cũng trong năm 1991, khu di tích gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Trên quê ngoại ông ở thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được thờ cùng với mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan tại Từ đường họ Nhữ – Nguyễn trong quần thể di tích có lăng mộ của vợ chồng Tiến sĩ Thượng thư Nhữ Văn Lan cùng con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Trạng Trình). Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương và Văn miếu Trấn Biên ở Đồng Nai đều có tượng và bài vị thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đình làng Thanh Am (tên cũ là Hoa Am) thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Hà Nội ngày nay, được xây dựng từ cuối thế kỷ XVI là nơi thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm như một vị Thành hoàng của làng. Tên gọi cũ là Hoa Am cũng do Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc sinh thời đặt cho làng trong thời gian ông làm quan dưới triều Mạc. Khi về già, ông vẫn lui tới đây khuyên dân làm nghề nông nuôi tằm ươm tơ dệt lụa. Khi ông mất, nhân dân ghi nhớ công lao, tôn sùng ông là một trong các vị Thành Hoàng của làng. Cụm đình, chùa làng Thanh Am có bề dày lịch sử với những sắc phong, thần phả, sấm ký và nhiều tư liệu còn giữ.
Đạo Cao Đài đã phong thánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn, là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.
1.2.3. Điều kiện để phát triển loại hình du lịch học tập ở Hải Phòng
1.2.3.1. Khái niệm loại hình du lịch học tập
Du lịch học tập trong tiếng Anh được gọi là Study tourism. Là hình thức du lịch mà khách du lịch vừa được đi du lịch, vừa học được nội dung học tập có chủ đích trong chuyến đi đó. Như vậy, nhu cầu du lịch học tập của khách du lịch phụ thuộc vào các yếu tố về nhu cầu du lịch thông thường và du lịch học tập.
Định nghĩa du lịch học tập ở nước ngoài : Theo Bodger (1998), du lịch giáo dục (education tourism) hay du lịch học tập có thể hiểu “là loại hình du lịch mà khách đi đến một địa điểm có thể theo nhóm hoặc cá nhân với động cơ chủ yếu nhằm có được các trải nghiệm liên quan đến việc học”. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Du lịch giáo dục là một trong những loại hình du lịch phổ biến trên thế giới hiện nay. Sự phổ biến và sự cần thiết của nó trong thị trường du lịch gia tăng từng ngày. Nhiều quốc gia trên thế giới đã phát triển du lịch giáo dục như là một trong những nguồn thu nhập chính của họ
Du lịch giáo dục thường là sự kết hợp của một số loại hình du lịch khác như du lịch sinh thái, du lịch di sản, du lịch nông thôn/trang trại và trao đổi sinh viên giữa các cơ sở giáo dục.
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu của loại hình du lịch học tập
- Đặc điểm cá nhân của du khách. Các đặc điểm cá nhân ảnh hưởng đến nhu cầu du lịch bao gồm giới tính, tuổi, trình độ học bấn, nghề nghiệp, nơi ở và thu nhập. Ngoài ra, học lực, xuất xứ gia đình, cấp học là các yếu tố đặc thù cho đối tượng du lịch học sinh phổ thông.
- Mối quan tâm về môi trường của du khách. Khách du lịch có mối quan tâm về môi trường sẽ có hành vi thân thiện với khu du lịch, họ cũng có nhu cầu nhiều hơn về loại hình du lịch sinh thái và hoà đồng với thiên nhiên.
- Hiểu biết, thái độ và nhận thức về ý nghĩa của hình thức du lịch Hiểu biết, thái độ và nhận thức về ý nghĩa của hình thức du lịch ảnh hưởng tích cực đến lựa chọn và hành vi của khách du lịch.
- Động cơ du lịch của du khách Hầu hết các động cơ du lịch bắt nguồn từ những mong muốn nội tại và vô hình của con người, bao gồm những mong muốn trốn chạy, tìm kiếm sự mới lạ, tìm kiếm sự phiêu lưu mạo hiểm, thực hiện ước mơ, nghỉ ngơi, thư giãn và sức khoẻ.
- Các yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của gia đình, bạn bè và nhà trường về chuyến du lịch và thông tin du lịch (điểm đến). Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Xu hướng “Du lịch – Trải nghiệm học tập” được coi là một bước tiến mới khi kết hợp cả Trải nghiệm – Học hỏi và Thư giãn trong cùng một cuộc hành trình. Vừa tiết kiệm được chi phí, vừa giúp chuyến hành trình ấy trở nên ý nghĩa hơn. Giá trị cốt lỗi của Du lịch – Trải nghiệm học tập mang lại là thông qua quá trình du lịch con người sẽ được thỏa mãn không chỉ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí mà còn được phát triển khả năng nhận thức thực tế, tích lũy thêm kiến thức, nâng cao kỹ năng.
1.2.3.3. Các điều kiện để có thể phát triển loại hình du lịch học tập ở Hải Phòng
Nhu cầu du lịch học tập của học sinh
Xã hội càng phát triển, nhu cầu tiếp cận với kiến thức ngày một nhiều hơn. Do vậy, hiện nay các chương trình học tập quá dày đặc trên ghế nhà trường, chương trình học thêm đã khiến nhiều học sinh bị quá tải.Ngoài giờ học chính khóa, học sinh còn phải chạy đua với thời gian với những khóa học thêm, học nâng cao kỹ năng như học vẽ, học múa, học đàn.. điều này đã khiến cho các em không có thời gian để nghỉ ngơi, dẫn đến tình trạng “stress”. Vì vậy mà du lịch học tập thực sự là một giải pháp tốt nhất hiện nay cho vấn đề bài học quá tải của học sinh trong các nhà trường. Những chuyến tham quan thực tế sẽ giúp cho học sinh có dịp khảo sát và vận dụng những bài học vào thực tiễn cuộc sống, trải nghiệm nhiều thứ từ tính tập thể, tinh thần kỷ luật, tình bạn, sự quan tâm tới người khác và những trải nghiệm về văn hóa, địa lý, lịch sử, ẩm thực, danh thắng…qua đó mỗi người được rèn luyện ý thức kiểm soát bản thân, tinh thần đồng đội cũng như tác phong kỷ luật khi tham gia hành trình dã ngoại. Đây cũng là dịp rèn luyện kỹ năng sống trong điều kiện cho phép đối với từng lứa tuổi.
Đối tượng khách du lịch tiềm năng
Với lợi thế là một thành phố trực thuộc trung ương, Hải Phòng là một trung tâm giáo dục lớn của Việt Nam. Chính vì vậy mà số lượng học sinh , sinh viên tương đối lớn là đối tượng khách du lịch tiềm năng của loại hình du lịch học tập tại Hải Phòng. Không chỉ có vậy, các học sinh, sinh viên tại các tỉnh và thành phố lân cận, giáp gianh như Quảng Ninh, Hải Dương,… chính là yếu tố không nhỏ góp phần giúp phát triển thêm loại hình này. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Khả năng chi trả
Đối tượng khách hầu hết là học sinh sinh viên vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường vì vậy mà khả năng chi trả cho các chuyến du lịch là không cao, tương đối thấp. Đối với học sinh các cấp 1,2,3 vẫn còn phụ thuộc vào gia đình thì nguồn chi trả chủ yếu dựa vào gia đình. Còn đối với sinh viên thì đã có thể tự làm chủ được tình hình kinh tế dựa vào các công việc làm thêm hay từ phía gia đình , tuy nhiên mức chi trả vẫn còn thấp. Và thường các đối tượng khách này sẽ ưu tiên giá cả rẻ, thấp.
Điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch trên địa bàn Hải Phòng
Hệ thống cơ sở hạ tầng (sân bay, bến cảng, đường sắt, đường bộ, v.v.), cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch (nhà hàng, khách sạn, vận chuyển, lữ hành, các điểm mua sắm, v.v.) khá đồng bộ, thuận tiện trong việc đón và gửi khách; nguồn nhân lực du lịch ở Hải Phòng cơ bản được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và có tay nghề
Tuy nhiên các điểm di tích giáo dục chưa được khai thác đầy đủ nhằm phục vụ phát triển du lịch; có thể nói du lịch giáo dục ở Hải Phòng còn ở dạng tiềm năng hơn là thực tế. Mặc dù trên thực tế việc khai thác các điểm di tích giáo dục ở Hải Phòng phục vụ mục đích du lịch cũng đã được một số cá nhân, đơn vị triển khai nhưng còn ở quy mô nhỏ lẻ, chưa có những tour/chương trình du lịch giáo dục được triển khai rộng rãi mang tính đại trà thực hiện bởi các công ty lữ hành.
Đối với cơ sở hạ tầng ở các huyện có di tích lịch sử thì đã có nhiều tiến bộ, phần lớn các điểm du lịch văn hoá đều được đánh giá có cơ sở hạ tầng ở cấp độ tương đối tốt. Nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các hãng lữ hành, vì đường vào một số di tích vẫn bị hẹp, chưa thuận tiện cho các đoàn khách lớn. Về cơ sở vật chất phục vụ du lịch thì số lượng còn ít, chất lượng chưa đạt yêu cầu. Về phân bố, chúng nằm khá xa những điểm du lịch văn hoá, nên chưa thuận lợi cho phát triển du lịch.
1.3. Truyền thống hiếu học của người dân Hải Phòng Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Hiếu học – một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn, từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Và với Hải Phòng, người dân nơi đây càng tự hào hơn khi mảnh đất quê hương của mình sản sinh ra những bậc trạng nguyên, kì tài cho đất nước như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tất Văn và Lê Ích Mộc. Ba trạng nguyên, ba con người khác nhau, nhưng ở họ luôn sáng lên ngọn lửa tinh thần hiếu học mà chúng ta nhận thấy. Sự đóng góp công lao to lớn của họ trong vấn đề giáo dục đã khiến Hải Phòng trở thành một trong những thành phố đi đầu trong lĩnh vực giáo dục.
Đã có rất nhiều những học sinh, sinh viên tiêu biểu của Hải Phòng tham gia các cuộc thi với quy mô toàn quốc, thậm chí là quốc tế và đã đạt được những ấn tượng rất thuyết phục mang lại vinh dự cho thành phố Hải Phòng nói riêng và với quê hương tổ quốc Việt Nam nói chung. Và với năm 2019 vừa qua thành phố Hải Phòng biểu dương, tôn vinh 120 học sinh, sinh viên xuất sắc tiêu biểu gồm các học sinh đoạt giải cao tại các kỳ thi Quốc tế; giải nhất, nhì và ba trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia, cuộc thi Khoa học kỹ thuật toàn quốc năm học 2018 – 2019; Sinh viên tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên năm học 2018 – 2019 các trường đại học trên địa bàn thành phố và sinh viên là người Hải Phòng tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên năm học 2018 – 2019 các trường đại học; Học sinh Hải Phòng tham dự kì thi Trung học phổ thông Quốc gia năm học 2018 – 2019 đạt tổng điểm 3 môn thi đạt từ 27,00 điểm trở lên và đỗ vào một trong các trường Đại học, Học viện (đúng tổ hợp đạt điểm cao) trong toàn quốc. Trong đó có 64 học sinh giỏi quốc gia và quốc tế; 24 sinh viên tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố và sinh viên là người Hải Phòng tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên tại các trường đại học; 32 học sinh có điểm thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2019 đạt từ 27 điểm trở lên và đỗ vào trường đại học/học viện đúng tổ hợp môn được xét. Ngoài việc tặng bằng khen, thành phố Hải Phòng cũng trích ngân sách 1,2 tỉ đồng để khen thưởng 120 học sinh, sinh viên xuất sắc tiêu biểu năm 2019. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
Có thể nói rằng, những thế hệ sau của Hải Phòng đang làm tốt và phát huy đúng tinh thần học hỏi của các cha ông để lại. Những tấm gương sáng sẽ lại tiếp thêm lửa cho nhưng thế hệ nối tiếp yêu hơn, tự hào hơn với mảnh đất mình sinh ra và quyết tâm phải học tập để xứng đáng với mảnh đất ấy.
Tiểu kết chương 1
Qua chương 1: “ Các điều kiện để xây dựng các chương trình du lịch học tập cho học sinh Hải Phòng” có thể nhận thấy rằng Hải Phòng là một thành phố rất có tiềm năng để phát triển du lịch học tập. Du lịch – Trải nghiệm học tập được xem là một loại hình du lịch không còn quá mới mẻ ở Việt Nam nhưng lí do khiến nó ngày càng được nhiều người biết đến và trở thành một trong những loại hình du lịch phổ biến nhất hiện nay là vì nhu cầu học tập, nâng cao hiểu biết của con người dường như là vô tận, con người luôn mong muốn được học hỏi, tìm tòi, khám phá và mở rộng tầm mắt hơn nữa. Tuy nhiên, với phương pháp học truyền thống nặng về lý thuyết đã làm nhiều người nản lòng, việc học không hiệu quả. Có thể nói Du lịch – Trải nghiệm học tập đang là hướng đi đầy mới mẻ, giúp cho người học học mà không nhàm chán, không buồn tẻ ngược lại rất sinh động bởi được tham quan thực tế, rèn luyện kỹ năng thực hành. Khóa luận: Chương trình du lịch học tập tại các di tích ở Hải Phòng.
XEM THÊM NỘI DUNG TẠI ĐÂY:
==== >>> Khóa luận: Thực trạng di tích các đền Trạng nguyên ở hải phòng

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com